Top 25 bài văn phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất

15519
Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay
Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

Nội dung bài viết

4.7/5 - (17 votes)

Hàn Mặc Tử là nhà thơ của phong trào thơ mới với sức sáng tạo mạnh mẽ. ông đã mang đến làn gió mới cho văn học Việt Nam với những bài thơ thấm đượm tình yêu đau đớn, hướng về cuộc đời trần thế. Một trong số đó phải kể đến bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. Không chỉ là một bức tranh đẹp về một thôn Vĩ mà trong đó còn ẩn chứa tiếng lòng của con người tha thiết yêu đời, yêu người. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ giới thiệu đến bạn tổng hợp Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!



Dàn ý phân tích Đây thôn Vĩ Dạ

I. Mở bài:

Hàn Mặc Tử – tên thật là Nguyễn Tường Quang, là một trong những nhà thơ lãng mạn hàng đầu của văn học Việt Nam. Sinh năm 1912 tại Huế, ông từng làm việc trong ngành y tế và là một bác sĩ nổi tiếng. Bằng tài năng văn chương tinh tế và sự tận tâm với nghệ thuật, Hàn Mặc Tử đã để lại những tác phẩm thi ca sâu lắng và đáng quý trong lòng độc giả.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Hàn Mặc Tử, được viết vào năm 1939. Bài thơ tả lại hình ảnh thôn quê Vĩ Dạ, xứ Huế mộng mơ, hữu tình và chứa đựng nhiều tâm tư, cảm xúc của tác giả.

II. Thân bài:

  1. Phân tích khổ 1: Bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế.

Trong khổ thơ đầu tiên, bài thơ khai mở bằng lời mời giản dị nhưng đầy tình cảm: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Hình ảnh cảnh vật hiện lên trong bài thơ toát lên vẻ duyên dáng, nhẹ nhàng, đẹp đẽ của màu xanh trong ánh sáng ban mai. Cảnh thôn quê được phác họa một cách nhẹ nhàng nhưng đầy ấn tượng, tạo nên bức tranh tươi sáng và tinh khôi.

Cuối cùng, bài thơ nhấn mạnh sự tương phản giữa cái vuông vức của khuôn mặt chữ điền và chiếc lá trúc mềm mại, tạo nên nét tinh nghịch mà dịu dàng, đáng yêu mà chỉ thôn quê mới có.

  1. Phân tích khổ 2: Cảnh buồn qua cái nhìn đầy nội tâm.

Khổ thơ thứ hai mang đến cảm giác buồn bã, lay động qua hình ảnh mênh mông của cảnh đẹp. Cảnh đẹp và thơ mộng, nhưng nó mang trong lòng cảm giác chia lìa, xa cách. Tác giả sử dụng hình thức thơ độc đáo với câu “Gió theo lối gió / mây đường mây” để diễn đạt sự buồn thiu khi chia tay.

Trăng là một hình ảnh thường xuất hiện trong thơ của Hàn Mặc Tử. Trong bài thơ này, trăng được mô tả kì lạ, khác thường với hình ảnh truyền thống. Điều này tạo nên một không gian huyền ảo, khiến người đọc cảm nhận được tâm tư nặng nề của nhà thơ.

  1. Phân tích khổ cuối: Cảnh vật, con người đều chìm sâu vào mộng ảo.

Khổ thơ cuối cùng đưa chúng ta vào cõi lòng của nhà thơ, nơi mà mộng tưởng trở thành hiện thực. Bệnh tật khiến nhà thơ chìm vào trạng thái ảo giác, nhìn không ra, mờ nhân ảnh. Cảnh vật và con người đều nhòa mờ trong cô đơn và nỗi buồn, nhưng lòng nhà thơ vẫn âm thầm muốn gửi đi thông điệp của mình, như lời trần tình tội nghiệp: “Ai biết tình ai có đậm đà?”

Không thể xác định chính xác tình yêu nước của Hàn Mặc Tử trong câu thơ này, nhưng chắc chắn rằng ông yêu cuộc đời, yêu quê hương xứ sở. Những vần thơ đậm đà, chan chứa tình quê đã thể hiện tình cảm chân thành và tình yêu sâu sắc đối với đất nước và con người.

II. Kết bài:

Tổng kết lại, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử là một tác phẩm thi ca tuyệt vời, tạo nên bức tranh tươi sáng về cảnh vật và con người xứ Huế, đồng thời lồng ghép những cảm xúc buồn trong cảm giác chia lìa và mộng tưởng ảo giác của nhà thơ. Những vần thơ đậm đà, chan chứa tình quê đã gợi lên tình yêu chân thành và sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và quê hương. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã để lại những dấu ấn tinh tế trong lòng độc giả và trở thành một trong những tác phẩm lãng mạn đáng quý của văn học Việt Nam.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

1. Bài văn mấu số 1 Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ

Trong cuốn “Thi nhân Việt Nam,” Hoài Thanh đã có một nhận định rất sâu sắc về phong trào thơ Mới, mô tả đời sống tâm hồn của các nhà thơ và tình cảm với cuộc đời trần thế. Tác giả nhấn mạnh rằng mỗi con người đều sống trong vòng “một chữ tôi,” muốn thoát ra khỏi bề rộng và tìm tới bề sâu, nhưng càng đi sâu, càng cảm nhận sự lạnh lẽo.

Trong phong trào thơ Mới, Xuân Diệu luôn đắm say với những cảm xúc thiết tha, rạo rực băn khoăn về cuộc sống và tình yêu. Ngược lại, Hàn Mặc Tử gắn liền với sự kỳ dị, điên cuồng và trong thế giới kỳ dị điên cuồng đó, vẫn tìm thấy một tình yêu đến đau đớn, khắc khoải hướng về cuộc đời trần thế, dẫu nó đã để lại cho ông nhiều bất hạnh, bi ai. “Đây thôn Vĩ Dạ” được xem là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử, thể hiện tính cách đặc biệt và phức tạp của tác giả.

Hàn Mặc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912 trong một gia đình công giáo nghèo tại Quảng Bình. Ông là một thần đồng thơ từ nhỏ và đã viết nhiều tác phẩm thi ca xuất sắc từ những năm 15, 16 tuổi. Phong cách thơ của Hàn Mặc Tử đặc trưng bởi sự kết hợp giữa những hình ảnh thơ mộng, trong trẻo, thanh khiết và những hình ảnh kỳ dị, ma quái, cuồng loạn, tạo nên một diện mạo thơ vô cùng độc đáo và phức tạp.

“Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác năm 1938 và in trong tập thơ “Điên” sau đổi tên thành “Đau thương.” Bài thơ này phản ánh hoàn cảnh mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với cô gái gốc Huế là Hoàng Thị Kim Cúc. Trong bài thơ, Hàn Mặc Tử thể hiện sự khát khao sống vui vẻ, yêu đời, và tận hưởng cuộc sống trần thế, song cũng gặp nỗi cô đơn, trống vắng và đau khổ.

Hàn Mặc Tử đã tái hiện cảnh thôn quê xứ Huế trong sáng và thanh khiết, dưới cái nắng mai dịu dàng. Tuy nhiên, trong cảnh đẹp đẽ này, cảm giác xa lạ và thất vọng tràn ngập khi hỏi “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay?” Điều này thể hiện nỗi cô đơn và bất hạnh của tác giả trước số phận và tình cảm không được đáp lại.

Tiếp theo, bài thơ chuyển sang nhắc đến những tri kỷ, những người tác giả từng quen biết và ấn tượng trong cuộc đời. Hàn Mặc Tử đề cập đến người tri kỷ xuất sắc của mình như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Xuân Diệu. Những cái tên này chắc chắn là những nhà thơ có tầm ảnh hưởng và đóng góp lớn trong phong trào thơ Mới. Tuy vậy, mặc dù đã cùng nhau phiêu lưu, điên cuồng với nghệ thuật, cuộc sống trần thế và tình yêu, nhưng cuối cùng, đường tình đã khép lại, tình yêu không bền, điên cuồng đã trở thành tỉnh, cảm giác say đắm vẫn còn bơ vơ.

Hàn Mặc Tử đã dùng những từ ngữ tinh tế để tái hiện sự đau đớn, niềm khát khao và trống rỗng trong tâm hồn một cách chân thực và sâu sắc. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” không chỉ là một bức tranh về cảnh vật xứ Huế mà còn là thông điệp về niềm khát khao mãnh liệt với cuộc sống trần thế và tình yêu, đồng thời thể hiện sự lo lắng và băn khoăn về tương lai của tác giả.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

2. Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu số 2

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử thực sự là một tác phẩm thi ca tuyệt vời, gửi gắm những cảm xúc chân thành và tinh tế về quê hương và tình yêu. Nhà thơ Hàn Mặc Tử, dù đang mắc bệnh phong, vẫn trân trọng nhớ thương và hoài niệm về quê hương Vĩ Dạ, nơi đã gắn bó với ông trong những kỷ niệm đẹp đẽ.

Xứ Huế, quê hương thứ hai của Hàn Mặc Tử, cũng hiện lên trong tác phẩm với những cảnh đẹp trữ tình và sự đẹp đẽ của con người. Huế là mảnh đất nổi tiếng với việc trồng rất nhiều cây cau, một loại cây đẹp và thơ mộng. Tác giả đã khéo léo sử dụng lời trách mắng dịu dàng của một cô gái đối với một chàng trai, mang đến cho độc giả những cảm xúc mượt mà và đáng yêu.

Cây cau được miêu tả trong bài thơ mang vẻ đẹp hoàn hảo và thanh khiết. Ánh nắng màu vàng óng ả phủ lên những cây cau mọc cao và lá xanh mướt, tạo thành một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và tràn ngập ánh sáng. Những cảnh vật như hoa lệ và mỹ miều hơn bao giờ hết, khiến độc giả như đang lạc vào một thế giới thần tiên.

Cuộc sống tại Huế cũng được tác giả miêu tả một cách trung thực và hiền lành. Những con người đơn giản, sống gần gũi với thiên nhiên mộc mạc và trữ tình, tạo nên một không gian thanh bình và êm đềm. Cảnh đời chậm rãi, nhịp sống êm đềm của người xứ Huế được thể hiện qua dòng nước buồn thiu và hoa bắp lay, tạo nên một không khí dễ chịu và thơ mộng.

Nhà thơ Hàn Mặc Tử khéo léo kết hợp màu xanh của cây cỏ và màu xanh ngọc của ngọc trai, thể hiện sự tinh tế và khéo quan sát của ông đối với thiên nhiên. Sự tương phản giữa vẻ đẹp của cây cỏ xanh mướt và sự tinh khôi của ngọc trai tạo nên một hiệu ứng tuyệt vời, khiến độc giả cảm nhận được sự tươi mới và thanh khiết của vùng đất Huế.

Tuy nhiên, trong những cảnh đẹp và tình yêu lãng mạn, tâm hồn nhà thơ Hàn Mặc Tử vẫn ẩn chứa nỗi buồn, xa cách và cô đơn. Những câu thơ cuối cùng miêu tả về giấc mơ xa xôi về một người khách đường xa, áo trắng quá trắng khiến cô gái trở nên xa lạ. Sương và khói đã làm mờ đi hình ảnh của người con gái, khiến tác giả cảm thấy khó gần, không biết liệu tình yêu đơn phương của mình có được đáp lại hay không.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một tác phẩm điển hình cho nghệ thuật thi ca của Hàn Mặc Tử. Từ những cảnh vật tự nhiên tươi đẹp đến nhịp sống chậm rãi và trữ tình của người xứ Huế, và đặc biệt là tình yêu đơn phương chất chứa nhiều cảm xúc chân thành, bài thơ đã để lại dấu ấn đẹp đẽ và sâu sắc trong lòng độc giả. Đó là một tuyệt phẩm thi ca vượt thời gian, là món quà tinh thần mà Hàn Mặc Tử đã trao tặng cho nhân gian.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

3. Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Bài văn mẫu số 3

Những vần thơ điên loạn với ngập tràn ý tưởng của hồn, trăng, và máu đã không ngừng ám ảnh những ai yêu thơ Hàn, đọc thơ Hàn. Nhưng chẳng ai có thể tưởng đến giữa một rừng thơ ma quái và kỳ dị ấy, lại mọc lên một bông hoa trong sáng tinh khôi, còn vương bao hương sắc ở đời. Bông hoa ấy Hàn đặt tên “Đây thôn Vĩ Dạ”, trong nó chứa chở bao cảm xúc và hoài nhớ về một miền quê từng gắn bó biết bao.

Thi phẩm chỉ vỏn vẹn ba khổ, nhưng là sự kết đọng của bao nhiêu nỗi nhớ, bao nhiêu khát khao, có cả bao nhiêu hoài nghi và tuyệt vọng. Bài thơ gắn với chuyện tình giữa thi sĩ và người con gái Huế tên Hoàng Cúc. Giữa những ngày đau đớn nhất cuộc đời, chàng lại nhận được bức ảnh sông nước xứ Huế đêm trăng, nhận thêm mấy dòng thư tín từ người con gái chàng từng thầm thương. Bao cảm xúc ùa về, cuộc hành hương trong tâm tưởng cũng từ đó, và những vần thơ hay nhất được gợi hứng từ xứ Huế mộng mơ đã bật trào trong nỗi nhớ.

Thi phẩm bắt đầu bằng một câu hỏi mang đầy ý vị của Huế mộng và Huế thơ. Không phải là hàng loạt câu hỏi tự vấn đầy quằn quại và đau đớn như ta từng gặp:

“Tôi vẫn ở đây hay ở đâu Ai đem bỏ tôi xuống trời sâu Sao bông phượng nở trong màu huyết Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?”

Câu hỏi cất lên ở đây vừa như một lời mời, một lời hỏi, lại như một lời trách móc, lời thở than: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Là người con gái Huế hỏi chăng? Hay là Hàn tự phân thân ra hỏi mình? Dù là gì thì cái điều cốt nhất ta thấy được ở đây cũng chỉ là một niềm tha thiết, một nỗi xúc động của người thi sĩ khi được trở về với mảnh đất nhiều kỉ niệm, dù chỉ là trong tâm tưởng.

Câu thơ chơi vơi trong sáu thanh bằng và vút lên ở thanh cuối đủ gieo vào lòng người đọc những cảm xúc khó mờ. Là “không về” chứ không phải “chưa về”, là “về chơi” chứ không phải “về thăm”. Nếu đọc cho kĩ, ngẫm cho sâu, ta sẽ thấy một câu thơ mà hàm ẩn bao ý niệm.

“Chưa về” nghĩa rằng sẽ còn về được nữa, “về thăm” nghe thật xa lạ biết bao. Đứng ở tâm thế của một người con từng rất gắn bó với xứ Huế, Hàn đã dùng chính tâm thức của mình để viết những câu thơ tiếp theo. Cảnh vườn thôn Vĩ hiện ra, ngời ngời sắc xanh, long lanh ánh sáng:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Ấn tượng sâu nhất vương lại từ câu thơ chính là không gian ngập tràn sắc nắng. Không phải “nắng ửng” trong làn khói mơ tan, không phải “nắng chang chang” dọc theo bờ sông trắng, nắng ở đây, là thứ “nắng mới”, không huyền hồ ảo diệu, không đậm màu đậm hương, nó tinh khôi và trong trẻo đến lạ.

Nắng đổ xuống hàng cau, cau hướng lên hứng nắng nhẹ nhàng, một khu vườn mướt xanh được gội sạch bởi sương đêm, sáng sớm nay được đắm mình trong nắng mới. Cái “mướt” mà Hàn gọi dậy ở khu vườn, cái “ngọc” mà Hàn ví với màu xanh, chúng gợi ra bao nhiêu là sắc điệu. Vừa gợi màu mà vừa gợi ánh, vừa óng chuốt lại thật tinh khôi. Người ta ngỡ ngàng về một cảnh vườn thôn từng quen nay trong trẻo đến lạ.

Nhớ về thôn Vĩ còn là nhớ về những nét dáng thân thương của con người nơi đây. Không tả mà chỉ gợi, bằng bút pháp cách điệu hóa, thi sĩ đủ cho ta cảm nhận về con người Huế chân thật, dịu dàng, về con gái Huế đằm thắm, nữ tính, thấp thoáng sau một mảnh trúc che ngang là gương mặt chữ điền rất Huế. Ta từng gặp hình dáng ấy trong câu thơ của Bích Khê:

“Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn Biếc che cần trúc không buồn mà say.”

Những nét vẽ thanh tao, những cảm nhận tinh tế, chúng gọi dậy một hồn thơ thánh thiện, nặng tình nặng nỗi với một mảnh đất thân thương. Tìm đâu xa tình yêu quê hương xứ sở, đôi khi niềm thương bắt đầu từ những ấn tượng ngọt ngào quá đỗi bình thường như thế. Hóa ra, không chỉ Hoàng Phủ, không chỉ Trịnh Công Sơn mới viết hay về Huế. Hàn cũng góp cho Huế mấy vần thơ thật chân tình đượm nồng những yêu thương…

Nhưng liệu có phải sẽ thật thiếu sót khi nhắc về Huế mà bỏ quên cảnh sông nước đêm trăng vốn đã thành mảnh hồn riêng nơi đây? Bắt trọn được cái hồn riêng ấy, thi sĩ đã kéo cái nhìn của người đọc sang một miền không gian khác, chơi vơi giữa gió mây, lặng mình theo dòng nước:

“Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Một bức tranh gợi buồn, gợi sầu. Gió nhẹ thổi, mây nhẹ trôi, hoa bắp nhẹ lay, dòng Hương giang trầm mặc. Cái dáng Huế qua mấy mươi thế kỉ cơ hồ cũng chỉ có thế. Không khí trầm tịch của đất cố đô được gợi lại chỉ qua mấy nét chấm phá. Nhưng hãy thử đọc kĩ, và nhìn đằng sau câu thơ xem còn bao nhiêu nét nghĩa nữa.

Quả vậy, đây không chỉ là một bức tranh ngoại cảnh, nó là tranh tâm cảnh, là điệu tâm hồn. Cứ nghe cái điều ngang trái trong câu thơ là rõ. Lẽ thường gió thổi mây bay, ở đây gió mây đôi ngả, xa cách như chẳng thể chung đường. Cảnh đã được nội tâm hóa, thấm đượm sự chia li. Đến nỗi mà, cái buồn đã được gọi thành tên: “buồn thiu”. Hai chữ “buồn thiu” đã gói trọn nỗi buồn đau của con người, của mối trần duyên tê tái. Thấp thoáng nơi ấy câu dân ca thuở nào:

“Ai về Giồng Dứa qua truông Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em?”

Nhưng không biết vì nỗi buồn đã choán ngập tâm hồn, hay vì nhớ mong không thể làm chủ, mà ngay hai câu thơ sau, cảnh trở nên thật hư ảo huyền hồ:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?”

Thuyền, trăng, bờ bãi vốn không phải lần đầu đồng hiện. Thơ xưa từng có ai viết:

“Nước biếc non xanh thành gối bãi Đêm thanh nguyệt bạch khách lên lầu.”

Nhưng cái khác biệt ở đây là, thi sĩ không đứng đó mà ngắm trăng hay ngắm sông, người đang chìm dần trong cảm giác ảo hóa. Trăng xuất hiện trở lại, nhưng không phải “trăng vàng trăng ngọc”, “trăng nằm sóng soãi”, mà là trăng huyền hồ tan trên mặt nước. Trong cảm giác mông lung của thi nhân, sông trở thành sông trăng, thuyền trở thành thuyền trăng, bóng người cũng trở thành hình ai thấp thoáng, mờ nhòa trong trăng.

Tất cả ngập một màu trăng. Trăng ở đây mang chở nỗi niềm khắc khoải, lo âu, nuối tiếc trước nỗi đau sắp phải xa lìa thực tại. Sự phấp phỏm âu lo và những mong được níu giữ thời gian ấy hiện lên rõ nhất ở chữ “kịp” và câu hỏi đầy tội nghiệp kia.

Ta nhìn thấy ở đây một cuộc chạy đua với thời gian, thời gian đang dồn đuổi từng bước, nhưng chạy đua không phải để tận hưởng tối đa thanh sắc cuộc đời như mong muốn của Xuân Diệu, mà chỉ mong tận hưởng cái tối thiểu – đó là được sống. Được sống không thôi đã thỏa nguyện rồi. Trong câu thơ là bao nhiêu sự âu lo, cũng là bấy nhiêu niềm khao khát. Nhân văn của thi phẩm cũng là ở đó: Hãy luôn sống trọn từng ngày khi còn đang được sống.

Niềm khao khát tình đời, tình người của thi nhân cất lên rõ nhất ở khổ thơ thứ ba, khi mà thế giới đã về với thực tại, ngập chìm hoàn toàn ở cõi mơ:

“Mơ khách đường xa khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?”

Chữ “mơ” đặt ở đầu, chơi vơi sau đó là tiếng gọi “khách đường xa” đầy khắc khoải, mang theo sự chơ vơ hụt hẫng, bỏ lại bao ngẩn ngơ buồn tiếc. Hình ảnh khách thể xuất hiện trở lại, ngỡ như cứ bước xa dần khỏi vòng tay Hàn, đi về một cõi xa xăm không thể chạm đến. Người con gái mang sắc áo trắng tuyệt đối, trinh nguyên vô ngần, suốt đời Hàn tôn sùng nay lại trở nên mờ nhòa, khó giữ. Tất cả như mờ ảo hơn: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh.

Không gian mông lung, lạnh lẽo, mịt mùng trong sương khói, huyền hồ trong ảo ảnh. Nó choán trùm lên cả ý thức và tiềm thức, thắt buộc lòng người đến tê dại. Nghe câu hỏi khắc khoải cuối cùng: “Ai biết tình ai có đậm đà?”, ta thảng thốt nhận ra, hóa ra bấy lâu người thi sĩ cũng chỉ mong chờ điều ấy, khao khát điều ấy, đó là tình người, tình đời.

Đời thi sĩ sống đã vốn chẳng được vui, đến cuối đời cũng chỉ mong tìm được mảnh hồn tri ngộ. Hàn Mặc Tử của chúng ta, không “kì dị” như bao người nói. Chàng có trái tim rất người, có những tình cảm rất người, mà có lẽ đến nhiều năm sau này vẫn có không ít người ghi nhận điều ấy.

Bài thơ như một khúc đoản ca về tình yêu và niềm khao khát, hướng về một mảnh vườn, cũng là hướng về một mảnh đời. Đặc sắc của thi phẩm còn được tạo nên ở những nghệ thuật mang phong cách riêng của Hàn Mặc Tử. Với những hình ảnh tượng trưng đầy hàm nghĩa, với những câu hỏi tu từ trải đều trên các khổ thơ mang theo ý niệm riêng, cùng lối viết cách điệu hóa, pha lồng ảo thực, “Đây thôn Vĩ Dạ” xứng là một thi phẩm có những thi từ đẹp nhất, trong sáng nhất.

“Mai sau, những thứ tầm thường mực thước sẽ biến mất đi, và còn lại của thời kì này một chút gì đáng kể, thì đó là Hàn Mặc Tử”. Lời trân trọng mà người bạn thơ Chế Lan Viên gửi cho Hàn đã nói thay về những gì Hàn để lại cho đời. Mãi mãi là như thế…

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

4. Phân tích Đây thông Vĩ Dạ – Văn mẫu số 4

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Tuy có cuộc đời nhiều bi thương nhưng qua hồn thơ phong phú, sáng tạo và đầy bí ẩn, người đọc vẫn cảm nhận được một tình yêu đến đau đớn hướng về cuộc đời trần thế của ông.

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những sáng tác nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong lòng người đọc. Chính vì vậy, qua bao nhiêu thế hệ, người ta có ba ý kiến nhận định về bài thơ: Đó là bài thơ về tiếng nói trăn trở của mối tình thầm kín; là lời yêu thương với một miền quê; là niềm khao khát được sống trong niềm sẻ chia, đồng cảm được trở về với cuộc đời. Đoạn thơ đầu của thi phẩm đã thể hiện một cách thật tha thiết, xúc động những tâm tình ấy.

Bài thơ là một diễn biến tâm lý của Hàn Mặc Tử, một tâm hồn đau đớn, u uất và ẩn mình sau những cảm xúc sâu thẳm. Mỗi câu thơ, từng chữ viết đều đưa ta vào thế giới tâm hồn khó hiểu và lắng đọng của người thơ. Những hình ảnh trong bài thơ như đều mang sắc màu thơ mộng, nhẹ nhàng nhưng đầy tâm huyết. Cảnh thôn Vĩ Dạ được tái hiện như một mảnh vườn tràn đầy sinh khí, nơi có ánh nắng sớm mai, những hàng cau xanh mướt và lá trúc mềm mại, tạo nên khung cảnh bình yên, thi vị. Hàn Mặc Tử muốn nhắc nhở bản thân về nơi quê hương thanh bình mà ông đã từng trải qua những kỷ niệm đẹp trong cuộc sống.

Bài thơ chứa đựng cả tâm hồn đồng cảm và khát vọng về cuộc sống, về tình người. Hàn Mặc Tử đã truyền tải thông điệp đầy cảm xúc về tình yêu, sự đau khổ và lòng nhân ái. Bằng lối viết ngọt ngào, tinh tế, ông đã lồng ghép những cảm xúc, tình cảm sâu sắc vào từng câu thơ. Bài thơ với diễn biến tâm lý sâu sắc khiến người đọc không thể không cảm nhận và đồng cảm với tác giả. Hàn Mặc Tử đã thể hiện rõ ý chí sống đẹp của một con người dù đối diện với những khó khăn, đau khổ, và niềm đau khao khát được sẻ chia và đồng cảm với mọi người xung quanh.

Tổng kết lại, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một tuyệt phẩm thơ của Hàn Mặc Tử, nơi người đọc có thể cảm nhận được tất cả những tâm tư, cảm xúc, tình cảm chân thành và khát vọng sống đẹp của tác giả. Bài thơ đã vẽ nên bức tranh phong cảnh tươi đẹp và đậm chất nghệ thuật, cũng như chứa đựng những tâm hồn chan chứa tình yêu và niềm hy vọng của một người thơ cao lãnh, tài hoa.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

5. Bài phân tích Đây thôn Vĩ Dạ số 5

Trong những ngày gần đây, bài thơ lãng mạn đã gây ra nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, đặc biệt khi bàn luận và phân tích “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế của một số bài viết về thơ này.

Đầu tiên, là vấn đề thói quen xã hội học dung tục. Nhiều tác giả khi phân tích tác phẩm đều cố gắng đưa về giá trị hiện thực và nhân đạo. Tuy nhiên, văn chương có nhiều hình thức và thể loại, không chỉ giới hạn ở vài giá trị cụ thể mà có thể thể hiện một thiên bẩm tài hoa đa dạng. Điều này đã được Hàn Mặc Tử nhấn mạnh, khi ông cho rằng văn chương có thể thể hiện nhiều hình nhiều vẻ.

Thứ hai, người nghiên cứu có thể không thuộc phong cách nghệ thuật của tác giả mà họ tìm hiểu. Hàn Mặc Tử thường tập trung vào hướng nội tâm trong thơ của mình, nhìn thấy bằng tâm tưởng và sử dụng ít sự miêu tả, kể chuyện từ cái nhìn của con mắt. Nhưng nếu người viết phân tích “Đây thôn Vĩ Dạ” không hiểu rõ phong cách này, họ sẽ gặp khó khăn trong việc tìm hiểu và truyền đạt ý nghĩa của tác phẩm.

Thêm vào đó, sự cảm thụ nghệ thuật thiếu nhạy bén cũng là một vấn đề. Để hiểu và cảm nhận chính xác những lơ vừa xa cách và mơ màng của “Đây thôn Vĩ Dạ”, người phân tích cần có tầm nhìn sắc bén về nghệ thuật và lòng đam mê với thơ ca. Không hiểu sâu về tinh thần và tầm nhìn của tác giả, họ sẽ dễ dàng hiểu sai và sai lầm trong việc truyền tải ý nghĩa của bài thơ.

Để tiếp cận đúng đắn và cảm nhận chính xác những lơ vừa xa cách và mơ màng trong “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta cần tìm hiểu về mối quan hệ tình cảm giữa Hàn Mặc Tử và Hoàng Cúc. Hoàng Cúc là một thiếu nữ sống ở Quy Nhơn, có mối quan hệ thân thiết với Hàn Mặc Tử từ thuở học sinh. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được viết sau khi Hàn Mặc Tử nhận được những dòng tình cảm chân thành của Hoàng Cúc, khi cô đã từ trần.

Bài thơ bắt đầu bằng câu hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”, tạo ra không gian lãng mạn trong tâm hồn người thôn Vĩ, như muốn xác nhận việc thăm hỏi ân cần không chỉ trong mơ mà còn có thật. Tác giả chạm đến tâm hồn bệnh nan y, tìm kiếm cái đẹp để giải trí trạng thái đau thương.

Bài thơ tiếp tục tái hiện hình ảnh thôn Vĩ ngày xưa khi Hàn Mặc Tử còn học sinh. Những hình ảnh thi vị này đều mang tính biểu tượng và ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu xa về quê hương Việt Nam. Bài thơ kết thúc bằng tín hiệu mong chờ cứu nạn, nhưng cũng gợi lên nỗi nghi ngại và lo âu về tình cảm giữa người và người, tấm lòng của người thơ hoạn nạn giữa cuộc đời đầy chia lìa và trận định.

Nhìn chung, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một tác phẩm nghệ thuật tinh tế, đậm đà tâm hồn dân tộc Việt Nam. Nhưng để hiểu đúng và truyền tải ý nghĩa của bài thơ này, người phân tích cần phải có tầm nhìn sắc bén và lòng đam mê với thơ ca, đồng thời tìm hiểu sâu về mối quan hệ giữa tác giả và người cộng tác. Chỉ khi đó, ta mới có thể hiểu rõ hơn về những lơ vừa xa cách và mơ màng trong tác phẩm này.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

6. Bài văn phân tích Đây thông Vĩ Dạ số 6

Hàn Mặc Tử, như một ngôi sao lấp lánh trên bầu trời văn học, tỏa sáng diệu kỳ với nhiều tinh tú lạ. Thơ của ông không chỉ thể hiện tình yêu đơn phương trong cuộc sống trần tục mà còn hướng về Chúa Trời với những niềm thanh khí thần tiên. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Hàn Mặc Tử, một bài thơ tinh tế về tình yêu, xứ Huế, và những kỉ niệm mộng mơ.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” như một lời trách thầm, lời nhắn nhủ nhẹ nhàng từ nhân vật trữ tình, đọng trong tâm trạng vời vợi nhớ mong. Nó đưa chúng ta vào không gian thôn Vĩ Dạ, một vùng quê yên bình, phì nhiêu cây cối xanh tươi và con người đậm đà. Bài thơ là một hình ảnh đẹp của xứ Huế, nơi có sông Hương êm đềm thơ mộng, nổi tiếng với cảnh đẹp và con người đôn hậu giàu sức sống.

Thơ của Hàn Mặc Tử đan xen giữa hiện thực và mơ mộng, đem đến những hình ảnh mơ hồ, lãng mạn, như mờ ảo trong mây sương. Nắng mới long lanh trên hàng cau, một cảnh tượng tươi đẹp, tượng trưng cho hy vọng và sức sống của cuộc sống. Mỗi hình ảnh trong bài thơ gắn với kỉ niệm đáng nhớ của nhân vật trữ tình, là những điều gợi lại trong lòng người đọc nỗi băn khoăn và mơ mộng về tình yêu và xứ Huế.

Câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền?” mang nét đẹp độc đáo, tạo ra sự hài hòa và gắn bó giữa con người và vườn tược quê hương. Sự tương phản giữa “mặt chữ điền” đậm đà, đại diện cho nhân vật, với “lá trúc” tinh tế, đẹp đẽ, đại diện cho cảnh vật, thể hiện lòng yêu mến và kết nối sâu sắc giữa người và thiên nhiên xứ Huế.

Khổ thơ cuối của bài thơ mang tới cảm xúc sâu lắng và bất hạnh của nhân vật trữ tình. “Mơ khách đường xa, khách đường xa, Áo em trắng quá nhìn không ra”, đọng lại là mối tương phản giữa tình yêu đơn phương lung linh, huyền ảo và cuộc sống đơn sơ, đối diện căn bệnh phong hiểm nghèo đang làm nhà thơ sống trong cô đơn và khao khát sự yêu thương.

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh tình yêu và quê hương xứ Huế, vẽ nên từ tâm hồn thanh khiết, yêu đời dù là trong lúc khổ đau và tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử. Bài thơ này gợi lên trong người đọc cảm giác mê đắm và cảm nhận sự đẹp đẽ của tình yêu và xứ Huế trong sáng, thơ mộng.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

7. Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu số 7

Hàn Mặc Tử sinh năm 1912, mất năm 1940, tên thật là Nguyễn Trọng Trí. Ông là một nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam nói chung và phong trào thơ Mới nói riêng. Thơ Hàn Mặc Tử là một hồn thơ độc đáo với sức sáng tạo mãnh liệt, được nhà thơ Chế Lan Viên nhận xét “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” trong tập thơ “Điên” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông. Bài thơ này khai thác nhiều hình ảnh tự nhiên và nhân hóa để thể hiện tâm hồn trữ tình, hoài niệm về quê hương Vĩ Dạ đẹp đẽ, trong trẻo, và cả những nỗi đau trong tâm hồn của tác giả.

Câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” đặt ở đầu bài thơ mang nhiều ý nghĩa. Nó có thể là lời mời gọi của người thôn Vĩ dành cho những ai chưa từng đến vùng quê yên bình, đẹp đẽ này. Hoặc đó có thể là một lời trách móc nhẹ nhàng của cô gái thôn Vĩ, hỏi tại sao đã lâu rồi ông không về thăm quê hương. Đồng thời, đằng sau câu thơ ấy còn là nỗi u uất của tác giả khi không thể trở về mảnh đất quê hương mà ông từng gắn bó.

Tiếp theo, nhà thơ tạo nên hình ảnh “nắng hàng cau” tinh khôi, long lanh và đẹp đẽ. Câu thơ này tượng trưng cho tuổi trẻ, ước mơ, và hy vọng của tác giả. Những màu sắc tươi đẹp và thanh khiết trong thiên nhiên như “nắng hàng cau”, “mướt quá xanh như ngọc” gợi lên tâm hồn trong trẻo của tác giả.

Tuy nhiên, sau sự thanh khiết, bài thơ chuyển sang những hình ảnh buồn thê lương. Gió và mây ngược chiều, sương khói mờ, cánh hoa bắp đều tạo nên không gian mơ hồ, lẻ loi. Tác giả tìm đến trăng làm bạn tri âm, khóc lóc và chia sẻ nỗi buồn. Cảnh sắc và tâm hồn nhân vật trữ tình đều đi vào vực sâu của đau thương và tuyệt vọng.

Cuối cùng, bài thơ khép lại bằng một nỗi hoài niệm và tuyệt vọng về tình yêu và cuộc sống. “Áo em trắng quá nhìn không ra” ám chỉ vẻ đẹp trong trẻo, tinh khiết của người con gái Vĩ Dạ. Tuy nhiên, tác giả hoài nghi rằng liệu ai có thấu hiểu và chia sẻ được tâm hồn của mình, nỗi khát khao giao cảm mãnh liệt. Những câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” càng tôn thêm vẻ đẹp trong sáng, nhưng cũng nhiều niềm đau đớn trong lòng tác giả.

Với những hình ảnh sắc nét và ý nghĩa sâu sắc, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật tinh tế, góp phần làm sáng tỏ vẻ đẹp và khắc sâu những tâm hồn trữ tình, hoài niệm của người Việt.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

8. Bài văn mẫu số 8 phân tích Đây thôn Vĩ Dạ

Hàn Mặc Tử, một nhà thơ nổi bật trong phong trào thơ mới, để lại dấu ấn đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam. Tác phẩm thơ của ông thể hiện sự tình cảm chân thành, sâu sắc đối với cuộc sống và đặc biệt là khát vọng sống mãnh liệt, đau đớn.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm nổi bật của Hàn Mặc Tử, được sáng tác trong hoàn cảnh đặc biệt khi ông đang phải điều trị bệnh phong. Ngay từ lời mở đầu, bài thơ đã gợi lên hình ảnh của vườn thôn Vĩ rực rỡ trong nắng mai, với cảnh sắc bình dị nhưng đẹp đẽ. Câu hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” đặt ra cho người đọc nhiều thắc mắc, có thể là lời trách móc, nhưng cũng có thể là lời mời gọi nhẹ nhàng, tình tứ. Tác giả như muốn mời người đọc cùng ôn lại những kỷ niệm đẹp về xứ Huế và khu vườn thôn Vĩ, nơi có sức sống mạnh mẽ và vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ.

Hàn Mặc Tử sử dụng những hình ảnh tinh tế, độc đáo để tạo nên cảm xúc chân thật trong từng câu thơ. Trong khổ thứ hai, cảnh trời mây buồn và sông nước đếm trăng cùng những cảm xúc riêng của tác giả vừa thực, vừa ảo chập chờn chuyển hóa. Sự khao khát sống mãnh liệt được thể hiện qua hình ảnh trăng và thuyền, như một tri âm, niềm tin cậy trong cuộc đời. Tuy nhiên, câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối nay” vẫn mang trong nó một chút lo sợ, lo sẽ không kịp hoàn thành ước mơ, tạo nên tâm trạng uẩn khúc và chấp nhận sự thất vọng.

Khổ thơ cuối của bài thơ thể hiện rõ niềm khắc khoải của tác giả về tình yêu và cuộc sống. Giấc mơ xa xôi của khách đường xa và áo trắng tinh khiết gợi lên nỗi mong manh và xa vời của tình người. Từ hỏi và đại từ “ai” chất chứa cảm xúc hoài nghi về tình yêu đối với ai đó. Tất cả tạo nên bức tranh tâm hồn phong phú, giàu cảm xúc của tác giả, người luôn sống và yêu đời, dẫu biết cuộc sống ngắn ngủi và tất yếu là phải chạy đua với thời gian.

“Đây thôn Vĩ Dạ” thể hiện sự chân thành và tha thiết của Hàn Mặc Tử đối với cuộc sống và tình yêu. Dù cuộc đời ông không kéo dài nhưng tâm hồn và tình yêu của ông mãi mãi sống trong những bài thơ đậm chất cảm xúc. Bài thơ này gợi lên cảm nhận về một tâm hồn nhạy cảm, sâu lắng và giàu lòng yêu đời, để lại dư âm trong lòng người đọc.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

9. Phân tích Đây thông Vĩ Dạ – Văn mẫu số 9

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một kiệt tác của Hàn Mặc Tử, được sáng tác vào năm 1938 và in lần đầu trong tập “Thơ điên”. Tuy tác giả đang trong giai đoạn bệnh tật nặng nề, nhưng bài thơ này lại không thể thấy sự đau đớn và bệnh tật trong tâm hồn của ông. Thay vào đó, ta chỉ thấy sự nhẹ nhàng, tinh tế và lòng yêu đời, yêu người khao khát.

Bài thơ bắt đầu bằng một câu hỏi tu từ nhẹ nhàng:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu hỏi này vừa là lời trách móc vừa là lời mời gọi dịu dàng. Tình cảm của tác giả được truyền đạt qua cảnh sắc thiên nhiên, từ hàng cau nắng mới lên cho đến khu vườn xanh mướt như ngọc. Thôn Vĩ Dạ, một miền quê Việt Nam thơ mộng, hiện ra như một bức tranh tươi đẹp, gửi gắm tiếng lòng yêu thương và yêu cuộc sống của tác giả.

Bài thơ cũng thể hiện tình yêu và kỷ niệm với người con gái ở thôn Vĩ Dạ. Hình ảnh lá trúc che ngang mặt chữ điền cho ta cảm nhận được sự dịu dàng và lãng mạn trong tình yêu đơn phương của tác giả. Tuy rằng bệnh tật cắt đứt mọi giao tiếp, nhưng tâm hồn của tác giả vẫn đong đầy tình yêu và hoài niệm về người con gái ấy.

Khổ thơ thứ hai mang đến hình ảnh buồn bã, nỗi lòng chia li sầu não. Gió theo lối gió, mây đường mây cùng dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay gợi lên nỗi tương tư, tạc mao trong tâm hồn của tác giả. Trong cảnh buồn bã, ánh trăng lại xuất hiện như một điểm sáng. Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối nay. Trăng, biểu tượng của sự thanh khiết và hạnh phúc, đang trở thành nguồn cảm hứng, nguồn hi vọng cho tác giả.

Khổ thơ cuối bộc lộ tâm tư khắc khoải của tác giả về tình yêu và cuộc sống. Mơ khách đường xa, áo em trắng quá nhìn không ra, ta cảm nhận được niềm khát khao sâu sắc và lòng trăn trở của tác giả. Tình yêu và sự chờ đợi ẩn chứa trong những câu thơ đơn giản nhưng đậm chất cảm xúc.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử là một tác phẩm vĩ đại, với những hình ảnh và ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng. Đồng thời, nó còn chứa đựng những cảm xúc chân thật và sâu sắc về tình yêu, cuộc sống và quê hương Việt Nam. Dù đã từng đi qua bao sóng gió, nhưng tâm hồn của Hàn Mặc Tử vẫn luôn rực sáng trong những vần thơ đẹp, để lại dư âm mãi trong lòng người đọc.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

10. Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu số 10

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền thơ ca Việt Nam, và tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Bài thơ này không chỉ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp về thôn Vĩ Dạ mà còn thể hiện một hồn thơ độc đáo của nhà thơ.

Khổ thơ đầu tiên mở đầu bằng một câu hỏi đơn giản nhưng đầy ý nghĩa: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Câu hỏi này không chỉ là lời mời gọi của người thôn Vĩ mà còn là lời hỏi từ tâm hồn của tác giả đang khao khát trở về quê hương. Hình ảnh bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ được thể hiện trong những câu thơ tiếp theo, nắng hàng cau lấp lánh, vườn cây xanh ngọc mượt mà. Nhà thơ dùng ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng để vẽ lên một khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp và hấp dẫn.

Hành lang cau xanh và ánh nắng đẹp như trải thảm mời ta đến với góc quê yên bình. Nhưng đối diện với khung cảnh hữu tình ấy, khổ thơ thứ hai chuyển sang một dạng tâm tình buồn bã, hư vô và cô đơn. “Gió theo lối gió, mây đường mây” – một cảm giác xa cách, lạc lõng trong mênh mông. Dòng nước buồn thiu và hoa bắp lay trôi trong dòng sông tạo nên một không gian bí ẩn và hoang sơ.

Điểm đặc biệt của bài thơ là ánh trăng, một hình tượng xuất hiện nhiều trong thơ Hàn Mặc Tử. “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay?” – Ánh trăng tượng trưng cho niềm hi vọng, sự tinh khiết và thanh bình. Nhưng câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối nay?” lại thể hiện tâm trạng lo lắng, sợ mất đi cơ hội đẹp đẽ, lo sợ thời gian chạy trôi. Điều này càng làm nổi bật tâm hồn trữ tình và nỗi nhớ quê hương đặc trưng của Hàn Mặc Tử.

Khổ thơ cuối cùng tiếp tục thể hiện tâm trạng cô đơn và mơ mộng của nhân vật. “Mơ khách đường xa, khách đường xa, Áo em trắng quá nhìn không ra” – Mơ màng nhưng cũng đầy mê hoặc, nhà thơ đưa người đọc vào một không gian trí tưởng tượng đẹp đẽ và đầy tình cảm. Tuy nhiên, trong cảnh đẹp ấy lại ẩn chứa nỗi lo sợ và tình cảm trái ngược với niềm mơ ước. Cảm giác tương phản này làm nổi bật sự phức tạp và sâu sắc của tâm hồn nhân vật.

Cuối cùng, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” không chỉ là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp mà còn là một tâm hồn trữ tình, mơ mộng và cô đơn của nhà thơ Hàn Mặc Tử. Từng câu thơ như những nét vẽ tinh tế cùng những điểm nhấn chân thực làm cho bài thơ này trở thành một kiệt tác đáng để khám phá và tôn vinh.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

11. Bài văn mẫu số 11 phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mạc Tử là một tác phẩm mang đậm nét thơ mộng, tình cảm và lãng mạn. Tác giả đã thông qua những hình ảnh tươi đẹp, màu sắc tinh tế để khắc họa nét đẹp thiên nhiên và con người xứ Huế, đồng thời lồng ghép những cảm xúc và tâm tư riêng tư của mình.

Bài thơ bắt đầu bằng lời trách móc và tiếc nuối về việc người trữ tình không quay về thăm thôn Vĩ. Từ đó, tác giả miêu tả cảnh quê hương thôn Vĩ vào buổi sáng, với những vẻ đẹp thanh khiết, trong lành, tươi mới. Cảnh vật được thể hiện dưới bàn tay điêu luyện của tác giả, khiến người đọc cảm nhận được sự tinh tế, tươi sáng của môi trường quê hương.

Tiếp theo, tác giả mở rộng cảnh quan đến không gian trời, núi rừng và sông nước, nhấn mạnh sự hoài cổ và cảm xúc sầu thảm của thiên nhiên. Hình ảnh sương mù, khói lửa tạo nên một không gian mơ hồ, lãng mạn, đầy ẩn dụ và thú vị. Bên cạnh đó, tác giả còn giới thiệu hình ảnh của người con gái Huế, một nét đẹp dịu dàng, hiền từ, đậm chất Á Đông, khiến người đọc cảm nhận được sự đẹp đẽ, mềm mại của phụ nữ Việt Nam.

Nét đẹp thiên nhiên và con người xứ Huế trong bài thơ cũng được tác giả nối liền với những cảm xúc và tâm tư riêng tư của mình. Từ những hình ảnh tươi đẹp, tác giả chuyển sang những ý tưởng mơ màng, tình yêu không thể nào thấu hiểu, tình cảm tha thiết đối với người con gái Huế mà tác giả đơn phương. Tình cảm này được miêu tả là son sắt và thủy chung nhưng cũng đầy bồn chồn, lo lắng.

Tác giả sử dụng các biện pháp nghệ thuật như điệp từ, câu hỏi tu từ để tạo nên một không gian thơ mộng, lãng mạn và huyền ảo. Điều này khiến cho bài thơ trở nên sâu lắng và lôi cuốn người đọc, đồng thời để lại những dấu hỏi không nguôi về tình cảm và niềm tin của tác giả.

Nhìn chung, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một tác phẩm nghệ thuật sắc sảo, tinh tế, chứa đựng những cảm xúc sâu lắng của tác giả và cũng là một tấm lòng gửi gắm tình yêu tha thiết đối với quê hương, con người xứ Huế.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

12. Bài văn mẫu số 12 phân tích Đây thôn Vĩ Dạ

Hàn Mặc Tử, một tâm hồn thơ mãnh liệt, có sức sáng tạo đặc biệt, nhưng đời ông luôn quằn quại đau đớn vì căn bệnh hiểm nghèo. Ông là tác giả tiêu biểu cho “trường phái thơ loạn” xa lạ với đời thực. Tuy nhiên, Hàn Mặc Tử cũng thể hiện được sự tuyệt mĩ và trong trẻo lạ thường trong những bài thơ về thiên nhiên, đất nước và con người, như “Đây thôn Vĩ Dạ,” “Mùa xuân chín”…

“Đây thôn Vĩ Dạ” được in trong tập “Thơ Điên” của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được viết khi ông nhận được bức ảnh chụp về phong cảnh Huế và những lời thăm hỏi từ người bạn gái có tên Hoàng Cúc. Những kỉ niệm về vùng đất và con người xứ Huế được tái hiện trong bài thơ. Lúc này, ông đang sống tại Quy Nhơn và đã biết mình mắc bệnh hiểm nghèo. Do đó, bài thơ là một bức tranh đẹp về thiên nhiên xứ Huế nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn da diết, bâng khuâng.

Câu hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” có thể là câu tự vấn của nhân vật trữ tình. Từ “anh” có thể là đại từ nhân xưng được dùng ở ngôi thứ nhất, mang tính chất giãi bày, thể hiện niềm nuối tiếc. Nhân vật tự trách mình vì sao lại không về thôn Vĩ, về những kỉ niệm. Giọng thơ đượm buồn kết hợp với chút ân hận.

Bài thơ miêu tả cảnh vườn cây đẹp trong nắng ban mai với cành lá mơn mởn ướt sương, ánh sáng tỏa như ngọc. Thiên nhiên như được thổi thêm một luồng sinh khí, tạo nên nét đẹp hài hòa trong giá trị tạo hình. Lá trúc che ngang mặt chữ điền khiến cho thiên nhiên bỗng trở nên sống động hơn bao giờ hết. Từ này thể hiện một khuôn mặt vuông vức đầy đặn, ẩn chứa bên trong cảm giác hiền lành đã bị trúc trong vườn che khuất, nhưng cũng như nói đến một trở lực ngăn cách tình người.

Cảnh vật của thiên nhiên Huế tiếp tục xuất hiện. Dòng sông được tưới đẫm ánh trăng, với con thuyền ướt ánh trăng, tạo nên một cảnh tượng huyền ảo. Nhưng tất cả đều thấm đượm nỗi buồn. Cách miêu tả thể hiện trạng thái ảo mộng của tâm hồn nhà thơ. Nỗi buồn giăng trải khắp cả khổ thơ, như lưỡi dao rạch vào nỗi đau của thân phận kẻ bị chia lìa.

Nhà thơ mơ thấy một khách đường xa, cảm nhận rõ một bóng hình người con gái Huế thơ mộng, song không thể nắm bắt được. Áo em trắng quá nhìn không ra, sự hụt hẫng đến cao độ, nhà thơ muốn bấu víu, cầm nắm mà không được vì cảnh đầy màu hư ảo lẫn khói mây.

Thi nhân đắm chìm trong mộng ảo, nơi mà cảnh và người đều hư hư, thực thực. Đối với ông, tất cả chỉ là sự cảm nhận. Những câu hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” và “Có chở trăng về kịp tối nay?” đã biến cảnh trong “Đây thôn Vĩ Dạ” trở thành một không gian đẹp mơ màng nhưng đau thương, hỗn loạn, chứa chan nỗi buồn, bất mãn trong lòng thi nhân.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” thể hiện một tâm trạng rất thật của nhà thơ, và là một tình ca đầy thiết tha dành cho xứ Huế. Những chi tiết hình ảnh, thủ pháp nghệ thuật, và cấu tứ của bài thơ đều được Hàn Mặc Tử khéo léo chuyển tải bằng chính tình cảm chân thành của mình. Cảnh quan trong bài thơ không chỉ đơn thuần là hình ảnh về vườn cây, sông nước mà còn mang theo cảm xúc của tác giả, khiến bài thơ trở nên đậm chất mộng mơ và da diết.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

13. Phân tích Đây thông Vĩ Dạ – Bài văn mẫu số 13

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử ra đời từ một cảm hứng đặc biệt. Khi nhà thơ lâm bệnh nặng và đang sống trong những giây phút chờ đón tử thần tại trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn, ông nhận được một tấm bưu ảnh từ người bạn nữ Hoàng Thị Kim Cúc ở thôn Vĩ Dạ. Tấm ảnh hiện lên phong cảnh sông nước đêm trăng, thuyền và bến. Kim Cúc còn gửi những lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ đang bị ốm đau.

Đối với Hàn Mặc Tử, tấm bưu ảnh này mang ý nghĩa sâu sắc. Nó giúp nhà thơ gặp mặt và yêu người trong mộng với tình yêu chân thành và sâu sắc. Nhưng thực tế, không có người con gái nào đang gửi lời yêu thương cho Hàn Mặc Tử. Bưu ảnh chỉ là một tấm hình thư thông thường trong giao tiếp hàng ngày, nhưng với Hàn Mặc Tử, nó trở thành giai điệu và tiếng nói trong tâm hồn.

Khổ thơ đầu tiên là câu hỏi của một người con gái: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Đó là lời trách yêu, dỗi hờn thể hiện sự trông ngóng của cô nàng ở thôn Vĩ. Dù không có người con gái nào đối diện với Hàn Mặc Tử, nhưng nhà thơ cảm nhận được những lời yêu thương trong tấm bưu ảnh kia.

Khổ thơ thứ hai chúng ta được đắm mình trong không gian thôn Vĩ Dạ. Hàn Mặc Tử nhìn thấy “nắng hàng cau” và nắng tinh khôi mới mẻ, khiến nhà thơ như trẻ con “nắng mới lên”. Câu thơ này thể hiện một cuộc hành trình trong tâm thức, nhưng Hàn Mặc Tử không cần một cuộc dạo chơi thực sự để trở về thôn Vĩ.

Hàn Mặc Tử nhìn thấy “vườn ai mướt qua xanh như ngọc” – một cảnh tượng đầy nghịch lý. Nhà thơ thấy mọi thứ trong vườn đều xanh tươi như ngọc, đem lại cho ta cảm giác vizual và cảm nhận tiếng va quệt của lá ngọc. “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” – hình ảnh lá trúc mang nét của người quân tử, biểu lộ sự mạnh mẽ và tự do của người đàn ông.

Khổ thơ cuối cùng thể hiện sự tan nát và đổ vỡ của một cuộc tình. Hàn Mặc Tử thấy tình nhân trong mộng của mình như “khách đường xa”, xa lạ và không thể níu kéo. Người con gái đó vốn đã quá xa lạ và người thơ không dám nhìn thấy em vì em quá trong trắng và thanh cao. Điều này khiến Hàn Mặc Tử tự khước từ tình yêu, đặt ra câu hỏi “Ai biết tình ai có đậm đà?” và thấy sự vô vọng trong cuộc đời.

Tình yêu vô vọng trong “Đây thôn Vĩ Dạ” mang lại cảm giác bi quan, nhưng đồng thời nó cũng mang đến giá trị nhân văn cao quý. Nhà thơ dùng tình yêu để níu kéo cuộc sống, dù đó là một tình yêu không có hy vọng.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

14. Bài phân tích Đây thôn Vĩ Dạ số 14

Hàn Mặc Tử – người thi sĩ khổ nhất trong số các nhà văn hiện đại của Việt Nam. Đời người tài hoa đã quá ngắn ngủi, chỉ sống vẻn vẹn 28 năm, nhưng tâm hồn và sự dâng hiến của ông mãi mãi ở lại trong lòng người yêu thơ. Hàn Mặc Tử là một vì sao băng, lóe sáng và rực rỡ, để lại dấu ấn không thể xóa nhòa trong văn chương.

Gần đây, vị trí của Hàn Mặc Tử trong lịch sử văn chương nước nhà đã được công nhận và đánh giá đúng giá trị. Ngày nay, thơ Hàn Mặc Tử đã được giảng dạy trong chương trình môn Văn ở bậc Trung học phổ thông, giúp các học sinh hiểu thêm về tài hoa, sự thật thà và tình yêu dâng hiến của nhà thơ.

Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, Hàn Mặc Tử đã trải qua nhiều khó khăn, nhưng tâm hồn ông luôn tràn đầy tình yêu và hy vọng. Khi mắc chứng bệnh nan y (bệnh phong) năm 1936, Hàn Mặc Tử quyết định trở về quê hương Quy Nhơn để tận hưởng những khoảnh khắc cuối đời. Trong lúc đó, người yêu đầu tiên của ông, bà Hoàng Cúc, đã ra Huế, và ông nhận được tấm ảnh của cô với lời trách móc “Sao không về thăm Vĩ Dạ?”. Đó là lá thư tình giãi bày tâm tư của người phụ nữ, nhưng được Hàn Mặc Tử truyền đạt bằng ngôn ngữ thi ca trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ”.

Bằng cách hóa thân vào tâm hồn người thiếu nữ từ thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử kể về những khao khát, tâm tư, và cảnh đẹp của nơi ấy. Nhưng dưới những nét thơ ấy, tâm hồn của nhà thơ lại phức tạp, giàu ưu tư và đa cảm. Hàn Mặc Tử đã mô phỏng một “bến sông trăng” trong tâm tư con người, nơi mà trăng không bao giờ về, khiến cuộc sống trở nên hoang vắng và buồn bã.

Nhưng dù có cô đơn và cảm thấy “sương khói mờ nhân ảnh”, Hàn Mặc Tử không ngừng dâng hiến tâm hồn và tài năng của mình vào thơ ca. Tuy là người cô độc, nhưng ông vẫn hy vọng rằng tình yêu và sự hiểu biết sẽ đến với cuộc đời mình. Hình ảnh một người đàn ông chờ đợi “thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối nay?” thể hiện tâm hồn hồn nhiên, chân thành của Hàn Mặc Tử.

Dẫu đã muộn phiền với cuộc đời, nhưng đến phút cuối, Hàn Mặc Tử vẫn ôm trọn khối tình đau đớn. Ông ra đi, để lại cuộc đời “quạnh quẽ dưới một gốc cây phi lao!” Sự hiểu biết và công nhận của người đời về tài hoa của Hàn Mặc Tử không thể thay đổi quá khứ, nhưng người ta hãy rộng đường cho ông, để tài năng và tâm hồn của nhà thơ mãi mãi ở lại trong văn chương và lòng người.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

15. Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Bài văn mẫu số 15

Hàn Mặc Tử, một nhà thơ tài hoa của văn học Việt Nam, là một tinh hoa nghệ sĩ với ngòi bút sắc sảo, tinh tế. Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ,” chúng ta càng cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp của tài năng và tinh ý của ông.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” khắc họa cảnh thiên nhiên mơ màng, u buồn của quê hương Huế. Nhưng dưới vẻ đẹp trữ tình, mộng mơ của nơi đó, cảm xúc đắm say, ngọt ngào cũng như nỗi u buồn, lòng thi sĩ tràn ngập trong từng câu thơ.

Bài thơ bắt đầu với câu hỏi nhẹ nhàng, không tỏ ra giận dỗi của một cô nàng Huế đối với người mà cô thầm thương trộm nhớ. Câu thơ chứa đựng sự mong đợi, trách móc nhẹ nhàng, mời gọi “đường về” quê hương quê nhà. Thôn Vĩ, với vẻ đẹp trữ tình, mộng mơ, hiện lên trong tâm hồn chúng ta như một nơi thiên đàng.

Tác giả tận dụng hình ảnh tia nắng ban mai “nắng mới” để miêu tả vẻ đẹp tươi mát, sức sống đang tuôn trào của “hàng cau”. Thảm cỏ xanh mướt, những chiếc lá trúc che ngang mặt chữ điền như thể giấu giếm cảm xúc trong tâm hồn.

Dòng nước sông Hương trong bài thơ cũng đượm vẻ buồn hiu hắt, như thể thấu hiểu nỗi lòng của nhà thơ. Hàn Mặc Tử sử dụng hình ảnh “dòng nước buồn thiu” và “hoa bắp lay” để miêu tả một cảnh vật đẹp nhưng cũng đầy chất tượng trưng, nhuốm chút buồn bã.

Một dòng thơ đầy hỏi thăm xuất hiện: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối nay?” Câu hỏi này không có câu trả lời, nó trở thành biểu tượng cho tâm hồn đầy lúng túng, khó nắm bắt của nhà thơ trước nỗi nhớ và tình cảm xa lạ.

Và cuối cùng, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” khép lại bằng sự ngậm ngùi, dư âm u sầu trong lòng. Nhà thơ không chia sẻ với người khác mà chỉ thể hiện sự phân vân, đắn đo của chính mình. Cảm giác vô vọng trong tình yêu không biết liệu nó có “đậm đà” hay chỉ là ảo mộng như màu áo trắng trong làn sương mờ buổi sớm.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một tác phẩm tuyệt đẹp kết hợp hài hòa giữa cảnh vật và tâm hồn. Từng câu thơ chạm đến lòng người, thể hiện sự nghị lực sống và tình yêu thương của một nghệ sĩ tài hoa. Hàn Mặc Tử để lại di sản văn học đậm đà và sâu sắc, để con người mãi mãi ghi nhớ và tôn vinh.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

16. Bài văn mẫu số 16 phân tích Đây thông Vĩ Dạ

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử lấy cảm hứng từ một tấm bưu ảnh của cô gái Huế tên Hoàng Cúc gửi tặng nhà thơ khi ông đang điều trị bệnh phong tại Quy Nhơn. Bài thơ diễn tả tình cảm tha thiết yêu đời, yêu người và những kỷ niệm về miền quê đất nước.

Bài thơ mở đầu bằng một hoài niệm mênh mang về cảnh và người thôn Vĩ. Cảnh sắc thôn Vĩ hiện lên qua cái nhìn tha thiết của nhà thơ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Nhà thơ tự hỏi tại sao không trở về thôn Vĩ bên bờ sông Hương thơ mộng và gặp lại người con gái anh yêu. Tình yêu tha thiết ấy làm ông nhớ mãi những cảnh đẹp và người dân thôn quê thân thương.

Trong khổ thơ tiếp theo, cảnh vật thôn Vĩ hiện lên trước mắt người đọc với vẻ đẹp của khu vườn “mướt quá xanh như ngọc” và “lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Từ “mướt” và “xanh như ngọc” miêu tả sự tươi tắn và phong cảnh đẹp tựa viên ngọc trong khu vườn của ai đó. Cảnh thôn quê hiền hòa và tươi đẹp, hòa quyện cùng tâm hồn nhạc sĩ.

Khổ thơ cuối cùng thể hiện tâm trạng lẻ loi, buồn chán, và cảm giác xa cách. Thi nhân nghĩ về cô gái Huế từ xa xưa, nhưng cô gái đó giờ đây đã như một hư ảo mờ nhoà trong kỷ niệm. Nhà thơ tự hỏi liệu tình yêu của cô ấy có đậm đà như tình yêu của mình hay không, vì trong lòng ông tình yêu vẫn còn đau đớn, không thể giải thoát.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử thể hiện sự đau đớn, hoài niệm và khát khao trong tâm hồn của một nhà thơ yêu đời, yêu người và sống đối diện với bệnh tật. Tác phẩm mang nhiều cảm xúc sâu sắc và diễn tả một cách chân thực tình yêu và tâm tư của thi nhân.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

17. Phân tích bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử – Bài số 17

Hàn Mặc Tử – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương, đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót xa và sung sướng, những khoảnh khắc ông đã thả hồn mình vào trong thơ, những giây phút ông đã chắt lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết nên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã được ra đời ngay trong những khoảnh khắc tuyệt diệu ấy.

Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hoà vào lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hoà vào nhau. Mở đầu bài thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ. Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chứa đựng bao yêu thương mong đợi.” Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua cơ hội chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ – vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phần của cảnh Huế.

Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên, vườn ai mướt quá xanh như ngọc, lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Nét đặc sắc của thôn Vĩ – quê hương người con gái – được gợi mở ở câu đầu tiên đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tươi đẹp tưới lên ngọn cau, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những tia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng và buổi bình minh.

“Cái nắng hàng cau nắng mới lên sao lại gợi một nỗi niềm làng quê hương đến thế?” Câu thơ này khiến ta nghĩ tới những câu thơ Tố Hữu trong bài thơ “Xuân lòng.”

“Nàng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu, tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh, ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu, và chảy tan qua kẽ lá cành chanh.” Nắng mới còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rỡ nồng nàn.

Đó là những tia nắng đầu tiên rọi xuống làng quê, làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được đính vào chiếc choàng nhung xanh mịn. “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.” Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật, để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đến thẫn thờ. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ Tố Hữu trong bài thơ “Xuân lòng.”

“Nàng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu, tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh, ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu, và chảy tan qua kẽ lá cành chanh.” Nắng mới còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rỡ nồng nàn.

Đó là những tia nắng đầu tiên rọi xuống làng quê, làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được đính vào chiếc choàng nhung xanh mịn. “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.” Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật, để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đến thẫn thờ.

Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp, mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn.

Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng, mà chỉ có xanh như ngọc mới diễn đạt được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quí, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên.

Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ, thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thía những vần thơ này: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế? Những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương mặt chữ điền. Mặt chữ điền – khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.

Thôn Vĩ Dạ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong sầu muộn hư ảo như trong giấc mộng:

“Gió theo lối gió mây đường mây, dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay. Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối nay?”

Gió và mây để gợi buồn vì chúng trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn, gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau, không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống.

Nỗi buồn về sự chia li, tiễn biệt đọng lại trong lòng người, phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng tươi mát đầy sức sống ở đoạn trước nữa, gặp lại Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau buồn, u uất: “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay.”

Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tử, thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là dòng sông buồn thiu gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa bắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những người sông trong vòng đời tối tăm, bế tắc.

Mặt nước sông Hương êm quá, gợi đến những bến bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp người. Tâm trạng thoắt vui – thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạng khác sống cùng với thời Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau, nhưng với cách diễn đạt thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối nay?”

Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! Dòng nước buồn thiu đã hóa thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng.

Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật là tài tình, thật là đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín, nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng.

Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng, nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kỳ quặc, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:

“Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa, vờ tan thành vũng đọng vàng kho.”

Hay:

“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu, đợi gió đông về để lả lơi.”

Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông. Nó là ông, là trời đất, là người ta. Trăng biến thành vô lượng trong thơ ông, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng:

“Thuyền ai đậu đên sông trăng đó, có chở trăng về kịp tôi nay?”

Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời. Nhưng hiện tại, con người đang sống và tiếp tục giấc mơ:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa, áo trắng quá nhìn không ra. Ở đây sương khói mờ nhân ảnh, ai biết tình ai có đậm đà?”

Trái tim khao khát yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu. Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh, ai biết tình ai có đậm đà?”

Câu thơ đã tả thực cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó, con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu, họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định một điều gì về tình cảm của họ, và mình cũng không dám.

Tôi thấy hơn cảm giác về những lời thơ của tác giả đối với những con người sông đó là cái nhìn từ xa. Không phải tác giả quá xa lạ với con người sông ấy, ông đã sống và tự hào là người xứ Huế. Nhưng tâm hồn và tâm tình của ông có vẻ xa lạ với cuộc sống xung quanh. Hàn Mặc Tử đẹp thật, vượt thời gian và khoảng cách, ông vẫn là người có tâm hồn lãng mạn lớn nhất của nước Việt Nam.

Trong thơ Hàn Mặc Tử, Huế thật đẹp thơ mộng và cảm xúc. Trong từng khung cảnh, từng nỗi niềm, từng hình ảnh, chúng ta nhìn thấy sắc màu thiên nhiên hùng vĩ của vùng quê miền Trung và cảm nhận sự lãng mạn, cảm động và nỗi u hoài của tâm hồn nhà thơ. Thơ Hàn Mặc Tử thực sự là một kho tàng văn học vĩ đại của dân tộc Việt Nam, góp phần làm phong phú và tô điểm thêm cho văn học thế giới.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

18. Bài văn mẫu số 18 phân tích Đây thôn Vĩ Dạ

Hàn Mặc Tử tỏa sáng như một ngôi sao lấp lánh giữa thiên hà đầy tinh tú lạ. Với tác phẩm nổi tiếng “Đây thôn Vĩ Dạ,” ông gửi gắm những lời trách thầm và nhắn nhủ trữ tình, trong niềm nhớ mong tràn đầy vơi vợi.

Thôn Vĩ Dạ nằm bên bờ sông Hương, một điểm đến thơ mộng, chỉ cách trung tâm cố đô Huế một giờ tản bộ. Khi bước chân đến đây, bạn sẽ ngập tràn trong không gian xanh tươi, biệt thự nhỏ nhắn duyên dáng và cây cối mơn mởn tỏa ngát hương thơm.

Những hàng cau đầu xuân ướt sương, cao tựa ngọn tháp, đón đưa du khách từ xa. Đất đai Vĩ Dạ phì nhiêu, con người cần cù chăm sóc, khiến cho cây cối ở đây xanh tốt mơn mởn, sạch sẽ như những cành vàng lá ngọc.

“Mặt chữ điền” – hình tượng xứ Huế với những người đàn ông vuông vức, cường tráng được khắc họa tinh tế trong bài thơ. Nhưng cảnh đẹp của Vĩ Dạ không chỉ nằm ở vẻ đẹp thiên nhiên mà còn ẩn chứa sự hòa quyện giữa con người và quê hương.

Khổ thơ tiếp theo, như nhịp điệu dịu dàng của Huế, miêu tả cảnh thiên nhiên sông nước đêm trăng. Gió và mây nhè nhẹ trôi đi, sông Hương nước chảy lặng lờ, hoa ngô đung đưa theo chiều gió. Không gian trong mộng ảo, tràn ngập ánh trăng, đưa người đọc vào không gian tâm linh của nhà thơ.

Nhưng cũng dưới những nỗi niềm thơ, Hàn Mặc Tử đặt câu hỏi: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối nay?” Bài thơ không chỉ là vẻ đẹp của Huế mà còn là một phần tâm hồn của nhà thơ. Đằng sau những nét phác họa xinh đẹp, chúng ta thấy một tình yêu dịu dàng, kín đáo, nhưng sâu xa rộng mở đến khôn cùng.

Hàn Mặc Tử, người tài hoa bất hạnh, sống trong cô đơn, bị căn bệnh phong hiểm nghèo hành hạ, không có được một tình yêu trọn vẹn. Ông yêu thương Huế đắm say, nhưng đồng thời cũng tự hỏi liệu tình yêu ấy có thật sự đậm đà hay chỉ mờ ảo như sương khói xứ Huế.

Đây là một bài thơ sâu lắng, chứa đựng những tâm tư phong tình, thể hiện tình yêu mãnh liệt với xứ Huế và con người Vĩ Dạ. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, ta cảm nhận được những ánh sáng thơ đong đầy tâm hồn, làm lung linh không gian Vĩ Dạ, nơi vẫn còn đọng lại những kỷ niệm ngọt ngào và đẹp đẽ.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

19. Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu số 19

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử là một tác phẩm đầy tâm huyết, thể hiện niềm yêu thương và nhung nhớ về quê hương xứ Huế, nơi tác giả từng làm việc và học tập. Với những lời nói ngọt ngào, bài thơ mở đầu bằng lời mời gọi tha thiết của một cô gái dành cho một chàng trai: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Làng Vĩ Dạ là một làng quê xinh đẹp, yên bình, nằm gần bên con sông Huế thơ mộng.

Tác giả miêu tả cảnh vật xứ Huế rất sống động, với những hàng cau xanh mướt, vườn ai mát mẻ như ngọc, và lá trúc che ngang mặt chữ điền. Cảnh vật ở đây có màu sắc chủ đạo là xanh và vàng, tạo nên không gian thơ mộng và trữ tình. Hàn Mặc Tử đã sử dụng biện pháp so sánh để làm nổi bật vẻ đẹp của cảnh vật và tạo hình ảnh muôn màu sắc trong tâm trí người đọc.

Tuy nhiên, khổ thơ thứ hai, câu thơ cuối cùng là những lời thốt lên từ đáy lòng tác giả, thể hiện tâm trạng buồn bã và những suy tư về người con gái xứ Huế. Có thể thấy tác giả đang nhớ về những khoảng thời gian xa cách và chia ly với người mình yêu. Điều này càng khiến bài thơ trở nên cảm động và gắn kết tình cảm với người đọc.

“Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ” thể hiện sự tài tình của Hàn Mặc Tử trong việc miêu tả cảnh vật và cảm xúc. Từ những khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp cho đến những tâm tư, nỗi niềm của tác giả, bài thơ mang đến cho độc giả cảm giác như đang lang thang trong không gian xứ Huế yên bình và trữ tình. Đây chính là một trong những tác phẩm đáng quý và ghi dấu nhiều cảm xúc của văn học Việt Nam.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

20. Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu số 20

Hàn Mặc Tử, tài hoa vượt trội, là một thi sĩ trầm lắng và tận hưởng tình yêu thiên nhiên, đất trời và cuộc sống hết mực. Tuy ông đã từng trải qua những cảm giác giằng đáy trong tình yêu, nhưng ông vẫn là một con người lạc quan và hòa mình vào vẻ đẹp thiên nhiên tươi đẹp.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là những tâm sự chân thành của Hàn Mặc Tử trước vẻ đẹp thiên nhiên ở thôn Vĩ và những cảm xúc thấm đẫm tâm hồn của mình. Bài thơ bắt đầu bằng một câu hỏi trách móc với lời nhắn nhủ của nhân vật trữ tình trong tâm trạng vời vợi nhớ mong.

Mỗi câu thơ của Hàn Mặc Tử như những nét vẽ tinh tế, tạo nên bức tranh sống động của thôn Vĩ. Vẻ đẹp trong trẻo tinh khôi của buổi sớm mai với nắng hàng cau mới lên, cái đẹp của khu vườn xanh mướt như ngọc với cành lá trúc che ngang mặt chữ điền. Hình ảnh này khiến chúng ta say đắm trong không gian thanh khiết và tươi mới của thôn Vĩ.

Nhưng dưới những nét đẹp đang khoe sắc, bức tranh của Hàn Mặc Tử cũng thấm đẫm nỗi buồn và xa cách. Câu thơ thứ hai hướng dẫn chúng ta nhìn nhận sự lắng đọng của thơ, trong đó mây, gió và dòng nước trôi lững lờ, nhưng lại che phủ đi những khắc khoải, hy vọng và cô đơn của người viết. Hàn Mặc Tử như thể đang hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên để giải tỏa những suy tư và lo âu trong lòng.

Khổ thơ cuối bày tỏ nỗi buồn khó tả của nhà thơ. “Mơ khách đường xa” với bao niềm vui và mong mỏi, nhưng áo em trắng lại quá mờ ảo, như không thể nắm bắt được. Sương khói mờ nhân ảnh, liệu tình yêu có đậm đà và thực sự tồn tại? Câu hỏi này lặng lẽ thể hiện sự nghi ngờ và tiếc nuối của Hàn Mặc Tử với mối tình dở dang trong cuộc đời.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” hấp dẫn người đọc không chỉ bởi vẻ đẹp của xứ Huế mà còn bởi sâu sắc tâm hồn của nhà thơ. Bài thơ tạo nên một bức tranh tinh tế về xứ Huế, nơi những khung cảnh thiên nhiên thanh khiết và hoài niệm. Hàn Mặc Tử đã để lại những cảm xúc, suy tư và hy vọng trong tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta yêu cuộc sống hơn và trân trọng những khoảnh khắc đẹp đẽ quanh ta.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

21. Bài phân tích Đây thôn Vĩ Dạ số 21

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử thuộc tập “Thơ Điên” là một tác phẩm nổi bật, chứa đựng hồn thơ mãnh liệt và sự sáng tạo độc đáo của nhà thơ. Từ câu hỏi mở đầu “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” đã đưa người đọc vào không gian thiên nhiên đầy tâm sự của Vĩ Dạ, nơi mà Hàn Mặc Tử đã miêu tả một cách tinh tế và dễ thương.

Tác giả sử dụng từ “anh” như một lời tự sự, thể hiện niềm tự hỏi, trách móc và cảm xúc của người con gái. Câu thơ đầu tiên với nét duyên trữ tình và chất ngây thơ khiến người đọc cảm nhận được tâm tư của nhân vật. Tác giả miêu tả cảnh vật Vĩ Dạ tươi mát với nắng vàng ấm áp và cỏ cây xanh ngọc mướt mắt. Màu xanh của cây cối được so sánh với màu ngọc, làm nổi bật vẻ đẹp quyến rũ của thiên nhiên.

Cảnh vật xứ Huế không chỉ đẹp mê hồn, mà còn chứa đựng tâm tư con người. Tác giả vừa miêu tả vẻ đẹp tự nhiên vừa ghép thêm hình ảnh con người, như chiếc gương mặt chữ điền được che ngang bởi lá trúc tinh khôi. Từ đó, tạo nên bức tranh tươi đẹp và huyền ảo của Vĩ Dạ.

Khổ thơ thứ hai chuyển biến nội tâm chủ thể một cách sâu sắc. Hình ảnh gió và mây thể hiện tình cảm chia lìa, xa cách của người con gái và chàng trai. Dòng sông buồn thiu, hoa bắp lay đượm chất thơ, khiến người đọc cảm nhận sự lẻ loi và cô đơn của nhân vật. Cảm giác chia xa và hụt hẫng được diễn tả một cách nhẹ nhàng và tinh tế.

Nhà thơ sử dụng hình ảnh “sông trăng” để miêu tả một không gian thiên nhiên đẹp đẽ và thơ mộng, mang đến cho độc giả một cảm giác du dương và lãng mạn. Tuy nhiên, câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối nay?” lại làm nổi lên nỗi lo âu và tâm trạng khó quên của nhân vật. Dường như người con gái đang chờ đợi một người, nhưng sự chờ đợi đó có thể không được đáp lại.

Khổ thơ cuối cùng tiếp tục tả tình cảnh sương khói mờ nhân ảnh, như một hình ảnh thể hiện nỗi mơ hồ và không rõ ràng của tình yêu. Tác giả tỏ ra không biết rằng liệu người con gái còn yêu mình hay không. Bằng cách này, Hàn Mặc Tử truyền đạt cảm xúc mê đắm và đau đớn trong lòng người đọc.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã chinh phục độc giả bởi sự mãnh liệt và tài tình của hồn thơ Hàn Mặc Tử. Từ việc kết hợp giữa cảnh vật thiên nhiên và tâm tư con người, tác giả đã tạo nên một tác phẩm tuyệt vời, chứa đựng nhiều cảm xúc và ý nghĩa sâu sắc.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

22. Bài phân tích Đây thông Vĩ Dạ số 22

Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã đưa ra một nhận định đáng chú ý về Hàn Mặc Tử, một thi sĩ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới. Chắc hẳn ông đã cảm nhận được sự lạnh lẽo, sâu xa trong hồn thơ của chàng thi sĩ họ Hàn thông qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. Tác giả đã dùng ngôn từ, thi liệu và hình ảnh độc đáo để tái hiện những không gian, khung cảnh thiên nhiên khác nhau và biểu đạt nỗi khát khao giao cảm với tình người, tình đời.

Câu hỏi đầu tiên của bài thơ, “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”, đã khơi dậy nhiều cảm xúc và ý nghĩa. Đó có thể là một lời trách móc nhẹ nhàng, mời gọi khách thể đến vườn thôn Vĩ, hoặc là lời tự vấn của chủ thể trữ tình. Từ câu hỏi này, tác giả miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế, bắt đầu từ ánh nắng buổi bình minh len lỏi trên cành cây kẽ lá, tạo nên thi ảnh độc đáo “nắng hàng cau”. Khung cảnh chuyển đổi sang vườn thôn Vĩ, với sắc xanh mướt như ngọc của cỏ cây, và hình ảnh con người xuất hiện trong mối quan hệ giao hòa.

Khổ thơ thứ hai của bài thơ tiết lộ không gian của sự chia lìa, xa cách hiu quạnh và huyền ảo. Gió và mây trở thành những hình ảnh tượng trưng cho cảm xúc này. Cùng với đó, ánh trăng xuất hiện và tạo nên một liên tưởng độc đáo về sông trăng, thuyền trăng. Ánh trăng hiện lên trong nỗi lo âu và khắc khoải, tạo nên nỗi bồn chồn cùng tâm trạng xót xa của nhân vật trữ tình.

Tiếp tục, khổ thơ thứ ba vẫn duy trì tính tượng trưng và siêu thực. “Mơ khách đường xa, khách đường xa” – tâm hồn nhân vật trữ tình vẫn đang lang thang, mơ màng và xa xăm. Hình ảnh “Áo em trắng quá” biểu đạt sự mờ ảo của bóng dáng người con gái từng xuất hiện trong bài thơ. Sương khói mờ nhân ảnh làm cho dòng thời gian trở nên không rõ ràng và khó nắm bắt. Cuối cùng, câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” tạo nên nỗi tuyệt vọng và ám ảnh về khát khao giao cảm với tình đời, tình người mà mãi không được đáp lại.

Những hình ảnh và cảm xúc trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã làm nổi bật tâm hồn trữ tình, khát khao giao cảm và đau đớn của Hàn Mặc Tử. Vườn thơ của ông rộng lớn và sâu xa, nhưng càng đi xa lại càng thấy lạnh lẽo, khiến chúng ta hiểu thêm về con người và tâm hồn của một trong những thi sĩ xuất sắc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

23. Bài văn mẫu số 23 phân tích Đây thông Vĩ Dạ

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới, sở hữu sức sáng tạo dồi dào và phong cách sáng tác ấn tượng. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được xem là tác phẩm đặc sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông, là bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong trẻo và tâm hồn suy tư, xót xa của tác giả.

Từ câu hỏi đầu tiên của bài thơ, Hàn Mặc Tử đã đưa ngòi bút đến khung cảnh thiên nhiên giản dị và đẹp đẽ của thôn Vĩ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”

Bài thơ được tạo dựng dựa trên cảm xúc tha thiết khi nhà thơ nhận được món quà của Hoàng Cúc là một bức thiệp với phong cảnh xứ Huế mộng mơ cùng lời mời đầy dịu dàng và tha thiết “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ với giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết, mang chất trữ tình của người con gái xứ Huế. Câu hỏi này cũng chính là lời tự trách của nhà thơ khi không thể trở lại vùng đất Vĩ Dạ, nơi ông từng có những kỷ niệm tốt đẹp. Dù hoàn cảnh hiện tại không cho phép nhưng bằng tất cả nỗi nhớ, hồi ức đã có, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Vĩ Dạ thật sinh động, độc đáo.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Vĩ Dạ nổi tiếng với nghề trồng rau và cây cối. Hình ảnh hàng cau trong thơ Hàn Mặc Tử được gợi tả thật đẹp với màu xanh ngắt của lá cau và ánh nắng vàng nhẹ tinh khiết của bình minh. Từ “nắng” được lặp lại hai lần, tạo nên hiệu ứng tăng cường về ánh sáng và đồng thời diễn tả cảm giác náo nức, xôn xao của thi sĩ khi nhìn thấy khung cảnh thôn Vĩ. Nhớ về Vĩ Dạ, tâm hồn Hàn Mặc Tử cũng sáng bừng những cảm xúc trong trẻo, chân thành.

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Khung cảnh khu vườn xanh ngát, tràn đầy sức sống của Vĩ Dạ hiện lên tươi đẹp đến ngỡ ngàng. So sánh “xanh như ngọc” là một cách tinh tế để tăng hiệu quả thẩm mỹ. Sắc xanh trong trẻo của những tán lá dưới ánh mặt trời trở nên lung linh, đặc biệt. Từ “mướt” thể hiện sự mượt mà, tươi tốt của vườn cây và cũng thể hiện sự khéo léo, chăm sóc kỹ lưỡng từ những người làm vườn.

Hình ảnh con người thấp thoáng sau khóm trúc tạo nên sự hòa quyện giữa cảnh vật và nhân vật, tạo nên bức tranh thơ đẹp đẽ, trong trẻo.

Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Vĩ Dạ đầy gợi cảm, sinh động cùng tình cảm tha thiết và trữ tình của tác giả. Tác phẩm không chỉ là một cảnh thiên nhiên mà còn là cảm xúc, kỷ niệm và tình yêu thương của tác giả dành cho đất nước và những người con gái xứ Huế.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

24. Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu số 24

Nếu như Xuân Diệu được mệnh danh là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới thì Hàn Mạc Tử được mệnh danh là nhà thơ lạ nhất trong các nhà thơ mới. Thơ của ông nổi bật với những đường nét và màu sắc riêng khi thỉnh thoảng táo bạo ấn tượng, thỉnh thoảng lại thanh khiết trong thoát tục. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của ông là một bài thơ rất hay và gợi lại nhiều tình cảm trong lòng người đọc.

Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ gợi nhiều suy tưởng trong lòng người đọc:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Đây có thể là câu hỏi mang chút trách cứ khéo léo của cô gái, đối với chàng trai đã lâu không về thăm thôn Vĩ Dạ. Bài thơ này được sáng tác khi Hàn Mạc Tử đang ở trại phong Tuy Hòa và nhận được món quà của Hoàng Cúc, một bức ảnh về miền quê xứ Huế. Ông dựa trên bức ảnh này để miêu tả lại những cảnh sắc, người dân xứ Huế qua ký ức. Từ câu hỏi này, độc giả có thể hình dung ra những hình ảnh tươi đẹp về thiên nhiên và con người xứ Huế, tạo nên một bức tranh tươi sáng và thanh khiết.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên, Vườn ai mướt quá xanh như ngọc, Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Những câu thơ này đưa ra những hình ảnh rõ ràng và sống động về khung cảnh xứ Huế. Ánh nắng buổi sáng chiếu xuống hàng cây cau đang mới nảy lá, tạo nên vẻ đẹp tươi mới của nắng sáng. Vườn cây xanh mướt trải dài như ngọc, thể hiện sự tươi tắn và đẹp đẽ của xứ Huế. Những tán lá trúc che chắn mặt chữ điền, tạo nên một khung cảnh thanh bình và bình yên.

Điều đặc biệt trong bài thơ là sự xen kẽ giữa tươi đẹp và những cảm xúc chia cách:

“Gió theo lối gió, mây đường mây, Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.”

Những hình ảnh về gió, mây và dòng nước buồn thiu đều thể hiện sự cô đơn và chia cách trong tâm hồn nhà thơ. Ông cảm nhận sự thay đổi của thời gian, nỗi buồn thiu khi nhìn thấy những cảnh sắc quen thuộc ở quê hương. Một câu hỏi về tình yêu cũng được đặt ra:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay?”

Câu hỏi này tạo nên sự thú vị và huyền ảo, đồng thời gợi lên những tâm tư, ước mơ của tác giả. Ông tự hỏi liệu tình yêu của ai đã đậu bến trong lòng mình, và liệu có thể chở trăng về đón trong đêm nay hay không. Điều này tạo nên sự tò mò và lôi cuốn cho người đọc.

Cuối cùng, bài thơ kết thúc với câu hỏi tu từ cuối cùng:

“Ai biết tình ai có đậm đà?”

Câu hỏi này không chỉ ám chỉ tình yêu của hai người, mà còn đặt ra câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống, tình cảm của con người dành cho nhau và tình yêu của chính bản thân mỗi người. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mạc Tử là một tác phẩm tuyệt vời, gợi lên nhiều tâm hồn trong trẻo và cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay

25. Bài phân tích Đây thôn Vĩ Dạ số 25

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ hoài niệm. Theo tư liệu về Hàn Mạc Tử, khi còn làm việc ở Sở Đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã đem lòng yêu Hoàng Thị Kim Cúc – con gái ông chủ sở Đạc điền Quy Nhơn, quê ở thôn Vĩ, xứ Huế. Tất cả tình cảm của mình Hàn Mạc Tử gửi gắm vào tập Gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về nghỉ hưu ở Huế – Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử xem như nàng đã đi lấy chồng.

Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ Em lấy chồng rồi, hết ước mơ Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng, Ngồi lên đó thả cái hồn thơ.

Hàn Mặc Tử khi lâm bệnh hủi năm 1936. Năm 1939, Hàn nhận được tấm bưu ảnh của Kim Cúc gửi tặng, đó là một bức ảnh chụp phong cảnh xứ Huế, có sông nước, có thuyền, có bến có trăng, cùng những hàng cau cao vút kèm theo dòng chữ của Hoàng Cúc để an ủi nhà thơ. Bức bưu thiếp đã đánh thức cảm xúc của thi sĩ, nên có bài thơ tuyệt bút này.

Khổ thứ nhất mở đầu bằng một câu hỏi tu từ. Câu thơ thoáng như một lời trách móc nhẹ nhàng có pha chút tiếc nuối của ai đó, nhưng đằng sau đó là lời chào mời tha thiết khách đến thăm để được thưởng thức cảnh đẹp của “thôn Vĩ”.

Về thôn Vĩ để được “nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Nhà thơ nói đến cây cau trước tiên vì cau là loài cây thanh nhã, xinh xắn với thân thẳng tắp, tán lá xanh tươi, gợi sự ngay thẳng thủy chung. Hình ảnh hàng cau ở đây còn có một chi tiết khó quên, ấy là “Nắng hàng cau, nắng mới lên”. Điệp từ “nắng” gợi cho ta ánh nắng ban mai, biểu tượng cho sức sống, niềm vui đang lan tỏa tràn đầy mặt đất. Trong ánh nắng ban mai, những thân cau còn đọng sương đêm sáng lên lấp lánh như đang vươn lên hút lấy những ánh vàng rực rỡ.

Cảnh đẹp, thu hút sự chú ý của tác giả. Câu thơ thứ ba cất lên như một tiếng reo thích thú biểu hiện sự ngạc nhiên, ngưỡng mộ. Khung cảnh Vĩ Dạ đẹp như một bức tranh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Vườn Vĩ Dạ với những cây trái được sự chăm sóc bởi bàn tay khéo léo, lại được tắm gội mưa gió thường xuyên, nên mượt mà và dưới ánh nắng ban mai lấp lánh như những viên ngọc bích. Hình ảnh so sánh của tác giả trong câu thơ vừa chính xác, vừa gợi cảm. Có thể nói, tả vườn của Hàn Mặc Tử đã đạt đến độ tinh tế của một họa sĩ tài hoa.

Chỉ bằng vài nét vẽ chấm phá, Hàn Mạc Tử đã phác họa được khung cảnh khu vườn một làng quê xứ Huế vừa quen thuộc, bình dị, vừa thi vị độc đáo. Ngắm vườn xứ Huế trong cái “nắng mới lên” thật thanh thản. Nhưng cảnh vật Vĩ Dạ bổng sinh động hẳn lên, khi bóng dáng con người xuất hiện: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt chữ điền thường gợi về vẻ đẹp phúc hậu, trang trọng, quý phái, còn lá trúc gợi cái dáng vẻ mảnh mai, xinh xắn, thanh tú. Câu thơ ngoài ý nghĩa tả thực: thấp thoáng sau khóm trúc có khuôn mặt rất phúc hậu của ai đó hình như đang dõi theo khách đường xa, còn có ý nghĩa tượng trưng, cách điệu hóa.

Cảnh và người tô điểm cho nhau: cảnh xinh xắn, thơ mộng, người phúc hậu quý phái. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng. Nhờ thế câu thơ đã làm khơi dậy cái linh hồn vườn cây xứ Huế mà khổ thơ tập trung biểu hiện.

Tóm lại, bằng những chi tiết rất quen thuộc và bình dị, Hàn Mạc Tử đã khắc họa một bức tranh quê Vĩ Dạ tràn đầy sức sống với vẻ đẹp bất ngờ, có sự hài hòa giữa cảnh và người. Đoạn thơ làm khơi dậy trong tâm hồn người đọc biết bao nỗi niềm quê hương làng mạc Việt Nam.

Khổ thơ thứ hai cho thấy một thế giới khác của Huế: Dòng sông Hương và vẻ đẹp êm đềm trầm tư của Vĩ Dạ nói riêng và Huế nói chung.

Về với Vĩ Dạ, về với Huế, với núi Ngự, sông Hương, Hàn Mạc Tử cũng cảm nhận được cái linh hồn, cái nhịp điệu rất Huế ấy. Khung cảnh Huế dưới ngòi bút của Hàn Mặc Tử có sông nước, bờ bài, có gió, có mây và con thuyền ai đó đậu dưới trăng nơi bến vắng. Tất cả tạo nên một bức tranh êm đềm, thơ mộng.

“Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Hai câu thơ tả cảnh nhưng thấm đẫm tình người. Hai câu thơ gợi cảm giác chia ly buồn vắng đến não nề. Phải chăng một mối tình đơn phương, chưa có phút giây gặp gỡ ngọt ngào đã sớm chia li nên cảnh cũng hòa vào lòng người mà sầu tủi, phân li? Bởi đang trong tâm trạng buồn như vậy nên nhìn vào đâu cũng thấy buồn. Gió thổi mây bay thường là một chiều, nhưng đây lại đứt gãy, như là không có sự gặp gỡ. Điệp từ “gió” và “mây” đã thể hiện ra điều đó. Và ngay đến dòng nước vô tri kia cũng trở nên buồn hiu cùng với hoa bắp hiu hắt khẽ “lay”. Hai câu thơ không chỉ tả cảnh và tình trong cảnh, mà dường như còn muốn tả cái nhịp điệu của cảnh. Đó là cái nhịp điệu êm đềm, lững lờ, nét trầm tư rất điển hình không nơi nào có được của Huế. Hai câu thơ có cái nhịp khoan thai chậm rãi cũng đã diễn tả rất thành công cái cảm xúc trên.

Viết về Huế không thể không tả trăng. Trăng dưới ngòi bút của Hàn Mạc Tử huyền ảo, tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí nửa thực, nửa hư như trong mộng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay”

Chỉ có trong mộng thì sông mới là sông trăng và thuyền mới chở trăng. Ở đây Hàn Mặc Tử là con người có con mắt rất mơ, rất ảo. Nhìn vào sự thật thì sự thật thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy sẽ sang địa hạc huyền diệu. Lời thơ của Tử thanh tao quá! Ngọt lịm cả người” (Bích Khê).

Trăng là biểu tượng cho cái đẹp của cuộc đời và thiên nhiên. Trăng cũng tượng trưng cho hạnh phúc thanh bình. Vì vậy, hình ảnh thơ của Hàn Mặc Tử đã khơi dậy trong trái tim người đọc một niềm tin, niềm vui, một khát vọng hướng tới cái đẹp hoàn mỹ và thánh thiện. Những lời thơ lại cất lên như một câu hỏi vô vọng. Hai câu thơ sau của khổ thơ thể hiện tâm trạng khát khao gặp gỡ đồng thời cũng thể hiện nỗi niềm lo âu, phấp phỏng về sự muộn màng. Chỉ một chữ “kịp” câu thơ cuối cùng đã nói lên điều đó.

Đến với khổ thơ thứ ba cho thấy vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và tình người tình đời thiết tha mà xa xăm vô vọng của tác giả.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra”

Điệp ngữ “khách đường xa” vừa thể hiện tâm trạng khắc khoải nhớ mong tha thiết vừa diễn tả cái khoảng cách xa vời của mối tình đơn phương vô vọng. Vì vậy, “mơ khách đường xa” tác giả chỉ thấy “áo’’ nhưng “nhìn không ra”. Cô gái này là ai? Một cô gái Huế nào đó hay chính là cô gái thôn Vĩ chập chờn trong cõi mộng của nhà thơ khiến cho tác giả có cảm giác bâng khuâng hư thực? Chỉ biết đây là một hình ảnh vừa rất đỗi gần gũi tha thiết vừa xa xôi. Gần gũi vì nó đã trở thành một hoài niệm thường trực, xa vời vì khoảng cách thời gian, không gian và làn khói sương của một mối tình chưa có lời ước hẹn “Áo em trắng quá nhìn không ra” là một câu thơ khá đặc sắc. Màu trắng là màu áo dài của nữ sinh xứ Huế và cũng là màu gợi về sự thanh khiết trắng trong rất phù hợp với cô gái trong mộng tưởng. Cái màu trắng cả không gian, làm nhập nhòe cả thị giác của tác giả. Và “áo trắng quá” lại càng khó nhận ra khi lẩn vào sương khói hư ảo của Huế lắm nắng, nhiều mưa và sương khói của mối tình chưa có ước hẹn. Vì vậy, tình cảm của người con gái thôn Vĩ hôm nào có bền chặt cho chăng? “Ai biết tình ai có đậm đà?”.

Trong đau thương tột cùng mà nhà thơ vẫn có những phút giây thả hồn trong trẻo để hướng về một miền quê thân thiết và một mối tình đây mộng ảo để tạo nên một “viên ngọc thơ tuyệt vời, chói lọi nghìn năm” Chế Lan Viên.

Bài thơ cố nhiên có một xuất xứ, có một nguồn cảm hứng cụ thể, nhưng qua việc phân tích, ta thấy, tác phẩm đã vượt xa ranh giới của những gì cụ thể, đạt tới sự khái quát hóa nghệ thuật cao độ để đến với cuộc đời bao la.

“Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mạc Tử không chỉ là một bài thơ thể hiện tình yêu với một người con gái xứ Huế, thậm chí không chỉ dành riêng cho một thôn Vĩ cụ thể, mà còn là lời tâm sự thiết tha, là lời trăng trối của thi sĩ Hàn Mạc Tử về tình yêu day dứt và quá đỗi sâu nặng đối với cuộc đời này. (1)

Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nayTrên đây là tổng hợp đầy đủ Top 25 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất hiện nay chắc chắn sẽ giúp bạn có thêm nhiều ý tưởng, bài văn tham khảo cho bài văn phân tích, thuyết minh của mình. Chúng tôi hy vọng đã mang đến bài viết đầy đủ giúp bạn biết thêm nhiều thông tin, những bài văn mẫu, phân tích Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử đến cho các bạn học sinh

0/5 (0 Reviews)
Chúng tôi tạo ra Top10timkiem.vn nhằm mục đích cung cấp cho người đọc những thông tin, liệt kê một cách chi tiết nhất về mọi lĩnh vực trong cuộc sống.