Tổng hợp các bài mẫu tóm tắt nhân vật Mị trong bài Vợ Chồng A Phủ của tác giả Tô Hoài một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 10 mẫu tóm tắt nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!
Top 10 mẫu tóm tắt nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ
Số 1: Tóm tắt nhân vật Mị
Mị là cô gái xinh đẹp lại có tài thổi sáo nên được nhiều chàng trai theo đuổi nhưng cuối cùng lại bị A Sử bắt về nhà trình mà và làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra. Ban đầu Mị rất đau khổ, tuyệt vọng, tìm đến cái chết nhưng vì thương cha nên tiếp tục sống. Lâu ngày trong cái khổ Mị cũng quen dần, chỉ lầm lũi như con rùa trong xó cửa; không buồn cũng không vui. Năm ấy Hồng Ngài ăn tết muộn, Mị lén uống rượu, trong cơn say Mị như sống lại những ngày trước, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử đánh và trói ở góc nhà. Mị được cởi trói để chăm sóc A Sử khi hắn bị A Phủ đánh. Một lần thấy A Phủ bị trói ở góc nhà và khóc vì làm mất bò, Mị đã cắt dây cởi trói cho A Phủ và theo A Phủ đến Phiềng Sa.

Xem thêm:
- Top 20 mẫu phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ chi tiết nhất
- Top 10 mẫu dàn ý phân tích nhân vật Mị chi tiết nhất
- Top 12 mẫu sơ đồ tư duy về nhân vật Mị chi tiết nhất
- Top 10 mẫu tóm tắt nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ chi tiết nhất
- Top 20 mẫu mở bài phân tích nhân vật Mị chi tiết nhất
- Top 20 mẫu kết bài phân tích nhân vật Mị chi tiết nhất
Số 2: Tóm tắt nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ
Nhân vật Mị là một sáng tạo đặc sắc của Tô Hoài. Đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài là tình tiết cảm động nhất, hay nhất của truyện đã thể hiện khát vọng sống, khao khát tình yêu của người con dâu gạt nợ.
Mị mồ côi mẹ, ở với cha già. Mị xinh đẹp, tuổi xuân phơi phới. Vì món nợ truyền kiếp. Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Tuổi xuân của Mị bị thằng A Sử, con trai thống lí tước đoạt, giày xéo. Mị khổ như con trâu con ngựa. Mị toan ăn lá ngón tự tử, nhưng thương cha già, Mị chết không đành lòng. Sống trong đau khổ, Mị gần như vô cảm vô hồn “càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
Xuân qua rồi xuân lại trở lại. Đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài lại đến. Cả một không gian tưng bừng. Lúa ngô ở các nương đã thu hoạch xong. Gió và rét dữ dội. Cảnh sắc làng Mèo càng đẹp. Màu “vàng ửng” của cỏ gianh. Màu trắng, màu đỏ au, đỏ thẫm, màu tím man mát của hoa thuốc phiện vừa nở. Màu “sặc sỡ” của những chiếc váy hoa phơi trên mỏm đá xòe như con bướm.
Tiếng “cười ầm” của đám trẻ con chơi quay. Tiếng sáo thổi rủ bạn đi chơi. Tiếng chó sủa xa xa… Trước cảnh tưng bừng ấy, cứ tưởng Mị “Riêng mình nào biết có xuân là gì?”. Nhưng thật bất ngờ. Những đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã hồi sinh và hồi xuân tâm hồn Mị. Tâm trạng và hành động Mị được Tô Hoài thể hiện một cách tinh tế, xúc động.
Trong lúc trai gái và lũ trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy trên sân chơi thì Mị “tha thiết bồi hồi” khi nghe tiếng sáo từ đầu núi “vọng lại”. Mị “nhẩm thầm” bài hát của người đang thổi sáo: “… Ta không có con trai con gái – Ta đi tìm người yêu…”. Sau bao mùa xuân câm lặng, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ khẽ thầm hát?
Tiếng sáo đã gợi thương gợi nhớ và thức tỉnh. Mị lén lấy hũ rượu, “uống ừng ực từng bát”. Uống rượu như nuốt hận. Hay uống cho vơi đi nỗi đau khổ? Say rượu “lịm mặt”, tâm trạng Mị diễn biến. Mị hồi tưởng “sống về ngày trước”. Tiếng sáo gọi bạn tình “văng vẳng” trong tai Mị. Bao kỉ niệm đẹp thời con gái sống dậy trong lòng Mị. Mị thổi sáo giỏi… Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Hồi tưởng lại mùa xuân đẹp thời con gái, điều đó cho thấy Mị đã được thức tỉnh. Khát vọng sống như ngọn lửa đã bừng sáng tâm hồn Mị.
Mị “từ từ bước vào buồng”với tâm trạng “thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị được thức tỉnh, tự ý thức là mình “trẻ lắm”, “vẫn còn trẻ”. Mị khao khát “Mị muốn đi chơi”.
Khát vọng sống như ngọn lửa bừng cháy bao nhiêu Mị lại phẫn uất bấy nhiêu! Phẫn uất và đau khổ cho thân phận và số phận trớ trêu đầy bi kịch. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. A Sử với Mị “không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!”. Không thể cam chịu mãi kiếp con dâu gạt nợ. Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay!
Uất ức, nước mắt Mị ứa ra, khi tiếng sáo gọi bạn yêu “vẫn lững lờ bay ngoài đường”. Tâm hồn Mị diễn biến phức tạp trong quá trình thức tỉnh, nổi loạn. Mị đang sống trong nghịch lý giữa thân phận con dâu gạt nợ và niềm phơi phới muốn đi chơi Tết. Liệu Mị có dám phá tung và cắt đứt sợi dây oan nghiệt đang thít chặt lấy số phận, thân phận mình để đến với những cuộc chơi cùng với tiếng sáo gọi bạn yêu?
Mị vào buồng lần này không phải để nhìn qua “cái lỗ vuông” để nghĩ đến cái chết, mà Mị đã hành động một cách mạnh mẽ, ngang nhiên trước mặt A Sử khi hắn xuất hiện bất ngờ trong buồng. A Sử thay áo mới, khoác thêm hai vòng bạc… để đi chơi rình bắt gái đem về làm vợ. Mị cũng chuẩn bị đi chơi Tết. Như thách thức. Mị đã hành động.
Xắn thêm miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Quấn lại tóc. Với tay lấy cái váy hoa. Rút thêm cái áo. A Sử nhìn Mị, Mị “cũng không nói” hay không thèm nói? Hàng loạt hành động “nổi loạn” của Mị diễn ra liên tiếp khi tiếng sáo đang “rập rờn” trong đầu Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình như đem đến cho Mị một sức mạnh mới, khơi gợi lòng khao khát yêu đương và hạnh phúc. Khi Mị với tay lấy váy hoa… là Mị thực sự được thức tỉnh, được sống lại thời con gái với bao ước mơ đẹp.
Sự phản kháng của Mị phải trả giá nặng nề. Chỉ sau một câu hỏi: “Mày muốn đi chơi à? Thằng A Sử độc ác đã trói Mị vào cột nhà bằng một thúng sợi đay. Hai tay Mị bị trói bằng dây thắt lưng, tóc Mị quấn lên cột, Mị “không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. Thể hiện diễn biến tâm trạng và hành động Mị trong cảnh Mị bị trói trong đêm tình mùa xuân, ngòi bút nghệ thuật của Tô Hoài như đã “nhập hồn” vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị “đứng im lặng”. Hơi rượu còn như nâng đỡ tâm hồn Mị.
Quên đau khổ, đau đớn thực tại, Mị “vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo cuộc chơi,những đám chơi”. Mị vùng bước đi, lòng “bồi hồi” theo tiếng sáo: “Em không yêu, quả pao rơi rồi – Em yêu người em bắt pao nào…”. Mị lại trở lại thực tại đau đớn, khổ nhục “tay chân đầu không cựa được”.
Bị trói đứng suốt đêm, Mị “bàng hoàng tỉnh” lúc trời sáng. Chỉ nghe tiếng lửa réo – Không một tiếng động – Mị nghĩ đến các vợ chú, thương những người đàn bà “khốn khổ sa vào nhà quan”; thương người đàn bà nọ bị chồng trói chết trong nhà thống lí. Mị vừa thương mình, vừa thương người, thương cho thân phận những người đàn bà ở Hồng Ngài “một đời con người chỉ biết đi theo con ngựa của chồng”. Mị sợ hãi “cựa quậy” xem mình còn sống hay chết. Dây trói siết lại “đau dứt từng mảnh thịt”.
Nhờ một sự tình cờ mà Mị thoát chết trong đêm hãi hùng đó. Đoạn văn đêm tình mùa xuân có 3 cảnh. Cảnh Mị ngồi nhẩm thầm tiếng sáo và lén uống rượu ừng ực từng bát. Cảnh Mị chuẩn bị váy áo đi chơi. Cảnh Mị bị A Sử trói đứng suốt đêm trong buồng. Cảnh nào, chi tiết nào cũng sinh động, điển hình cho bi kịch của Mị, của người con dâu gạt nợ.
Đoạn văn đêm tình mùa xuân thể hiện ngòi bút kể chuyện cảm động, phân tích diễn biến tâm trạng và hành động nhân vật một cách tinh tế, sâu sắc. Tiếng sáo gọi bạn tình được Tô Hoài nhắc đi nhắc lại 13 lần đầy ám ảnh, như thức tỉnh, như lay gọi, như vỗ về niềm khao khát đi chơi Tết, khao khát được sống trong tình yêu và mùa xuân của người con dâu gạt nợ.
Sự “nổi loạn” của Mị cho thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị mà máu và sự dã man không thể nào vùi dập được! Đêm tình mùa xuân thấm đẫm tính nhân vãn, Nó đã góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị. Nó đã thể hiện một cách xúc động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện “Vợ chồng A Phủ”.

Xem thêm:
- Top 15 mẫu phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị chi tiết nhất
- Top 20 mẫu phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân chi tiết nhất
- Top 10 mẫu phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa đông chi tiết nhất
- Top 10 phân tích cảnh Mị cởi trói cho A Phủ chi tiết nhất
- Top 10 mẫu phân tích nhân vật mị trong đêm đông cứu A Phủ chi tiết nhất
Số 3: Phân tích nhân vật Mị tóm tắt
Mị trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra là một cô gái xinh đẹp và tài hoa. Mị có một tình yêu trong sáng. Cô gái chăm chỉ, cần cù, hiếu hạnh, khát khao được sống tự do, không tham cuộc sống sang giàu, rất ý thức về nhân cách của mình. Một đêm khuya Mị nghe tiếng gõ vách, Mị hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên thì gặp hai ngón tay lách vào khe gỗ, Mị bị bắt cóc về làm dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra để trừ số nợ bố mẹ từ ngày bố mẹ Mị lấy nhau mượn nhà hắn. Họ nhốt Mị vào buồng, cúng ma làm dâu. Mị lâm vào một tình cảnh éo le, bất hạnh, bị tròng bởi dây trói “con nợ bắt buộc” và “con dâu bị ép buộc”.
Những ngày đầu làm dâu Mị buồn tủi, đau khổ, rất đơn độc và thấm thía nỗi đau của một người con gái bị cướp đoạt. Mị đã trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra, định tìm cái chết để tự giải thoát mình nhưng vì lòng hiếu thảo, thương bố nên Mị đã cố gắng chịu đựng, dũng cảm quay trở về nhà thống lí. Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Mị sống lầm lũi, âm thầm, trở thành người nô lệ cam chịu, nhẫn nhục đến mức tê liệt cả ý thức, buông xuôi, phó mặc cho hoàn cảnh. Mị sống cuộc sống lặng lẽ, âm thầm, không sinh khí với những dấu hiệu sự sống mất dần trong cô: không nói, không cười, không nhớ, chỉ buồn rười rượi,… Hồng Ngài năm ấy ăn tết muộn vào lúc gió và rét rất dữ dội. Tiếng sáo đã thức tỉnh tâm hồn, sức sống của Mị.
Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa ở phía trong vách. Mị bị A Sử đàn áp thô bạo. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng một con ngựa… Sáng tỉnh dậy, Mị cảm giác sợ và đau đớn khi nghĩ về thân phận mình. Nhìn những giọt nước mắt của A Phủ, Mị xúc động thấy thương cho A Phủ và nhớ lại nỗi đau chính mình. Sức sống cùng sự đánh thức tâm hồn, lòng thương người cùng cảnh ngộ đã giúp Mị vượt qua nỗi sợ, Mị quyết định cởi dây trói cho A Phủ và tự giải thoát mình.
Số 4: Phân tích tóm tắt nhân vật Mị
Truyện “Vợ chồng A Phủ” được trích trong tập Tây Bắc là câu chuyện tiêu biểu và mang nhiều giá trị tư tưởng lớn. Trong truyện, tác giả gửi gắm trọn vẹn nhất những tình cảm của mình vào nhân vật Mị, một cô gái đại diện cho vẻ đẹp và phẩm chất con người Tây Bắc.
Mị vốn là một người con gái tuổi đôi mươi của núi rừng Tây Bắc xinh đẹp và có tài thổi lá kèn hay như thổi sáo, được nhiều thanh niên trong làng mến mộ. Sức hấp dẫn của Mị tựa như những bông hoa rừng Tây Bắc đầy mê hoặc. Vào những đêm tình mùa xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị. Không chỉ xinh đẹp, ở nàng còn hội tụ những phẩm chất đẹp đẽ, đó là người con gái hiếu thảo với cha mẹ lại chăm chỉ trong công việc. Cuốc nương, làm rẫy Mị đều thuần thục.
Một cô gái tài sắc vẹn toàn như Mị xứng đáng được yêu thương, được hạnh phúc, nhưng Mị lại gặp phải hoàn cảnh trớ trêu. Bọn phong kiến tàn bạo đã khiến gia đình Mị lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, gánh nặng phải trả nợ đè nặng lên đôi vai cô gái bé nhỏ. Song, chưa bao giờ Mị muốn phải bán mình để trả nợ, nàng cầu xin bố đừng bán cho nhà giàu, cô sẽ chăm chỉ làm nương, cuốc rẫy giúp bố trả nợ.
Nhưng xã hội cường quyền lại không cho phép Mị sống cuộc đời tự do ấy. Cuộc đời Mị phải chịu sự quyết định của kẻ khác, cuối cùng cô phải bán mình, bước chân vào nhà tên thống lí Pá Tra tàn ác chịu phận nô lệ trên danh nghĩa làm dâu xoá nợ. Một cô gái sẵn sàng hi sinh bản thân để cứu lấy cha mẹ, cứu lấy gia đình chứng tỏ Mị là cô gái hết mực hiếu thảo, yêu thương cha mẹ mình. Mị khát khao tự do, ý thức được nhân phẩm và giá trị bản thân nhưng cường quyền của chế độ phong kiến thối nát đã trói buộc cuộc đời cô.
Về làm dâu nhà Pá Tra, Mị phải âm thầm chịu đựng bao nỗi bất công, thời gian đầu, đêm nào Mị cũng khóc thương cho số phận, cho cảnh hẩm hiu của đời mình, nàng đã bỏ hết tất thảy để tìm đến cái chết bằng nắm lá ngón để giải thoát những uất ức, khổ đau kìm nén bấy lâu. Nhưng khi nghĩ về cha, thương cha nàng lại không đành lòng, đành phó mặc cuộc sống, chấp nhận cuộc đời cơ cực với kiếp nô lệ đau thương của mình.
Trong nhà tên A Sử, Mị chịu bao nỗi đau thể xác và tinh thần, Mị khổ cực hơn cả trâu cả ngựa, công việc làm triền miên ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác chẳng nghỉ ngơi. Mị như một cái máy gắn bó với công việc từ hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay đến đi bẻ ngô, gánh nước, kiếm củi,…, không việc nào là không tới tay Mị.
Thể xác bị bóc lột, tinh thần Mị cũng không sướng là bao, nàng suốt ngày “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, tinh thần bị tê liệt đến đau khổ, Mị ngày càng ít nói, câm lặng hơn, chẳng còn nhận thức về thời gian và cuộc sống ngoài kia. “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Dường như tuổi xuân của nàng bị khoá chặt trong ngôi nhà đó. Nàng ngày càng trở nên vô cảm.
Song, ẩn sâu trong con người Mị là một sức sống tiềm tàng không gì có thể ngăn nổi. Khi mùa xuân đến, không khí vui xuân ngày hội nơi bản làng Tây Bắc thật đẹp, thật tươi, khiến Mị bồi hồi nhớ lại những quá khứ tươi đẹp ngày xưa. Rượu và tiếng sáo rủ bạn tình khiến tâm hồn tươi trẻ của Mị như có dịp trỗi dậy, lòng Mị rạo rực sức sống mùa xuân “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”.
Từ niềm rạo rực, phấn chấn ấy đã thôi thúc Mị hành động dứt khoát và quyết liệt vô cùng. Cô lấy ống mỡ bỏ thêm vào đĩa dầu để thắp đèn, thắp lên thứ ánh sáng xua tan đi bóng tối rợn ngợp bao trùm, xua tan màn đêm bấy lâu vây quanh cuộc đời Mị, nhen nhóm ngọn lửa hy vọng cho cuộc đời chính mình. Rồi Mị “quấn tóc lại với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”, Mị muốn được là mình, được là một cô gái đẹp đẽ như bao người con gái khác trong đêm mùa xuân ấy.
Trong lúc sức trẻ đang trỗi dậy, lòng yêu đời đang sung sức với Mị thì thực tại phũ phàng đã nhẫn tâm vùi dập niềm yêu ấy. A Sử khi biết lòng Mị muốn đi chơi, hắn đã chặn đứng ngay ý định đó. Hắn trói vợ vào cột nhà bằng một thúng sợi đay, quấn lấy mái tóc dài của Mị lên cột khiến cô đau đớn không thể cử động được. Nhưng thể xác dù bị trói buộc, bị hành hạ vẫn không thể trói lấy tâm hồn đang thiết tha cuộc sống của nàng, khát vọng sống vẫn âm ỉ cháy trong con người Mị.
Hành động mãnh liệt nhất của cô là cắt dây trói cho A Phủ. Trong cơn đau đớn, Mị xót xa cho phận mình, thương cảm cho phận người, đó là sự đồng cảm với những kiếp người cùng chung số phận. Chính giọt nước mắt của A Phủ đã thức tỉnh Mị, hồi sinh trái tim đầy những vết sẹo đau thương. Mị quyết định cùng A Phủ chạy trốn. Giải thoát cuộc đời mình khỏi những sức mạnh tàn bạo của cường quyền, của bọn thống lí thiếu tình người, đồng thời chấm dứt cuộc đời nô lệ tăm tối, thương đau của chính mình.

Số 5: Tóm tắt nhân vật Mị
Cha mẹ Mị lấy nhau thiếu tiền nên phải vay nhà thống lí. Sau này khi Mị lớn lên xinh đẹp đã bị A Sử – con trai thống lí Pá Tra bắt về trình ma làm dâu gạt nợ. Mị đau khổ, tìm cách tự vẫn nhưng được cha can ngăn nên tiếp tục sống như một cái xác không hồn, hằng ngày làm việc như một cỗ máy, một người ở. Trong đêm tình mùa xuân, Mị uống rượu say và nhớ về những ngày còn tự do. Mị tính đi chơi thì bị A Sử đàn áp. Mị được một người phụ nữ trong nhà cởi trói để đi hái thuốc và chăm sóc chồng khi hắn bị A Phủ đánh. Một thời gian sau, A Phủ làm mất bò nhà thống lí bị bắt trói ở góc nhà và bỏ đói, Mị nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, thương tâm nên cắt dây cởi trói và chạy theo A Phủ đến Phiềng Sa, sau này đi theo Cách mạng.
Số 6: Tóm tắt nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ
Tô Hoài một nhà văn tài năng với tấm lòng nhân hậu và trái tim nóng bỏng của mình tất cả đã kết tinh lại thành kiệt tác Vợ chồng A Phủ (1952). Vợ chồng A Phủ là câu chuyện về những người lao động vùng cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối đã vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do.
Cảm hứng để nhà văn viết tác phẩm bất hủ này chính là từ một hiện thực đặc biệt đó là khi bộ đội giải phóng tới đâu, nhà văn Tô Hoài khoác ba lô đi thực tế tới đó, sống và gắn bó máu thịt với nhân dân ông chứng kiến một hiện thực vô cùng xúc động đó là đồng bào các dân tộc Tây Bắc bị giai cấp thống trị miền núi là “thống lý”: tước đoạt tài sản, dùng cường quyền và thần quyền để bóc lột sức lao động, họ bị giai cấp thống trị xúc phạm nhân phẩm, coi như súc vật. Chính vì thế họ rất yêu cách mạng và làm cách mạng rất nhiệt tình. Những sự kiện này tác động vào sâu thẳm trái tim giàu lòng nhân hậu yêu thương của Tô Hoài để trào dâng cảm xúc mãnh liệt vỡ òa ra những trang văn xúc động trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”.
Hệ thống nhân vật mà Tô Hoài xây dựng nên chính là những nhân vật tiêu biểu cho cả một giai cấp, thống lý Pá Tra tên địa chủ tiêu biểu cho cả bộ mặt giai cấp thống trị cầm quyền tuyến nhân vật đi song song đại diện cho giai cấp nông dân phải chịu áp bức bóc lột ấy là nhân vật Mị và A Phủ. Mỗi một tuyến nhân vật đều có vai trò và chức năng riêng của nó để làm nổi bật nội dung ý nghĩa của tác phẩm. Bên cạnh nhân vật Mị tấy giàu giá trị nhân đạo Tô Hoài xây dựng song hành nhân vật A Phủ, cũng tiêu biểu cho người lao động miền núi bị giai cấp thống trị dùng cường quyền, thần quyền áp chế, vùi dập, cướp đi quyền sống vì thế đây cũng là nhân vật mà Tô Hoài gửi gắm nhiều giá trị nhân văn sâu sắc.
A Phủ được tác giả miêu rả có hoàn cảnh đầy đau thương, bất hạnh là mồ côi cha mẹ từ nhỏ. A Phủ có sức mạnh tiềm tàng để sống sót duy nhất trong một nạn dịch bệnh, từ đó chàng lớn lên như cái cây hoang dã trên núi rừng Tây Bắc. Mặc dù vậy nhưng A Phủ được nhà văn yêu thương xây dựng với tính cách đẹp, phong phú sinh động. Khi A Phủ sống bơ vơ một mình, năm làng đói lúc A Phủ mới 10 tuổi có người làng bắt xuống vùng thấp đổi lấy thóc, A Phủ không chịu lại chạy lên núi cao chứng tỏ nhà văn muốn giới thiệu đây là một nhân vật có tính cách thích sống tự do và gan góc. Hơn thế nữa khi lớn lên A Phủ chạy “nhanh như ngựa” thể hiện vẻ đẹp khỏe mạnh cường tráng, nhanh nhẹn, hoạt bát. A Phủ là một chàng trai yêu lao động, chăm chỉ thông minh sáng tạo chàng biết cày và cày rất giỏi, chàng còn tự học biết cách đúc cày.
Mặc dù vậy biết hoàn cảnh nghèo không có tiền bạc để cưới vợ nhưng A Phủ vẫn cùng trai làng làm quay, khèn, sáo, quả pao, quả yến…đến các bản làng để tìm người yêu chứng tỏ tác giả ca ngợi vẻ đẹp tài hoa khéo léo và khát vọng tình yêu, hạnh phúc dâng trào mãnh liệt trong trái tim tuổi trẻ của người con trai miền núi. Tô Hoài cảm hứng ngợi ca nhân vật A Phủ một thanh niên nông dân miền núi Tây Bắc hội tụ toàn vẹn bao vẻ đẹp tính cách, xứng đáng được hưởng cuộc sống hạnh phúc ở đời, thế nhưng xã hội không bao giờ mỉm cười với ai mặc dù A Phủ lớn lên như một cây hoang dã của núi rừng, thế mà vẫn không tránh khỏi bàn tay của cha con thống lý Pá Tra, chúng đã dùng cường quyền và thần quyền để những con dao độc ác chặt phũ phàng đứt ngang cuộc đời A Phủ để tại nên số phận bất hạnh biến A Phủ thành người ở làm công gạt nợ nhà thống lý Pá Tra.
Một biệt tài của Tô Hoài được thể hiện trong kiệt tác của mình chính là việc nhà văn đã miêu tả số phận của nhân vật rất tài tình, làm nổi bật lên cái số phận đau thương,bi ai của A Phủ bằng cả trái tim chan chứa lòng nhân đạo với sự đồng cảm, sẻ chia, sự trân trọng khát vọng sống, sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Tất cả được tập trung vào các chi tiết, tình tiết nghệ thuật đặc sắc đó là cuộc gặp gỡ giữa A Phủ với A Sử, cuộc xử kiện, lời tuyên phạt và cuộc đời làm công. Thứ nhất là cuộc đánh nhau ( chi tiết A Phủ đánh A Sử) bản chất cuộc va chạm này là A Phủ thực hiện công lý chính nghĩa trong cuộc sống “giữa đường thấy việc bất bình chẳng tha”, A Sử và đám trai nhà giàu hành động xấu, ác phá tan đêm tình mùa xuân đẹp và đắm say.
Nhưng kết cục A Phủ bị quân của thống lý Pá Tra bắt về sử kiện. Chi tiết cuộc xử kiện hiện lên tàn bạo khủng khiếp như thời trung cổ vô cùng ghê rợn chỉ có ba hành động: tầng lớp thống trị thì “càng hút” thuốc phiện, A Phủ thì bị quỳ giữa nhà và bị đánh liên tiếp, bị chửi suốt từ chiều đến hết đêm và sáng hôm sau: “ càng hút, càng chửi, càng đánh” sử kiện thật quái đản và bất công vô lý, thực chất là tội ác của giai cấp thống trị và người dân nghèo thấp cổ bé họng bị chà đạp, áp chế và hỷ diệt khiến bao người đọc ngậm ngùi vừa căm thù uất hận lũ người ác, vừa thương cảm xót xa cho số phận những người nghèo trong xã hội cũ. Số phận người nông dân nghèo khổ như A Phủ từ lời tuyên phạt tàn ác, xảo quyệt của thống lý Pá Tra thì chính đó cuộc đời A Phủ như có dây chói thiết chặt, biến A Phủ thành nô lệ.
Cuộc đời làm nô lệ của A Phủ bị bóc lột sức lao động đến tận xương tủy và bị xúc phạm nhân phẩm bị coi là rơm rác suốt cuộc đời sau đó A Phủ phải ở ngoài rừng chăn trâu, bò, ngựa cho nhà thống lý. Chính vì bị bóc lột đến kiệt quệ mà A Phủ dần tê liệt tâm hồn không nhớ quá khứ không về làng bên chơi với các bạn cũ nữa không biết hiện tại buồn khổ cô đơn đến đỉnh điểm, chẳng mơ đến tương lai. Bước ngoặt thay đổi cuộc đời A Phủ đó là bị mấy bò do hổ vồ bị thống lý bắt đào hố chôn cọc để đứng vào cho nó trói suốt mấy ngày đêm mùa đông giá rét.
Đây chính là chi tiết ấn tượng nhất phản quang tội ác tày trời của giai cấp thống trị trong xã hội xưa, đồng thời da diết nói lên nỗi niềm đau khổ nhất của con người nghèo khổ bị áp chế, vùi dập, cưới đi quyền sống. Nhưng nhà văn Tô Hoài đã không để cho những tấm lòng lương thiện, nhân hậu ấy bị vùi dập phũ phàng ông đã để cho nhân vật của mình có cơ hội thể hiện được sức sống tiềm tàng của chính mình và dùng nó để vượt lên mọi hoàn cảnh. Kết thúc truyện khi Tô Hoài để ánh sáng cách mạng soi đường cho cuộc đời của A Phủ và trở thành một người cách mạng giỏi có được hạnh phúc suốt đời.
Như vậy hình tượng nhân vật A Phủ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ đã phản ánh được giá trị nhân đạo, nhân văn mà tác giả muốn gửi gắm. Một nhân vật tiêu biểu cho một cộng đồng dân tộc thiểu số ở vùng cao đang bị đày đọa chịu một cuộc sống gian khổ nhưng những con người ấy không chịu khuất phục và vượt qua tất cả bằng sức sống tiềm tàng mãnh liệt.

Số 7: Phân tích nhân vật Mị tóm tắt
Tô Hoài là một trong những tấm gương sáng về tinh thần lao động sáng tạo, về công phu rèn luyện tay nghề của một người viết văn xuôi ở Việt Nam.
Ông đã có hơn nữa thế kỷ cầm bút. Ông đã được chủ tịch nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I -1996). Nhà văn đã gửi đến chúng ta một khối lượng tác phẩm nhiều đến mức đáng khâm phục: hơn 100 quyển sách với nhiều thể loại khác nhau. Tuy nhiên những trang viết thực sự đạt chất lượng cao của cây bút này thể hiện ở ba mảng đề: đề tài miền núi Tây Bắc, đề tài vùng quê thành Hà Nội và các đề tài dành cho thiếu nhi. Chỉ xét riêng về đề tài miền núi Tây Bắc, truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ trong tập truyện Tây Bắc (1953) là một thành tựu nổi bật của Tô Hoài. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công xuất sắc hình tượng nhân vật Mị, đặc biệt là đoạn cô bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra đến khi trốn khỏi Hồng Ngài.
Trước hết, chúng ta thấy Mị là một cô gái con nhà nghèo, xinh đẹp, ham sống, có đời sống tinh thần phong phú. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị không có đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lý, bố của Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả được nợ. Người vợ chết rồi cũng chưa trả hết nợ. Nhưng đó không phải là lý do để các chàng trai tốt bụng xà Mị. Trái lại, đến tuổi yêu đương, Mị được nhiều chàng trai mê say vì sắc đẹp. vì phẩm hạnh, suốt đêm đứng thổi sáo xung quanh vách hoặc thổi sáo đi theo Mị. Và bản thân Mị cũng thổi sáo giỏi, hát hay. Mỗi khi tiếng sáo vọng lại, lòng Mị cũng thiết tha bổi hổi rồi ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Mặc dù ham sống như thế nhưng có lúc Mị muốn tự kết liễu cuộc đời mình trong lần trốn về nhà bố. Thật ra, vì ham sống nên Mị không chấp nhận kiếp sống tủi nhục, chết ngay trong cõi sống. Nhưng với Mị, thời điểm ấy, cái chết là phương tiện để giải thoát chứ không phải là mục đích của Mị.
Mặt khác, Mị là cô gái sớm gặp bất hạnh, đau khổ đến cùng cực đồng thời còn là một nạn nhân của sự đầu độc, áp chế về tinh thần. Vào một đêm khuya, Mị nghe tiếng gõ vách mà cứ ngỡ là tiếng hò hẹn của người yêu, Mị bèn nhấc tấm vách gỗ thì bị A Sử bắt về làm vợ, làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Bao nhiêu mộng đẹp của lứa tuổi xuân thì mơn mởn bị chôn vùi. Sự trinh trắng của người con gái bị A Sử cướp đoạt. Mị đau buồn có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Mị đã hái lá ngón ở trong rừng, giấu trong áo rồi trốn về nhà lạy chào cha lần cuối để tự tử.
Nghe lời than vãn, phân trần của người cha ốm yếu, Mị không đành chết bởi lẽ Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa. cho nên, Mị đành phải trở lại nhà thống lý để làm nô lệ. Mị bị giày xéo bị chà đạp gần như chỉ còn là công cụ biết nói: Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa (…) Mị cúi mặt không nghĩ ngợi nữa. Mị bị cướp đoạt công sức một cách tàn nhẫn : con ngựa con trâu làm có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. đàn bà con gái trong nhà này thì vùi vào làm việc cả ngày lẫn đêm. dường như Mị bị chai lì mọi cảm giác đến mất cả đời sống ý thức: mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng trăng trắng không biết là sương hay nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.
Sở dĩ Mị an phận như thế là do bọn thống lý Pá Tra đã đưa vào đầu óc cô những tư tưởng mê tín dị đoan khá cay độc.Ở dân tộc H’mông thời trước có những hủ tục: người con gái khi bị “trình ma” thì coi như cuộc đời trở nên đen tối từ lúc ấy: nếu chẳng may chồng chết thì người ấy phải làm vợ người khác trong nhà, có khi là một người anh chồng già lụ khụ, có khi là một người em chồng còn ở tuổi trẻ con. Và nếu chồng lại chết, lại vẫn phải ở với người đàn ông khác trong nhà ấy! . (Tô Hoài – cảm nghĩ về truyện Vợ chồng A Phủ). Do đó, Mị đã tin một cách tuyệt đối : ta là thân đàn bà, nó đã bắt tâ về trình ma nhà nó rồi thì chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi.
Thế nhưng, Mị là một cô gái có sức sống tiềm tàng, một khao khát tự do, hạnh phúc mãnh liệt. không có sự bạo tàn nào vùi dập, trói buộc nổi, nhất là khi được ngoại cảnh tác động. khi mùa xuân tràn về các làng Mèo, trai gái tụ tập bên nhau nô đùa, nhảy múa, thổi sáo gọi bạn tình, Mị đã sống lại những chuỗi ngày tự do. Ngồi trong căn phòng tăm tối, Mị lén uống rượu uống ừng ực từng bát mà bên tai vẫn văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng. dù chẳng năm nào A Sử cho cô đi chơi tết, nhưng cô rất khao khát được đi như bao cô gái khác cùng trang lứa. Hành động của Mị góc nhà lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng, chứng tỏ cô không cam chịu bóng tối ngột ngạt, u ám của kiếp nô lệ phong kiến. trong phút giây, Mị đã quên đi cảnh ngộ thực tại để hành động theo tiếng gọi giục giã , tha thiết, rạo rực, cháy bỏng từ trái tim khát khao hạnh phúc, tình yêu của bản thân mình, Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách chuẩn bị đi chơi.
Bất ngờ, A Sử đã tàn nhẫn trói đứng cô vào cột nhà, quấn luôn tóc trên cột. Nhưng cái kiểu trói thời trung cổ ấy của A Sử vẫn không dập tắt được lòng ham sống vẫn âm ỉ, tiềm tàng trong tâm hồn Mị. Tiếng sáo du dương trầm bổng, tượng trưng cho sức sống mùa xuân của tuổi trẻ mạnh đến nỗi tuy Mị bị trói nhưng vẫn không biết mình đang bị trói. tiếng sáo đã đưa cô đi theo những cuộc chơi, những đám chơi, và Mị cố vùng bước đi trong cảnh bi thảm: tay chân đau không cựa được. Tuy cả đêm ấy Mị phải trói đứng, khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức nhưng trong lòng cô vẫn nồng nàn tha thiết nhớ cuộc vui.
Thật dữ dội làm sao cái sức sống ấy đặc biệt hình ảnh a Phủ bị trói đứng một lần nữa lại đánh thức nơi Mị nỗi tủi nhục của than phận “không bằng con ngựa” của mình đồng thời khơi dậy lòng trắc ẩn tiềm tàng trong cô. A Phủ là một chàng trai tràn trề sinh lực, lao động giỏi, con nhà nghèo, bố mẹ chết sớm, lưu lạc đến Hồng Ngài làm thuê, do cùng bọn con trai làng sinh sự đánh nhau với A Sử vào dịp chơi tết. A Phủ bị “bắt sống, trói gô chân tay lại” khiêng về nhà Thống lý. Từ đó, anh phải đi ở trừ nợ cho nhà Pá Tra. Trong một lần chăn bò, chẳng may hổ ăn thịt mất một con bò, Pá Tra đẩy A Phủ vào cột, hai tay bắt ôm quặt lên. Rồi dây mây quấn từ chân lên vai, sang hôm sau Pá Tra quẳng thêm một vòng thòng lọng vào cổ.
Thế là A Phủ không cúi, không còn lúc lắc được nữa”. Nhìn cảnh ngộ A Phủ lúc đầu, Mị hãy còn thái độ thản nhiên, sau đó, trông thấy thứ ngôn ngữ câm lặng phát ra từ dòng nước mắt của A Phủ, cô xúc động, thương cảm và đồng cảm với anh. Đồng thời, giọt nước mắt ấy như tiếng gọi thiêng liêng của tính giai cấp và ý thức phản kháng đối với Mị: Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sang lên, Mị lé mắt trông sang, thấy mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị , Mị cũng phải trói đứng như thế kia. Nhiều lần hóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác.
Cỡ chừng này là đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Vì thế, Mị liền hành động một cách táo bạo, “phiến loạn” quyết liệt. Cô cởi trói cho A Phủ rồi cùng anh bỏ trốn khỏi Hồng Ngài, chạy sang Phiền Sa: Lúc ấy, trong cảnh nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng A Phủ đương biết có người bước lại. Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phì từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng :”đi ngay…” rồi Mị nghẹn lại, A Phủ bỗng khụy xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy. Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm, nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy (…) và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. “Nhân chi sơ tính bổn thiện”. Hành động trên đây có xuất phát từ tấm lòng “thương người như thể thương thân “, từ sự thôi thúc cấp bách của cảnh ngộ hiện tại, từ tiếng gọi thiêng liêng, bất tử của cuộc sống độc lập – tự do. Cô cởi trói cho A Phủ cũng là từ cởi trói xiềng xích đang đè nặng lên chính cuộc đời của mình, Cứu A Phủ là Mị đã cứu mình một lúc vượt qua hai tầng địa ngục đày đọa con người một cách dã man: tầng địa ngục phong kiến và tầng tầng địa ngục mê tín – thần quyền. Thật đáng biểu dương làm sao cho hình ảnh hai con người trẻ tuổi, nhựa sống mãnh liệt bị phong kiến trói đứng rồi vùng dậy một cách quyết liệt bị phong kiến trói đứng rồi vùng dậy một cách quyết liệt, bật tung như quả bom to đang ra sức tung phá giữa khu vực cần phải hủy diệt. Đúng như một nhà nghiên cứu văn học đã nhận xét: Không ai trói buộc được sự sống, kìm hãm được sự sống. Tóm lại, Mị là một hình tượng nhân vật phụ nữ có tính chất điển hình cho mảng truyện viết về đề tài miền núi Tây Bắc dưới ách phong kiến và thực dân đô hộ của nhà văn Tô Hoài nói riêng cũng như của dòng văn học Việt Nam giai đoạn 1945-4975 nói chung.
Qua hình tượng nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài đã miêu tả thực trạng cuộc sống bị áp bức, đề nén, chà đạp đến cùng cực, nhàu nát của số phận những con người nhỏ bé nơi miền núi cao Tây Bắc, tố cáo, vạch trần tội ác của bọn phong kiến nơi ấy đồng thời phát hiện nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người tập trung ngòi bút ngòi bút ngợi ca sức sống tiềm tàng của họ. Đó cũng chính là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo toát lên từ nhân vật trung tâm của thiên truyện hấp dẫn này.
Số 8: Phân tích tóm tắt nhân vật Mị
Tô Hoài là một trong những cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam. Ông viết trên nhiều mảng đề tài và ở mảng nào Tô Hoài cũng chứng tỏ mình là bậc thầy trong miêu tả phong tục và nếp sinh hoạt của con người. Đằng sau những phong tục tập quán đó chúng ta còn thấy được số phận, điệu hồn, tính cách của mỗi người dân Việt Nam.
Vợ chồng A Phủ có thể coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Đằng sau những trang văn phong tục là cuộc đời đầy bất hạnh, đau khổ của Mị, nhưng đồng thời trong cô còn có sức sống tiềm tàng mãnh liệt.
Mị là nhân vật trung tâm trong tác phẩm, bởi vậy sự xuất hiện của nhân vật được chuẩn bị hết sức kĩ lưỡng. Mở đầu tác phẩm là sự xuất hiện của Mị gắn liền với những công việc lặp đi lặp lại, cùng với khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi. Chi tiết này đã hé mở cho chúng ta thấy cả một thế giới nội tâm đầy đau khổ, bất hạnh. Rồi ngòi bút của Tô Hoài ngược về quá khứ, để cho người đọc thấy được một Mị – người con gái trẻ trung, xinh đẹp và rất tài năng.
Tiếng sáo của Mị đã khiến cho biết bao chàng trai xao xuyến đi theo. Không chỉ vậy Mị còn là cô gái yêu lao động, yêu tự do, nhất định muốn lao động để trả nợ chứ không chịu làm con dâu gạt nợ. Ở Mị hội tụ đầy đủ những phẩm chất đẹp đẽ để được sống cuộc đời hạnh phúc song do các thế lực thần quyền chà đạp, đàn áp mà cuộc đời của cô vô cùng bất hạnh, đáng thương.
Mị là hiện thân cho những đau khổ bất hạnh của người phụ nữ miền núi. Cô làm việc triền miên, hơn cả trâu ngựa trong nhà. Công việc trở thành nỗi ám ảnh khiến Mị không thể nghĩ đến bất cứ điều gì, Mị bị bóc lột nặng nề về thể xác. Không chỉ vậy cô còn bị giam hãm trong căn phòng nhỏ mà chỉ có một ô cửa sổ bé bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng.
Không chỉ vậy cô còn bị bóc lột về tinh thần, lấy A Phủ về nhưng chưa bao giờ Mị được làm người vợ thực sự, bởi A Sử vẫn đi lấy những người khác, sẵn sàng trói đứng Mị mà không hề thương tiếc. Ngoài ra, Mị còn bị áp chế về thần quyền, đây là thế lực vô hình như lại có sức áp chế vô cùng khủng khiếp.
Khi Mị đã bị cúng trình ma, Mị tin rằng cả đời mình sẽ không thoát khỏi nơi đây nên Mị lầm lũi sống qua ngày, chờ cho đến lúc chết. Sự áp chết nặng nề cả về thể xác và tinh thần, từ cường quyền đến thần quyền đã đẩy Mị từ cô gái trẻ trung giàu sức sống trở thành một cô gái tội nghiệp, đáng thương. Điều đó là lời tố cáo đanh thép nhất với bọn cầm quyền phong kiến đương thời.
Nhưng liệu Mị đã mất đi hoàn toàn sự phản kháng, mất đi hoàn toàn niềm tin, niềm hi vọng vào cuộc sống. Thực tế chỉ cần có những chất xúc tác phù hợp, đúng thời điểm thì niềm tin đó sẽ bùng lên mãnh liệt và biến thành hành động. Ẩn sâu trong Mị vẫn có khát vọng sống, nó được thể hiện trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cứu A Phủ.
Sức sống tiềm tàng của Mị trước hết thể hiện trong đêm tình mùa xuân. Mùa xuân là mùa của cây cối đâm chồi nảy lộc, mùa của yêu thương và nảy sinh sự sống. Lấy thời điểm này là hoàn toàn hợp lí. Tâm lí Mị chịu tác động mạnh mẽ bởi những màu sắc tươi đẹp, rực rỡ, những âm thanh tươi vui, rộn ràng của những đứa trẻ ngoài sân. Tất cả những yếu tố đó đã tác động tích cực đến tâm hồn Mị. Nhưng quan trọng nhất là sự tác động của men rượu và tiếng sáo gọi bạn tình.
Bản thân việc Mị uống rượu không lạ, vì ngày tết Mị cũng uống rượu như biết bao người khác. Nhưng cách uống lại hết sức bất thường, Mị uống ừng ực từng bát, như uống đi sự phẫn uất, nốt tủi hờn vào trong. Đồng thời chất men sẽ là chất xúc tác mạnh mẽ để Mị tiến hành cuộc nổi loạn, chối bỏ thực tại tìm về quá khứ. Và quan trọng nhất là âm thanh tiếng sáo, tiếng sáo xuất hiện từ xa đến gần, gợi nhắc Mị nhớ về một thời quá vãng tự do, hạnh phúc .
Cùng với hơi men và tiếng sáo, Mị chối bỏ thực tại, tìm về với khóa khứ, Mị lịm đi và nhớ về ngày trước, quá khứ tươi đẹp. Mặc dù vậy Mị vẫn đi vào buồng mà không đi ra ngoài đi chơi như những người khác. Nhưng chính lúc ấy tiếng sáo lại xuất hiện đầy hữu ý, đã thôi thúc Mị, để Mị mạnh mẽ chối bỏ thực tại từ bỏ cuộc sống hiện tại.
Mị bỏ ra ngoài, lấy ống mỡ xắn một miếng, thắp đèn lên cho sáng. Hành động thắp đèn của Mị còn cho thấy Mị đang tự thắp sáng mơ ước, hi vọng cho cuộc đời của chính mình. Mị khao khát được đi chơi, được ra ngoài như mọi người, Mị đã lấy váy và chuẩn bị đi thì Mị A Sử chặn đứng. Hắn nhẫn tâm trói đứng Mị vào cột nhà. Nhưng dù thể xác Mị bị trói nhưng tầm hồn cô đã phiêu diêu về một nơi khác, nơi cuộc sống hạnh phúc, và tự do của ngày trước.
Nếu như trong đêm tình mùa xuân Mị vẫn chưa thể tự cứu thoát được bản thân, thì trong đêm Đông cứu A Phủ, với sự trợ lực, tác động từ đối tượng khác, Mị không chỉ giải cứu người khác mà còn giải cứu được chính mình. Bằng ngòi bút vô cùng tinh tế Tô Hoài đã miêu tả vô cùng khéo léo và tài hoa quá trình tâm lí phức tạp ấy
Sau cuộc nổi loạn không thành lần trước, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái tê liệt về ý thức, bởi vậy, nhìn A Phủ bị trói đứng Mị cũng không hề có bất cứ phản ứng gì. Mị hằng đêm đốt củi sưởi ấm cho bản thân, và trong một lần Mị thấy giọt nước mắt xám đen bò dài trên má A Phủ. Giọt nước mắt đó có tác động vô cùng mạnh đến tinh thần Mị. Nó đánh động, giúp Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ, nhớ lại những đêm bản thân bị đánh, cũng từng khóc như vậy.
Trong cô bắt đầu xuất hiện sự cảm thương với người xung quanh: “Trời ơi! Nó bắt trói người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Đồng thời Mị thoát ra khỏi tình trạng mơ hồ, nhận thức rõ kẻ thù của mình: “Chúng nó thật độc ác”. Đây là bước đầu tiên nhen nhóm lên trong Mị ý thức phản kháng.
Mị nhớ về hoàn cảnh mình, so sánh tình cảnh của bản thân với A Phủ, “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi … Người kia việc gì mà phải chết thế”. Đồng thời bằng sự bản lĩnh, mạnh mẽ của mình, Mị đã lấy con dao cắt dây trói cho A Phủ. Hành động diễn ra nhanh chóng, bột phát xong lại rất logic, hợp lí, thể hiện tình yêu thương giữa con người với con người.
Sau cuộc nổi loạn lần thứ nhất giải cứu cho A Phủ, Mị thực hiện cuộc nổi loạn lần thứ hai – ngay sau đó, để giải cứu cho chính mình. Mị không chỉ cắt đứt sợi dây hữu hình đang trói buộc, giam cầm một người con trai khỏe mạnh thoát khỏi vòng nô lệ, mà còn cắt đứt sợi dây vô cùng trong tư tưởng, tinh thần đã bị nô lệ hóa của mình, đã trói buộc Mị trong một khoảng thời gian dài. Đêm tình mùa xuân nếu như mới khơi dậy khát vọng hạnh phúc, yêu thương thì đến đêm đông cứu A Phủ đã làm sáng lên khát vọng được tự do ở con người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn toàn.

Số 9: Tóm tắt nhân vật Mị
Vợ chồng A Phủ là tác phẩm nổi bậc nhất trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm kể về số phận đáng thương và cuộc sống vô cùng khắc nghiệt của Mị và A Phủ ở nhà thống lí Pá Tra chốn Hồng Ngài. Dù bị đày đọa đến kiệt quệ cả tinh thần lẫn thể xác nhưng nỗi khổ đau ở nhà thống lí không thể nào giết chết được sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong nhân vật Mị. Trong đêm tình mùa xuân năm ấy, sức sống ấy có dịp trỗi dậy mạnh mẽ.
Đoạn kể chuyện Mị ở Hồng Ngài là đoạn kể về quãng đời tối tăm, tủi nhục của cô. Mị vốn là một cô gái mèo xinh đẹp, tài hoa. Vừa Bước vào tuổi thiếu nữ, Mị đã phải gánh nặng trên vai một món nợ từ đời cha mẹ Mị. Cha con thống lí Pá Tra bắt về Mị làm dâu gạt nợ. Món nợ truyền kiếp của gia đình để cướp trắng tuổi thanh xuân dạt dào khát vọng của Mị.
Những năm tháng bị đọa đày dai dẳng trong cái địa ngục trần gian trong nhà thống lí, Mị gần như biến thành tảng đá vô tri. Mỗi ngày Mị không nói, lùi lũi như con rùa núp sau xó cửa. Lúc nào Mị cũng lầm lũi, mặt buồn rười rượi.
Mị bây giờ chỉ là cái xác vô hồn, một cỗ máy biết nói. Mị sống như thực chất chỉ là để kéo dài những ngày chưa được chết mà thôi. “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi còn nước dưới khe suối, cô cũng cúi, mặt buồn rười rượi”.
Cuộc sống với Mị chỉ là một màn sương mờ đục không dĩ vãng, hiện tại, tương lai. Phải chăng ngọn lửa sống trong lòng Mị đã lặng tắt, trái tim Mị đã chai sạn và tê liệt, tâm hồn Mị đã hoàn toàn nguội lạnh và an phận?
Mùa xuân đến, tất cả những gì tưởng chừng đã chết trong lòng Mị đều đã được hồi sinh. Mùa Xuân là mùa của cây cối đâm chồi nảy lộc, mùa hội hè đình đám, mùa gặp gỡ hẹn hò của lứa đôi. Mùa xuân đến với núi rừng Tây Bắc, đến với mảnh đất Hồng Ngài được tô hoài miêu tả bằng những câu văn rất lãng mạn.
Với Mị, mùa xuân còn là mùa gắn với bao kỉ niệm đẹp đẽ của thời trẻ tự do. Trong không khí núi rừng rạo rực vào xuân ấy, Mị nghe tiếng sáo từ xa vọng lại tha thiết, bồi hồi. Tiếng sáo là thứ âm thanh quen thuộc của núi khi hoa ban nở trắng núi rừng Tây Bắc. Đêm đêm trên núi cao tiếng sáo chính là tiếng lòng đắm say của trai gái mèo trao gửi bạn tình. Trong khoảnh khắc ấy, tiếng sáo đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn Mị.
Tiếng hát cất lên từ trái tim tưởng như cô càng, chai sạn của Mị. Mị trước đây sống không ý thức về thời gian, không gian, sự vật. Trước mặt Mị luôn là một màn sương trắng mờ đục. Giờ đây tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn ngủ yên và an phận của Mị. Tiếng sáo rung lên trong trái tim Mị. Những giai đoạn mở đầu của khát vọng được yêu, cái khát vọng bấy lâu nay được chôn chặt trong trái tim Mị.
Mị đã bừng tỉnh mọi cảm nhận về cuộc sống. Ý thức về cuộc sống đã trở lại trong Mị. Mị nhìn thấy, nghe thấy: trai gái, trẻ con ra sân chơi đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy. Nhà thống lí Pá Tra chiêng đánh ầm ĩ. Mị lén uống rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Đó có lẽ nào là cách uống của người thưởng xuân. Chắc chắn không vậy. Uống rượu thưởng xuân phải uống từ từ, từng bát một, nhấm nha, nhấm nháp để tận hưởng và đón nhận hương vị xuân. Đó là cách uống của người khát rượu, thèm rượu? Không đúng. Đã từ lâu Mị chẳng thèm khát gì.
Mị đang bứt mình ra khỏi cái ngục tù tăm tối để lần theo sợi dây quá khứ tìm về những ngày xưa hạnh phúc. Đúng trong khoảnh khắc ấy tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Tiếng sáo đã gọi dậy những kỉ niệm ngọt ngào của thời thiếu nữ. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mị uốn chiếc lá trên môi và thổi. Thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị.
Mị như lãng quên hiện tại, lãng quên cái thể xác đang vô cùng đau đớn. Người ta hát mà Mị không nghe, người ta nhảy mà Mị không thấy, rượu tan lúc nào Mị cũng chẳng hay. Chính quá khứ ngọt ngào đã thổi vào lòng những cảm xúc khiến Mị thấy phơi phới trở lại trong lòng một niềm vui sướng. Mị nhận ra mình còn trẻ lắm và muốn đi chơi. Lúc này ý thức về bản thân và quyền sống đã trỗi dậy. Nhưng cũng là lúc Mị nghĩ đến cái chết “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay”.
Đây cũng là lúc Mị thấy thía nhất cảnh ngộ cay đắng của hiện tại “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Hơn thế từ lâu lắm rồi, Mị tồn tại trong trạng thái gần như tê liệt “sống lâu trong cái khổ Mị cũng quen rồi. Mị cũng chẳng còn nghĩ đến chuyện ăn lá ngón tự tử nữa”. Vì thế trong phút giây thức tỉnh, Mị muốn chết.
Bởi hơn lúc nào hết, Mị cũng đang yêu tha thiết cuộc sống. Tiếng sáo trở lại song nó không còn lấp ló ngoài đầu núi, văng vẳng ngoài đầu làng mà lửng lơ bay ngoài đường. Tiếng sáo đã thôi thúc Mị đi đến hành động: xắn mỡ bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Hình ảnh ngọn đèn chính là ngọn lửa sống đang trỗi dậy mạnh mẽ trong lòng Mị. Mị ý thức được hoàn cảnh tối tăm và muốn thay đổ. Mị sửa soạn đi chơi: quấn tóc, lấy váy hoa.
Tất cả khẳng định đó chính là hành động của một tâm hồn ham sống đang bừng dậy mãnh liệt, bất chấp bạo quyền. Hình như trong tâm hồn Mị lúc này tiếng sáo mùa xuân tuổi trẻ đã thực sự ngân lên khát vọng tình yêu, hạnh phúc, tự do đang trào dâng không kìm nén được.
Đây cũng là lúc nó bị vùi dập phũ phàng. A Sử xuất hiện đã quấn tóc, trói đứng Mị trong buồng tối. Con thú ấy thản nhiên tắt đèn, khép cửa đi ra không nói tiếng nào. Bị trói, Mị vẫn thả hồn theo tiếng sáo. Tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, dìu Mị về với khát khao yêu đương hạnh phúc: “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”.
Suốt từ đầu tới cuối đêm hôm ấy chỉ thấy cô im lặng, âm thầm cam chịu. Dường như cô đang không sống bằng phần thể xác nữa. Ẩn chứa bên trong lại là cô Mị khác. Một cô Mị đang náo nức say sưa với những kỉ niệm của tình yêu. Say sưa đến nỗi “như không biết mình đang bị trói, khiến Mị vùng dậy bước đi”.
Nhưng dây trói, tiếng chân ngựa đẩy Mị về hiện thực: “Mị không nghe thấy tiếng sáo nữa… Mị thổn thức nghĩ rằng mình không bằng con trâu, con ngựa”. Mị nhận ra đêm đã khuya, thời gian chạm vào kỉ niệm đẹp nhất của lòng Mị. Mị nín khóc, lòng lại bồi hồi. Trong suốt đêm bị trói, Mị đã sống trong một tâm trạng giằng xé giữa quá khứ đẹp đẽ và hiện thực đau khổ, giữa ước mơ hạnh phúc và nỗi tủi hờn vì thân kiếp trâu ngựa. Đó là biểu hiện của một tâm hồn yêu sống, thèm sống, bất chấp cường quyền chà đạp và vùi dập.
Số 10: Tóm tắt nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ
Mị là cô gái tự do, xinh đẹp, có nhiều tài lẻ và được nhiều người theo đuổi. Một đêm, nghe tiếng bước chân ở vách nhà, tưởng người yêu mình, Mị đưa tay ra thì bị A Sử – con trai thống lí Pá Tra bắt đi. Hôm sau, Mị bị trình ma làm dâu nhà thống lí để trả nợ ngày xưa bố mẹ Mị lấy nhau vay tiền của nhà lão.
Thời gian đầu, Mị vô cùng phiền muộn, cô luôn nghĩ đến cái chết để được giải thoát, nhưng khi nghe lời cha can ngăn và nghĩ đến hoàn cảnh của cha mình, Mị không nỡ ăn lá ngón tự tử mà quay về tiếp tục làm con dâu gạt nợ. Ngày qua ngày, Mị lầm lũi như con rùa trong xó cửa, hàng ngày lặp đi lặp lại những việc làm như một cái máy, cảm xúc trong Mị bị chai sạn, cô không vui cũng không buồn. Ngày tết, Mị lén uống rượu, khi Mị đã ngà ngà say, tiếng sáo diều đưa Mị về những ngày tươi đẹp trước, Mị thấy bổi hổi bồi hồi, sống lại bao kỉ niệm. Mị quyết định sắm sửa đi chơi nhưng lại bị A Sử bắt và trói đứng ở cột nhà không cho đi.
Đêm đến, Mị vẫn miên man trong cơn say nhưng khi tỉnh rượu, Mị thấy đau và sợ. A Sử bị A Phủ đánh, Mị được cởi trói để đi hái thuốc cho chồng, Mị chăm sóc A Sử nhưng còn bị hắn đánh. Mị nghe thấy người ta đánh đập A Phủ, từ đó A Phủ phải làm thuê cho nhà thống lí để trả nợ vì đánh A Sử. Một hôm A Phủ làm mất bò, lại bị nhà thống lí đánh, trói ở góc nhà. Mấy hôm liền, Mị không quan tâm nhưng đến khi thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị động lòng thương cảm, cắt dây cởi trói và cùng A Phủ bỏ trốn đến Phiềng Sa.

Tổng kết
Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 10 mẫu tóm tắt nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 12.