Tổng hợp các bài mẫu tóm tắt Vợ nhặt của tác giả Kim Lân một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 30 mẫu tóm tắt bài tác phẩm Vợ nhặt chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!
Xem thêm:
Top 30 mẫu tóm tắt Vợ nhặt chi tiết nhất
Số 1: Tóm tắt Vợ nhặt
Tác phẩm Vợ nhặt được viết trong thời điểm nạn đói vào năm 1945 đang hoành hành khắp nơi đang dần cướp đi sinh mạng của hàng triệu con người đã. Con người lúc bấy giờ đang chết dần chết mòn vì thiếu lương thực, ngay cả miếng ăn còn không đủ còn nói gì đến những nhu cầu khác.
Trong hoàn cảnh thê lương đó, nhân vật tên là Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch ấy có được vợ mà lại là vợ nhặt. Nghe tin anh lấy vợ mà cả xóm ai nấy đều không khỏi ngạc nhiên, ngỡ ngàng nhưng cũng hết sức cả lo lắng, nhất là mẹ của Tràng, bà cụ Tứ vui buồn lẫn lộn. Bà vui khi đứa con trai của mình không có ngoại hình đẹp, lại thô kệch nhưng đã có vợ, bên cạnh đó bà cũng vô cùng lo lắng khi lại có thêm một miệng ăn trong hoàn cảnh thiếu thiếu thốn lúc bấy giờ.
Nhờ có đứa con dâu trong gia đình mà ngày hôm sau nhà cửa đều đã được gọn gàng sạch sẽ, ngăn nắp. Trong bữa cơm gia đình, xuất hiện thêm một thành viên mới là nàng dâu, mẹ Tràng cũng rất vui vẻ trò chuyện, hy vọng cả hai sẽ có một cuộc sống hạnh phúc và tương lai tươi sáng. Bữa cơm chẳng có gì ngoài “nồi chè khoán” do chính tay cụ Tứ nấu thế nhưng không khí lại rất vui vẻ, lạc quan.
TRong bữa ăn, bỗng có tiếng trống thúc thuế vang lên. Trong đầu Tràng bỗng nghĩ tới lá cờ đỏ sao vàng đang tung bay phấp phới và hình ảnh con người đang đi phá thóc chia cho người nghèo.

Số 2: Tóm tắt tác phẩm Vợ nhặt
Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào. Nhiều người từ nơi khác kéo lên đây, sống không bằng chết, xanh xám như những bóng ma, vật vờ đi kiếm ăn. Trong xóm có anh Tràng, có vẻ bờ ngoài xấu xí, sống cùng mẹ già là bà cụ Tứ.
Đối với Tràng ước mơ về một cô vợ, một mái ấm nhỏ của riêng mình là một điều ước quá xa xỉ vì cái ăn còn không có thì làm sao nghĩ đến hạnh phúc lứa đôi. Hằng ngày Tràng đi kéo xe bò thuê kiếm ăn qua ngày. Trong một lần kéo xe thóc liên đoàn lên tỉnh, Tràng đã quen với một cô gái.
Vài ngày sau gặp lại Tràng không còn nhận ra cô gái ấy nữa bởi cái vẻ ngoài tiều tụy, đói rách đã làm cô gái khác đi rất nhiều. Tràng hào phóng mời cô gái ăn một bữa, cô gái ăn liền một lúc bốn bát bánh đúc. Sau một câu nói nữa thật, nữa đùa, cô gái đã theo Tràng về làm vợ.
Một buổi chiều, giữa cảnh tối sầm lại và hoang tàn vì đói khát ấy, người ta thấy Tràng dẫn theo một người đàn bà về nhà. Người trong xóm vô cùng ngạc nhiên, nhưng họ cũng lo lắng thay cho gia đình Tràng, trong cảnh nghèo đói, khó khăn lúc này, thêm người là thêm một miệng ăn.
Về đến nhà, Tràng giới thiệu vợ với mẹ một cách trân trọng trìu mến “ Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi ấy u ạ!”. Bà cụ Tứ sau những phút giây mà cảm xúc vui buồn mừng tủi lẫn lộn đã mở rộng vòng tay đón con dâu mới.
Đêm tân hôn, hai người sượng sùng chẳng biết nói gì. Ánh đèn vàng đục ở góc nhà tỏa ra ấm áp kéo dài hai cái bóng trên vách. Bên ngoài gió từ mặt sông thổi lên rì rào lẫn với tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lúc nhỏ, lúc to.
Sáng hôm sau, một buổi sáng mùa hè nắng chói lóa, bà cụ Tứ với con dâu đang cùng nhau dọn dẹp, quét tước trong ngoài. Trước cảnh tượng ấm cúng ấy, một niềm vui sướng phấn chấn đột ngột trào dân trong lòng. Tràng cảm thấy mình nên người, thấy có bổn phận phải lo cho cái tổ ấm này.
Bữa ăn trong ngày đói thật thảm hại, một lùm rau chuối thái rồi, một niêu cháo lõng bõng nước kèm theo một đĩa muối. Trong hoàn cảnh thiếu thốn đó, bà cụ Tứ nói chuyện với hai con một cách rất hứng khởi và đầy tin tưởng về tương lai.
Từ đàng xa, tiếng trống thuế dồn dập vang lên. Trong đầu Tràng hiện lên hình ảnh người dân đói đang kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là cờ đỏ bay phấp phới trong gió.
Số 3: Tóm tắt bài Vợ nhặt
Trong lúc xóm ngụ cư xơ xác, tiêu điều trong nạn đói, vào một buổi chiều tà, Tràng- một người nông dân nghèo, luống tuổi, thô kệch, lại dở hơi, ở xóm ngụ cư – dẫn về nhà một người phụ nữ – người vợ nhặt.
Tràng gặp người vợ nhặt đang trong hoàn cảnh đói rách cùng đường. Với một câu nói đùa và mời ăn bốn bát bánh đúc, Tràng được người phụ nữ này ưng thuận theo anh về nhà.
Mẹ Tràng (bà cụ Tứ) đón nhận người con dâu trong tâm trạng buồn vui, lo âu, hi vọng khó tách bạch nhưng không hề tỏ ra rẻ rúng người phụ nữ đã theo không con mình. Đêm tân hôn của họ diễn ra trong không khí chết chóc, tủi sầu từ xóm ngụ cư vọng tới.
Sáng hôm sau, Bà cụ Tứ và cô dâu mới xăm xắn dọn dẹp, quét tước trong ngoài. Trước cảnh ấy, Tràng cảm thấy mình gắn bó và có trách nhiệm với cái nhà của mình và thấy mình nên người. Trông người vợ đúng là một người phụ nữ hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như lần đầu gặp nhau. Cụ Tứ hồ hởi đãi hai con vài bát cháo loãng và một nồi chè cám.
Qua lời kể của người vợ, Tràng hiểu được Việt Minh và trong óc Tràng hiện lên hình ảnh đám người đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là một lá cờ đỏ bay phất phới.

Số 4: Tóm tắt Vợ nhặt ngắn nhất
Truyện xoay quanh tình huống nhặt được vợ của anh cu Tràng đầy hài hước nhưng cũng cay đắng và nghẹn ngào. Chỉ với dăm bát bánh đúc và mấy câu hò bông đùa mà một thanh niên nghèo khó đã được một người phụ nữ xa lạ theo không về nhà.
Cuộc sống của anh Tràng cũng như Thị cùng nhau bước sang một trang mới, tuy còn gặp nhiều khó khăn, đến miếng ăn cái mặc hay sự chuẩn bị cho một đám cưới đều không được vẹn toàn, nhưng ta vẫn thấy sáng lên trong tác phẩm một tình người ấm áp.
Số 5: Tóm tắt truyện Vợ nhặt
Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân được viết trên nền cái đói của năm 1945. Chân dung nhân vật Tràng được Kim Lân miêu tả có ngoại hình thô kệch, xấu xí với công việc làm thuê ngật ngưỡng bước ra trong đói nghèo ấy. Thị, cô gái kém duyên đang vật lộn với cái đói. Hai người họ gặp nhau vỏn vẹn có hai lần rồi thành đôi chỉ bằng bát bánh đúc với vài câu bông đùa.
Tràng dẫn Thị về trong cái nắng chiều chạng vạng trước sự bất ngờ của tất cả người dân xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ- mẹ Tràng nhìn nàng dâu mới mà lo cho con liệu có đùm bọc nhau trong cảnh nghèo, lại mừng vui hạnh phúc vì khó khăn hay đói khổ cũng không ngăn đôi lứa nên duyên. Họ cùng nhau vun vén cửa nhà, san sẻ từng bữa ăn. Trong hạnh phúc ấy, câu chuyện khép lại với hình ảnh nhân dân phá kho thóc Nhật và lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong óc Tràng.
Số 6: Tóm tắt văn bản Vợ nhặt
Truyện ngắn Vợ nhặt đều xoay quanh cuộc sống của người lao động là anh Tràng – người nông dân nghèo, lại là người dân ngụ cư và làm nghề kéo xe thuê. Trong bối cảnh đói khát miền trần gian như biến thành miền địa ngục vậy , cõi âm như hòa với cõi trần, cõi trần mấp mé bờ vực của cõi âm, Tràng đã nhặt được một cô vợ ở ngoài tỉnh.
Hình ảnh Tràng dẫn cô vợ nhặt về để ra mắt làm cả xóm dân ngụ cư và bà cụ Tứ, mẹ chàng rất ngạc nhiên. Trong hạnh phúc thì nên duyên còn nỗi lo lắng rằng đã đến được với nhau giữa những ngày trời đất tối sầm vì còn nạn đói thì liệu có nuôi nổi nhau không nữa. Người đàn bà của Tràng đã đưa về nhà chỉ vừa gặp thì đã có hai lần khi đưa thóc lên tỉnh, cũng đang trong bối cảnh đói nghèo và chờ việc. Chỉ vài câu hỏi với một câu bông đùa mà chị đã theo Tràng về để làm vợ.
Chị cũng như bao kiếp người xóm ngừi dân ngụ cư, đói, khổ đến nỗi chẳng có một cái tên nhưng chẳng vì thế mà mẹ con Tràng lại khinh biệt nàng dâu mới ấy . Bà cụ tứ ấy thấy con trai dẫn vợ về mà ngạc nhiên đến không tin vào tai vào mắt mình. Bà ấy rất là lo lắng cho đôi lứa đến được với nhau mà lòng thì ngổn ngang, vừa lo lắng, vừa vui mừng trước hạnh phúc lớn lao bất ngờ. Tràng từ lúc đã có vợ thì luôn lạc quan, thấy cuộc sống có nhiều niềm vui và có có ý nghĩa, để đáng sống. Truyện đã kết thúc bằng tiếng trống thúc thuê ngoài đình và những hình ảnh lá cờ đỏ tung bay, đoàn người đói đã rủ nhau đi phá kho thóc ở Nhật để ẩn hiện trong đầu Tràng.

Số 7: Vợ nhặt tóm tắt
Thái Bình, Nam Định những năm 1945 là nơi mà nạn đói hoành hành nhất. Người chết ngã ra như rạ, không buổi nào người ta đi chợ, đi làm đồng mà không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí nồng mùi ẩm thối từ xác chết bốc ra. Giữa cái cảnh tối sầm vì đói khát, Tràng – một anh chàng tính khù khờ, ngu ngơ dắt về một cô vợ.
Bọn trẻ thường ngày đùa giỡn với anh hôm nay cũng không dám đến gần vì trông anh hôm nay thấy lạ và khác thường quá. Cô vợ này của Tràng là Thị. Hai người kết duyên với nhau bằng vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Mẹ Tràng thấy con mang một cô gái về bảo là vợ trong lòng mà nửa vui nửa buồn. Giữa cái thời đói này người ta còn không dám mơ tới ngày mai chứ nói chi lấy vợ – mang thêm một cái miệng ăn về nhà. Bà chấp nhận nhưng trong lòng đầy lo âu rối bời. Sáng hôm sau, nhà của nhà anh trông thật lạ.
Gọn gàng và sạch sẽ hơn hẳn. Cả nhà ngồi cùng nhau ăn sáng bằng nồi cháo lõng bõng, nhưng không khí trong nhà thật vui, cho đến khi nồi cháo lõng hết nhẵn, dù mẹ Tràng có nhanh trí đem nồi chè khoáng lên thì cũng chỉ là chè từ cám. Từ đó không ai nói với ai câu nào, vì ai cũng hiểu vị chát đầu lưỡi là thật và nó đã đem họ về thực tế.
Họ không có lương thực. Một hồi trống thúc thuế vội vã dồn dập, Thị thắc mắc tại sao làng này vẫn còn đóng thuế, làng Thị người ta đã phá kho thóc của Nhật chia cho dân rồi. Tràng đang nghĩ đến những người phá kho thóc của Nhật, trong đầu vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới.
Số 8: Tóm tắt truyện ngắn Vợ nhặt
Tác phẩm Vợ nhặt được viết trên nền đói của năm Ất Dậu. Truyện kể về nhân vật Tràng có ngoại hình thô kệch, xấu xí, làm nghề kéo xe thuê. Tràng đã nhặt được cô vợ ngoài tỉnh giữa lúc trời đất tối sấm vì đói khát. Chị cũng nghèo khổ nhưng liều lĩnh, hai người gặp nhau chỉ vỏn vẹn hai lần, với vài câu bông đùa đã theo không Tràng về làm vợ mà không chút đòi hỏi hay nghi ngờ. Vậy là hai thân phận bọt bèo dạt đến với nhau.
Tràng mang vợ về trong buổi chiều chạng vạng trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người trong xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ thấy con trai dẫn người vợ nhặt về đã ngạc nhiên , tâm trạng đan xen bảo cảm xúc, lo âu, hờn tủi nhưng bộc lộ rõ nhất là tình thương và tấm lòng bao dung của người mẹ nhân hậu. Cuối cùng cái đói quắt cũng có thể se duyên cho một mối tình. Thị trở nên dịu dàng, ngượng ngùng khác hẳn sự đanh đá, chỏng lỏn, Tràng từ khi có vợ cũng vợ thì luôn lạc quan, sống vui và ý nghĩa.
Kết thúc truyện ta thấy Tràng có một gia đình, mọi người cùng nhau vun vén hạnh phúc, cố làm nhau vui với bữa ăn loãng thếch và cuộc sống như có tia hy vọng mới khi câu chuyện về phá kho thóc Nhật và hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong óc anh Tràng.
Số 9: Tóm tắt chi tiết Vợ nhặt
Trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, anh cu Tràng là một người xấu xí, thô kệch, lại còn là dân xóm ngụ cư. Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà rách rưới. Hằng ngày, Tràng đi kéo xe bò thuê. Một hôm, khi kéo xe thóc Liên Đoàn lên tỉnh, Tràng đã gặp thị. Nhờ một câu hò vu vơ lúc mệt nhọc, thị đã chạy tới kéo xe giúp Tràng. Đến lần gặp mặt thứ hai, thị trông xanh xao và tiều tụy đi nhiều vì cái đói.
Tràng đã mời thị ăn một chặp bốn cái bánh đúc dù Tràng cũng không có đủ tiền ăn. Thị theo Tràng về nhà và gặp mẹ Tràng. Thị cùng mẹ dọn dẹp sân vườn, bữa cơm đón nàng dâu của bà cụ Tứ và anh cu Tràng là một nồi cháo cám mà cả ba gọi khéo là chè khoán. Cuối truyện là hình ảnh lá cờ đỏ hiện lên trong óc Tràng, như là mở ra một cánh cửa mới cho tương lai sau này của các nhân vật.

Số 10: Tóm tắt Vợ nhặt của Kim Lân
Tác giả tạo nên nhân vật chính là Tràng trong hoàn cảnh nạn đói đang hoành hành, ngay cả miếng ăn còn không có đừng nói đến là những nhu cầu cơ bản khác. Ngoại hình chẳng có gì đặc biệt, xấu xí lại thô kệch nhưng bản chất lại tốt bụng, thật thà. Trong một lần kéo xe thuê, Tràng tình cờ gặp được một cô gái cũng cùng chung cảnh ngộ theo anh về làm vợ.
Việc Tràng đem cô gái xa lạ về làm vợ khiến cả làng xôn xao,lo lắng cho gia đình bà cụ Tứ vì phải có thêm một miệng ăn trong hoàn cảnh đói kém như hiện nay. Vì khao khát hạnh phúc Tràng cũng mặc kệ bỏ ngoài tai mọi lời nói.
Bữa ăn đầu tiên của gia đình có thêm thành viên mới là con dâu đó là nồi cháo cám đắng ngắt, mẹ Tràng nhìn con trai hạnh phúc bà cũng chỉ biết chúc phúc cho hai đứa có một tương lai tốt đẹp hơn. Tràng nhận thấy niềm hạnh phúc và sự mới mẻ canhfg ý thức hơn về bổn phận của mình đối với gia đình.
Đằng xa tiếng trống dồn dập vang lên không ngừng, anh nhìn thấy hình ảnh người dân đang phá thóc cứu đói cho người nghèo và cùng với đó hình ảnh lá cờ đỏ tung bay trong gió.
Số 11: Tóm tắt truyện ngắn Vợ nhặt ngữ văn 12
Anh Tràng ở xóm ngụ cư làm nghề kéo xe bò, đã lớn tuổi nhưng chưa lập gia đình, lại có tính thô kệch và một tật xấu là vừa đi vừa nói như người dở hơi. Gia đình Tràng chỉ còn hai mẹ con là hắn và bà cụ Tứ, hai mẹ con ở trong một mái nhà trang rúm ró, vắng teo. Trận đói năm 1945 diễn ra ngày một khốc liệt và vô cùng kinh khủng, người chết đói như “ ngã rạ”.
Một lần Tràng kéo xe thóc liên đoàn lên tỉnh, Tràng ngẫu hứng hò một câu vượt dốc rất tình, tiếng hát ấy đã thu hút một cô gái chạy lon ton lại phụ đẩy xe cho Tràng, liếc mắt, cười tít. Trong lần thứ hai gặp lại cô gái ấy, trông cô ấy khác hẳn, Thị gầy hẳn đi, áo quần tả tơi như tổ đỉa.
Một vài câu trách móc mời chào, Thị ăn một chặp bốn bát bánh đúc do Tràng đãi, mua một cái thúng hai hào dầu Tràng dẫn Thị về ra mắt mẹ mình. Xóm ngụ cư nghèo vô cùng ngạc nhiên khi thấy Tràng lần đầu tiên dẫn một cô gái về nhà, họ bàn tán xôn xao và có phần lo ngại cho Tràng.
Trong không gian nhá nhem tối, cụ Tứ gặp và ngồi trò chuyện với người con dâu mới đầy bất ngờ này. Lần đầu tiên nhà Tràng có dầu thắp đèn. Vang vẫn có tiếng ai khóc như chết đói ngoài xóm lọt vào. Vào sáng sớm ngày hôm sau, cụ Tứ và nàng dâu mới quét dọn trong nhà ngoài sân.
Bữa cơm đầu tiên trong gia đình chồng, Thị được ăn món “ cháo cám”, bà cụ Tứ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn với con dâu mới, chỉ nói những chuyện vui và tránh né hoàn cảnh khó khăn lúc bấy giờ. Lại một buổi sáng tiếp theo, tiếng trống thúc thuế dồn dập, quạ đen bay vù như mây đen, Thị nói về chuyện Việt Minh phá và cướp kho thóc của Nhật, làm Tràng nhớ lại lá cờ đỏ bay phấp phới hôm nào.
Số 12: Tóm tắt tác phẩm Vợ nhặt ngữ văn 12
Người chết như ngả dạ, người sống dật dờ như những bóng ma trong cái nạn đói khủng khiếp năm 1945. Anh cu Tràng – nhân vật chính của truyện hiện lên với hình ảnh “xấu xí thô kệch”, lại ế vợ và là người dân trong xóm ngụ cư.
Tràng gặp thị – một người đàn bà đỏng đánh, kém duyên. Nhờ lòng thương người, Tràng đãi thị ăn một chặp bốn cái bánh đúc. Thị theo Tràng về nhà làm vợ, gặp bà cụ Tứ – mẹ của Tràng. Bà cụ Tứ tuy rất ngạc nhiên khi Tràng dắt vợ về nhưng bà cũng thấu hiểu và thấy thương cho người con gái ấy. Khi về làm vợ Tràng, thị đã thay đổi, trở thành một người biết chăm lo cho gia đình chứ không còn đỏng đảnh như trước kia.
Anh cu Tràng cũng thay đổi, anh thấy lo cho tương lai sau này và có những suy nghĩ sâu xa hơn về cuộc sống. Ba mẹ con Tràng, Thị và bà cụ Tứ cùng nhau ăn nồi cháo cám rất vui vẻ, còn gọi đùa rằng đó là chè khoán. Trong lúc trò chuyện, thị có nhắc tới chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật, lúc này trong óc Tràng hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới

Số 13: Tóm tắt Vợ nhặt ngắn gọn
Truyện ngắn Vợ nhặt xoay quanh cuộc sống của người lao động là anh Tràng – người nông dân nghèo, lại là dân ngụ cư, làm nghề kéo xe thuê. Trong cảnh đói khát miền trần gian như biến thành miền địa ngục, cõi âm như hòa với cõi trần, cõi trần mấp mé bờ vực của cõi âm, Tràng đã nhặt được cô vợ ngoài tỉnh. Hình ảnh Tràng dẫn cô vợ nhặt về ra mắt làm cả xóm ngụ cư và bà cụ Tứ- mẹ chàng phải ngạc nhiên.
Trong hạnh phúc đôi lứa nên duyên còn nỗi lo rằng đến với nhau giữa những ngày trời đất tối sầm vì đói liệu có nuôi nổi nhau không. Người đàn bà Tràng đưa về nhà chỉ vừa gặp có hai lần khi đưa thóc lên tỉnh, cũng đang trong cảnh đói nghèo và chờ việc. Chỉ vài câu hỏi với một câu bông đùa mà chị đã theo Tràng về làm vợ. Chị cũng như bao kiếp người xóm ngụ cư, đói, khổ đến nỗi chẳng có một cái tên nhưng chẳng vì thế mà mẹ con Tràng khinh biệt nàng dâu mới.
Bà cụ tứ thấy con trai dẫn vợ về mà ngạc nhiên đến không tin vào tai, vào mắt mình. Bà lo lắng cho đôi lứa đến với nhau mà lòng ngổn ngang, vừa lo lắng, vừa vui mừng trước hạnh phúc lớn lao bất ngờ. Tràng từ lúc có vợ thì luôn lạc quan, thấy cuộc sống có niềm vui, có ý nghĩa, đáng sống.Truyện kết thúc bằng tiếng trống thúc thuê ngoài đình và những hình ảnh lá cờ đỏ tung bay, đoàn người đói rủ nhau đi phá kho thóc Nhật ẩn hiện trong đầu Tràng.
Số 14: Tóm tắt Vợ nhặt
Nước ta trong thời điểm năm 1945 nạn đói hoành hành và rất nhiều người chết. Những con người sống không bằng chết, vật vờ đi kiếm ăn. Trong xóm nhỏ có anh Tràng bề ngoại xấu xí, sống cùng mẹ già hàng ngày Tràng đi kéo xe bò thuê cho người khác. Dù lớn tuổi nhưng ước mơ về một cô vợ thật quá xa xỉ khi cái ăn không có thì làm sao nghĩ đến hạnh phúc lứa đôi.Trong một lần kéo xe, Tràng quen và giúp đỡ một cô gái đang đói, hai người nhanh chóng kết thân.Tràng dẫn cô gái này về làm vợ.
Việc Tràng dẫn cô gái vừa mới quen về làm vợ khiến cả làng vô cùng ngạc nhiên, nhưng họ cũng lo lắng cho gia đình của Tràng bởi tình cảnh nghèo đói rất khó khăn, bởi lúc này thêm người là thêm miệng ăn.
Bà cụ Tứ lúc này buồn vui đan xen, bà vui vì con có vợ nhưng buồn và lo lắng khi không biết lấy gì để kiếm sống qua ngày. Bữa ăn đầu tiên đó là nồi cháo cám nhưng bà gọi là chè. Cô con dâu hiểu được tấm lòng của người mẹ và hoàn cảnh gia đình cùng mẹ dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, tươm tất. Tràng cảm thấy mình là con người mới và trách nhiệm với gia đình hơn.
Từ đằng xa tiếng trống nổi lên, hình ảnh xuất hiện đó là những người dân đi phá kho thóc cứu đói, lá cờ bay trong gió mang lại niềm hi vọng về tương lai mới.
Số 15: Tóm tắt tác phẩm Vợ nhặt
Tràng là anh thanh niên ngụ cư nghèo khổ, làm nghề kéo xe bò kiếm sống. Anh vốn ế vợ từ lâu nhưng đột nhiên lại “nhặt” được vợ một cách dễ dàng chỉ bằng vài câu hò đùa và bốn bát bánh đúc. Trên đường về, Tràng vừa ngượng ngùng vừa hãnh diện vì lấy được vợ. Người dân xóm ngụ cư ai nấy đều ngạc nhiên khi thấy có người đàn bà lạ theo Tràng, rồi lại lo lắng cho anh vì đã đèo bòng thêm một miệng ăn giữa nạn đói khủng khiếp. Trước việc con trai lấy vợ, bà cụ Tứ ban đầu rất ngạc nhiên, khi hiểu ra câu chuyện, bà vừa xót xa vừa mừng tủi và chấp nhận cô vợ nhặt là dâu con trong nhà.
Sáng hôm sau, Tràng hạnh phúc như vừa ở giấc mơ đi ra. Anh nhận thấy sự đổi thay quang quẻ của ngôi nhà dưới bàn tay của mẹ và vợ. Tràng cảm động, cảm thấy gắn bó với ngôi nhà và thấy mình nên người. Trong bữa sáng đón nàng dâu mới, cả nhà Tràng ăn uống rất đầm ấm, cô vợ ra dáng là người phụ nữ hiền thảo chứ không chao chát, chỏng lỏn như hai lần đầu gặp gỡ. Bà cụ Tứ không chỉ nói toàn chuyện vui, chuyện làm ăn mà còn vui vẻ bưng lên nồi “chè khoán”.
Nhưng cả ba người đều im lặng hờn tủi ngay khi gợt miếng đầu tiên vào miệng bởi “chè khoán” thực ra là nồi cám chát xít. Giữa lúc ấy, người con dâu nghe thấy tiếng trống thúc thuế bèn kể chuyện người đói ở Thái Nguyên, Bắc Giang vùng dậy phá kho thóc Nhật. Câu chuyện ấy làm hiện lên trong đầu Tràng hình ảnh đoàn người đói đi trên đê Sộp và lá cờ đỏ bay phấp phới.

Số 16: Tóm tắt bài Vợ nhặt
Tràng là một người đàn ông nghèo khổ, cơ cực ở xóm ngụ cư. Một ngày kia, trong buổi chiều, trong không khí thê thảm, ảm đạm vì đói, Tràng dẫn về một người phụ nữ. Đó là vợ anh – người vợ nhặt. Tràng đã bắt gặp vợ tương lai của mình đang cảnh đói rách, mời ăn bốn bát bánh đúc kèm theo lời nói đùa vui. Bà mẹ già của Tràng đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu trong mối đau đớn và thương cảm.
Tràng cảm thấy con người mình đổi khác. Từ chút đùa đến thoáng lo, bây giờ Tràng thấy niềm vui thành người có trách nhiệm, dù đêm đầu tiên của đôi vợ chồng qua đi trong không khí khét lẹt mùi chết chóc và tiếng hờ khóc ai oán. Bà mẹ nghèo đãi hai con ít cháo và nồi chè đặc biệt. Miếng cám chát, nghẹn cổ nhưng Tràng vẫn cùng vợ hướng về một cuộc sống đổi khác. Trong óc anh hiện ra đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phấp phới.
Số 17: Tóm tắt Vợ nhặt ngắn nhất
“Vợ nhặt” – nằm trong tập truyện “Con chó xấu xí”, một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Kim Lân viết sau cuộc Cách mạng tháng tám. Truyện giống như một bản cáo trạng tố cáo những tội ác của bọn thực dân Pháp, bọn phát xít đồng thời cũng phản ánh, tái hiện lại cuộc sống thê thảm của nhân dân ta trong nạn đói 1945. Truyện mang tính nhân văn sâu sắc khi khắc hoạ thành công hình ảnh những người nông dân dù hoàn cảnh nghiệt ngã nào cũng sống vượt lên, ra sức yêu thương đùm bọc lẫn nhau khi khó khăn, đói khổ.
“Vợ Nhặt” là câu chuyện kể về năm 1945, khi nạn đói khủng khiếp xảy ra khắp nơi, người chết chất đống không chỗ chôn, người sống thì như những bóng ma, dật dờ, gầy rộc người. Và nhân vật chính là Tràng, một người đàn ông xấu xí, dáng người thô kệch, ế vợ, sống ở xóm ngụ cư. Tràng làm nghề kéo xe bò kiếm sống qua ngày nuôi mẹ già – bà cụ Tứ
Trong dịp kéo xe thóc cho Liên đoàn, Tràng có quen biết một cô gái nhưng vài ngày sau trận đói, gặp lại Tràng không thể nào nhận ra cô gái trước ấy nữa, bởi vẻ tiều tuỵ, hốc hác của cô. Tràng mời cô gái ăn bánh đúc và sau một câu nói nửa đùa nửa thật, cô gái xa lạ này đã theo anh về làm vợ. Khi Tràng dắt người đàn bà xa lạ về, cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, những khuôn mặt u tối bổng rạng rỡ lên.
Mẹ Tràng – bà cụ Tứ về muộn, khi thấy trong nhà có người con gái lạ, lại kêu bà là u, bà rất ngạc nhiên. Được Tràng giải thích, trong lòng bà xuất hiện bao nỗi niềm, ngỡ ngàng có, buồn có nhưng cũng vui và hi vọng hơn. Bà nói chuyện với con dâu không hề tỏ thái độ khinh rẻ người phụ nữ đã theo không con trai mình về. Rồi bà khóc…. Đêm tân hôn của họ diễn ra lặng lẽ trong không khí thê lương với mùi rơm rạ và tiếng khóc vẳng tới từ những gia đình trong xóm của người chết.
Sáng hôm sau, một buổi sáng mùa hạ với ánh nắng chói lói. Tràng thức dậy muộn. Bà cụ Tứ và cô dâu mới đã dọn dẹp quét tước gọn gàng sạch sẽ từ trong nhà đến ngoài sân. Tràng thấy vui và cảm thấy mình phải có bộ phận với vợ, có trách nhiệm với gia đình hơn. Nhìn vợ, Tràng thấy đúng là một người phụ nữ hiền hậu đúng mực, không còn cái vẻ gì chao chat như ở lần đầu hai người gặp nhau.
Và cụ Tú xắm xắn chuẩn bị bữa ăn với rau chuối rối chấm muối, hai lưng bát cháo lỏng và nồi chè cám. Trong bữa cơm, bà cụ chỉ toàn kể những chuyện vui vẻ, vợ Tràng kể cho anh nghe về Việt Minh, anh dần hiểu. Bổng tiếng trống thúc thuế ngoài đình nổi lên giục giã làm trong đầu Tràng hiện lên hình ảnh một lá cờ đỏ bay phấp phới cùng đoàn người trên đê Sộp đang đi phá kho thóc.
Người dân nghèo đã được thắp ngọn lửa hi vọng vào một tương lai tươi sáng hơn từ con đường cách mạng cứu nước
Số 18: Tóm tắt truyện Vợ nhặt
Cụ Tràng ở xóm dân ngụ cư, làm nghề kéo xe bò để chở thuê. Cụ đã nhiều tuổi, thô kệch, có tính vừa đi vừa nói lảm nhảm như kẻ dở hơi vậy . Bà cụ Tứ mẹ hắn nghèo khổ. Hai mẹ con ở trong một mái nhà tranh vắng teo, rúm ró. Trận đói kinh khủng đang diễn ra, người thì chết đói như ngả rạ. Một lần đã kéo xe thóc Liên đoàn để đi lên tỉnh, hắn đã hò lên một câu vượt dốc rất tình.
Một cô gái ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, liếc mắt cười tít. Lần thứ hai, Tráng gặp lại thị, trông khác hẳn, thị đã gầy sọp hẳn đi, áo quần tả tơi như tổ đỉa. Một vài câu trách móc, mời chào, thị ăn một chập 4 bát bánh đúc do Tráng đãi. Mua một cái thúng và 2 hào dầu, Tráng dẫn thị về nhà ra mắt mẹ. Xóm ngụ cư ngạc nhiên khi thấy một người đàn bà xa lạ đi theo Tráng họ bàn tán, có phần lo ngại. Trong nhá nhem tối, bà cụ Tứ gặp và nói chuyện với nàng dâu mới. Lần đầu nhà Tráng có dầu thắp đèn… Tiếng ai hờ khóc người chết đói ngoài xóm lọt vào. Sáng hôm sau, bà mẹ chồng và nàng dâu mới quét dọn trong nhà ngoài sân.
Bữa cơm – cháo cám – đón nàng dâu mới. Bà cụ Tứ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu, nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này. Lại một buổi sáng. Tiếng trống thúc thuế dồn dập. Quạ đen bay vù như mây đen. Thị đã nói về chuyện của Việt Minh phá kho thóc ở Nhật. Tràng đã nhớ lại là chiếc lá cờ đỏ đang bay phấp phới hôm nào…

Số 19: Tóm tắt văn bản Vợ nhặt
Chuyện kẻ về số phận của một chàng trai với cái tên là Tràng. Trong thời buổi loạn lạc, nạn đói hoành hành, đó là thời điểm của những năm 1945 đã làm hơn 2 triệu người chết, đâu đâu cũng là sự chết chóc. Trong hoàn cảnh như vậy mà chàng trai tên là Tràng lại cưới vợ (hay nói đúng hơn là nhặt được vợ). Nhân vật Tràng ở đây được tác giả miêu tả là một anh chàng rất xấu trai, ăn nói cộc lốc, thô kệch, ấy thế mà lại lấy được vợ. Khi nghe tin anh Tràng cưới vợ thì cả xóm nơi Tràng ở đều ngạc nhiên và lo lắng cho anh, đặc biệt là mẹ của anh mà mọi người gọi “bà là bà cụ Tứ” lúc này lúc vui lúc buồn không biết tại sao? Khi con trai của Bà cưới vợ mà Bà chẳng có gì hơn ngoài lời chúc đến vợ chồng anh là hãy sống tốt.
Bữa cơm ăn mừng cho sự xuất hiện của nàng dâu mới, Bà cụ kể toàn những chuyện vui, Bà hy vọng rằng tương lai của hai dứa con mình sẽ tươi sáng, với “nồi chè khoán” do chính tay Bà nấu, tuy chát đắng nhưng thể hiện được sự quan tâm của Bà tới hạnh phúc của con. Đang trong cuộc vui của gia đình mừng nàng dâu mới thì có tiếng trống thúc thuế dồn dập, trong đầu Tràng nghĩ tới lá cờ Việt Nam bay phất phơ và cùng nhiều người đi cướp kho thóc của giặc để chia cho dân nghèo. Đó là tinh thần đoàn kết của người dân cùng khổ trong chiến tranh và họ vẫn luôn hy vọng rằng sẽ có một tương lai tươi sáng hơn đang chờ đón họ phía trước.
Số 20: Vợ nhặt tóm tắt
Năm 1945 là thời kỳ đói nghèo, nạn đói xuất hiện khắp nơi, người dân sống dở chết dở vì không có ăn. Trong xóm nhỏ nọ, có chàng trai tên Tràng với vẻ bề ngoài xấu xí, sống bằng nghề kéo xe thuê cho người khác. Trong thời điểm lúc bấy giờ đến cái ăn còn không có nói chi là lấy vợ. Ấy vậy mà, trong một lần kéo xe, anh Tràng giúp đỡ một cô gái đang đói thế là lấy luôn cô gái ấy về làm vợ, người đời nói rằng đó là vợ nhặt.Tràng dẫn cô gái này về ra mắt với mẹ của anh.
Anh dẫn cô gái về nhà với sự ngơ ngác và không khỏi ngạc nhiên của cả làng, nhưng cũng không khỏi lo lắng cho gia đình của Tràng. Trong hoàn cảnh ác liệt như hiện tại nhà cụ Tứ cũng chẳng giàu có gì mà giờ lại thêm một miệng ăn.
Bà cụ Tứ lúc này buồn vui đan xen. Bà vui vì con mình cũng có vợ nhưng lo lắng và buồn thay khi không biết làm gì để có cơm ăn qua ngày. Bữa ăn đầu tiên khi đón con dâu về nhà đó là nồi cháo cám nhưng bà gọi là chè. Cô con dâu cũng hiểu được tình cảm và tấm lòng của người mẹ nên rất vui vẻ đón nhận và còn cùng với bà cụ Tứ dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ. Nhìn thấy mẹ và vợ, Tràng cũng tự nhủ bản thân cần sống tốt và trách nhiệm với gia đình.
Phía xa xa Tràng nghe có tiếng trống nổi lên, xuất hiện hình ảnh trong đầu Tràng đó là những người dân đi phá kho thóc cứu đói và lá cờ bay trong gió của niềm tin và hy vọng mới.
Số 21: Tóm tắt truyện ngắn Vợ nhặt
Vợ nhặt là tác phẩm điển hình của nhà văn Kim Lân tái hiện xã hội Việt Nam thời điểm xảy ra nạn đói năm 1945 cướp đi sinh mạng của hàng triệu đồng bào ta vì đói, vì thiếu lương thực. Câu chuyện xoay quanh số phận và cuộc đời của các nhân vật bao gồm anh Tràng, và cụ Tứ và người vợ nhặt.
Tràng là chàng trai có ngoại hình xấu xí, thô kệch là người sống ở xóm ngụ cư. Người vợ nhặt là một người phụ nữ không quê quán, không lai lịch, không tên tuổi, gầy và rách rưới. Trong một lần kéo xe thóc lên tỉnh, hai người gặp nhau bằng vài câu bông đùa và bốn bát bánh đúc, Thị theo Tràng về làm vợ, Tràng bỗng dưng nhặt được vợ. Sự việc này khiến cho nhiều người ngạc nhiên, bà cụ Tứ là mẹ của Tràng thấy con lấy vợ trong hoàn cảnh éo le, khó khăn, đói khát, bà vừa ngạc nhiên, vừa lo lắng, vừa thương con.
Bà là người rất tâm lý, bà chúc phúc cho cặp vợ chồng trẻ, cụ vui vẻ, hy vọng tương lai của hai đứa sẽ bớt khó khăn, cùng nhau đi qua cơn hoạn nạn này. Bữa cơm gia đình đón nàng dâu mới trong những ngày đói khát chỉ có bát cháo loãng và nồi chè khoán chát đắng nhưng vẫn ngập tràn sự yêu thương, sẻ chia của người mẹ nghèo dành cho các con.
Cuối tác phẩm là hình ảnh lá cờ đỏ tung bay phấp phới, tiếng trống thúc thuế vang lên, hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc Nhật chia cho người dân nghèo gợi lên bao hy vọng về một tương lai tươi sáng của nhân vật Tràng cũng như những người nông dân nghèo lúc bấy giờ.

Số 22: Tóm tắt chi tiết Vợ nhặt
Trong một buổi chiều tà xơ xác với cái đói, Tràng dắt người vợ nhặt về. Bọn trẻ con thấy thế lớn tiếng trêu “chông vợ hài”. Thị e thẹn đi theo sau Tràng, từ một người đàn bà kém duyên, đanh đá, nay thị đã biết e thẹn, ngại ngùng khi đi theo Tràng về làm vợ.
Thị theo Tràng về nhà chỉ sau hai lần gặp gỡ, hoàn cảnh của truyện thật éo le cho thấy cái đói đã khiến số phận con người trở nên rẻ rúm hơn bao giờ hết. Khi theo Tràng về nhà, Thị gặp bà cụ Tứ và cùng mẹ dọn dẹp, quét tước sân vườn. Chính nhờ tình yêu thương con người trong lúc khó khăn của hai mẹ con Tràng đã cưu mạng Thị, khiến cho thị vừa được yêu thương, vừa có một mái ấm hạnh phúc.
Số 23: Tóm tắt Vợ nhặt của Kim Lân
Truyện kể lại bối cảnh của nạn đói khủng khiếp vào năm 1945, kể về nhân vật chính có tên là Tràng, một chàng trai xấu xí nghèo khổ, làm nghề đẩy xe thóc thuê. Giữa lúc nạn đói tràn đến xóm ngụ cư của hắn, Tràng đưa vợ về nhà, người vợ hắn “nhặt” được sau vài ba bận nói đùa và bốn bát bánh đúc.
Bà cụ Tứ , người mẹ giàu tình thương người, xót cho cảnh ngộ người đàn bà, vừa mừng vừa tủi, bà chấp nhận nàng dâu mới. Cái liều lĩnh của Tràng đã biến thành hạnh phúc, những con người nghèo khổ ấy cùng nương tựa vào nhau và cùng hi vọng vào tương lai. Tác phẩm kết thúc bằng hình ảnh lá cờ đỏ, niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn.
Số 24: Tóm tắt truyện ngắn Vợ nhặt ngữ văn 12
Câu chuyện kể về những năm 1945 khi nạn đói khủng khiếp đang hoành hành. Những con người thiếu ăn sống vật vờ và chết đói. Hoàn cảnh bi đát như vậy nhưng Tràng chàng trai bề ngoài xấu xí đã có vợ, họ gặp nhau đều là những người cùng chung cảnh ngộ.
Ai nấy đều bất ngờ trong khi mẹ Tràng (bà cụ Tứ) đón nhận người con dâu tâm trạng vừa mừng, vừa lo âu nhưng không hề tỏ ra rẻ rúng người phụ nữ đã theo con mình. Bà cầu chúc và hi vọng hai đứa sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Ngày hôm sau bà cụ Tứ và cô dâu dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ. Tràng thấy vậy càng hiểu mình phải có trách nhiệm với nhà và với người vợ mới. Bà cụ Tứ chuẩn bị bữa ăn cho gia đình hai con vài bát cháo loãng và một nồi chè cám, tuy đơn sơ nhưng lại vô cùng vui vẻ, ấm áp.
Tiếng trống dồn dập vang lên và trong đầu Tràng hiện lên hình ảnh người dân bị đói đang kéo nhau đi phá kho thóc Nhật chia cho người nghèo, phía trước đó là lá cờ đỏ bay phất phới trong gió.

Số 25: Tóm tắt tác phẩm Vợ nhặt ngữ văn 12
Vợ nhặt là một truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân, in trong tập Con chó xấu xí. Tác phẩm ban đầu có tên là Xóm ngụ cư, viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Bản thảo sau này được viết lại.
Cái đói tràn xuống chợ, trẻ con ủ rũ, người lớn dật dờ, lặng lẽ. Tràng bông dắt người đàn bà xa lạ ấy về. Trẻ con có đứa gào lên “chông vợ hài”, người lớn bàn tán, những khuôn mặt u tối của họ như rạng rỡ lên. Về đến cái nhà vắng teo, bà cụ Tứ, mẹ Tràng về muộn; Tràng loanh quanh hết ra lại vào. Người đàn bà theo Tràng trong hoàn cảnh không ngờ. Hai lần gặp, và câu đùa với bốn bát bánh đúc người đàn bà ăn một chập và cái “chặc lưỡi” của Tràng.
Bà cụ Tứ về, Tràng reo lên, bà ngạc nhiên. Thấy trong nhà có người đàn bà, lại chào bà là u, bà càng ngạc nhiên. Được Tràng giải thích, bà nín lặng. Bao nỗi niềm xáo trộn trong lòng bà. Nói chuyện với con dâu, bà khóc. Tràng bật lửa thắp đèn, bà vội lau nước mắt… mùi đống rấm và tiếng hờ khóc ở những nhà trong xóm có người chết vẳng tới.
Sáng hôm sau, Tràng dậy muộn. Từ trong nhà đến ngoài sân đều đổi thay, gọn gàng, sạch sẽ. Tràng thấy có bổn phận với vợ và yêu cái nhà mình hơn. Bữa ăn chỉ có rau chuối rối chấm muối với mỗi người hai lưng bát cháo lõng bõng. Bà cụ Tứ nói toàn những chuyên vui vẻ. Bà mừng con dâu mới bằng nồi cháo cám mà bà gọi vui là “chè khoán”. Tiếng trống thúc thuế ngoài đình nổi lên. Bà cụ Tứ lại khóc. Trong óc Tràng bỗng hiện lên lá cờ đỏ và đoàn người trên đê Sộp đi phá kho thóc.
Số 26: Tóm tắt Vợ nhặt ngắn gọn
Tác phẩm Vợ nhặt đã được viết trên nền nạn đói của năm Ất Dậu. Truyện đã kể về một nhân vật Tràng có ngoại hình thì rất thô kệch và xấu xí, làm nghề kéo xe thuê. Tràng đã nhặt được một cô vợ ở ngoài tỉnh giữa lúc trời đất tối sấm lại vì đói khát. Chị cũng nghèo khổ nhưng Chị liều lĩnh, hai người đã gặp được nhau chỉ vỏn vẹn hai lần, với vài câu bông đùa đã theo không Tràng về làm vợ mà không chút đòi hỏi hay nghi ngờ gì. Vậy là cả hai thân phận đều bọt bèo dạt đến với nhau.
Tràng đã mang người vợ của mình về trong buổi chiều chạng vạng trước sự ngạc nhiên với tất cả mọi người trong xóm ngụ dân cư. Bà cụ Tứ thấy vậy con trai liền dẫn người vợ nhặt về đã ngạc nhiên và tâm trạng ấy đã đan xenvào cảm xúc, lo âu, hờn tủi nhưnglại bộc lộ được rõ nhất là tình thương và tấm lòng bao dung của người mẹ nhân hậu. Cuối cùng cái đói quắtđó cũng có thể se duyên đi cho một mối tình. Thị trở nên rất dịu dàng, ngượng ngùng khác hẳn so với sự đanh đá, chỏng lỏn, từ khi Tràng có vợ thig cũng luôn lạc quan, sống vui và ý nghĩa hơn.
Kết thúc truyện ta có thể thấy được rằng Tràng đã có một gia đình và mọi người đã cùng nhau vun vén hạnh phúc và cố làm cho nhau để được vui với bữa ăn loãng thếch và cuộc sống dường như có tia hy vọng mới khi một câu chuyện về phá kho thóc ở Nhật và hình ảnh ấy là lá cờ đỏ phấp phới trong óc của anh Tràng.
Số 27: Tóm tắt Vợ nhặt
Năm 1945, nạn đói khủng khiếp xảy ra lan tràn khắp nơi trên cả nước, người chết như rạ, người sống cũng dật dờ như những bóng ma. Tràng là chàng trai xấu xí thô kệch, ế vợ, Tràng sống ở xóm ngụ cư. Anh làm nghề kéo xe bò thuê và sống cùng người mẹ già. Một lần kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh Tràng đã quen với một cô gái.
Vài ngày sau gặp lại, Tràng không còn nhận ra cô gái ấy, bởi vẻ tiều tụy, đói rách làm cô đã khác đi rất nhiều. Tràng đã mời cô gái một bữa ăn, cô gái liền ăn một lúc bốn bát bánh đúc. Sau một câu nói nửa thật, nửa đùa, cô gái đã theo anh về nhà làm vợ. Việc Tràng nhặt được vợ đã làm cả xóm ngu cư ngạc nhiên, nhất là bà Cụ Tứ (mẹ của Tràng) cũng không nổi bàng hoàng ngạc nhiên và lo lắng nhưng rồi bà cụ cũng đã hiểu ra và chấp nhận người con dâu ấy.
Trong bữa cơm” đón nàng dâu mới, họ chỉ với một bữa cháo kèm theo là nồi cháo cám bà cụ tứ dành cho nàng dâu nhân bữa cơm đón nàng dâu mới với tấm lòng độ lượng, bao dung. Tác phẩm kết thúc ở chi tiết vào buổi sáng hôm sau tiếng trống thúc thuế dồn dập, quạ đen bay vù như mây đen. Thị nói về chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật và Tràng nhớ lại hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới hôm nào.

Số 28: Tóm tắt tác phẩm Vợ nhặt
Câu chuyện trong tác phẩm Vợ nhặt xảy ra tại thời điểm nạn đói vào năm 1945 đang xảy ra và cướp đi sinh mạng của hàng triệu người đã chết đói vì thiếu lương thực. Hoàn cảnh lúc bấy giờ rất thê lương, đến ăn cũng không đủ không nói đến những nhu cầu cơ bản khác.
Trong hoàn cảnh đó chàng trai tên là Tràng với ngoại hình xấu xí, thô kệch lại cưới được vợ mà đó lại là vợ nhặt. Khi nghe tin Tràng cưới vợ cả xóm đều ngạc nhiên và cả lo lắng, nhất là mẹ của Tràng, bà cụ Tứ vui buồn lẫn lộn, vui khi con trai xấu xí, thô kệch đã có vợ nhưng vô cùng lo lắng khi lại có thêm một miệng ăn trong khi hoàn cảnh thiếu ăn. Khi con có vợ bà chỉ đến chúc phúc khuyên vợ chồng hãy sống tốt.
Ngày hôm sau nhờ con dâu mới mà nhà cửa đều gọn gàng sạch sẽ. Bữa cơm gia đình lại có thêm sự xuất hiện của nàng dâu mới, bà cụ trò chuyện vui vẻ và hy vọng tương lai của hai đứa sẽ tươi sáng, cả nhà chỉ có “nồi chè khoán” do chính tay cụ Tứ nấu nhưng không khí lại rất vui vẻ, nồi chè tuy chát đắng khó ăn những thể hiện được tấm lòng người mẹ yêu thương và mong muốn con mình được hạnh phúc.
Đang trong bữa ăn vui vẻ thì tiếng trống thúc thuế vang lên, lúc này chàng trai Tràng nghĩ tới lá cờ đỏ đang tung bay phất phơ và nhiều người đang đi phá kho thóc chia cho dân
Số 29: Tóm tắt bài Vợ nhặt
Truyện ngắn vợ nhặt đã dựng lên một sự thật đau lòng lúc bấy giờ, con người phải vật vờ sống qua ngày với xung quanh là cái đói bao trùm, ám ảnh. Người nông dân như bị đẩy đến bước đường cùng, bị cái đói làm cho méo mó nhân cách, nhưng họ vẫn sẵn sàng chia sẻ cho nhau từng miếng cơm, manh áo và cùng nhau mơ về một tương lai tươi sáng.
Nhân vật chính trong tác phẩm vợ nhặt là Tràng, một thanh niên nghèo lại là dân ngụ cư. Trong một lần đẩy xe thóc lên tỉnh thì tình cờ nhặt được vợ. Cô vợ nhặt đã tình nguyện theo Tràng chỉ sau một câu nói đùa và 4 chén bánh đúc. Họ cùng nhau về mái nhà cũ nát và chia sẻ những ngọt bùi, cay đắng với nhau.
Người mẹ của Tràng, cụ Tứ luôn an ủi người vợ nhặt về một tương lai tươi sáng hơn. Cuối tác phẩm là hình ảnh phá kho thóc Nhật của Việt Minh và hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới dấy lên hy vọng cho những người dân nghèo đang trong cảnh lầm than.
Số 30: Tóm tắt Vợ nhặt ngắn nhất
Tác phẩm là câu chuyện tái hiện lại nạn đói năm 1945. Cảnh tượng đói nghèo, thiếu lương thực, sống dở, chết dở không khỏi xót xa lúc bấy giờ. Trong hoàn cảnh éo le ấy, có một chàng trai tên Tràng, ngoại hình xấu xí nhặt được vợ, họ gặp nhau và đến với nhau vì cùng chung cảnh ngộ.
Hàng xóm, mọi người không khỏi ngạc nhiên, bất ngờ, thế nhưng mẹ Tràng (bà cụ Tứ) lại vui vẻ đón nhận người con dâu nhưng trong lòng cũng không khỏi lo lắng cho hai đứa. Bà chỉ biết cầu mong và chúc phúc cho cả hai có được một cuộc sống hạnh phúc.
Ngày hôm sau, nhờ có con dâu mà mọi thứ trong nhà cũng đã được dọn dẹp sạch sẽ, gọn gàng. Nhìn thấy vậy, Tràng nhận ra rằng bản thân cần có trách nhiệm hơn với gia đình. Trong bữa ăn,mẹ Tràng chỉ có thể chuẩn bị cho hai con vài bát cháo loãng và một “nồi chè khoán”.
Bỗng xuất hiện tiếng trống dồn dập vang lên. Trong đầu Tràng hiện lên những hình ảnh người dân trong nạn đói đang kéo nhau đi phá kho thóc Nhật chia cho người nghèo, cùng với chiếc cờ bay trong làn gió.

Tổng kết
Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 30 mẫu tóm tắt Vợ nhặt chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 12.