Tổng hợp các bài mẫu soạn bài Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 10 mẫu soạn văn bài Người lái đò Sông Đà chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!
Top 10 mẫu soạn bài Người lái đò Sông Đà
Số 1: Soạn bài Người lái đò Sông Đà
– Người lái đò sông Đà là bài tùy bút được in trong tập sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân.
– Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: Uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm cho ra chữu nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay động người đọc nhiều nhất.
Câu 1 (trang 192 sgk Ngữ Văn 12 Tập 1):
Sông Đà, tập bút kí đặc sắc trong đó Người lái đò sông Đà là thành quả của nghệ thuật có được từ chuyến đi gian khổ và hào hứng của nhà văn Nguyễn Tuân đến miền Tây Bắc.
– Tác phẩm từ chất liệu thực tế đầy sinh động, chân thực, cụ thể.
– Miêu tả cụ thể, chi tiết từ nhiều góc độ khác nhau.
→ Nhà văn đã quan sát rất công phu và tìm hiểu kĩ càng khi viết về sông Đà và người lái đò sông Đà.
Câu 2 (trang 192 sgk Ngữ Văn 12 Tập 1):
Tác giả dùng các biện pháp nghệ thuật để khắc họa hình ảnh của một con sông Đà hung bạo:
– Lối so sánh độc đáo: nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre,..
– Các cấu trúc câu trùng điệp: nước xô đá, đá xô sóng, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm.
– Phép nhân hóa: mặt nước hò la vang dậy.. ùa vào bẻ gãy cán chèo, cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu ngỉu cái mặt lá xanh lè..
→ Sự kết hợp các thủ pháp nghệ thuật đã tái hiện cảnh tượng của một sông Đà hùng vĩ, dữ dội.
Câu 3 (trang 192 sgk Ngữ Văn 12 Tập 1):
– Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà được thể hiện qua những góc nhìn khác nhau khi thì từ trên cao xuống, lúc lại được quan sát từ xa đến gần, khi thì là quan sát cận cảnh.
– Miêu tả những nét trữ tình của sông Đà, Nguyễn Tuân có cách liên tưởng bất ngờ: con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đàu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai..
– Những hình ảnh dịu dàng trong sáng đầy thi vị: màu nắng tháng ba Đường thi, con hươu, tiếng còi sương, tiếng các đập nước..
– Tác giả viết những câu văn như thơ về mặt ý tưởng và thanh điệu, dùng chen câu thơ của Tản Đà “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương” rất gợi tả dòng sông dịu dàng, thơ mộng, gắn bó thân thiết với con người.
Câu 4 (trang 192 sgk Ngữ Văn 12 Tập 1):
* Trong tác phẩm, người lái đò sông Đà được hiện lên như một con người lao động đồng thời như một nghệ sĩ.
– Ông bình tĩnh, ung dung đối đầu với sự hung bạo và nham hiểm của ghềnh thác sông Đà.
– Người lái đò như một viên tướng già xung trận, rất mực oai phong, tỉnh táo, tìm hiểu, nắm chắc đối phương ứng phó linh hoạt để giành phần thắng lợi.
– Cái chết kề bên nhưng mà khi vượt thác xong, người nghệ sĩ tài hoa vẫn: “ung dung đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, bàn tán về cá anh vũ và dường như quên ngay cuộc chiến đấu với thác ghềnh ban nãy”.
→ Vừa có tư thế vị anh hùng vừa có phong cách của một nghệ sĩ tài hoa tài tử.
* Với sức tưởng tượng sáng tạo của Nguyễn Tuân, đoạn tả cuộc chiến đấu ác liệt giữa người lái đó và thác dữ hiên lên trước mắt người đọc như một đoạn phim sôi động, hấp dẫn và đầy kịch tính.
– Thác dữ như kẻ thù, như những con vật hung ác được nhà văn thể hiện sinh động bằng các biện pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hóa: rống lên như tiếng ngàn trâu mộng, rung tít lên như tuyến bin thủy điện; Như thể quân liều mạng, dòng thác hùm beo đang hồng hộc thế mạnh.
– Còn người lái đò như thể một viên tướng giả xông vào trận đồ bát quái với muôn vàn hiểm ác.
→ Con người trí dũng tài nghệ tuyệt vời.
=> Qua đó có thể thấy, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người Tây Bắc mới xứng đáng là vàng mười của đất nước ta.
Câu 5 (trang 193 sgk Ngữ Văn 12 Tập 1):
Ví dụ: Đoạn văn viết về về vẻ trữ tình sông Đà với những câu văn mềm mại:
“ Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân…”
→ Sông Đà trên trang văn của Nguyễn Tuân đa sắc màu, có hồn, có một không hai trong lịch sử văn học nước nhà. Sông Đà thơ mộng đến độ tuyệt mĩ, tuyệt vời.
Cảm nghĩ đoạn văn mà mình yêu thích, có thể chọn đoạn văn miêu tả về vẻ đẹp trữ tình của sống Đà: Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân…”
– Nguyễn tuân đã tạo nên một bức tranh sông Đà nên thơ, nên họa trong những câu văn giàu nhạc điệu kết hợp các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa..
→ Sông Đà có thể sánh ngang với công trình tuyệt mĩ của tạo hóa.
– Sông Đà trên trang văn của Nguyễn Tuân đa sắc màu, có hồn, có một không hai trong lịch sử văn học nước nhà. Sông Đà thơ mộng đến độ tuyệt mĩ, tuyệt vời.

Xem thêm:
- Top 20 bài văn mẫu phân tích Người lái đò sông Đà hay nhất
- Top 10 mẫu dàn ý bài Người lái đò Sông Đà chi tiết nhất
- Top 10 mẫu sơ đồ tư duy bài Người lái đò Sông Đà chi tiết nhất
- Top 10 mẫu soạn văn bài Người lái đò Sông Đà chi tiết nhất
- Top 20 mẫu tóm tắt bài Người lái đò Sông Đà chi tiết nhất
Số 2: Soạn văn bài Người lái đò Sông Đà
I. HOÀN CẢNH SÁNG TÁC TÁC PHẨM NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Được sáng tác sau khi tác giả có chuyến đi miền Bắc vừa để thỏa mãn thú phiêu lãng vừa để tìm kiếm vẻ đẹp thiên nhiên cùng chất vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn của những con người lao động, chiến đấu trên miền sông núi hùng vĩ, thơ mộng đó. Tác phẩm là một bài tùy bút được in trong tập Sông Đà năm 1960.
II. TÓM TẮT TÁC PHẨM NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Tây Bắc vốn là nơi nổi tiếng bởi thiên nhiên hùng vĩ, minh chứng cụ thể nhất đó chính là con sông Đà. Thượng nguồn sông Đà mang vẻ đẹp dữ dội của đại ngàn: dựng đá vách thành và chỉ có đúng ngọ mới có thể thấy được mặt trời. Sóng đá dữ dội dàn thành các thạch trận xô nhau liên tiếp và dữ dội hơn trông sông Đà như sôi lên sùng sục, tiếng thác đá thì như ngàn con trâu mộng giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa. Nhưng có khi sông Đà lại dịu dàng tuôn dài như áng tóc trữ tình mang trong mình màu xanh của ngọc bích cùng màu đỏ của phù sa chứ không có màu đen như Pháp đã nói, sông Đà giống như một cố nhân lâu ngày gặp lại hai bên bờ tĩnh lặng nhưng tràn đầy sức sống. Hiện lên trên vẻ đẹp của Tây Bắc ấy là hình ảnh người lái đò đầy nghệ sĩ, hùng dũng dù rất bình dị đời thường. Ông lái đò vượt qua ba thạch trận với nhiều cửa tử, dù ngày nào cũng chiến đấu với dòng sông Đà dữ dội nhưng đêm lại trở về với những thứ bình dị và khiêm tốn.
III. BỐ CỤC TÁC PHẨM NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Tác phẩm có bố cục 3 phần như sau:
- Phần 1 (từ đầu cho đến “gậy đánh phèn”): Sự dữ dội và hung bạo của sông Đà.
- Phần 2 (tiếp theo cho đến “dòng nước sông Đà”): Cuộc sống con người trên dòng sông Đà và hình tượng của người lái đò.
- Phần 3 (còn lại): Vẻ hiền hòa và trữ tình của dòng sông Đà.
IV. HƯỚNG DẪN SOẠN TÁC PHẨM NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Câu 1: Chứng minh rằng Nguyễn Tuân đã quan sát công phu và tìm hiểu kỹ càng khi viết về sông Đà và người lái đò sông Đà. (SGK Ngữ văn 12 tập 1- trang 192)
Lời giải chi tiết:
Tác phẩm đã thể hiện sự quan sát công phu và tìm hiểu kỹ càng của Nguyễn Tuân trên các phương diện:
- Miêu tả sông Đà dựa trên những chi tiết cụ thể, sinh động và thực tế.
- Miêu tả từ nhiều góc độ độc đáo khác nhau như: Từ trên máy bay thấy sông Đà giống như một sợi dây thừng, trực tiếp ngồi trên thuyền tham gia hành trình trên sông Đà.
Câu 2: Trong thiên tùy bút, tác giả đã dùng biện pháp nghệ thuật nào để khắc họa được một cách ấn tượng hình ảnh con sông Đà hung bạo. (SGK Ngữ văn 12 tập 1- trang 192)
Lời giải chi tiết:
Tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa và so sánh để khắc họa hình tượng sông Đà như một con sông hung bạo:
- Đá bờ sông, dựng vách thành….Có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một yết hầu, lòng sông nằm gọn giữa hai bờ vách như hang động huyền bí.
- Khung cảnh mênh mông hàng cây số nước xô đá…như lúc nào cũng đòi nợ xuýt.
- Có thuyền đã bị xoáy nước hút tít lôi tuột xuống đáy sâu.
- Tiếng nước réo nghe như oán trách, lúc như van xin, khiêu khích, giọng gằn như chế nhạo.
⇒ Những biện pháp tu từ đã khiến sông Đà trở nên nổi bật với sức mạnh hoang dại cùng vẻ hùng vĩ, sự dữ tợn, táo bạo trước góc miêu tả tinh tế của tác giả.
Câu 3: Cách viết của nhà văn đã thay đổi thế nào khi chuyển sang biểu hiện sông Đà như một dòng chảy trữ tình. (SGK Ngữ văn 12 tập 1- trang 192)
Lời giải chi tiết:
– Tác giả đã có sự liên tưởng độc đáo: Sông Đà tuôn dài như áng tóc trữ tình của một người thiếu nữ.
– Dòng sông Đà được nhìn qua làn mây và qua cả ánh nắng với màu sắc:
- Xuân thì xanh như màu ngọc bích.
- Thu thì từ từ chín đỏ.
– Sông Đà gắn bó với con người như cố nhân.
– Bờ sông thì hoang dại và bình lặng như thời tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm của cổ tích xưa.
⇒ Dòng sông Đà trữ tình và hiền hòa, chính sự tài hoa của tác giả đã mang lại những áng văn với bức tranh trữ tình làm say đắm lòng người.
Câu 4: Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà trong cuộc chiến đấu với con sông hung dữ. Từ đó, hãy cắt nghĩa vì sao, trong con mắt Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người Tây Bắc mới thật xứng đáng là vàng mười của đất nước ta. (SGK Ngữ văn 12 tập 1- trang 192)
Lời giải chi tiết:
Hình ảnh người lái đò sông Đà trong cuộc chiến với dòng sông Đà hung bạo:
- Con người đời thường nhỏ bé, không vũ khi và không có phép màu nhưng vẫn chiến thắng được thạch trận đủ 3 lớp.
- Người lái đò được miêu tả là một người tài năng và nhanh trí, họ vượt thác cưới ghềnh, xé toang từ lớp này đến lớp khác trùng vi thạch trận.
- Những thằng đá tướng phải lộ sự tiu nghỉ và thất vọng qua bộ mặt xanh lè.
⇒ Người lái đò trên sông Đà đã chiến thắng trong trận chiến đầy cam go bằng sự ngoan cường, dũng cảm và vô cùng tài trí. Người lái đò đúng là vàng mười của đất nước và nó xứng đáng được tôn vinh, ca ngợi.
Câu 5: Chọn phân tích một số câu văn thể hiện rõ nhất nét tài hoa về bút pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân. (SGK Ngữ văn 12 tập 1- trang 192)
Lời giải chi tiết:
Một số câu văn trong bài thể hiện rõ nét nhất tài hoa về bút pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân là:
- Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì… với đàn trâu da cháy bùng bùng.
- Sóng nước như thế quân liều mạng vào sát vách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng vào hông thuyền.
- Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tính, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc….. nương xuân.
- Bờ sông hoang dại…. cổ tích tuổi xưa.
⇒ Hình ảnh dòng sông Đà hiện lên vừa thơ mộng, trữ tình lại vừa dữ dội, tàn bạo.
V. LUYỆN TẬP
Câu hỏi: Phân tích và phát biểu cảm nghĩ về một đoạn văn khiến anh (chị) thấy yêu thích, say mê nhất trong phiên tùy bút. (SGK Ngữ văn 12 tập 1- trang 193)
Lời giải chi tiết:
– Đoạn văn mà em yêu thích nhất trong bài là: Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân… Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra mà đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.
– Nội dung của đoạn văn:
- Tập trung miêu tả vẻ đẹp đầy chất tạo hình của sông Đà với hình dáng mơ mộng cùng những đường nét mềm mại, ẩn hiện với màu sắc dòng nước biến đổi theo mùa gây nên ấn tượng mạnh.
- Hiện diện cái tôi tác giả say đắm, nồng nhiệt với cảnh sắc thiên nhiên tinh tế mà độc đáo trong cảm nhận cái đẹp.
– Nghệ thuật của đoạn văn:
- Hình ảnh cùng ngôn từ mới lạ.
- Câu văn căng tràn và trùng điệp nhưng vẫn rất nhịp nhàng về âm thanh cũng như nhịp điệu.
- Các biện pháp so sánh và nhân hóa được sử dụng một cách táo bạo, kỳ thú với lối tạo hình giàu tính mỹ thuật, phối hợp nhiều góc nhìn theo kiểu điện ảnh.

Xem thêm:
- Top 50 mẫu mở bài hay Người lái đò Sông Đà chi tiết nhất
- Top 50 mẫu kết bài Người lái đò Sông Đà chi tiết nhất
- Top 20 mẫu phân tích hình tượng Người lái đò Sông Đà chi tiết nhất
- Top 15 mẫu phân tích hình tượng con Sông Đà chi tiết nhất
- Top 10 mẫu ý nghĩa lời đề từ người lái đò Sông Đà chi tiết nhất
Số 3: Soạn văn 12 bài Người lái đò Sông Đà
A) KIẾN THỨC CƠ BẢN
I. Tác giả
- Tiểu sử
– Nguyễn Tuân sinh ngày 10 – 7 – 1910, mất ngày 28 – 7 – 1987, là bậc thầy trong việc sáng tạo và sử dụng tiếng Việt. Tên ông được đặt cho một đường phố ở Hà Nội.
– Ông quê ở xã Nhân Mục, thôn Thượng Đình, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.
– Năm 1929, khi đang học đến cuối bậc trung học cơ sở thì Nguyễn Tuân bị đuổi vì tham gia một cuộc bãi khoá phản đối các giáo viên Pháp nói xấu người Việt. Sau đó ít lâu ông lại bị tù vì “xê dịch” qua biên giới không có giấy phép. Ở tù ra, ông bắt đầu viết báo, viết văn.
– Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội hoạ, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh…
– Ông còn là một diễn viên kịch nói và là diễn viên điện ảnh. Ông thường vận dụng con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn chương.
– Nguyễn Tuân là nhà văn thực sự quý trọng nghề viết văn. Đối với ông, nghệ thuật là một sự “khổ hạnh” đúng nghĩa.
– Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào năm 1987, để lại một sự nghiệp văn học phong phú với những trang viết độc đáo và đầy tài hoa. Năm 1996 ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).
- Sự nghiệp văn học.
– Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1930, nhưng nổi tiếng từ năm 1938 với các tác phẩm tuỳ bút, bút kí có phong cách độc đáo như Vang bóng một thời (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941)…
– Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Từ 1948 đến 1958, ông giữ chức Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam.
– Các tác phẩm chính sau cách mạng của Nguyễn Tuân là tập bút kí Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (1972), một số tập kí chống Mĩ (1965 – 1975) và nhiều bài tuỳ bút về cảnh sắc và hương vị đất nước.
- Phong cách.
– Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ “ngông”.
– Mỗi trang viết của ông đều muốn thể hiện sự tài hoa uyên bác. Mọi sự vật, hiện tượng được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá, mĩ thuật.
– Ông thường đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương sót lại và ông gọi là Vang bóng một thời. Văn Nguyễn Tuân vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại.
– Nguyễn Tuân học theo “chủ nghĩa xê dịch”. Ông là nhà văn của những tính cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió, bão, núi cao rừng thẳm, thác ghềnh dữ dội…
– Phong cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu.
– Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách Nguyễn Tuân có những thay đổi quan trọng. Ông vẫn tiếp cận thế giới, con người thiên về phương diện văn hoá nghệ thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ đây ông còn tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở cả quần chúng nhân dân. Chất giọng khinh bạc vẫn được duy trì và chủ yếu để dành cho kẻ thù của dân tộc hay những khía cạnh tiêu cực của xã hội.
II. Tác Phẩm Người Lái Đò Sông Đà
- Xuất xứ
– Là một trong số 15 bài được in trong tập tuỳ bút Sông Đà, xuất bản năm 1960. Đây là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958.
– Tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn sáng tác sau Cách mạng tháng Tám của Nguyễn Tuân. Nó thể hiện “độ chín mới về tư tưởng và nghệ thuật” (Nguyễn Đăng Mạnh).
- Bố cục
- Đoạn 1: “… Ông lái đò Lai Châu… với nhà đò”: Giới thiệu ông lái đò sông Đà.
- Đoạn 2: “Trên sông Đà… dòng nước sông Đà”; Hình ảnh con sông Đà và những cuộc vượt thác của ông lái đò.
- Đoạn 3: “Tôi có bay tạt ngang qua… ở Tây Bắc”: Con sông Đà hiền hoà và cuộc sống tươi vui ở ven bờ.
- Những giá trị nội dung, nghệ thuật
a) Hình ảnh sông Đà: Con sóng Tây Bắc hung bạo
– Dòng sông rất dữ dội (bờ đá dựng vách thành, chẹt lòng sông Đà khiến nó hẹp lại, dòng sông như một cái hang, tối, sâu và lạnh).
– Con sông luôn hung hăng, ưa gây sự: + Nó luôn chờ chực và giáng tại họa bất kì lúc nào vào người lái đò sông Đà: “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè ”
+ Dữ dội không chỉ ở trong lòng mà cả trên mặt sông: Mặt nước hò la vang dậy “ùa vào” như thế “quân liều mạng”, “đánh những đòn hiểm độc nhất”,…
– Tính cách hung bạo của sông Đà được biểu hiện ở những dòng thác, những luồng cửa tử giăng vây, chặn đánh, tấn công tới tấp ồ ạt vào người lái đò.
– Quả là chẳng khác gì một loài thuỷ quái khổng lồ vừa nham hiểm và hung dữ “thành ra diện mạo và tâm địa của một thứ kẻ thù số một” của con người.
Con sông Tây Bắc trữ tình: – Toàn cảnh con sống được ví như “một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải”, “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai”…
– Sông Đà có những “luồng êm” “đằm dịu” muôn đời “sông nước thanh bình”.
– Sắc nước sông Đà mang vẻ đẹp đặc trưng: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ…”.
– Sông Đà mang vẻ đẹp nguyên sơ: + Cảnh ven sông ở thượng nguồn lặng tờ, bây hươu an nhiên ngốn cỏ gianh đẫm sương, cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sống bụng trắng như bạc rơi thoi.
+ Có đoạn, có khúc sông “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử – Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
– Con sông ấy gợi nhớ cố nhân, gợi cảm xúc đặc biệt cho mỗi người khi tiếp xúc với tính cách trữ tình của nó: nó có chất Đường thi cổ điển, cái lặng lờ của nó gợi nhớ một quá khứ xa xăm từ thời Lí, Trần, Lê, nó “lững lờ nhớ thương” và “đang lắng tai nghe” với dáng vẻ rất dịu dàng, thầm kín.
b) Nhân vật người lái đò Sông Đà.
– Người lái đò có một ngoại hình và những tố chất đặc biệt: + Tuổi đã 70 mà trông rất tráng kiện: thân hình cao to, “gọn quánh như chất sừng, chất mun”.
+ Tiếng nói át cả sóng nước. Ngực, vai có những vết chai như những củ nâu mà Nguyễn Tuân gọi đó là thứ “huân chương lao động siêu hạng”.
– Hơn 10 năm cùng con thuyền xuôi ngược sông Đà, ông thông thuộc địa hình dòng sông như thuộc bàn tay mình.
– Là một người tài trí: sẵn sàng đối mặt với thần sông, thần đá, chinh phục mọi cửa tử cửa sinh.
– Dũng cảm đưa con thuyền “vút qua cổng đá cánh mở, cánh khép”, như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”… làm cho tên tướng đá “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng…”. Có lúc bị luồng nước đánh đòn ác hiểm nhưng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo điều khiển con thuyền thoát hiểm.
– Rất “tài tử”: Sau một ngày dài đọ trí thi tài với con thuỷ quái, ông ung dung đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, nói về cá anh vũ, những hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng.
– Lúc ngừng chèo, ông chẳng hề bận tâm về chuyện vượt thác, chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ, quân tợn.
– Nhân vật người lái đò là một hình tượng đẹp về người lao động mới. Xây dựng nhân vật này, Nguyễn Tuân muốn phát biểu một quan niệm: người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động thường ngày.
– Người lái đò Sông Đà thể hiện phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác, độc đáo trong thể tuỳ bút của Nguyễn Tuân. Nhiều biện pháp đã được sử dụng tài tình như: nhân hoá, so sánh, những ẩn dụ, từ tượng thanh, từ tượng hình,… Tiếng nói đời thường sông nước, ngôn từ nhà bình luận thể thao, điện ảnh… được ông vận dụng để miêu tả thác ghềnh, gây ấn tượng về sự dữ dội, hiểm trở, hùng vĩ của sông Đà.
B) TỰ LUẬN
- Hình tượng người lái đò trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả như thế nào?
Gợi ý làm bài
– Trong tùy bút Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ con sông Đà thơ mộng, với sức sống tiềm tàng, vừa dữ dội, mãnh liệt, vừa trữ tình, lãng mạn. Trên dòng sông hùng vĩ ấy, người lái đò hiện lên sừng sững, hiên ngang, đẹp như một bức tranh huyền thoại. Đấy là con người tồn tại trong tư thế chiến đấu: “Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Hình tượng người lái đò đã mang đậm phong cách Nguyễn Tuân – người say mê và suốt đời đi tìm cái đẹp.
– Lai lịch của người lái đò: Qua chuyện trò với tác giả, ta biết người lái đò đã 70 tuổi, làm nghề đò dọc mười năm liền và đã nghỉ làm nghề đôi chục năm.
– Ngoại hình: Dấu ấn cuộc đời sống nước in đậm ở ngoại hình ông lão:
+ Tay ông lêu nghêu như cái sào.
+ Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng.
+ Giọng nói ko ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông.
+ Thị lực vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù.
– Ngoại hình người lái đồ hiện lên sắc nét nhất là trong cuộc chiến đấu với thạch trận trên sông: “Nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đồ ghì cương lái, bám chắc lấy luông nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về cửa đá ấy”.
– Nguyễn Tuân qua những dòng miêu tả ngoại diện và lại lịch người lái đò là không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà còn để ca ngợi tài năng, ý chí, lòng dũng cảm, cũng như sự gắn bó, yêu quý nghề của ông lão. Trong câu văn của mình, Nguyễn Tuân luôn gửi gắm nhiều điều muốn nói. Tất cả nằm sâu dưới tầng chìm của tảng băng trôi.
– Tính cách người lái đò: Nổi bật nhất là sự từng trải và điêu luyện về tay nghề.
+ Người lái đò là một linh hồn muôn thuở của Sông Đà hay nói cách khác Sông Đà đã trở thành máu thịt của ông. Ông làm nghề đò đã mười năm liền, từng ngược hơn một trăm lần, tự tay ông giữ lái độ sáu chục lần.
+ Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện ở chỗ nắm thuộc lòng mọi ghềnh thác, mọi chỗ ngoặt, chỗ nông sâu của dòng sông. Cách miêu tả của Nguyễn Tuân rất chi li, tỉ mỉ mọi ngóc ngách của dòng Sông Đà bảy mươi ba con thác. Phải chi li, như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn bó của với nghề đến độ kì lạ ở ông lão lái đò. Đồng thời, đây cũng là cách Nguyễn Tuân bày tỏ nỗi thán phục của chính mình một con người tài hoa trước một con người tài hoa, giỏi tay nghề, như được sinh ra từ những con sóng dữ nơi thác nước Sông Đà.
– Lòng dũng cảm: Để chinh phục được Sông Đà, không chỉ dựa vào sự từng trải, tay nghề vững vàng mà người lái đò còn phải có lòng dũng cảm, mưu trí và ý chí quyết tâm cao. Nhà văn đặt nhân vật vào ngay hoàn cảnh thử thách khốc liệt, nơi đó, tất cả những phẩm chất tiềm tàng được bộc lộ, nếu không thì nhân vật sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Hành trình của ông lão lái đò trên Sông Đà là được ví như là hành trình đi đến với cuộc chiến khốc liệt, một cuộc thuỷ chiến không cân sức giữa con người trước thiên nhiên hùng vĩ đây nguy hiểm chết người. Cuộc chiến đó diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương vô cùng dũng mãnh: “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bên nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”.
– Thạch trận Sông Đà đã bày sẵn. Mỗi hòn đá trên sông đều có một nhiệm vụ là huỷ diệt bất kì ai đi vào lãnh địa mình. Thạch trận gồm có ba hàng, bày bố chặt chẽ hợp lí và sẵn sàng hỗ trợ nhau… Nếu người lái đó không vững tay lái thì ngay lập tức bị chúng vùi xuống dòng sâu.
– Được nhân cách hoá thành một tay đô vật lão luyện, Sông Đà bước vào sới vật với người lái đò. Chính xác hơn là người lái chủ động khiêu chiến. Khi Sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc là bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng đặng lật ngửa đối thủ ra “giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”, tay lái của ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí lão lái con thuyền vượt qua ghềnh thác.
– Khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén cơn đau, “hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm”. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”.
– Đã nắm chắc “binh pháp của thần sông thần đá”, đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết, lối thoát duy nhất là xông thẳng vào chính cửa giữa: “Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lại được lượn được. Thế là hết thác”. Thạch trận hiểm nguy không ngăn nỗi người lái đò.
– Nghệ sĩ tài hoa: Hình ảnh ông lão lái đò được khắc hoạ như một nghệ sĩ tài hoa. Quan niệm của Nguyễn Tuân về tài hoa có nét đặc biệt. Ông không giới hạn vào giới nghệ sĩ mà mở rộng ra nhiều đối tượng. Bất kì ai thực hiện tốt công việc của mình một cách tinh vi và siêu phàm, bằng một tay nghề điêu luyện và bằng nỗ lực phi thường của cả tâm hồn thì người đó đều xứng danh là tài hoa nghệ sĩ. .
– Kĩ thuật vượt thác của ông lão lái đò được nâng lên thành nghệ thuật. Ông lão trở thành người nghệ sĩ tài hoa trên con thuyền vượt thác. Với người ngoài, đấy quả là một chiến công phi thường. Nhưng với ông lão, công việc vượt thác là nhiệm vụ là nghề mưu sinh. Vả lại trong đời ông đâu chỉ vượt thác một lần!
– Nét nghệ sĩ hào hoa ở người lái đò còn được thể hiện ở hành động ung dung bên bếp lửa sau khi trận đánh với Sông Đà kết thúc.
– Phong thái của ông lão ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: “Sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi”.
– Hành động của người lái đò tựa những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để khai sinh nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về thành quả lao động của mình. Nguyễn Tuân đưa ra lời nhận xét: “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo”.
– Phẩm chất anh hùng, tay nghề lão luyện của người lái đò là dễ thấy, những phẩm chất nghệ sĩ tài hoa ở người lái đò thì chỉ riêng Nguyễn Tuân thấy được mà thôi. Đây chính là tấm lòng trân trọng mà Nguyễn Tuân dành cho những người lao động chân chính. Phẩm chất anh hùng của con người không chỉ diễn ra trên mặt trận máu đổ đầu rơi mà còn thể hiện trong lao động. Nhờ lao động, nhờ niềm đam mê cháy bỏng của một tâm hồn yêu nghề, người lái đò đã viết nên thiên huyền thoại cho chính mình: Nghệ sĩ tài hoa trên thác nước.
– Nguyễn Tuân trong tác phẩm của mình thường xây dựng nhân vật chính diện tài hoa, nghệ sĩ. Trước cách mạng tháng Tám 1945, Nguyễn Tuân khai thác cái tài hoa ở lớp nhà nho trong quá khứ. Sau cách mạng, cùng với những chuyển biến phi thường của dân tộc, đất nước, tư tưởng của Nguyễn Tuân cũng có nhiều thay đổi.
– Trong Người lái đò Sông Đà và nhiều tác phẩm khác được sáng tác khi nước nhà giành được độc lập, Nguyễn Tuân đã phát hiện và khẳng định cái đẹp ở ngay trong cuộc sống lao động hằng ngày của người dân.
– Ông lão lái đò không tên tuổi, hành nghề nơi xa xôi, hẻo lánh trên những ngọn thác hoang vu, khuất nẻo kia là cả một thiên hùng ca, ngợi ca con người bằng những tình cảm chân thành nhất, một con người lao động. Và cái đẹp toả sáng trong lao động sẽ là cái đẹp thiết thực, gắn với cái thiện và cái hữu ích. Cảm hứng ngợi ca đã góp phần đắc lực trong việc khắc tạo nên một hình tượng kì vĩ, đầy sức sống.
- Hình tượng Sông Đà trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân được khắc họa như thế nào?
Gợi ý làm bài
– Sông Đà là nguồn mạch vô tận trong sáng tạo nghệ thuật. Đấy là con sông có “cá tính”: “Chúng thuỷ giai đông tẩu / Đà giang độc bắc lưu” (Mọi con sông đều chảy theo hướng đông, chỉ có sông Đà theo hướng Bắc, Nguyễn Quang Bích).
– Vì vậy, Sông Đà trở thành dòng sông ánh sáng, của nhiều nguồn mạch sáng tạo cho thơ, nhạc, hoạ… Đến Nguyễn Tuân, bằng tài năng và phong cách độc đáo của mình, dòng sông ấy càng trở nên hấp dẫn, gợi cảm, làm đắm say hàng triệu con tim người đọc.
– Bằng nghệ thuật nhân cách hoá và vận dụng nhiều liên tưởng hấp dẫn, Sông Đà dưới ngòi bút Nguyễn Tuân trở nên một “nhân vật” có diện mạo, có tâm lí với hai nết tính cách tiêu biểu là vừa hung dữ, vừa hết sức trữ tình: “Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình”.
– Con sông hung bạo: + Khi hung bạo, Sông Đà là “kẻ thù số một”, với sức mạnh sẵn có của mình, nó sẵn sàng cướp đi mạng sống con người. Tính chất hung bạo ấy ra đời trên cơ sở của sự hùng vĩ của dòng sông. Để khắc hoạ tính cách của sông Đà, tác giả đã dựng lại khúc sông nguy hiểm: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành”, chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu.
+ Đó là quãng Hát Loóng dài hàng cây số “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy.
+ Một đoạn sông khác ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La, Sông Đà là cái hút nước “xoáy tít đáy”. “Có những thuyền đã bị nó hút tụt xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới dòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.
+ Dữ dội nhất trên Sông Đà là ở những thác đá. Ban đầu là âm thanh, một sự cảm nhận từ xa. Đấy là thứ tiếng gào thét bằng trăm ngàn giọng khác nhau. Chưa thấy sông nhưng người ta đã bị đe doạ bởi tiếng thác nước nghe như oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng nghe gằn mà chế nhạo”. Các chất giọng này không chỉ diễn tả sự đa dạng trong nỗi hung bạo của nó mà còn nhấn mạnh Sông Đà là một tạo vật có hồn.
– Về hung bạo, mưu mô, xảo quyệt, mánh khoé… của Sông Đà được đặc tả qua cuộc chiến với người lái đò. Thác đá được xếp thành từng tuyến của cái thạch trận trùng trùng hiểm trở, nhằm “ăn chết”, để “nhổm cả dậy để vồ” con thuyền đơn độc. Trận chiến có ba tuyến:
+ Tuyến một, thác đá mở ra năm của trận, bốn cửa tử, một cửa sinh cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn.
+ Tuyến hai, tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại nằm bên phía hữu ngạn.
+ Tuyến ba, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống nằm ở giữa. Người lái đò phải nhắm đúng giữa dòng, vào luồng sinh để vượt thoát qua.
– Khắc hoạ vẻ hung dữ của Sông Đà, Nguyễn Tuân dùng những câu văn dài ngắn không đều nhau tạo nên sự gân guốc, góc cạnh, giàu tính tạo hình, kết hợp với những câu nhiều động từ mạnh nối tiếp nhau, dồn dập: “Mặt trước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”.
– Thường xuyên sử dụng lối nói ví von, ẩn dụ, tượng trưng, liên tưởng đầy bất ngờ, chính xác, thú vị. Ông mô tả những hòn đá “trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”.
– Không chỉ là một vị tướng giỏi bày binh bố trận, đặc biệt tác giả còn ví Sông Đà giống như một tay đấu vật giỏi giang,… Những hình ảnh so sánh này gợi lại vốn văn hoá truyền thống quý báu của dân tộc. Qua đó, Nguyễn Tuân bộc lộ tình cảm niềm tự hào lớn lao đối với tổ quốc tươi đẹp. Người đọc có thể nghe được trong đoạn văn ấy âm hưởng của những khúc ca hùng tráng ca ngợi sức mạnh tự nhiên thật hoang dại, cuồng nộ nhưng cũng hết sức tự do, hào phóng, kiêu hùng.
– Con sông trữ tình: Bằng nhãn quan của một cây bút lãng mạn bậc thầy, bao giờ Nguyễn Tuân cũng bố trí hình tượng của mình trong thế đối lập. Từ sự đối lập này, ông dễ dàng tạo nên được nét cá biệt cho diện mạo nhân vật. Vì lẽ đó, không chỉ Sông Đà đối lập với người lái đò mà ngay trong chính bản chất của mình Sông Đà chất chứa nhiều sự đối lập thú vị.
– Như chính tác giả quan niệm, bên cạnh tính cách hung bạo, Sông Đà lại rất trữ tình. Vẻ đẹp hùng tráng của nó gợi bao cảm xúc làm mê say lòng người.
– Ở khía cạnh trữ tình, “con Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo nương xuân”. Đấy là con sông yêu kiều, hiền hoà.
– Theo thời tiết từng mùa, Sông Đà hiện lên với những dáng vẻ khác nhau, đặc biệt là màu sắc. Không chỉ đẹp ở hình dáng, Sông Đà còn gợi cảm ở màu sắc, phải dày công quan sát mới thấy hết được vẻ đẹp có một không hai ấy: “Mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”…
– Nét trữ tình bao hàm cả không khí hoang dã, tĩnh lặng. Tác giả đã viết những câu thật xuất thần: “Bờ sông hoang dại như bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
– Không gian sống thấm đẫm chất thơ. Điểm tô cho bầu không khí lãng đãng thơ ấy, Nguyễn Tuân tả đàn hươu “cúi đầu ngón búp cỏ gianh đẫm sương đêm”, ngẩng đầu ngơ ngác mơ một tiếng còi xương, và cái “nắng tháng ba Đường thi” Giữa mùa hoa khói Dương Châu xuôi dòng (Yên ba tam nguyệt há Dương Châu), gợi tâm sự của bằng hữu tâm giao chớm gặp đã vội chia lìa. .
– “Sông Đà như một cố nhân”, trở thành tri âm tri kỉ muôn đời với nhà văn. Từ góc độ này, Sông Đà mang diện mạo của một thi sĩ đa tài, đa tình. Không còn chút tâm địa độc ác nào, mà chỉ thấy mối giao hoà thân ái giữa sông với người trong cảm thức của những cố nhân.
– Câu văn khắc hoạ dáng vóc trữ tình của Sông Đà trải dài, nhịp nhàng, cân đối, mang âm hưởng nhẹ nhàng, êm ái… Lòng người mênh mang theo dòng sông thơ mộng. Nhưng đâu đó trên những chặng dài lao mình ra biển, Sông Đà vẫn quặn đau với nhiều thác ghềnh hiểm trở.
Số 4: Bài soạn Người lái đò Sông Đà
- Trước hết, dòng sông Đà mang vẻ đẹp hung bạo, dữ dội.
– Hướng chảy của dòng sông gợi cho ta sự độc đáo, bất thường. Chung thuỷ giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu (Các dòng sông đều chảy về đông – Chỉ có sông Đà một mình chảy về phương Bắc).
– Bờ sông Đà (thượng nguồn) là cảnh tượng rất hiểm trở: “đá dựng vách thành”, chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu…
– Thác dày dặc, trong đó vô cùng độc dữ, nham hiểm là 73 cái thác ở phía thượng nguồn. Sự độc dữ của chúng hiện hình ngay qua tên gọi như: thác ổ gà, bãi Thằng Rồ, thác Từu ông Từu Bà…
– Ngay cát sông Đà cũng là cát dữ: nó đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vết hà đục thủng đáy thuyền gỗ…
– Gió trên sông Đà lại càng đáng sợ: gió cuồn cuộn từng luồng cứ gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt (nợ không có cũng đòi), bằng cách lật ngửa bụng thuyền ra.
– Đáng sợ hơn đó là các hút nước trên mặt sông: nước ở đây ặc ặc lên như rót dầu sôi vào, hễ thuyền bè đi qua vô ý là nó lôi tuột xuống đánh tan xác ở đáy sông…
– Âm thanh tiếng nước sông Đà cũng thật ghê gớm: như là oán trách, như van xin, như khiêu khích, rồi rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa…
– Song khủng khiếp nhất ở Đà giang là trùng vi trạch thuỷ trận: đó là bao đá nổi, đá chìm phối hợp cùng các luồng nước dàn bày thạch trận, ập thành ba phòng tuyến với cả tập đoàn cửa tử đầy những tướng đá, quân nước hung dữ…
- Sông Đà còn mang vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng – là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá.
– Dáng vẻ dòng sông đầy thơ mộng: Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc tung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân… Sông Đà như một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải.
– Sắc màu nước biển đổi kì ảo theo từng mùa: Mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích, mùa thu từ từ chín đỏ..
Bài tuỳ bứt khắc họa hình ảnh người lái đò sông Đà.
– Vẻ đẹp khoẻ khoắn, cường tráng: dẫu đã bảy mươi tuổi nhưng ông lái vẫn có “thân hình cao to và gọn quáng như chất sừng, chất mun… Cánh tay vẫn là của một chàng trai trẻ tráng”.
– Sự lão luyện, tinh thông trong nghề nghiệp: ông lái đò hết sức am tường con sông Đà, có thể “nhớ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Sông Đà đôi với ông lái đò ấy, như một thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Trên dòng sông Đà hung bạo ấy, ông đã xuôi ngược hơn cả trăm lần…
– Vẻ đẹp nổi bật của người lái đò là vẻ đẹp của Trí – Dũng – Tài hoa: người lái đò hiện lên như vị chỉ huy dạn dày kinh nghiệm, nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, linh hoạt thay đổi chiến thuật để lần lượt vượt qua từng phòng tuyến. Ông lái đò điều khiển con thuyền bằng bản lĩnh già dặn, lòng dũng cảm và tài hoa của một nghệ sĩ, tay lái ra hoa. Điều đó thể hiện qua việc ông chỉ huy con thuyền vượt qua “trùng vi thạch trận” dữ dằn, nham hiểm.
Vẻ đẹp hùng sĩ và tài hoa nghệ sĩ của người lái đò vẫn áng lên ngay cả khi đã vượt qua hết trùng vi thạch trận: họ đốt lửa trong hang đá, nước ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá đầm xanh… chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng thác ghềnh nguy hiểm vừa qua…
– Ý nghĩa của hình tượng ông lái đò:
+ Ca ngợi những người lao động bình thường mà anh hùng, tài năng…
+ Bài ca về sự chiến thắng của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên.
+ Bày tỏ quan niệm về giá trị của con người – dù làm gì nhưng tinh thông trong nghề nghiệp của mình thì cũng thật vinh quang: theo nhà văn cái bầm tụ trên ngực người lái đò do đầu sào in dấu là một thứ huân chương lao động siêu hạng.
- Chủ đề: Tác phẩm là bài ca về vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên đất nước, là bài ca về những người lao động bình dị mà anh hùng, khẳng định sự chiến thắng của con người trước thiên nhiên dữ dội
- Đặc sắc nghệ thuật:
– Bài tuỳ bút đã sử dụng những kiến thức liên ngành đa dạng: lịch sử, địa lí, võ thuật, điện ảnh, hội hoạ, điêu khắc…
– Nghệ thuật nhân hoá, so sánh của nhà văn rất táo bạo. Mỗi so sánh trong tác phẩm thực sự là một phát hiện sắc sảo, độc đáo về sông Đà.
– Ngôn ngữ rất phong phú, tinh tế, chính xác, câu văn giàu tính tạo hình, giàu nhạc điệu.

Số 5: Soạn bài Người lái đò Sông Đà chi tiết
I. Bố cục
– Phần 1 (từ đầu đến “cái gậy đánh phèn”): Sông Đà hung bạo, khiêu khích.
– Phần 2 (tiếp đó đến “dòng nước sông Đà”): Vẻ đẹp người lao động trên sông Đà.
– Phần 3 (còn lại): Sông Đà thơ mộng, trữ tình.
II. Hướng dẫn học bài
Soạn Câu 1 ngắn nhất
– Tác giả phải quan sát kỹ càng thể hiện con sống Đà một cách chi tiết, cụ thể mà sinh động, hấp dẫn đến vậy: từ những thác nước dữ dội đến đá hai bên, từ thiên nhiên đến con người
– Tác giả quan, cảm nhận dòng sông bằng nhiều điểm nhìn khác nhau, tìm hiểu về từng đặc điểm tỉ mỉ, khai thác trên nhiều phương diện của dòng sông.
Soạn Câu 2 ngắn nhất
– Hình ảnh sông Đà hung bạo:
+ Lòng sông hẹp như cái yết hầu.
+ Đá bờ sông chẹt cứng vách thành.
+ Hút nước xoay tít, lôi mọi vật xuống hố sâu.
+ Trùng vi thạch trận chực chờ nhấn chìm thuyền và người lái đò.
+ Âm thanh dữ dội, gầm vang của thác nước: khi nỉ non, oán trách, khi lại khiêu khích, chế nhạo.
– Biện pháp nghệ thuật: liên tưởng, so sánh, nhân hóa, tưởng tượng.
+ ‘Bờ sông, dựng vách thành… có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một yết hầu, lòng sông như có chỗ nằm gọn giữa hai bờ vách như con hang động huyền bí”
+ Nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc,…..ằng ặc như vừa rót dầu sôi vào.
+ Tiếng nước réo nghe như oán trách, lúc như van xin, khiêu khích, giọng gằn như chế nhạo.
Soạn Câu 3 ngắn nhất
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà:
– Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình.
– Vẻ đẹp sông Đà đổi sắc theo mùa: mùa xuân nước xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ,…..
– Sông Đà giống như một cố nhân lâu ngày gặp lại, vừa ấm áp, vừa đằm thắm,….
– Con sông mang vẻ đẹp của Đường thi, sắc hoe hoe của nắng giòn tan như “yên hoa tam nguyệt”
– Bờ sông mang vẻ đẹp hồn nhiên, hoang dại như một bờ tiền sử, ánh lên những nỗi niềm cổ tích xa xưa.
=> Nhà thơ viết nên những áng văn đầy mềm mại vẽ nên một dòng sông đẹp mơ màng, mang cả dấu ấn văn hoá theo thời gian.
Soạn Câu 4 ngắn nhất
– Giữa thiên nhiên rộng lớn, con người làm chủ trước sự hùng vĩ của thiên nhiên, trở thành trung tâm của lao động.
– Vũ khí chiến đấu: con đò đơn đọc và cán chèo hùng dũng.
– Người lái đò là một con người nhiều kinh nghiệm, từng trải, hiểu đặc điểm đối thủ của mình và thành thạo nghề nghiệp.
– Là người dũng cảm, biết nắm bắt đúng thời điểm: vượt thác ghềnh, đập tan các trùng vi thạch trận được bố trí sẵn của dòng sông, thuần phục kẻ thù đầy hung hãn.
– Kết quả: giành chiến thắng trước thiên nhiên hung bạo.
=> Người lao động trở thành thứ vàng mười quý giá, qua sóng gió càng tôi luyện bản lĩnh, ý chí ngoan cường. Họ gắn bó với lao động, âm thầm vượt gian khó để góp xây cuộc đời, họ là những người kì vĩ, lớn lao.
=> Tác phẩm ca ngợi ý chí, ca ngợi những người lao động bền bỉ, vinh quang,thắng lợi huy hoàng của nhân dân trong lao động ngày đất nước hòa bình.
Soạn Câu 5 ngắn nhất
– “Con sông Đà tuôn dài như một áng trữ tình…”
– “ Bờ sông hoang dại… cổ tích tuổi xưa”
– Những câu văn khác khi miêu tả vẻ đẹp hung bạo của dòng sông.
Số 6: Soạn bài Người lái đò Sông Đà
I. Đọc hiểu chung
- Tác giả
Nguyễn Tuân là một người tri thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc.
Nguyễn Tuân là một nhà văn uyên bác tài hoa.
Nguyễn Tuân là người có cá tính mạnh mẽ và phóng khoáng, ông không thích những cái gì bằng phẳng nhợt nhạt, nhà văn luôn hứng thú với những biểu hiện mạnh mẽ phi thường của tạo vật và con người.
- Tác phẩm
Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tùy bút sông Đà (1960)
Tác phẩm là thành quả của nhà văn trong chuyến ông đi tới Tây Bắc tìm kiếm chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây bắc đặc biệt là chất vàng mười đã qua thử lửa ở tâm hồn con người lao động chiến đấu trên miền sông núi Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng.
Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn sau cách mạng tháng Tám.
II. Đọc hiểu chi tiết
- Hình tượng con sông Đà
Con sông Đà được nhân hóa như con người và mang hai nét tính cách cơ bản: hung bạo và trữ tình
Hung bạo:
- Cảnh đá ở bờ sông: đá dựng vách thành lòng sông hẹp, có quãng con hươi con nai còn nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia, nhìn từ dưới lên như nhìn lên cái tòa nhà cao vừa tắt phụt đèn điện.
- Mặt ghềnh Hát loong: dài hàng ngàn cây số, “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn, luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ suýt bất cứ ai đi qua quãng ấy.
- Cái hút nước giống như cái giếng bê tông, nước thở và kêu như cái cống cái bị sặc, tưởng tượng một anh quay phim táo bạo ngồi thuyền thúng mà cầm máy quay cùng chìm xuống cái xoáy ấy.
- Thác nước: tiếng nước gần mãi réo lên, lúc thì gầm réo oán trách van xin, khiêu khích, lúc thì nghe như đàn trâu mộng “…nổ lửa” → nghệ thuật lấy lửa tả nước.
- Đá ở lòng sông: như bày thạch trận
Thơ mộng: đi hết thượng nguồn đến hạ nguồn ta bắt gặp cảnh đẹp này.
- Hình dáng: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc… xuân” → đẹp như một người thiếu nữ.
- Màu nước sông Đà: thay đổi theo mùa: mùa xuân màu xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, chưa bao giờ nước sông Đà màu đen cả → đẹp độc đáo.
- Sông Đà gợi cảm:
- cố nhân
- con sông còn gợi lên những niềm thơ
- Cảnh hai bờ sông giống như một bờ tiền sử, cổ tích thơ mộng trữ tình và thanh vắng.
-> Tóm lại bằng tài năng uyên bác của mình Nguyễn tuân đã đưa người đọc đến với sông Đà cảm nhận được hai nét tính cách hung bạo và trữ tình của dòng sông. Hai nét tính cách đối lập nhưng lại thống nhất bổ sung cho nhau vì thế con sông Đà dưới trang viết của Nguyễn Tuân được xem như là một công trình nghệ thuật, một kì công của tạo hóa đã ban cho Tây Bắc.
- Hình tượng người lái đò
- Nguyễn Tuân nói về người lái đò là một tay lái ra hoa
- Ngoại hình: có ngoại hình độc đáo “tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh khuỳnh”
- Vẻ đẹp được thể hiện qua những lần vượt thác.
- Ông phải vượt qua 3 vòng thạch trận với vòng một có 5 cửa thì 4 cửa tử một cửa sinh lập lờ bên tả ngạn. Ông phải dùng hai chân kẹp chặt cuống lái, mặt méo bệch đi nhưng vẫn tỉnh táo chỉ huy để con thuyền vào cửa sinh.
- Vòng 2: tăng thêm nhiều cửa tử, 1 cửa sinh ở hữu ngạn -> ông nắm chặt bờm sóng ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước phóng vào cửa sinh. Ông phải thay đổi chiến thuật, chứng tỏ ông lái đò rất am hiểu về quân sự.
- Vòng 3: bên phải bên trái đều là cửa tử, cửa sinh ở giữa nhưng xung quanh lại có bọn đá hậu về. Ông lái đò cứ phóng thuyền chọc thẳng cửa giữa thuyền vút qua cổng mở cổng khép giống như một mũi tên tre xuyên qua hơi nước.
-> Qua đây ta thấy ông lái đò quả là một người rất dũng cảm am hiểu binh pháp của thần sông thần đá, ông dám đương đầu với những khắc nghiệt của thiên nhiên. Và nhân vật ông lái đò tiêu biểu cho nhân vật mà Nguyễn Tuân chọn cho các tác phẩm của mình sau cách mạng tháng Tám. Chúng ta không chỉ thấy nét tài hoa uyên bác với những người trí thức nữa mà ta còn thấy uyên bác tài hoa trong những con người lao động bình thường.
- Tổng kết
Nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hai hình tượng lớn trong tác phẩm. Đó là thiên nhiên Tây Bắc mà cụ thể là hình tượng con sông Đà mang vẻ đẹp hùng vĩ mà thơ mộng, và hình ảnh con người lao động Tây Bắc dũng cảm và tài hoa trong lao động. Có thể nói đấy chính là chất vàng thử lửa mà Nguyễn Tuân đã tìm thấy ở Tây Bắc.

Số 7: Soạn văn bài Người lái đò Sông Đà
Câu 1: Chứng minh rằng Nguyễn Tuân đã quan sát công phu và tìm hiểu kĩ càng khi viết về sông Đà và người lái đò sông Đà.
– Tác phẩm người Lái đò sông Đà thể hiện sự quan sát công phu, tìm hiểu kĩ càng của nhà văn trên các phương diện:
– Tác giả miêu tả sông Đà từ những chi tiết cụ thể, sinh động và thực tế.
– Tác giả miêu tả từ nhiều góc quan sát độc đáo khác nhau:
+ Từ trên máy bay thấy sông Đà như một sợi dây thừng.
+ Trực tiếp ngồi trên thuyền tham gia hành trình trên sông Đà.
– Nhờ có sự quan sát, tìm hiểu tỉ mỉ, kĩ càng, Nguyễn Tuân nắm chắc thủy trình và các đặc điểm cụ thể của sông Đà (vách đá, ghềnh Hát Lóong, hút nước, thác đá, màu nước, vẻ đẹp đôi bờ…); Miêu tả tỉ mỉ, sinh động ba vòng thạch trận của sông Đà; Hiểu rõ sự nguy hiểm và vẻ đẹp, tính cách của con Sông độc đáo này.
– Qua đó nắm chắc vẻ đẹp phẩm chất và tài nghệ chèo đò vượt thác của ông đò: miêu tả tỉ mỉ, ngoạn mục tài hoa của ông đò khi vượt qua ba trùng vây thạch trận của sông Đà; thấy được vẻ đẹp bình dị của ông đò sau khi vượt thác.
Câu 2: Trong thiên tùy bút, tác giả đã dùng biện pháp nghệ thuật nào để khắc họa được một cách ấn tượng hình ảnh con sông Đà hung bạo?
Trả lời:
Tác giả vận dụng tài tình các biện pháp so sánh, nhân hóa kết hợp với ngôn ngữ miêu tả đầy tính tạo hình đã làm nổi bật lên sự hung bạo của dòng sông Đà. Sức mạnh hoang dại, vẻ đẹp kì vĩ và sự hung dữ của con sông qua góc nhìn và sự miêu tả tinh tế của Nguyễn Tuân:
– Bờ sông Đà (thượng nguồn) là cảnh tượng rất hiểm trở: “đá dựng vách thành”, chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu…
– Thác dày dặc, trong đó vô cùng độc dữ, nham hiểm là 73 cái thác ở phía thượng nguồn. Sự độc dữ của chúng hiện hình ngay qua tên gọi như: thác ổ gà, bãi Thằng Rồ, thác Từu ông Từu Bà…
– Ngay cát sông Đà cũng là cát dữ: nó đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vết hà đục thủng đáy thuyền gỗ…
– Gió trên sông Đà lại càng đáng sợ: gió cuồn cuộn từng luồng cứ gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt (nợ không có cũng đòi), bằng cách lật ngửa bụng thuyền ra.
– Đáng sợ hơn đó là các hút nước trên mặt sông: nước ở đây ặc ặc lên như rót dầu sôi vào, hễ thuyền bè đi qua vô ý là nó lôi tuột xuống đánh tan xác ở đáy sông…
– Âm thanh tiếng nước sông Đà cũng thật ghê gớm: như là oán trách, như van xin, như khiêu khích, rồi rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa…
– Song khủng khiếp nhất ở Đà giang là trùng vi trạch thuỷ trận: đó là bao đá nổi, đá chìm phối hợp cùng các luồng nước dàn bày thạch trận, ập thành ba phòng tuyến với cả tập đoàn cửa tử đầy những tướng đá, quân nước hung dữ…
Câu 3: Cách viết của nhà văn đã thay đổi thế nào khi chuyển sang biểu hiện sông Đà như một dòng chảy trữ tình?
Trả lời:
– Dáng vẻ dòng sông đầy thơ mộng: Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc tung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân… Sông Đà như một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải. Sông Đà mang vẻ đẹp của một người thiếu nữ.
– Sắc màu nước biển đổi kì ảo theo từng mùa: Mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích, mùa thu từ từ chín đỏ..
– Sông Đà mang vẻ đẹp gợi cảm:
+ Dòng sông Đà trở về dòng chảy êm đềm, miên man, đầy quyến rũ.
+ Sông Đà được nhìn như một cố nhân, thể hiện mối tri âm, tri kỉ của tác giả với con sông.
+ Bờ sông hoang dại, bình lặng như thời tiền sử – hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa – Dòng sông lặng lờ trôi.
=> Sông Đà rất mực trữ tình hiền hoà. Sự tài hoa của ông đã mang đến những áng văn với bức tranh trữ tình đủ để lòng người say đắm, ngất ngây.
Câu 4: Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà trong cuộc chiến đấu với con sông hung dữ. Từ đó, hãy cắt nghĩa vì sao, trong con mắt Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người Tây Bức mới thật xứng đáng là vàng mười của đất nước ta.
Trả lời:
– Bài tuỳ bứt khắc họa hình ảnh người lái đò sông Đà.
– Vẻ đẹp khoẻ khoắn, cường tráng: dẫu đã bảy mươi tuổi nhưng ông lái vẫn có “thân hình cao to và gọn quáng như chất sừng, chất mun… Cánh tay vẫn là của một chàng trai trẻ tráng”.
– Sự lão luyện, tinh thông trong nghề nghiệp: ông lái đò hết sức am tường con sông Đà, có thể “nhớ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Trên dòng sông Đà hung bạo ấy, ông đã xuôi ngược hơn cả trăm lần…
– Vẻ đẹp nổi bật của người lái đò là vẻ đẹp của Trí – Dũng – Tài hoa: người lái đò hiện lên như vị chỉ huy dạn dày kinh nghiệm, nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, linh hoạt thay đổi chiến thuật để lần lượt vượt qua từng phòng tuyến. Ông lái đò điều khiển con thuyền bằng bản lĩnh già dặn, lòng dũng cảm và tài hoa của một nghệ sĩ, tay lái ra hoa. Điều đó thể hiện qua việc ông chỉ huy con thuyền vượt qua “trùng vi thạch trận” dữ dằn, nham hiểm.
– Ý nghĩa của hình tượng ông lái đò:
+ Ca ngợi những người lao động bình thường mà anh hùng, tài năng…
+ Bài ca về sự chiến thắng của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên.
+ Bày tỏ quan niệm về giá trị của con người – dù làm gì nhưng tinh thông trong nghề nghiệp của mình thì cũng thật vinh quang: theo nhà văn cái bầm tụ trên ngực người lái đò do đầu sào in dấu là một thứ huân chương lao động siêu hạng.
Câu 5: Chọn phân tích một số câu văn thể hiện rõ nhất nét tài hoa về bút pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.
Trả lời:
Một số câu văn thể hiện rõ nhất nét tài hoa về bút pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân là:
– “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, …. với đàn trâu da cháy bùng bùng.”.
– “Sóng nước như thế quân liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng vào hông thuyền.”.
– “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tính, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc …. nương xuân.”.
– “Bờ sông hoang dại …. cổ tích tuổi xưa.”.
Số 8: Soạn văn 12 bài Người lái đò Sông Đà
Câu 1 SGK
Sông Đà là tập bút kí đặc sắc của Nguyễn Tuân, trong đó Người lái đò sông Đà là thành quả của nghệ thuật có được từ chuyến đi gian khổ và hào hứng của nhà văn đến miền Tây Bắc.
– Tác phẩm từ chất liệu thực tế đầy sinh động, chân thực, cụ thể.
– Miêu tả cụ thể, chi tiết từ nhiều góc độ khác nhau.
→ Nhà văn đã quan sát rất công phu và tìm hiểu kĩ càng khi viết về sông Đà và người lái đò sông Đà.
Câu 2 SGK
Các biện pháp nghệ thuật để khắc họa hình ảnh của một con sông Đà hung bạo:
– So sánh độc đáo: nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre,..
– Sử dụng cấu trúc câu trùng điệp: nước xô đá, đá xô sóng, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm.
– Nghệ thuật nhân hóa: mặt nước hò la vang dậy… ùa vào bẻ gãy cán chèo, cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu ngỉu cái mặt lá xanh lè…
→ Sự kết hợp các thủ pháp nghệ thuật đã tái hiện cảnh tượng của một sông Đà hùng vĩ, dữ dội.
Câu 3 SGK
Sự thay đổi trong cách viết của Nguyễn Tuân khi chuyển sang biểu hiện sông Đà như một dòng chảy trữ tình:
– Tác giả miêu tả vẻ đẹp trữ tình của sông Đà qua những góc nhìn khác nhau: từ trên cao xuống, từ xa đến gần, quan sát cận cảnh.
– Khi miêu tả những nét trữ tình của dòng sông, tác giả có cách liên tưởng bất ngờ: con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai…
– Tác giả cũng sử dụng những hình ảnh dịu dàng, trong sáng, đầy thi vị: màu nắng tháng ba Đường thi, con hươu, tiếng còi sương, tiếng các đập nước..
– Những câu văn được tác giả viết tựa như thơ về mặt ý tưởng và thanh điệu, dùng chen câu thơ của Tản Đà “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương” rất gợi tả sự dịu dàng, thơ mộng, gắn bó thân thiết với con người của dòng sông Đà.
Câu 4 SGK
Hình tượng người lái đò sông Đà trong cuộc chiến đấu với con sông hung dữ vừa có tư thế vị anh hùng vừa có phong cách của một nghệ sĩ tài hoa tài tử:
– Ông lái đò bình tĩnh, ung dung đối đầu với sự hung bạo và nham hiểm của ghềnh thác sông Đà.
– Ông lái đò như một viên tướng già xung trận, rất mực oai phong, tỉnh táo, tìm hiểu, nắm chắc đối phương ứng phó linh hoạt để giành phần thắng lợi.
– Cái chết kề bên nhưng mà khi vượt thác xong, người nghệ sĩ tài hoa vẫn “ung dung đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, bàn tán về cá anh vũ và dường như quên ngay cuộc chiến đấu với thác ghềnh ban nãy”.
Trong con mắt Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người Tây Bức mới thật xứng đáng là vàng mười của đất nước ta, vì:
– Thác dữ như kẻ thù, như những con vật hung ác: rống lên như tiếng ngàn trâu mộng, rung tít lên như tuyến bin thủy điện; Như thể quân liều mạng, dòng thác hùm beo đang hồng hộc thế mạnh.
– Còn người lái đò như thể một viên tướng già xông vào trận đồ bát quái với muôn vàn hiểm ác.
→ Con người trí dũng tài nghệ tuyệt vời.
Câu 5 SGK
Ví dụ: Đoạn văn viết về vẻ đẹp trữ tình của sông Đà với những câu văn mềm mại:
“Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng Hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân…”
→ Sông Đà trên trang văn của Nguyễn Tuân đa sắc màu, có hồn, có một không hai trong lịch sử văn học nước nhà. Sông Đà thơ mộng đến độ tuyệt mĩ, tuyệt vời.

Số 9: Bài soạn Người lái đò Sông Đà
I. Tìm hiểu chung về tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác
“Người lái đò Sông Đà” rút ra từ tập tùy bút ” Sông Đà” của Nguyễn Tuân xuất bản lần thứ nhất năm 1960. Đây là một trong những áng văn tiêu biểu nhất của tập Sông Đà. Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân lên Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp và nhất là trong chuyến thâm nhập thực tế năm 1958 để tìm hiểu cuộc sống người dân Tây Bắc trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính hiện thực cuộc sống trên Tây Bắc đã đem lại cảm hứng cho nhà văn. Toàn văn tác phẩm gồm 37 đoạn văn.
- Nội dung
– Vẻ đẹp đa dạng của con sông Đà hiện lên trong từng trang viết. Đó là vẻ đẹp của một con sông Đà hùng vĩ, hoang dại với vẻ “hung bạo”, với những thành vách, hút nước, trùng vây thạch trận. Đó còn là vẻ đẹp của một con sông đã trữ tình, thơ mộng. Hai vẻ đẹp tưởng chừng đối lập lại tụ hội trong một con sông của quê hương Tây Bắc. Sự hài hòa trong cảnh vật thiên nhiên đã tạo nên vẻ đẹp của chính núi rừng và vùng đất Tây Bắc – nơi địa đầu của Tổ quốc.
– Đằng sau vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ và thơ mộng là hình tượng người lái đò sông Đà. Khi thiên nhiên đã được nâng lên đến mức thần thánh như thách thức con người thì ông lái đò chính là người chinh phục thiên nhiên thần thánh ấy. Hình tượng nhân vật ông lái hiện lên là một người anh hùng trên sông nước với kinh nghiệm dày dặn, với tay lái tài hoa và đặc biệt ông lái còn là một con người đời thường, vô danh. Khác hẳn với những nhân vật trước cách mạng của Nguyễn Tuân, ông lái đò vẫn xuất hiện với tư cách là con người tài hoa, tài tử nhưng không còn là con người của quá khứ, đối lập với thực tại nữa mà ông lái là con người của hiện tại, đấu tranh với thiên nhiên, núi rừng để sinh tồn.
- Bố cục
Đoạn trích gồm 3 phần:
- Phần 1: Từ đầu… gậy đánh phèn
Nội dung: Nguyễn Tuân khắc họa sự hung dữ, thô bạo của con sông Đà
- Phần 2: Tiếp theo… dòng nước sông Đà
Nội dung: Cuộc sống của con người trên sông Đà và hình tượng ông lái đò trên sông
- Phần 3: Còn lại
Nội dung: Khắc họa vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của con sông Đà
II. Tìm hiểu chi tiết
Câu 1 (Trang 192 SGK Ngữ văn 12 tập 1)
Tùy bút Người lái đò sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân được tác giả thể hiện trên các phương diện:
+ Sự hung bạo, mãnh liệt của con sông
+ Sự hiền hòa, thơ mộng của sông Đà
+ Hình tượng ông lái đò với nhiều năm kinh nghiệm, như là một người nghệ sĩ trong công việc lái đò của mình: vừa khỏe khoắn, vừa mưu trí
Để có thể miêu tả được như vậy, nhà văn Nguyễn Tuân đã sử dụng:
+ Sự quan sát tinh tế, tài tình của ông
+ Vốn hiểu biết sâu rộng về con sông vùng Tây Bắc
+ Tài năng viết văn tài hoa, uyên bác và giàu tính nghệ thuật
Câu 2 (Trang 192 SGK Ngữ văn 12 tập 1)
Hình tượng con sông Đà hung bạo được Nguyễn Tuân khắc họa qua các chi tiết:
– Hướng chảy: chảy về hướng Bắc, trong khi các dòng sông đều chảy về hướng Đông cho thấy sự bất thường, độc đáo
– Thác sông Đà dày đặc, đa phần là thác dữ, âm thanh thác nước ghê gớm: “như là oán trách, van xin, khiêu khích”
– Những cái hút nước xoáy tít lôi tuột mọi vật xuống đáy sâu
– Bờ sông Đà (thượng nguồn) là cảnh tượng rất hiểm trở: “đá dựng vách thành”, chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu…
– Ngay cả cát sông Đà cũng là cát dữ: nó đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vết hà đục thủng đáy thuyền gỗ…
Để khắc họa được những hình ảnh đó, Nguyễn Tuân đã sử dụng các biện pháp: nhân hóa, so sánh.. làm cho con sông trở nên hung dữ, dữ tợn hơn.
Câu 3 (Trang 192 SGK Ngữ văn 12 tập 1)
Vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà:
– So sánh dòng sông như mái tóc nhằm gợi lên vẻ đẹp duyên dáng, mềm mại, một vẻ đẹp của thiếu nữ kiều diễm. Vẻ đẹp ấy biến hóa huyền ảo ẩn hiện giữa mây trời Tây Bắc bung hoa quyện khói. Tác giả tạo cái nền đầy hoa rừng, mây trời Tây Bắc lung linh cho con sông hiện mình: “một mái tóc mun…áng tóc trữ tình”.
– Khung cảnh bờ bãi ven sông với điểm nhìn đậu hẳn xuống mặt sông “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà…dòng trên” . Đoạn văn giàu nhạc điệu, êm nhẹ, bâng khuâng, man mác, giàu chất thơ. Khung cảnh bên sông lặng lờ, yên tĩnh không còn dữ dội như ở thượng nguồn.
Câu 4 (Trang 192 SGK Ngữ văn 12 tập 1)
Hình tượng người lái đò qua cuộc chiến đấu với sông Đà:
– Trùng vi thạch trận thứ nhất: Cho thấy vẻ đẹp khỏe khoắn, cường tráng của ông lái đò đã 70 tuổi
– Trùng vi thạch trận thứ hai: Sự lão luyện, tinh thông trong nghề nghiệp của ông lão
– Trùng vi thạch trận thứ ba: Sự dũng cảm, mưu trí, người lái đò làm chủ thiên nhiên, làm chủ công việc của mình
Kết lại: Dưới con mắt của nhà văn, chở đò trên Sông Đà không phải chỉ là một công việc lao động đầy nguy hiểm mà còn là một nghệ thuật cao cường: Nghệ thuật chở đò. Và ông đò Lai Châu không phải chỉ là một người lao động mà còn là một người anh hùng, một người nghệ sĩ tài hoa.
Câu 5 (Trang 192 SGK Ngữ văn 12 tập 1)
Nghệ thuật của đoạn trích:
– Ngôn ngữ sống động, tổng hợp trên nhiều vốn tri thức, vốn văn hóa về nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống, từ hội họa, điện ảnh đến quân sự
– Nghệ thuật viết tùy bút bậc thầy khiến con sông Đà hung bạo, độc hiểm cũng phải hiện hình rõ nét trên trang giấy của Nguyễn Tuân
Số 10: Soạn bài Người lái đò Sông Đà chi tiết
Câu 1. Chứng minh rằng Nguyễn Tuân đã quan sát công phu và tìm hiểu kĩ càng khi viết về sông Đà và người lái đò sông Đà.
Trả lời:
– Từng biểu hiện nhỏ nhất của sông Đà : từ hung bạo đến nhẹ nhàng, trữ tình được so sánh, liên tưởng rất thực, rất nghệ thuật.
– Người lái đò sông Đà vừa là một người phi thường nhưng lại rất giản dị, đồng thời cũng là người nghệ sĩ tài hoa.
– Các thạch trận, quy luật của thác nước sông Đà, kinh nghiệm của lái đò….. đều được Nguyễn Tuân miêu tả sinh động, tinh tế qua sự quan sát, tìm hiểu kĩ càng.
Câu 2. Trong thiên tùy bút, tác giả đã dùng biện pháp nghệ thuật nào để khắc họa được một cách ấn tượng hình ảnh con sông Đà hung bạo?
Trả lời:
Tác giả vận dụng tài tình, tinh tế và điêu luyện các biện pháp so sánh, nhân hóa kết hợp với ngôn ngữ miêu tả đầy tính tạo hình đã làm nổi bật lên sự hung bạo của dòng sông Đà (thể hiện rõ ở các trùng vi thạch trận, các tính cách của sông Đà ).
Câu 3. Cách viết của nhà văn đã thay đổi thế nào khi chuyển sang biểu hiện sông Đà như một dòng chảy trữ tình.
Trả lời:
Ngọt ngào, trữ tình, sâu lắng, lời văn mềm mại, nhịp câu văn duỗi dài ra:
– Dáng vẻ dòng sông đầy thơ mộng: Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, … Sông Đà mang vẻ đẹp của một người thiếu nữ.
– Sắc màu nước biển đổi kì ảo theo từng mùa .
– Sông Đà mang vẻ đẹp gợi cảm :
+ Bờ sông hoang dại, bình lặng như thời tiền sử .
+ Hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa như cố nhân .
+ Dòng sông lặng lờ trôi.
⟹ Bức tranh trữ tình đủ để lòng người say đắm, ngất ngây.
Câu 4. Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà trong cuộc chiến đấu với con sông hung dữ. Từ đó, hãy cắt nghĩa vì sao, trong con mắt Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người Tây Bắc mới thật xứng đáng là vàng mười của đất nước ta.
Trả lời:
– Vẻ đẹp khỏe khoắn, cường tráng : “thân hình cao to và gọn quáng như chất sừng, chất mun… Cánh tay vẫn là của một chàng trai trẻ cường tráng”.
– Người lái đò mưu lược trí dũng : Ông lái đò điều khiển con thuyền bằng bản lĩnh già dặn, lòng dũng cảm và tài hoa của một nghệ sĩ; Ông chỉ huy con thuyền vượt qua “3 trùng vi thạch trận” dữ dằn, nham hiểm.
– Người lái đò nghệ sĩ, tài hoa : Am hiểu tường tận về sông Đà, sáng tạo trong chiến thuật khi vượt thác, là người nghệ sĩ điêu luyện chỉ huy con thuyền qua các trùng vi thạch trận, là người bình dị không bàn về chiến thắng vừa qua.
– Ý nghĩa của hình tượng ông lái đò : Ca ngợi những người lao động trong công cuộc chinh phục thiên nhiên.
Câu 5. Chọn phân tích một số câu văn thể hiện rõ nhất nét tài hoa về bút pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.
Trả lời:
– “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, …. với đàn trâu da cháy bùng bùng”.
– “Sóng nước như thế quân liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng, vào hông thuyền”.
– “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tính, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc …. nương xuân”.
– “Bờ sông hoang dại …. cổ tích tuổi xưa”.

Tổng kết
Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 10 mẫu soạn bài Người lái đò Sông Đà chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 12.