Tổng hợp các bài mẫu soạn bài Tự Tình 2 tác giả Hồ Xuân Hương một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 10 mẫu soạn văn 11 bài Tự Tình bài 2 chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!
Top 10 mẫu soạn bài Tự Tình bài 2 chi tiết nhất
Số 1: Soạn bài Tự Tình 2
Tìm hiểu văn bản
a) Tác giả
– Hồ Xuân Hương chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở Nghệ An. Có một nhà riêng ở Hồ Tây (Hà Nội) lấy tên Cổ Nguyệt Đường.
– Xuất thân trong gia đình nhà nho nghèo, cha làm nghề dạy học
– Là người thông minh, tài hoa và có cá tính mạnh mẽ nhưng về đường tình duyên của Hồ Xuân Hương nhiều éo le, ngang trái sống không mấy hạnh phúc.
– Những sáng tác của Hồ Xuân Hương bao gồm chữ Hán và chữ Nôm. Được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”, là một hiện tượng độc đáo trong lịch sử văn học Việt Nam.
b) Tác phẩm
– Xuất xứ: nằm trong chùm thơ Tự tình gồm ba bài thơ.
– Thể thơ: đường luật thất ngôn bát cú.
– Chủ đề: “Tự tình” nói lên tiếng lòng của tác giả, tâm trạng buồn và tủi cực cho hoàn cảnh duyên phận muộn màng, lỡ dở nhưng tác giả cứ lạnh lùng trôi qua.
Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 trang 19 SGK Ngữ Văn 11 tập 1: Bốn câu thơ đầu cho thấy tác giả đang ở trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế nào? (Chú ý không gian, thời gian, giá trị biểu cảm của các từ ngữ: văng vẳng, dồn, trơ, cái hồng nhan, say lại tỉnh, mối tương quan giữa hình tượng trăng sắp tàn (bóng xế) mà vẫn khuyết chưa tròn với thân phận nữ sĩ).
Trả lời
– Thời gian: đêm khuya – lúc tâm trạng con người dễ cô đơn, buồn chán nhất.
– Văng vẳng: nghệ thuật lấy động tả tĩnh => không gian: trống trải, mênh mông, văng vẳng tiếng trống cầm canh. Âm thanh văng vẳng không chỉ đơn thuần là sự cảm nhận âm thanh bằng thính giác mà còn là sự cảm nhận về sự trôi đi của thời gian – thời gian vô thủy, vô chung nhưng thời gian còn chứa đựng sự phá hủy.
– Từ trơ được đặt ở đầu câu với nghệ thuật đảo ngữ vừa nói được bản lĩnh nhưng lại cũng thể hiện được nỗi đau của nhà thơ. Trơ là tủi hổ, là bẽ bàng trước duyên phận hẩm hiu nhưng nó còn là sự thách thức của nữ sĩ với cuộc đời.
– Hồng nhan: cách nói về người phụ nữ đẹp nhưng đi liền với cái đẹp là cái đau khổ, thiệt thòi.
– Chén rượu hương đưa say lại tỉnh: Câu thơ gợi lên cái vòng luẩn quẩn, như là sự cảm nhận duyên tình đã trở thành trò đùa của tạo hóa: Hương rượu và hương tình đi qua chỉ để lại vị đắng chát, khổ đau của tác giả.
– Hình ảnh Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn mang ý nghĩa biểu tượng cao: trăng sắp tàn (bóng xế) mà vẫn khuyết chưa tròn. Đó là sự tương đồng với thân phận của người phụ nữ, tuổi xuân của họ đang dần trôi qua mà hạnh phúc vẫn chưa được vẹn tròn. Câu thơ tả ngoại cảnh nhưng chứa đựng nội tâm của tác giả, tạo nên sự thống nhất giữa trăng và người.
=> Bốn câu thơ đầu miêu tả tâm trạng vừa đau buồn, vừa phẫn uất trước duyện phận của nữ sĩ.
Câu 2 trang 19 SGK Ngữ Văn 11 tập 1: Hình tượng thiên nhiên trong câu 5 và câu 6 góp phần diễn tả tâm trạng, thái độ của nhà thơ trước số phận như thế nào?
Trả lời:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm tọac chân mây, đá mấy hòn.”
– Thiên nhiên: rêu, đá. Thiên nhiên như nổi loạn, không chấp nhận đứng yên. Hình ảnh “rêu” và “đá” những vật nhỏ bé, mềm yếu nhưng không cam chịu, bằng mọi cách chúng cố vươn lên “xiên ngang, đâm toạc”. Chúng vượt lên những khó khăn, cản trở “mặt đất”, “chân mây” để chứng tỏ mình. Nghệ thuật đảo trật tự cú pháp với động từ đứng ở đầu câu “xiên, đâm” lại càng khiến những vật nhỏ bé ấy thêm cứng cỏi, mạnh mẽ.
– Hồ Xuân Hương tiếp tục hướng về ngoại cảnh để mượn cảnh nói lên tâm trạng và thái độ với số phận của chính mình. Hình ảnh thiên nhiên tượng trưng cho niềm phẫn uất và sự phản kháng quyết liệt của Hồ Xuân Hương. Nữ sĩ mạnh mẽ tìm mọi cách để vượt lên trên số phận. Đó cũng là sức sống mãnh liệt không phải buồn đau mà phó mặc số phận đau thương như vậy.
Câu 3 trang 19 SGK Ngữ Văn 11 tập 1: Hai câu kết nói lên tâm sự gì của tác giả? (Chú ý nghĩa của từ xuân, lại; nghệ thật tăng tiến: Mảnh tình san sẻ tí con con)
Trả lời
– Ở hai câu kết tâm trạng Hồ Xuân Hương như trùng xuống. Tác giả đã trực tiếp bộc lộ tâm trạng của mình. Tác giả buồn, ngán ngẩm trước mùa xuân đang trôi đi nhưng như hụt hẫng nhận ra nó là quy luật của tạo hóa. Nhưng mỗi mùa xuân đi qua lại mang theo một tuổi xuân mà tuổi xuân đó không thể quay lại được nữa. Từ lại thứ nhất có nghĩa là thêm một lần nữa, từ lại thứ hai là sự trở lại. Vì vậy, hai từ lại giống nhau về âm nhưng khác nhau về nghĩa, về cấp độ nghĩa.
– Câu cuối cùng của bài là sự bộc bạch nỗi xót xa của Hồ Xuân Hương. Tác giả đã rất thành công khi sử dụng từ thuần Việt theo cấp độ, tăng tiến để khắc họa nghịch cảnh éo le, trắc trở của mình. Một người đa tình, đa tài như Hồ Xuân Hương nhưng lại chỉ nhận được mảnh tình “tí con con”, hạnh phúc đến với bà không được trọn vẹn.
Câu 4 trang 19 SGK Ngữ Văn 11 tập 1: Bài thơ vừa nói lên bi kịch duyên phận, vừa nói lên khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương. Anh (chị) hãy phân tích điều đó.
Trả lời:
Bài thơ vừa nói lên bi kịch, vừa cho thấy bản lĩnh khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương.
– Hồ Xuân Hương gặp bi kịch khi khát khao yêu thương nhưng không thành, thanh xuân thì qua nhanh nhưng tuổi xuân không đợi người. Nữ sĩ gặp bi kịch về duyên phận lỡ làng, muộn màng khi thời gian cứ trôi cứ trôi qua đi mà không đợi chờ ai. Điều đó dẫn đến tâm trạng buồn tủi, phẫn uất nhưng vẫn tiềm ẩn khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc đến vô thường. Khát vọng thể hiện rõ nét nhất đã được nhắc tới ở câu 5 và 6.
– Trong Tự tình, nhà thơ đã dùng nhiều từ ngữ và hình ảnh gây ấn tượng mạnh, đó là các từ thuần Việt giàu hình ảnh, màu sắc với sắc thái đặc tả mạnh, như các động từ dồn, trơ, xế, đâm toạc, xiên ngang, đi, lại lại, san sẻ…, các tính từ say, tỉnh, khuyết, tròn… Qua đó biểu lộ chính xác và tinh tế trạng thái tâm trạng của nhân vật trữ tình. Đó là sự cô đơn, là khát khao được sống, được hạnh phúc. Tâm trạng uất ức bị dồn nén dường như được thoát ra, trải ra cùng những hình ảnh, những từ ngữ táo bạo ấy.
Luyện tập
Câu 1 trang 20 SGK Ngữ Văn 11 tập 11: Đọc bài Tự tình (bài I) dưới đây, nêu nhận xét về sự giống nhau và khác nhau giữa Tự tình (bài I) và Tự tình (bài II).
Trả lời:
– Giống nhau:
+ Cả hai bài thơ nằm trong chùm thơ Tự tình đều sử dụng thơ Nôm đường luật thể hiện cảm xúc của tác giả.
+ Cả hai mượn thời gian để diễn tả tâm trạng. Mở đầu bằng thời gian và kết thúc cũng bằng thời gian
+ Cả hai sử dụng ngôn ngữ biểu cảm: văng vẳng, trở, cái hồng nhan, ngán, tí con con, oán hận, rền rĩ, mõm mòn, già tom…
– Khác nhau:
+ Cảm xúc trong Tự tình I là nỗi niềm của nhà thơ trước duyên phận hẩm hiu, nhiều mất mát, trước lẽ đời đầy nghịch cảnh, đồng thời là sự vươn lên của chính bản thân, thách đố lại duyên phận.
+ Còn ở Tự tình II, cũng là sự thể hiện của bi kịch duyên phận muộn màng, cố gắng vươn lên nhưng cuối cùng cũng không thoát được bi kịch. Chính vì thế bi kịch như được nhân lên, phẫn uất hơn. Sự khác nhau đó chính là do cảm xúc chủ đạo trong từng bài thơ.

Số 2: Soạn văn Tự Tình 2
I. Tác giả
Hồ Xuân Hương (?-?) quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Có tài liệu ghi bà là con Hồ Phi Diễn (1704 -?), song cũng có tài liệu nói bà là con Hồ Sĩ Danh (1706 – 1783). Thân sinh Hồ Xuân Hương lấy vợ lẽ người Bắc Ninh, sinh ra bà. Gia đình bà có thời sống ở Thăng Long.
Khi trưởng thành, nữ sĩ có một ngôi nhà riêng ở gần Hồ Tây – Hà Nội lấy tên là cổ Nguyệt đường. Bà đi nhiều nơi và thân thiết với nhiều danh sĩ, có người nổi tiếng như Nguyễn Du nhưng cuộc đời, tình duyên của bà có nhiều éo le, ngang trái.
Sáng tác của Hồ Xuân Hương gồm cả thơ chữ Nôm và chữ Hán nhưng được biết đến nhiều hơn là thơ chữ Nôm. Phần tiếp theo chúng tôi sẽ giới thiệu với các bạn cách soạn bài Tự tình Ngữ văn lớp 11.
II. Bài soạn Tự tình – Hồ Xuân Hương
1. Tác phẩm
Tự tình (bài II) nằm trong chùm thơ Tự tình gồm ba bài của Hồ Xuân Hương. Đây là những xúc cảm chân thực mang nét rất riêng của một nữ sĩ tài năng mà tình duyên lại có nhiều éo le, ngang trái. Chẳng thế mà bà đã làm đến ba bài thơ Tự tình cho riêng mình. SGK chọn bài Tự tình II là bài thơ có nhiều nét tiêu biểu cho chùm thơ Tự tình cua bà.
Chúng ta sẽ phân tích tác phẩm theo trình tự kết cấu một bài thơ Đường luật gồm 4 phần: Đề, thực, luận, kết.
2. Phân tích
a) Hai câu đề
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Thông thường, giữa không gian rợn ngợp con người cảm thấy mình nhỏ bé, cô đơn. Ở đây, Xuân Hương lại cảm nhận sự cô đơn trước thời gian, bởi trong bước đi của thời gian còn chứa đựng sự phá hủy. So với câu thơ đầu bài Tự tình II: “Tiếng gà văng vắng gáy trên bom” thì câu đầu bài Tự tình II buồn hơn: “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”. Tiếng trống canh dồn văng vẳng trong đêm khuya vừa thể
hiện bước đi dồn dập của thời gian vừa bộc lộ sự rối bời của tâm trạng người phụ nữ trong nỗi cô đơn trống vắng một mình. Nữ sĩ cảm thấy xót xa, bẽ bàng cho duyên phận éo le, ngang trái:
Trơ cái hồng nhan với nước non
Có thế xem đây là một câu thơ rất Hồ Xuân Hương. Trong câu thơ có cả nỗi đau và bản lĩnh của người nữ sĩ. Trơ cái hồng nhan là nỗi đau Xuân Hương, nhưng Trơ cái hồng nhan / với nước non thì lại là bản lĩnh Xuân Hương. Một nỗi đau bẽ bàng, tủi hổ của người con gái khi duyên tình không đến, duyên phận không thành được bộc lộ trong một chữ “trơ” đầy ấn tượng với nghệ thuật đảo ngữ nhằm nhấn mạnh ý, và cả từ “cái” khiến cho hồng nhan thêm rẻ rúng mỉa mai.
Trong Truyện Kiều cũng có một chữ “trơ” như thế: Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ. Nhưng “Trơ cái hồng nhan” không phải với gia đình, bạn bò, làng xóm mà Trơ cái hồng nhan / với nước non thì đó là cả một sự thách thức, thách đố của người con gái. Nó giống chữ “trơ” trong câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan: Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt đều nói lên bản lĩnh của người phụ nữ trước cuộc đời. Và Hồ Xuân Hương chính là một con người như vậy.
b) Hai câu thực
Hai câu thực nói rõ hơn thực cảnh và thực tình Hồ Xuân Hương. Thi nhân ngồi một mình trong cô đơn đối diện với đêm khuya, với vầng trăng lạnh, càng thấm thía duyên phận của mình, ở đây, ngoại cảnh cũng là tâm cảnh, trăng với người đồng nhất với nhau, dùng hình ảnh trăng để nói lên nỗi lòng người.
Trăng sắp tàn (bóng xế) mà vẫn “khuyết chưa tròn” chính là tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên không trọn vẹn. Còn hương rượu chính là hương tình đề lại vị đắng chát khiến cho con người “say lại tỉnh” trong phận hẩm duyên ôi. Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên cái vòng luẩn quẩn, tình duyên đã trở thành trò đùa của con tạo, càng thấm thìa nỗi đau.
c) Hai câu luận
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Từ nỗi đau trong hai câu thực mà phát triển một cách tự nhiên thành nỗi phẫn uất trong hai câu luận. Con người nói chung là thế, Hồ Xuân Hương lại càng như thế. Ở trên, nhà thơ đã gửi nỗi đau duyên phận vào vầng trăng và chén rượu, thì ở đây, nữ sĩ cũng nhờ thiên nhiên nói lên niềm phẫn uất của mình, và thiên nhiên như cũng đồng cảm với con người, cần chú ý nghệ thuật đảo ngữ (xiên ngang và đâm toạc được đặt lên đầu câu để nhấn mạnh ý) và nghệ thuật đối lập trong câu thơ:
Rêu —> xiên ngang mặt đất
Đá —> đâm toạc chân mây.
Rêu mềm yếu là thế mà vẫn xiên ngang mặt đất, đá có nhọn gì đâu, lại ở dưới mặt đất, làm sao có thể đâm toạc chân mây được? Mới biết nỗi phẫn uất ở đây là mạnh mẽ, to lớn: rêu, đá như vạch đất, vạch trời mà hờn oán, không chỉ ]à phẫn uất mà còn là phản kháng. Bởi đây là nỗi phẫn uất của số phận, khát vọng của con người – mà lại là một con người đầy bản lĩnh như Xuân Hương.
d) Hai câu kết
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Nhưng rồi chính con người ấy lại vẫn rơi vào bi kịch của duyên phận, và hai câu kết đã bộc lộ rõ tâm trạng chán chường, buồn tủi của nhà thơ. Hồ Xuân Hương “ngán” lắm rồi cái nỗi đời éo le, bạc bẽo, cái vòng quay luẩn quấn “xuân đi xuân lại lại” của tạo hóa. Từ “xuân” mang hai nghĩa (mùa xuân và tuổi xuân), từ “lại” cũng mang hai nghĩa (thèm lần nữa và trở lại) khiến cho câu thơ đa nghĩa, thâm thía, tâm trạng chán chường càng lộ rõ, bởi sự trở lại của mùa xuân lại đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Chính vì thế mà càng xót xa, tội nghiệp khi:
Mảnh tình – san sẻ – tí – con con!
Nghệ thuật tăng tiến làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn. Mảnh tình đã bé lại còn san sẻ, chỉ còn một tí, mà là một tí – con con thì thật đau xót. Ớ đây, mảnh tình càng bé lại thì nỗi đau càng tăng thêm, đọng lại một dư vị và dư vang sâu lắng, xót xa về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa với duyên tình hẩm hiu, cay đắng của mình.
Và có phải, vừa đau xót vừa thách thức duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch, cả hai điều ấy đã làm cho ý nghĩa nhân văn của bài thơ Tự tình II sâu sắc hơn, thấm thìa hơn? Đó là tiếng lòng chân thực, cũng là nét riêng độc đáo trong thơ trữ tình của Bà chúa thơ Nôm.
III. Luyện tập
Với bài tập trong SGK, các em cần đọc nhiều lần bài thơ Tự tình I, suy nghĩ để so sánh với bài Tự tình II đã học. Sau đây là một số gợi ý:
– Sự giống nhau của hai bài thơ: tác giả tự nói lên nỗi lòng mình với hai tâm trạng: buồn tủi, xót xa và phẫn uất trước duyên phận.
Cả hai bài thơ đều cho thấy tài năng sử dụng tiếng Việt của Hồ Xuân Hương: nữ sĩ có tài năng đặc biệt khi sử dụng các từ làm định ngữ hoặc bổ ngữ: xiên ngang, đâm toạc (bài Tự tình II); mõ thảm, chuông sầu, tiếng rền rĩ, duyên mõm mòm, già tom (bài Tự tình I). Hồ Xuân Hương cũng rất thành công khi sử dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ như đảo ngữ, tăng tiến, đối (dẫn chứng qua từng bài thơ).
– Sự khác nhau của hai bài thơ: Ở Tự tình I yếu tố phản kháng, thách đố duyên phận mạnh mẽ hơn. Điều này cho phép giả định Tự tình I được viết trước và được viết khi tác giả còn trẻ hơn lúc viết Tự tình II.

Số 3: Tự Tình 2 soạn bài
Câu 1. Tâm trạng và hoàn cảnh của tác giả trong bốn câu thơ đầu
Thời gian bao giờ cũng được thể hiện trong sự nghịch đối với cuộc sống của con người, đặc biệt là tuổi trẻ và tình yêu. Với Hồ Xuân Hương, nhà thơ đầy nữ tính thì yếu tố về thời gian càng sâu sắc hơn. Bài thơ Tự tình (bài II) được mở đầu bằng thời gian: Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn và kết thúc cũng bằng thời gian: Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại – Mảnh tình san sẻ tí con con. Bốn câu thơ đầu đã nêu bật được hoàn cảnh hoàn cảnh và tâm trạng của nhà thơ.
Thời gian được thể hiện qua câu với âm thanh văng vẳng trống canh dồn. Âm thanh văng vẳng không chỉ đơn thuần là sự cảm nhận âm thanh bằng thính giác mà còn là sự cảm nhận về sự trôi đi của thời gian – thời gian vô thủy, vô chung nhưng thời gian còn chứa đựng sự phá hủy. Trong Tự tình (bài I), âm thanh của tiếng gà gáy đã gợi sự não lòng (tiếng gà văng vẳng trên bom) thì trong Tự tình (bài II), cái nhịp điệu gấp gáp, liên hồi của tiếng trống vừa là sự cảm nhận, vừa là sự thể hiện bước đi của thời gian và sự rối bời của tâm trạng.
Từ trơ được đặt ở đầu câu với nghệ thuật đảo ngữ vừa nói được bản lĩnh nhưng lại cũng thể hiện được nỗi đau của nhà thơ. Trơ là tủi hổ, là bẽ bàng. Nhưng trơ vỡi Hồ Xuân Hương còn là sự thách thức. Điều này hoàn toàn giống với cái trơ của Bà Huyện Thanh Quan: Đá vẫn trơ gan cũng tuế nguyệt (Thăng Long thành hoài cổ).
Hồng nhan: cách nói về người phụ nữ nhưng đi liền với cái, gợi lên sự rẻ rúng, mỉa mai.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh: Câu thơ gợi lên cái vòng luẩn quẩn, như là sự cảm nhận duyên tình đã trở thành trò đùa của tạo hóa: Hương rượu và hương tình đi qua chỉ để lại vị đắng chát, khổ đau của tác giả.
Hình ảnh Vầng trăng bóng xế nguyệt chưa tròn là hình tượng chứa hai lần bi kịch: trăng sắp tàn (bóng xế) mà vẫn khuyết chưa tròn. Đó là sự tương đồng với thân phận của người phụ nữ. Câu thơ tả ngoại cảnh nhưng chứa đựng nội tâm của tác giả, tạo nên sự thống nhất giữa trăng và người.
Câu 2. Tâm trạng và thái độ của nhà thơ qua hình tượng thiên nhiên trong câu 5 và 6.
Thiên nhiên trong hai câu thơ 5 và 6 như cũng mang theo nỗi niềm phẫn uất của con người. Rêu là một sinh vật nhỏ yếu, hèn mọn nhưng cũng không chịu khuất phục, mềm yếu; nó phải xiên ngang mặt đất. Đá vốn rất chắc nhưng giờ cũng ngọn hơn để đâm toạc chân mây.
Nhà thơ sử dụng biện pháp đảo ngữ để làm nổi bật tâm trạng phẫn uất của thiên nhiên mà cũng là sự phẫn uất của con người. Các động từ mạnh như xiên, đâm kết hợp với các bổ ngữ như ngang, toạc thể hiện sự bưởng bỉnh, ngang ngạnh của thi sĩ. Chính biện pháp đối lập và đảo ngữ, cách dùng các từ ngữ tạo hình đó đã tạo nên ấn tượng mạnh mẽ, làm nên cá tính sáng tạo của Hồ Xuân Hương.
Đó cũng là cách miêu tả sáng tạo về thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương. Đó cũng là cách miêu tả sáng tạo về thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương: bao giờ cũng chuyển động, căng đầy sức sống ngay cả trong những tình huống bi thảm nhất.
Câu 3. Tâm sự của tác giả qua hai câu kết
Hai câu kết nói lên tâm trạng chán chường, buồn tủi của nhà thơ. Ngán là chán ngán, ngán ngẩm. Xuân đi xuân lại lại chính là cái vòng luẩn quẩn của tạo hóa. Xuân vừa là mùa xuân, tức là thời gian nhưng cũng chính là tuổi trẻ. Sự trở lại của mùa xuân cũng đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi trẻ. Từ lại thứ nhất có nghĩa là thêm một lần nữa, từ lại thứ hai là sự trở lại. Vì vậy, hai từ lại giống nhau về âm nhưng khác nhau về nghĩa, về cấp độ nghĩa.
Câu cuối Mảnh tình – san sẻ – tí – con con sử dụng nghệ thuật tăng tiến. Đây không phải là khối tình (khối tình cọ mãi với non sông) mà là mảnh, tình, tức là hết sức bé nhỏ. Mảnh tình bé nhỏ lại đem san sẻ để chỉ còn tí con con. Đó là tâm trạng của kẻ làm lẽ nhưng cũng là nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa, khi hạnh phúc với họ luôn là điều gì không đầy đủ.
Câu 4. Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương
Bài thơ là bi kịch duyên phận (bi kịch ấy được thể hiện trong cảm thức về thời gian trong bốn câu thơ đầu) và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc (thể hiện trong bốn câu thơ cuối). Bi kịch duyên phận được thể hiện qua các nghịch đối: duyên phận muộn màng, lỡ dở trong khi thời gian cứ lạnh lùng trôi đi (hai câu đầu). Sự nghịch đối này dẫn đến tâm trạng buồn tủi, phẫn uất nhưng ở đó vẫn tiềm ẩn khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc. Khát vọng ấy được thể hiện rõ trong hai câu thơ 5 và 6.
Câu 5. Giá trị của bài thơ
Cấu tạo của thơ Nôm Đường luật và sự vận dụng sáng tạo những từ ngữ mang tính biểu cảm cao.
Nỗi lòng của Hồ Xuân Hương được thể hiện trong bài thơ: buồn đau, phẫn uất nhưng vẫn cháy lên khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc. Đó chính là vẻ đẹp của nhà thơ, cũng chính là con người của nhà thơ.
Câu 6. Sự giống nhau và khác nhau giữa hai bài thơ Tự tình I và II của Hồ Xuân Hương
Giống nhau:
Cùng sử dụng thơ Nôm đường luật thể hiện cảm xúc của tác giả.
Đều mượn cảm thức về thời gian để thể hiện tâm trạng. Điều đó được thể hiện qua kết cấu vòng tròn của hai bài thơ: mở đầu bằng thời gian và kết thúc cũng là thời gian.
Đều sử dụng nhiều từ ngữ biểu cảm: văng vẳng, trở, cái hồng nhan, ngán, tí con con, oán hận, rền rĩ, mõm mòn, già tom…
Khác nhau:
- Cảm xúc trong Tự tình I là nỗi niềm của nhà thơ trước duyên phận hẩm hiu, nhiều mất mát, trước lẽ đời đầy nghịch cảnh, đồng thời là sự vươn lên của chính bản thân, thách đố lại duyên phận.
- Còn ở Tự tình II, cũng là sự thể hiện của bi kịch duyên phận muôn màng, cố gắng vươn lên nhưng cuối cùng cũng không thoát được bi kịch. Chính vì thế bi kịch như được nhân lên, phẫn uất hơn. Sự khác nhau đó chính là do cảm xúc chủ đạo trong từng bài thơ.
Số 4: Soạn bài Tự Tình 2 lớp 11
Bố cục
– Cách chia 1:
+ Hai câu đề: Giới thiệu về hình ảnh người vợ lẽ
+ Hai câu thực: Cách giải quyết nỗi tâm tư của người vợ lẽ
+ Hai câu luận: Khát khao tìm đến hạnh phúc của người phụ nữ
+ Hai câu kết: Quy luật khắc nghiệt của thời gian và tuổi trẻ
– Cách chia 2:
+ Phần 1 (4 câu đầu): thể hiện nỗi lòng cô đơn, buồn tủi, khát vọng hạnh phúc
+ Phần 2 (4 câu tiếp): Tâm trạng tuyệt vọng của cảnh đời lẽ mọn
Câu 1 (trang 19 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):
– Thời gian: Đêm khuya.
– Không gian: yên tĩnh, trống trải, mênh mông
– Hoàn cảnh: Một mình đơn côi gối chiếc
– Tâm trạng: tủi hổ, bẽ bàng, cảm thấy bản thân bị rẻ rúng đầy mỉa mai. Tuy nhiên từ “trơ” còn kết hợp với từ “nước non” (cái vĩnh hằng) thể hiện thái độ thách đố của Hồ Xuân Hương
– Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên cái vòng luẩn quẩn, tình duyên đã trở thành trò đùa của con tạo, càng say lại càng tỉnh, càng cảm thấy nỗi đau thân phận.
– Hình ảnh “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” thể hiện sự éo le: trăng sắp tàn mà vẫn “khuyết chưa trong”. Tuổi thanh xuân sắp trôi qua mà nhân duyên không trọn vẹn. Chỉ trách phận hẩm duyên ôi.
Câu 2 (trang 19 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):
Câu 5, 6 sử dụng:
– Phép đối từng cặp: xiên ngang >< đâm toạc; rêu từng đám >< đá mấy hòn; mặt đất >< chân mây…
– Biện pháp đảo ngữ kết hợp với các động từ mạnh ( xiên, đâm) thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh của Hồ Xuân Hương.
– Rêu xiên ngang mặt đất, đá đâm toạc chân mây như vạch đất, vạch trời mà hờn oán, không chỉ phẫn uất mà còn phản kháng.
⇒ Tinh thần phản kháng, sức sống mãnh liệt của Hồ Xuân Hương ngay cả trong tình huống bi thương.
Câu 3 (trang 19 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):
– Cụm từ “xuân đi xuân lại lại”: Thể hiện sự tuần hoàn của mùa xuân cũng như tuổi xuân qua đi. Từ “lại” thứ nhất nghĩa là thêm lần nữa, “lại” thứ hai nghĩa lại trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Cụm từ đó lại kết hợp với từ “ngán” thể hiện tâm trạng ngán ngẩm, ngán lắm rồi cái nỗi đời éo le, bạc bẽo.
– Nghệ thuật tăng tiến “mảnh tình – tí – con con” nhấn mạnh sự nhỏ bé dần, sự ít ỏi, sự sẻ chia trong hạnh phúc cuộc đời của Hồ Xuân Hương làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn: mảnh tình vốn đã ít, đã bé, đã không trọn vẹn lại còn phải “san sẻ” thành ra chẳng còn gì (tí con con) nên càng xót xa, tội nghiệp.
⇒ Tâm trạng xót xa, tủi cực, hẩm hiu của người phụ nữ mang thân đi làm lẽ
Câu 4 (trang 19 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):
– Bài thơ vừa nói lên bi kịch, của tuổi xuân, của duyên phận. Trong quang thời gian đẹp nhất của người con gái lại phải mang thân phận vợ lẽ, chăn đơn gối chiếc. Phải sống trong cảnh chồng chung, phải san sẻ tình cảm của mình cho người khác.
– Hồ Xuân Hương vẫn luôn khát khao hạnh phúc, gồng mình lên để chống lại sự nghiệt ngã của số phận.
Luyện tập (trang 19 sgk Ngữ văn 11 Tập 1)
Câu 1 (trang 20 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):
So sánh bài thơ Tự tình I và Tự tình II của tác giả Hồ Xuân Hương
a, Giống nhau:
– Sử dụng thơ Nôm Đường luật
– Sử dụng ngôn ngữ sắc sảo, tài hoa nhất là khả năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật: đảo ngữ, phép đối, tăng tiến…
– Bộc lộ tâm trạng: nỗi buồn tủi, xót xa, phẫn uất trước cảnh duyên phận hẩm hiu.
b, Khác nhau:
– Cảm xúc trong Tự tình I : yếu tố phản kháng, thách đố duyên phận mạnh mẽ hơn.
– Còn ở Tự tình II: Vẫn có yếu tố phản kháng, nhưng bên cạnh đó còn thể hiện nỗi niềm xót xa, tủi hổ, bẽ bàng của người phụ nữ

Số 5: Soạn Tự Tình 2 lớp 11
Trả lời câu hỏi
Câu 1
Thời điểm để nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc là vào đêm khuya- khoảng thời gian dễ gợi những buồn tủi, kết hợp với không gian trống trải, mênh mông, rợp ngợp tạo thành cái nền hoàn hảo để nhân vật trữ tình giãi bày lòng mình. Và trong thời gian, không gian đó, lòng người dễ gợi lên những nỗi niềm chất chứa, những bất an, lo lắng.
Hồ Xuân Hương đã sử dụng rất đắt từ “trơ” đi liền với “cái hồng nhan” cùng biện pháp đảo ngữ gợi cảm giác xót xa, bẽ bàng. Hình ảnh tương phản “cái hồng nhan” là thân phận người phụ nữ nhỏ bé, hữu hạn đối lập với “nước non” là xã hội phong kiến bất công nhấn mạnh thêm bi kịch của người phụ nữ trong xã hội xưa.
Trong tình cảnh đó, nhân vật trữ tình tìm đến “chén rượu đưa hương” để giãi bày lòng mình. Cụm từ “say lại tỉnh” là cái vòng luẩn quẩn Xuân Hương bị quấn vào. Phải chăng, Xuân Hương muốn dựa vào men rượu để quên đi thân phận phũ phàng của mình, nhưng cuối cùng lại bất lực trước bi kịch đó. Và Xuân Hương tìm quên trong việc đắm mình vào vẻ đẹp thiên nhiên: “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Ta nhận ra sự phi logic trong câu thơ: Vầng trăng từ khuyết chuyển sang bóng xế, không hề tròn. Vầng trăng đã trở thành hình dụ ẩn dụ kép. Vầng trăng cuộc đời, gợi về người con gái đã đi qua nửa kia của cuộc đời. Nó cũng là vầng trăng của hạnh phúc, vầng trăng “khuyết chưa tròn”, là hạnh phúc chưa trọn vẹn. Câu thơ là bi kịch của người phụ nữ, cũng là bi kịch của Xuân Hương.
Câu 2
Hai câu 5, 6 là diễn biến tâm trạng có sự gắn kết với hai câu trên. Bằng cách sử dụng phép đối từng cặp: xiên ngang đối với đâm toạc, rêu từng đám đối với đá mấy hòn, mặt đất đối với chân mây kết hợp với biện pháp đảo ngữ dung trùng điệp ở cả cấp độ câu và cấp độ từ, đi kèm các động từ mạnh “xiên, đâm” diễn tả sự hiên ngang, bất khuất của rêu và đá.
Rêu- sinh vật mong manh yếu đuối và hòn đá- vô chi, nhỏ bé nhưng lại hết sức mạnh mẽ, vẫn có thể bứt phá, phản kháng lại những vật cản của mình, không cam chịu số phận. Có thể nói, sự oán hờn, phản kháng quyết liệt với tạo hóa của đá và rêu kia như đại diện cho sức sống mạnh mẽ, quyết liệt, muốn bứt phá rào cản để đi tìm hạnh phúc cho riêng mình của Xuân Hương.
Câu 3
Hai câu thơ kết là sự tiếp nối của những câu trên, trở về với tâm trạng chán chường, buồn tủi. Nghệ thuật nổi bật trong hai câu là nghệ thuật lặp từ.Từ “xuân” được lặp lại 2 lần, một là mùa xuân của tự nhiên quay vòng theo quy luật, vẹn nguyện theo năm tháng, hai là tuổi xuân của đời người, đã ra đi sẽ không trở lại. Từ “lại” thứ nhất là chỉ sự lặp lại, còn từ “lại” thứ hai mang nghĩa quay trở lại. Xuân Hương “ngán nỗi” bởi mùa xuân quay trở lại lấy đi tuổi xuân của đời người, bởi thế nhân vật trữ tình thấy chán chường, tuyệt vọng, bế tắc.
Nghệ thuật tăng tiến “mảnh tình- san sẻ- tí con con” nhấn mạnh sự nhỏ bé dần, sự ít ỏi, sự sẻ chia trong hạnh phúc cuộc đời của Hồ Xuân Hương làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn: Hạnh phúc đã ít ỏi còn phải san sẻ, nên tình cảnh lại càng cô đơn, bẽ bàng. Hai câu cuối khép lại bài thơ, như một lời tổng kết, như một lời than thở thầm kín của người phụ nữ có số phận lẽ mọn về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi không trọn vẹn trong xã hội xưa.
Câu 4
Bài thơ là tâm trạng buồn tủi, phẫn uất trước thân phận éo le, nó cũng là khát vọng hạnh phúc mãnh liệt của Xuân Hương. Xã hội phong kiến xưa đẩy người phụ nữ đến hoàn cảnh hạnh phúc không trọn vẹn, cướp đi tuổi xuân, quãng thời gian tươi đẹp nhất của họ bằng những ràng buộc của lễ giáo. Và người phụ nữ họ phải cam chịu, chấp nhận số phận đó càng áp lên cuộc đời của họ thêm một tầng bi kịch. Nhưng vượt lên hoàn cảnh đó, Hồ Xuân Hương vẫn luôn khát khao hạnh phúc, vượt lên chống lại số phận
Luyện tập
Câu 1
Đọc Tự tình…
Sự giống nhau của bài thơ Tự tình I và Tự tình II của Hồ Xuân Hương là đều sử dụng thơ Nôm đường luật, nhấn mạnh tài năng sử dụng ngôn ngữ của tác giả, tài hoa nhất là khả năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, tăng tiến,…Qua đó, cả hai đều bộc lộ tâm trạng buồn tủi, xót xa, phẫn uất trước cảnh duyên phận hẩm hiu của tác giả.
Bên cạnh đó, những nét riêng biệt mang đến thành công riêng của từng bài. Nếu như cảm xúc trong Tự tình I là nỗi niềm của nhà thơ trước duyên phận hẩm hiu, nhiều mất mát, trước lẽ đời đầy nghịch cảnh, đồng thời là sự vươn lên của chính bản thân, thách đố lại duyên phận thì ở Tự tình II, cũng là bi kịch của tình duyên lận đận, cố gắng vươn lên nhưng cuối cùng cũng không thoát được bi kịch, nó càng nhận mạnh hơn sự tủi hờn, thân phận bẽ bàng.
Số 6: Soạn bài Tự Tình 2 ngữ văn lớp 11
Trả lời câu hỏi
Câu 1. Bốn câu thơ đầu cho thấy tác giả đang ở trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế nào?
– Hoàn cảnh:
Thời gian: Đêm khuya, trống canh dồn: nhịp gấp gáp, liên hồi của tiếng trống thể hiện bước đi thời gian gấp gáp, vội vã.
Không gian: “văng vẳng”: Không gian rộng lớn nhưng tĩnh lặng, vắng vẻ.
– Tâm trạng:
- Say lại tỉnh: gợi vòng luẩn quẩn không lối thoát, cuộc rượu say rồi tỉnh cũng như cuộc tình vương vít cũng nhanh tàn, để lại sự rã rời.
- Vầng trăng bóng xế: Trăng đã sắp tàn hay cũng chính là tuổi xuân đã trôi qua.
- Khuyết chưa tròn: Nhân duyên chưa trọn vẹn, chưa tìm được hạnh phúc viên mãn, tròn đầy, cho thấy sự muộn màng dở dang của con người.
=> Niềm mong mỏi thoát khỏi hoàn cảnh thực tại nhưng không tìm được lối thoát.
Câu 2. Hình tượng thiên nhiên trong câu 5 và 6 góp phần diễn tả tâm trạng, thái độ của nhà thơ trước số phận như thế nào?
– Hình tượng thiên nhiên rêu, đá được miêu tả trong hành động mạnh mẽ, quyết liệt: xiên ngang mặt đất, đâm toạc chân mây.
- Biện pháp đảo ngữ: vị ngữ (xiên ngang mặt đất, đâm toạc chân mây) đứng trước chủ ngữ (rêu từng đám, đá mấy hòn).
- Đảo trật tự từ: danh từ trung tâm (rêu, đá) đứng trước các từ chỉ loại, chỉ lượng (từng đám, mấy hòn).
- Các động từ mạnh: Xiên ngang, đâm toạc.
=> Sức sống mãnh liệt ngay trong trong hoàn cảnh thử thách. Qua đó, tác giả bộc lộ tâm trạng phẫn uất của con người. Đó chính là sức sống, sức phản kháng và bản lĩnh vượt lên đau thương của con người.
Câu 3. Hai câu thơ kết nói lên tâm trạng gì của tác giả?
- “Ngán”: tâm trạng chán chường trước cảnh đời éo le, bạc bẽo.
- “Mảnh tình san sẻ”: mảnh tình vốn đã nhỏ bé, không được trọn vẹn nhưng lại phải san sẻ.
- Từ “ lại” thứ nhất có nghĩa là thêm lần nữa, từ “ lại” thứ hai nghĩa là sự trở lại kết hợp với cụm từ “lại lại” chỉ sự chảy trôi của thời gian.
- “Tí con con”: tí và con con đều là hai tính từ chỉ sự nhỏ bé, đặt hai tính từ này cạnh nhau càng làm tăng sự nhỏ bé, hèn mọn.
=> Hai câu thơ kết bộc lộ tâm trạng buồn tủi, chán trường của nhân vật trữ tình.
Câu 4. Bài thơ vừa nói lên bi kịch vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương. Anh chị hãy phân tích điều đó.
– Bi kịch trong bài thơ là bi kịch của tuổi xuân, của duyên phận. Tuổi xuân qua đi, nhưng duyên phận thì cứ mãi lỡ làng.
– Trước sự trớ trêu của số phận, người phụ nữ luôn khát khao hạnh phúc vẫn muốn cưỡng lại sự nghiệt ngã của con tạo.
Luyện tập
Đọc Tự tình (bài I) dưới đây, nêu nhận xét về sự giống và khác nhau giữa hai bài Tự tình (I) và Tự tình (II).
– Giống nhau: Thể thơ Nôm đường luật, mượn cảm thức về thời gian để thể hiện tâm trạng. Cả hai bài đều là lời tự bạch, tự trải lòng mình của Hồ Xuân Hương.
– Khác nhau:
Bài I: Nỗi oán hận, nỗi sầu thảm bởi đến duyên mà chẳng gặp duyên.
Bài II: Sự đau buồn, vừa phẫn uất trước duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch.

Số 7: Soạn văn 11 Tự Tình bài 2
Đọc hiểu văn bản
Câu 1: Bốn câu thơ đầu cho thấy tác giả đang ở trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế nào? (SGK Ngữ văn 11 tập 1- trang 19)
Lời giải chi tiết:
– Thời gian là vào đêm khuya trong không gian trống trải, mênh mông và văng vẳng tiếng trống cầm canh.
⇒ Mở đầu bài thơ đã là câu thơ gợi buồn, cái buồn ấy được gợi ra từ sự tĩnh lặng trong đêm khuya thanh vắng. Tuy tiếng trong không gần nhưng vẫn có thể nghe thấy cái nhịp vội vàng, gấp gáp ấy bởi nó là gợi lên bước đi của thời gian, gợi lên sự tàn phá và tiếng trống ấy được cảm nhận bằng tâm trạng. Chính vì vậy mà trong cái nhịp gấp gáp và liên hồi của tiếng trống ấy ta như nghe thấy tiếng bước đi dồn dập của thời gian cùng sự rối bời trong tâm trạng của nhân vật trữ tình.
– Câu thơ thứ hai như gợi cảm nhận về sự bẽ bàng của thân phận một cách dữ dội:
Phép đảo ngữ trong câu như cố tình khoét sâu vào sự bẽ bàng của tâm trạng. “Trơ” có nghĩa là tủi hổ, chai lì đến không còn cảm giác. Hai chữ “hồng nhan” đi cùng với từ “cái” thật rẻ rúng, mỉa mai. Cái “hồng nhan” trơ với nước non không chỉ gợi lên sự dãi dầu mà sâu đậm hơn có lẽ là sự cay đắng. Trong câu thơ tác giả chỉ nói đến hồng nhan nhưng lại gợi ra cả sự bạc phận, kết hợp với nhịp thơ 1/3/3 cứ như chì chiết và khơi sâu hơn vào sự bẽ bàng khôn tả.
Mặc dù vậy nhưng câu thơ không hẳn chỉ có nỗi đau mà nó còn thể hiện được bản lĩnh của nhân vật trữ tình. Bản lĩnh được thể hiện cũng ở ngay chữ “trơ” như một sự thách thức, từ “trơ” kết hợp với “nước non” đã thể hiện sự bền gan cùng sự thách đố.
– Hai câu đề đã dẫn dắt người đọc vào hoàn cảnh tâm trạng còn hai câu thực đã làm rõ hơn thực cảnh và thực tình của Hồ Xuân Hương. Cảnh tình được bà thể hiện qua hình tượng chứa đựng hai lần bi kịch “Trăng sắp tàn mà vẫn khuyết chưa tròn”. Tuổi thanh xuân đã trôi qua mà nhân duyên thì vẫn không được trọn vẹn, hương rượu chỉ gợi lên thêm sự cô đơn cùng sự bẽ bàng của phận hẩm duyên ôi. Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên cho ta cái vòng luẩn quẩn, tình duyên trở thành trò đùa của tạo hóa.
Câu 2: Hình tượng thiên nhiên trong câu 5 và 6 góp phần diễn tả tâm trạng, thái độ của nhà thơ trước số phận như thế nào? (SGK Ngữ văn 11 tập 1- trang 19)
Lời giải chi tiết:
Hình tượng thiên nhiên trong câu 5 và 6 như mang cả nỗi niềm phẫn uất của con người. Những sinh vật nhỏ bé như đám rêu kia vẫn không chịu thân phận nhỏ bé, hèn mọn và không chịu yếu mềm chúng như đang muốn bứt thoát hẳn lên.
– Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ đã làm nổi bật lên sự phẫn uất của đá, của rêu và đó cũng là sự phẫn uất trong tâm trạng của con người.
– Sự kết hợp giữa các động từ mạnh như “xiên, đâm” và các bổ ngữ độc đáo như “ngang, toạc” đã thể hiện rõ sự bướng bỉnh, ngang ngạnh.
– Câu thơ cựa động căng tràn sức sống, đá rêu như đang oán hờn, đang phản kháng quyết liệt cùng với tạo hóa. Có thể nói rằng trong hoàn cảnh bi thương nhất Hồ Xuân Hương vẫn ẩn chứa một sức sống và khát khao mạnh mẽ.
Câu 3: Hai câu kết nói lên tâm trạng gì của tác giả? (SGK Ngữ văn 11 tập 1- trang 19)
Lời giải chi tiết:
– Hai câu kết đã nói lên tâm trạng chán chường và buồn tủi của tác giả.
– “Ngán” ở đây có nghĩa là chán ngán, ngán ngẩm. Hồ Xuân Hương đã ngán nỗi đời éo le, bạc bẽo bởi “xuân đi rồi xuân lại lại” tạo hóa như đang chơi một vòng quay nhàm chán như chính chuyện tình duyên của con người.
– Từ “xuân” trong câu thơ vừa ám chỉ mùa xuân nhưng cũng vừa ám chỉ tuổi xuân. Trong thiên nhiên xuân đi rồi xuân lại lại còn với con người xuân đã đi thì không bao giờ trở lại nữa. Hai từ “lại” trong câu cũng mang hai ý nghĩa khác nhau, từ “lại” đầu tiên là thêm một lần nữa còn từ “lại” thứ hai có nghĩa là trở lại. Mùa xuân trở lại nhưng tuổi xuân lại qua đi đó chính là cái gốc sâu xa của sự chán ngán.
– Nghệ thuật tăng tiến đã làm nghịch cảnh của nhân vật trữ tình trong câu thơ cuối càng éo le hơn. Mảnh tình ấy vốn đã ít đã bé đã không trọn vẹn nhưng vẫn còn phải “san sẻ” thành ra gần như chẳng còn gì nên nó càng trở nên xót xa và tội nghiệp. Câu thơ đã nói lên được nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa, khi mà cảnh chung chồng không phải điều xa lạ.
Câu 4: Bài thơ vừa nói lên bi kịch vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương. Anh (chị) hãy phân tích điều đó. (SGK Ngữ văn 11 tập 1- trang 19)
Lời giải chi tiết:
– Bài thơ đã nói lên bi kịch của tuổi xuân và bi kịch của duyên phận. Xuân đi rồi xuân lại đến, thời gian của thiên nhiên cứ vậy mà tuần hoàn nhưng tuổi xuân của con người thì mãi không trở lại được nữa. Trong hoàn cảnh ấy sự nhỡ nhàng và sự dở dang của tình duyên càng làm tăng thêm sự xót xa. Khi rơi vào hoàn cảnh ấy có thể nhiều người sẽ không tránh khỏi sự tuyệt vọng, thậm chí là phó mặc và buông xuôi.
– Người phụ nữ luôn khao khát hạnh phúc và muốn cưỡng lại sự nghiệt ngã của số phận, chính sự phản kháng và khao khát ấy của Hồ Xuân Hương đã làm nên ý nghĩa nhân văn sâu sắc cho tác phẩm.
Luyện tập
Câu 1: Đọc Tự tình (bài I) dưới đây, nêu nhận xét về sự giống và khác nhau giữa hai bài Tự tình (I) và Tự tình (II). (SGK Ngữ văn 11 tập 1- trang 20)
Lời giải chi tiết:
– Sự giống nhau giữa hai bài thơ là:
- Đều là thể thơ Nôm đường luật.
- Cùng bộc lộ tâm trạng buồn tủi, xót xa và phẫn uất trước cảnh duyên phận hẩm hiu.
- Sử dụng ngôn ngữ sắc sảo, tài hoa nhất là khả năng sử dụng độc đáo các định ngữ cùng bổ ngữ. Và Hồ Xuân Hương đã thành công trong việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật như đảo ngữ, tăng tiến.. một cách điêu luyện.
– Sự khác nhau giữa hai bài thơ là:
- Cảm xúc ở bài Tự tình I là nỗi niềm của tác giả trước duyên phận hẩm hiu, nhiều mất mát trước lẽ đời đầy nghịch cảnh và đồng thời là sự vươn lên của chính bản thân để thách đố lại duyên phận.
- Bài Tự Tình II là sự thể hiện của bi kịch duyên phận muộn màng và sự cố gắng vươn lên nhưng cuối cùng cũng không thoát được bi kịch. Chính vì vậy mà bi kịch như được nhân lên và trở nên phẫn uất hơn.
Số 8: Soạn bài Tự Tình 2
Bố cục
- Phần 1 (bốn câu thơ đầu): Tâm trạng, nỗi lòng của nhân vật trữ tình trong cảnh cô đơn, lẻ loi.
- Phần 2 (bốn câu thơ sau): Thái độ vùng vẫy của nhân vật trước số phận nhưng vẫn không thể thoát khỏi nỗi sầu lẻ loi.
Câu 1 (trang 19 SGK Ngữ Văn 11 tập 1):
– Hoàn cảnh: nhân vật bị đặt trong không gian cô đơn, trống trải.
+ Đêm khuya: không gian gợi sự cô đơn, suy tư.
+ Văng vẳng trống canh dồn: không gian rộng lớn nhưng hoang vu, chỉ nghe thấy tiếng trống canh dội lại.
+ Trơ: lẻ loi, một mình.
+ Cái hồng nhan đặt trong sự đối lập với nước non: cái nhỏ bé đối lập với cái rộng lớn mênh mông
– Tâm trạng của nhân vật trữ tình:
+ Chén rượu hương đưa say lại tỉnh: mượn rượu giải sầu nhưng càng say lại càng nhận ra nỗi cô đơn của mình.
+ Vầng trăng, bóng xế, khuyết chưa tròn: ý thức về thân phận lẻ loi, cuộc đời nhiều dở dang.
⇒ Nhân vật trữ tình tự nhận thức được cảnh ngộ lẻ loi, đơn độc đến chơ vơ của mình.
Câu 2 (trang 19 SGK Ngữ Văn 11 tập 1):
– Hình tượng thiên nhiên: độc đáo, khác thường, phá vỡ trật tự thông thường.
+ Phép đảo ngữ: vị ngữ (xiên ngang mặt đất, đâm toạc chân mây) đứng trước vị ngữ (rêu từng đám, đá mấy hòn).
+ Đảo trật tự từ: danh từ trung tâm (rêu, đá) đứng trước các từ chỉ loại, chỉ lượng (từng đám, mấy hòn).
⇒ Tâm trạng, thái độ của nhà thơ trước số phận: bất mãn, muốn bứt tung, muốn vùng vẫy.
Câu 3 (trang 19 SGK Ngữ Văn 11 tập 1):
+ Xuân: vừa có nghĩa chỉ mùa xuân, kết hợp với cụm từ “lại lại” chỉ sự chảy trôi của thời gian.
+ Xuân: cũng có nghĩa là tuổi thanh xuân, tuổi trẻ đang trôi qua.
+ Mảnh tình – san sẻ – tí – con con: thủ pháp tăng tiến, cái vốn đã bé nhỏ, khiếm khuyết giờ còn phải chia năm xẻ bảy.
⇒ Tâm sự của tác giả: đau buồn, bất lực trước số phận hẩm hiu, dở dang nhưng đồng thời cũng khao khát cuộc sống hạnh phúc.
Câu 4 (trang 19 SGK Ngữ Văn 11 tập 1):
– Bi kịch duyên phận: dở dang, cô lẻ.
+ Trơ cái hồng nhan với nước non; Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn; Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại; Mảnh tình san sẻ tí con con.
– Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc.
+ Xiên ngang mặt đất rêu từng đám; Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
+ Song song với ý thức về duyên phận dở dang là khát vọng cuộc sống hạnh phúc tròn đầy.
Luyện tập
Câu 1 (trang 20 SGK Ngữ Văn 11 tập 1):
Giống nhau
+ Sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú.
+ Bày tỏ ý thức về số phận dở dang, hẩm hiu và tâm trạng buồn rầu, bất mãn; đồng thời khẳng định khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của nhà thơ.
Khác nhau
+ Tự tình I: Nỗi oán hận, sầu thảm vì chẳng gặp được duyên. Tuy nhiên nhân vật trữ tình vẫn hiện lên với vẻ cao ngạo, khinh đời.
+ Tự tình II: Nỗi sầu muộn, chán ngán, chua chát vì duyên đã đến nhưng lại dở dang, hẩm hiu. Nhân vật trữ tình dù khao khát hạnh phúc nhưng cũng không tránh khỏi nỗi sầu bi trước số phận.
Ý nghĩa
Bài thơ thể hiện tâm trạng, thái độ của Hồ Xuân Hương: vừa đau buồn, vừa phẫn uất trước duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Bài thơ cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và tài năng độc đáo của “Bà chúa Thơ Nôm” trong nghệ thuật sử dụng từ ngữ và xây dựng hình tượng

Số 9: Soạn văn Tự Tình
Đọc hiểu văn bản
- Hoàn cảnh và tâm trạng của tác giả
Bài thơ mở ra bằng một hoàn cảnh tâm trạng khá đặc trưng:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Thông thường, giữa không gian mênh mông rợn ngợp, con người cảm thấy nhỏ bé, cô đơn. Ở đây, Xuân Hương lại cảm thấy cô đơn trước thời gian. Thời gian cũng vô thủy, vô chung nhưng nếu không gian chỉ đủ gợi cho con người sự rợn ngợp thì thời gian còn tàn phá những gì mà nó đi qua.
Câu thơ đầu của bài thơ đã gợi buồn. Cái buồn gợi ra từ sự tĩnh lặng của đêm khuya. Tiếng trống không gần (văng vẳng) mà vẫn nghe thấy cái nhịp vội vàng, gấp gáp, ấy là vì tiếng trống gợi bước đi của thời gian, gợi sự tàn phá và nó là tiếng trống được cảm nhận bằng tâm trạng. Chính vì thế mà trong cái nhịp gấp gáp, liên hồi của tiếng trống canh ta như nghe thấy cả bước đi dồn dập của thời gian và sự rối bời trong tâm trạng của nhân vật trữ tình.
Câu thơ thứ hai gợi cảm nhận vé sự bẽ bàng của thân phận một cách dữ dội hơn:
Trơ cái hồng nhan với nước non
Phép đảo ngữ như cố tình khoét sâu thêm vào cái sự bẽ bàng của tâm trạng. “Trơ” là tủi hổ, là chai lì, không còn cảm giác. Thêm vào đó, hai chữ “hồng nhan” (chỉ dung nhan người thiếu nữ) lại đi với từ “cái” thật là rẻ rúng, mỉa mai.
Cái “hồng nhan” trơ với nước non đúng là không chỉ gợi sự dãi dầu mà đậm hơn có lẽ là ở sự cay đắng. Câu thơ chỉ nói đến hồng nhan mà lại gợi ra cả sự bạc phận của chủ thể trữ tình. Thật cay đắng, xót xa. Nhịp câu thơ 1/3/3 cũng như vậy, cứ chì chiết, càng khơi sâu vào sự bẽ bàng khôn tả.
Tuy nhiên câu thơ không hẳn chỉ có nỗi đau, mà nó còn thể hiện cả bản lĩnh của nhân vật trữ tình nữa. Bản lĩnh ấy thể hiện ở ngay trong chữ “trơ” như là một sự thách thức vậy. Từ “trơ” kết hợp với “nước non” thể hiện sự bền gan, sự thách đố. Nó gợi cho ta nghĩ đến mộl câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan trong bài Thăng Long thành hoài cổ (“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”).
Nếu hai câu để làm nhiệm vụ dẫn dắt người đọc vào hoàn cảnh tâm trạng thì hai câu thực nói rõ hơn thực cảnh và thực tình của Hồ Xuân Hương:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trâng bóng xế khuyết chưa tròn.
Thời gian không ngừng trôi và dường như nhân vật trữ tình cũng cô đơn ngồi đối diện với đêm khuya và với vầng trăng lạnh. Cảnh tình Xuân Hương thể hiện qua hình tượng chứa đựng hai lần bi kịch: trăng sắp tàn (bóng xế) mà vẫn “khuyết chưa tròn” Cùng đó là với Xuân Hương, tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên không trọn vẹn. Hương rượu chỉ càng gợi thêm sự cô đơn và cái bẽ bàng của phận hẩm duyên. Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên cái vòng luẩn quẩn, tình duyên trở thành một trò đùa của con tạo.
- Hình tượng thiên nhiên trong câu 5 và 6 góp phần diễn tả tâm trạng, thái độ của nhà thơ trước số phận như thế nào?
Hình tượng thiên nhiên trong hai câu luận dường như cũng mang cả nỗi niềm phẫn uất của con người:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Những sinh vật bé nhỏ như đám rêu kia mà vẫn không chịu phận nhỏ bé, hèn mọn, không chịu yếu mềm. Tất cả như đang muốn bứt thoát hẳn lên: rêu phải mọc “xiên ngang mặt đất”, đá đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn, lại phải nhọn hoắt để “đâm toạc chân mây”. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ càng làm nổi bật sự phẫn uất của đá, của rêu và cũng là sự phẫn uất của tâm trạng con người.
Cùng với biện pháp đảo ngữ là sự kết hợp giữa những động từ mạnh (xiên, đâm) với các bổ ngữ độc đáo (ngang, toạc) thể hiện rất rõ sự bướng bỉnh và ngang ngạnh. Câu thơ cựa động căng đầy sức sống. Đá, rêu như đang oán hờn, như đang phản kháng quyết liệt với tạo hoá. Có thể nói, trong hoàn cảnh bi thảm nhất, thơ Hồ Xuân Hương vẫn ẩn chứa mạnh mẽ một sức sống, một khát khao.
- Hai câu thơ nói lên tâm trạng gì của tác giả?
Hai câu kết là tâm trạng chán chường, buồn tủi:
Ngán nỗi xuân di xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
“Ngán” là chán ngán, là ngán ngẩm. Nhưng tại sao? Xuân Hương ngán nỗi đời éo le, bạc bẽo bởi xuân đi rồi xuân lại lại, tạo hoá đang chơi một vòng quay nhàm chán như chính chuyện duyên tình của con người vậy.
Từ xuân vừa chỉ mùa xuân, vừa được dùng với nghĩa chỉ tuổi xuân. Với thiên nhiên, xuân đi rồi xuân lại nhưng với con người thì tuổi xuân đã qua không bao giờ trở lại. Đó là sự khắc nghiệt của tạo hoá. Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” cũng mang hai nghĩa khác nhau. Từ “lại” thứ nhất là thêm một lần nữa, trong khi đó, từ “lại” thứ hai nghĩa là trở lại. Mùa xuân trở lại nhưng tuổi xuân lại qua đi, đó là cái gốc sâu xa của sự ngán ngẩm kia.
Trong câu thơ cuối, nghệ thuật tăng tiến làm cho nghịch cảnh của nhân vật trữ tình càng éo le hơn: mảnh tình – san sẻ – tí – con con. Mảnh tình – vốn đã ít, đã bé, đã không trọn vẹn lại còn phải “san sẻ” thành ra gần như chẳng còn gì (tí con con) nên càng xót xa, tội nghiệp. Câu thơ nói lên cả nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa, khi cảnh chồng chung vợ chạ đối với họ không phải là xa lạ.
- Bài thơ vừa nói lên bi kịch vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương.
Bi kịch trong bài thơ là bi kịch của tuổi xuân, của duyên phận. Xuân đi rồi xuân đến, thời gian của thiên nhiên, của trời đất cứ tuần hoàn mà tuổi xuân của con người cứ mãi qua đi không trở lại. Trong hoàn cảnh ấy, sự nhỡ nhàng, sự dở dang của duyên tình càng làm tăng thêm sự xót xa.
Rơi vào hoàn cảnh ấy, với nhiều người có thể không tránh khỏi sự tuyệt vọng, thậm chí phó mặc, buông xuôi. Thế nhưng, Xuân Hương không thế. Trước sự trớ trêu của số phận, người phụ nữ luôn khát khao hạnh phúc vẫn gồng mình lên, vẫn muốn cưỡng lại sự nghiệt ngã của con tạo. Sự phản kháng và khát khao ấy ở Hồ Xuân Hương làm nên ý nghĩa nhân văn sâu sắc cho tác phẩm.
Luyện tập
Bài làm
Mở đầu chùm ba bài thơ Tự tình, Xuân Hương viết:
Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ tliảm klĩông khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?
Trước nghe những tỉêhg thêm rền rĩ,
Sau giận vì duyên dể mõm mòm.
Tài tử văn nhân ai dó tá?
Thân này đâu dã chịu già tom!
So sánh bài thơ này (bài I) với Tự tình (bài II), ta thấy cả hai bài thơ đều cùng bộc lộ một tâm trạng: nỗi buồn tủi, xót xa và phẫn uất trước cảnh duyên phận hẩm hiu.
Về mặt hình thức, cả hai bài thơ cùng cho thấy tài năng sử dụng tiếng Việt sắc sảo, tài hoa của Hồ Xuân Hương, nhất là khả năng sử dụng độc đáo các định ngữ và bổ ngữ như: mõ thảm, chuông sầu, tiếng rền rĩ, duyên mõm mồm, già tom ( Tự lình, bài I), xiên ngang, đâm toạc (Tự tình, bài II). Hồ Xuân Hương cũng rất thành công khi sử dụng một cách điêu luyện các biện pháp nghệ thuật như: đảo ngữ, tăng tiến…
Mặc dù vậy, tất nhiên hai bài thơ vẫn có những nét riêng dễ nhận. Ở bài Tự tình, yếu tố phản kháng, thách đố duyên phận mạnh mẽ hơn, gấp gáp hơn. Có vẻ như bài thơ này được viết khi tác giả chưa trải qua nhiều biến cố về duyên phận như khi tác giả viết bài Tự tình II chăng?
Số 10: Tự Tình 2 soạn bài
Trả lời câu hỏi
Giải câu 1 (Trang 19 SGK ngữ văn 11 tập 1)
Bốn câu thơ đầu cho thấy tác giả đang ở trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế nào? (Chú ý không gian, thời gian, giá trị biểu cảm của các từ ngữ: văng vẳng, dồn, trơ, cái hồng nhan, say lại tỉnh, mối tương quan giữa hình tượng trăng sắp tàn (bóng xế) mà vẫn khuyết chưa tròn với thân phận nữ sĩ.)
Trả lời:
– Thời gian: Đêm khuya.
– Không gian: trống trải, mênh mông rợn ngợp.
– Lòng người: trơ trọi, từ “trơ” đi liền với “cái hồng nhan” cùng biện pháp đảo ngữ gợi cảm giác xót xa, bẽ bàng.
– Hình ảnh tương phản: Cái hồng nhan ( nhỏ bé- hữu hạn) >< nước non ( to lớn – vô hạn)
→ Tô đậm tâm trạng cô đơn, lẻ loi.
– Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên cái vòng luẩn quẩn, càng buồn, càng cảm nhận được nỗi đau của thân phận.
– Hình ảnh “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” là hình tượng chứa hai lần bi kịch: trăng sắp tàn ( bóng xế) mà vẫn khuyết chưa tròn. Đó là sự tương đồng với người phụ nữ.
=> Ngoại cảnh cũng chính là tâm cảnh: Trăng = Người (Trăng sắp tàn mà vẫn chưa tròn – Tuổi cuân trôi qua mà hạnh phúc không trọn vẹn).
Giải câu 2 (Trang 19 SGK ngữ văn 11 tập 1)
Hình tượng thiên nhiên trong hai câu 5 và 6 góp phần diễn tả tâm trạng, thái độ của nhà thơ trước số phận như thế nào?
Trả lời:
Hình tượng thiên nhiên trong hai câu 5 và 6 diễn tả nỗi niềm phẫn uất của con người:
Phép đối từng cặp: xiên ngang >< đâm toạc; rêu từng đám >< đá mấy hòn; mặt đất >< chân mây…
– Biện pháp đảo ngữ kết hợp với các động từ mạnh ( xiên, đâm) thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh của Hồ Xuân Hương.
– Rêu (sinh vật mềm yếu, nhỏ bé), đá (thấp bé) không cam chịu số phận, bằng mọi cách cố vươn lên những cản trở ( mặt đất, chân mây) để chứng tỏ mình → Đá, rêu như đang oán hờn, như đang phản kháng quyết liệt với tạo hóa.
=> Hai câu thơ khẳng định sức sống mạnh mẽ, quyết liệt, muốn bứt phá rào cản để tự đi tìm hạnh phúc của tác giả.
Giải câu 3 (Trang 19 SGK ngữ văn 11 tập 1)
Hai câu kết nói lên tâm sự gì của tác giả? (Chú ý nghĩa của từ xuân, từ lại; nghệ thuật tăng tiến: Mảnh tình – san sẻ – tí – con con.)
Trả lời:
Hai câu kết là tâm trạng chán chường, buồn tủi của nhân vật trữ tình:
– Cụm từ “xuân đi xuân lại lại”: Xuân của tự nhiên qua đi rồi sẽ trở lại nhưng tuổi xuân của người thì không. Từ “lại” thứ nhất là thêm một lần nữa, còn từ “lại” thứ hai mang nghĩa trở lại. Mùa xuân trở lại nhưng tuổi xuân lại qua đi.
– Nghệ thuật tăng tiến “mảnh tình – san sẻ – tí – con con” nhấn mạnh sự nhỏ bé dần, sự ít ỏi, sự sẻ chia trong hạnh phúc cuộc đời của Hồ Xuân Hương làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn: mảnh tình vốn đã ít, đã bé, đã không trọn vẹn lại còn phải “san sẻ” thành ra chẳng còn gì (tí con con) nên càng xót xa, tội nghiệp.
Giải câu 4* (Trang 19 SGK ngữ văn 11 tập 1)
Bài thơ vừa nói lên bi kịch duyên phận vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương. Anh (chị) hãy phân tích điều đó.
Trả lời:
Bài thơ vừa nói lên bi kịch, vừa cho thấy khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương. Bi kịch trong bài thơ là bi kịch của tuổi xuân, của duyên phận. Xuân đi rồi xuân lại đến, thời gian của thiên nhiên, của trời đất cứ tuần hoàn mà tuổi xuân của con người cứ mãi qua đi không trở lại. Trong hoàn cảnh ấy, sự nhỡ nhàng, sự dở dang của duyên tình càng tăng thêm sự xót xa. Rơi vào hoàn cảnh ấy, trước sự trớ trêu của số phận nhưng Hồ Xuân Hương vẫn luôn khát khao hạnh phúc, gồng mình lên để chống lại sự nghiệt ngã của số phận.
Luyện tập
Giải câu hỏi – Luyện tập (Trang 20 SGK ngữ văn 11 tập 1)
Đọc Tự tình (Bài I) dưới đây, nêu nhận xét về sự giống nhau và khác nhau giữa Tự tình (Bài I) và Tự tình (Bài II).
TỰ TÌNH
(Bài I)
Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?
Trước nghe những tiếng thêm rền rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom!
(Thơ Hồ Xuân Hương, Sđd)
Trả lời:
- Giống nhau:
– Sử dụng thơ Nôm đường luật, thể hiện tài năng của tác giả trong việc sử dụng ngôn ngữ sắc sảo, tài hoa nhất là khả năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật: đảo ngữ, phép đối, tăng tiến…
– Bộc lộ tâm trạng: nỗi buồn tủi, xót xa, phẫn uất trước cảnh duyên phận hẩm hiu.
- Khác nhau:
– Cảm xúc trong Tự tình I là nỗi niềm của nhà thơ trước duyên phận hẩm hiu, nhiều mất mát, trước lẽ đời đầy nghịch cảnh, đồng thời là sự vươn lên của chính bản thân, thách đố lại duyên phận.
– Còn ở Tự tình II, cũng là sự thể hiện của bi kịch duyên phận muôn màng, cố gắng vươn lên nhưng cuối cùng cũng không thoát được bi kịch. Chính vì thế bi kịch như được nhân lên, phẫn uất hơn.

Tổng kết
Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 10 mẫu soạn bài Tự Tình bài 2 chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 11.