Top 5 mẫu so sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo chi tiết nhất

Top 5 mẫu so sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo chi tiết nhất
Top 5 mẫu so sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo chi tiết nhất
4.7/5 - (14 votes)

Tổng hợp các bài mẫu so sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 5 mẫu so sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Dàn ý so sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo

I. Giới thiệu chung:

– Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo. Sáng tác trước cách mạng của ông xoay quanh hai đề tài chính là nông dân nghèo và trí thức nghèo. Truyện ngắn “Chí Phèo” là kiệt tác của Nam Cao, thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của ông.

– Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Ông là một cây bút viết truyện ngắn tài hoa. Thế giới nghệ thuật của Kim Lân chủ yếu tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, in trong tập “Con chó xấu xí”

II. Phân tích

  1. Đoạn văn trong “Chí Phèo” – Nam Cao:

– Tình huống:

+ Sau cuộc gặp gỡ tình cờ của Chí Phèo với thị Nở, Chí Phèo lần đầu tiên tỉnh rượu. Chí đã tỉnh rượu sau một cơn say rất dài.

+ Trước đó Chí đã là tay sai cho kẻ thống trị nham hiểm – Bá Kiến. Bá Kiến lợi dụng Chí Phèo để trừ khử những phe cánh đối nghịch, gây ra bao tội ác với dân làng mà yếu tố hỗ trợ cho Chí là rượu. Vì thế đời Chí là một cơn say dài mênh mông. Cơn say đã lấy mất của hắn già nửa cuộc đời, đẩy hắn vào kiếp sống thú vật tăm tối.

– Tâm trạng Chí khi tỉnh rượu:

+ Tỉnh rượu, ý thức bắt đầu trở về, Chí thấy lòng mơ hồ buồn, nỗi buồn đã đến nhưng còn mơ hồ chưa rõ rệt.

+ Khi ý thức đã trở về, Chí cảm nhận được sự tồn tại của mình, biết đến không gian, thời gian. Đó là lần đầu tiên Chí nghe được những âm thanh đời thường của cuộc sống bình dị: “ Tiếng chim hót…, tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá…”.

⟶ Những âm thanh ấy đánh thức trong Chí cái ước mơ giản dị của một thời lương thiện. Hắn đã từng ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Nhưng chính bàn tay tội ác của những kẻ thống trị đã phá nát những giấc mơ, đã hủy hoại tan hoang cả một đời lương thiện. phút lóe sáng trong tâm hồn đã kéo nhân vật trở về thực tại, nhận ra hiện thực đáng buồn: “Những tiếng quen thuộc  ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn!”. Lần đầu tiên Chí Phèo tỉnh rượu cũng là lần đầu tiên hắn đối diện với cuộc đời của mình.

  1. Đoạn văn trong “Vợ nhặt” – Kim Lân:

– Tình huống:

+ Tràng đã lớn tuổi mà vẫn chưa có vợ và nạn đói khủng khiếp lại đem đến cơ may để Tràng có gia đình. Hạnh phúc đến với người nông dân nghèo khổ ấy quá bất ngờ, thấy mình như vừa từ giấc mơ đi ra.

– Tâm trạng của Tràng vào buổi sáng đầu tiên khi có gia đình:

+ Tràng trông thấy những thay đổi khác lạ ở ngôi nhà của mình, thay đổi ở người mẹ và cả người vợ. Nạn đói khủng khiếp khiến Tràng quên mất những viêc anh ta phải làm và khiến cuộc sống của anh trở nên tạm bợ, ngôi nhà trở nên trống trải. Nay Tràng đã có một gia đình và tổ ấm. Mẹ và vợ Tràng đang dọn dẹp, sửa sang lại ngôi nhà. Với người khác, cảnh tượng ấy không có gì đặc biệt nhưng với Tràng đó là hình ảnh của cuộc sống gia đình, là thứu là anh ta tưởng chẳng bao giờ có được.

+ Từ khi có gia đình là từ khi Tràng được sống trong những cảm xúc rất con người, ý thức được trách nhiệm, bổn phận của mình. Hắn nghĩ đến tương lai sáng sủa, không còn bế tắc.

  1. Điểm tương đồng và khác biệt:

a) Điểm tương đồng:

Cả hai đều nói về những chuyển biến mới mẻ của con người khi đã đến cái dốc bên kia của cuộc đời mà điều làm nên sự thay đổi kì diệu ấy đó là sự quan tâm, tình yêu thương, chăm sóc, sự sẻ chia của con người với con người.

b) Nét khác biệt:

– Nam Cao phát hiện ra những đốm sáng nhân bản còn le lói trong con quỷ dữ Chí Phèo. Tuy nhiên Chí Phèo vẫn rơi vào tình cảnh bế tắc, không lối thoát.

– Kim Lân đã phát hiện ra vẻ đẹp trong tâm hồn con người lao động, dù ở bờ vực của cái chết nhưng họ vẫn khao khát hạnh phúc gia đình, vẫn muốn sống cuộc đời của một con người. Ông mở cho nhân vật của mình một tương lai sáng lạng, đầy hi vọng. Qua đó, Kim Lân gửi vào trong đoạn văn của mình tiếng nói mang ý nghĩa triết lí nhân sinh sâu sắc: Hạnh phúc đã cứu con người thoát khỏi cái chết và có khả năng đưa con người thoát khỏi tình trạng phi nhân tính.

III. Đánh giá:

– Hai đoạn văn đều cho thấy cái nhìn đầy tính nhân đạo của người viết. Qua đây thấy được tài năng, tấm lòng của hai tác giả

Top 5 mẫu so sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo

Số 1: So sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo

Tôi ấn tượng về nhà văn Kim Lân chẳng phải vì ông là một cây bút văn xuôi tài năng. Mà bởi vì ông là một trong số hiếm nhà văn viết về những kiếp người nhỏ bé, những kẻ yếu thế, nhất là người nông dân ở chốn làng quê Việt Nam với tất cả sự trân trọng, nâng niu. Khi viết về họ, những lời văn của ông giản dị thôi nhưng lại gây xúc động lạ lùng: những người nông dân thật thà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh; nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn thiết tha yêu đời.

Điều đó càng được khắc hoạ sâu sắc và cụ thể hoá hơn qua truyện ngắn “Vợ nhặt”, in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Thiên truyện đã khắc hoạ thành công vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo khổ.

Bên cạnh việc khắc hoạ chân dung và tâm lý của nhân vật bà cụ Tứ, thị (người vợ nhặt), thì nổi bật hơn cả là việc thể hiện thành công hai mặt tính cách tưởng chừng như đối lập, nhưng lại cùng song song tồn tại của nhân vật Tràng. Khi bàn luận về nhân vật Tràng, có ý kiến cho rằng: Tràng là một gã trai quê nông nổi, liều lĩnh nhưng lại đầy khát khao và tốt bụng.

(Giới thiệu hoàn cảnh) Trên phông nền u ám của năm Ất Dậu khi ấy, có lẽ, chưa bao giờ cái đói trở nên đáng sợ và khủng khiếp như thế. Thông qua những chi tiết cụ thể, chân thật, cái khổ đau, cùng mạt của người nông dân Việt Nam, trong đó có Tràng sẽ dần dần được hé lộ.

Bằng ngòi bút tả thực đầy bất ngờ, Kim Lân đã dựng lên vô vàn những nghịch lý, tưởng chừng như nó không bao giờ có thể xảy ra. Đó là khi “cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào”, thay vì tiếng trẻ con trêu đùa ríu rít như mọi khi thì hiện lên giờ đây là hình ảnh chúng nó ngồi ủ rũ, buồn không nhúc nhích, ngay cả con đường dường như cũng khẳng khiu ra. Không gian, cảnh vật năm đói tràn qua từng “khuôn mặt hốc hác, u tối”, “những lũ người dắt díu, bồng bế nhau lên xanh xám như những bóng ma”.

Thảm hại hơn “họ nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”.Chỉ một trang văn ngắn gọn, nhà văn đã dựng lên một bức tranh chết chóc thảm đạm tới mức khủng khiếp, gây xúc động, đau thương trong lòng người đọc.

Thật trớ trêu, Kim Lân đã để anh Tràng “nhặt” được vợ trong cái khung cảnh tối sầm, nghiệt ngã ấy. Cơ hồ đó là lúc người ta chỉ nghĩ tới miếng ăn phàm tục để thoát khỏi cái đói, cái chết, để được tồn tại, thì ai còn nghĩ đến việc lấy vợ, làm đám cưới, cái thân mình lo không nổi lại còn đèo bòng.

Ấy vậy mà Tràng đã làm điều đó, cái điều mà người ta nói là dị thường trong hoàn cảnh bấy giờ. Đó là việc anh đưa một người đàn bà về làm vợ khiến tình huống thật sự trớ trêu, vừa bi thương, lại vừa hài hước.

(Tràng là một gã trai quê liều lĩnh, nông nỗi) Tình huống đã gây cho nhiều người sự ngạc nhiên tột độ vì tất cả đều không tin và không dám tin rằng giữa thảm cảnh đói khát này lại có người nông nổi và liều lĩnh như thế. Đó là điều ấn tượng nhất mà người đọc thấy ở Tràng.

Điều đáng nói hơn ở đây đó chính là anh chỉ tình cờ gặp người đàn bà ấy trong hai lần kéo xe bò lên tỉnh. Hơn nữa, việc Tràng hào phóng chiêu đãi một người đàn bà xa lạ hẳn bốn bát bánh đúc chẳng phải là quá bồng bột, ngốc nghếch hay sao?

Bởi vốn dĩ Tràng làm gì có tiền, công việc kéo xe cũng chỉ dăm ba bữa, long đong, lận đận, tiền công lại không có nhiều, thậm chí chính bản thân anh cũng lo không nổi một bữa no cho mình thì hà cớ gì phải làm người tốt trong lúc này.

Có lẽ, Tràng cũng đã nghĩ như vậy, nhưng rồi anh “Chậc, kệ!”, và gợi ý thị về chung nhà với mình trước hàng tá những nỗi lo đang thường trực trước mắt. Tự hỏi, đây có đúng là phút giây phó mặc, bất cần đầy liều lĩnh của một anh nông dân khù khờ, hiền lành, chất phác đó không?

Nếu thiên truyện chỉ kết thúc ở đây thì nó đã chẳng phải là “con đẻ” của Kim Lân. Chắc chắn nhà văn chỉ bật mí khi “trong tim anh mọi thứ đã thật ứ đầy”. Đúng thế, tình thương sẽ khoả lấp trái tim khi con người nhận thức được điều đó, với Tràng cũng vậy.

Là Tràng thật sự bao dung, thương người, hay là Tràng ế vợ, cô đơn đã lâu nên mới khát khao có một mái ấm nho nhỏ? Cả hai chăng? Đúng thế, là cả hai. Hơn ai hết, mong muốn có vợ trong Tràng thật sự mãnh liệt, dẫu rằng trong vài chi tiết hé lộ khá kín đáo nhưng nhà văn đã cho người đọc thấy được điều đó.

Một lần, Tràng đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, tưởng đâu như vô ý hò một câu cho đỡ nhọc nhưng hoá ra lại đầy tình ý:

Muốn ăn cơm trắng mấy giò này !

Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì !

khi thị nhận lời, “Tràng thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế”. Rồi cả trong câu nói vu vơ nhưng đầy tình thương và thành ý: “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”.

Chao ôi! Kỳ diệu thay, tình người, khát khao hạnh phúc như ngọn lửa thổi bùng lên thứ ánh sáng tốt đẹp, nó sẽ mang đến cho cuộc đời những món quà vô giá, để con người cảm thấy muốn sống, sống đẹp hơn trong những ngày cằn cỗi, khắc nghiệt.

Nhà văn Kim Lân muốn nhấn mạnh với bạn đọc điều gì qua khát vọng hạnh phúc gia đình của Tràng? Cái tặc lưỡi “Chậc, kệ!” lúc trước kia không phải là sự phó mặc liều lĩnh nữa, mà hơn cả đó là tình thương yêu của anh với người cùng khổ. Anh chấp nhận đương đầu với những khó khăn hiện tại và cả sắp tới.

Hơn nữa, đó là niềm khát khao hạnh phúc gia đình, nó mạnh mẽ hơn tất cả những khó khăn chồng chất mà không chỉ riêng anh phải gánh chịu. Kim Lân đã diễn tả thật chính xác và cảm động niềm hạnh phúc đang diễn ra trong tâm trí của Tràng, chính điều đó đã làm cái vẻ xấu xí, thô kệch của anh bị lấn át, nhường chỗ cho vẻ đẹp tự bên trong tỏa sáng.

Với những câu văn thật tha thiết, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc niềm xúc cảm sâu xa. Sự đói khát đã không làm giảm đi giá trị tình người mà ngược lại, được hạnh phúc, được yêu thương mới quý giá hơn hết thảy, ngay cả khi người ta tưởng cuộc sống không còn gì ngoài bát cơm manh áo.

Có lẽ, dụng ý của nhà văn còn được thể hiện ngay cả trong sự vận động của không gian và thời gian. Đó là khi thiên truyện bắt đầu vào buổi chiều chạng vạng, trong khung cảnh tối sầm, chết chóc đe doạ hạnh phúc lứa đôi, nhưng lại được kết thúc vào một buổi sáng khi bình minh lên, mở ra cho cả gia đình Tràng một trang đời mới.

Sau tất cả, những gì Tràng còn lại trong tôi là ấn tượng: Anh là một con người bao dung, ấm áp và đầy tình yêu thương. Tràng trong lửng lơ như từ giấc mơ đi ra, cảm nhận được không gian ấm cúng: Ngoài vườn mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.

Và nghĩ về tương lai tươi sáng sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.

“Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”, “sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”, đó là chân lý sống, là chuẩn mực đạo đức của Tràng, một anh con trai hiền lành và tốt bụng. Chính vì thế mà anh đã có một gia đình, một mái ấm tình thương, một sự đền đáp vượt xa cả khát khao, mong đợi.

Để viết ra được một tác phẩm thành công như vậy, bên cạnh việc đảm bảo về mặt nội dung thì cũng không thể thiếu những đặc sắc nghệ thuật.

Kim Lân chính là bậc thầy trong cách xây dựng tình huống truyện và tâm lý nhân vật, vừa độc đáo, mới lạ, vừa cảm động, sâu xa. Cùng với đó là lối dẫn truyện tự nhiên, hấp dẫn, có nhiều chi tiết đặc sắc và ngôn ngữ giản dị, bình dân, sử dụng nhiều khẩu ngữ được chắt lọc kĩ lưỡng, giàu sức gợi.

Tụ hội tất cả những biệt tài đó để nhà văn Kim Lân xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng, một gã trai quê nông nổi, liều lĩnh, nhưng lại đầy khát khao và tốt bụng. Như vậy, ý kiến đề bài đã đánh giá xác đáng về nhân vật Tràng: Anh là một gã trai quê nông nổi, liều lĩnh nhưng lại đầy khát khao và tốt bụng.

Ý kiến này không chỉ giúp bạn đọc có định hướng tiếp cận nhân vật Tràng cũng như truyện ngắn Vợ nhặt dễ dàng hơn ngầm hiểu ra được nhiều ẩn ý nghệ thuật cũng như phong cách, quan điểm nghệ thuật của nhà văn Kim Lân để bạn đọc có thể tiếp cận các tác phẩm khác của ông.(Liên hệ với nhân vật Chí Phèo để nhận xét về số phân của người nông dân) Cũng là viết về đề tài người nông dân, nhưng khác với Kim Lân, ngòi bút của Nam Cao quả thực táo bạo, mạnh dạn hơn rất nhiều.

Không biết có phải vì khuynh hướng mà ông theo đuổi và quan niệm nghệ thuật “nghệ thuật không là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối!” của ông hay không mà Nam Cao lạnh lùng với chính đứa con “Chí Phèo” của mình đến vậy? Hay còn có một nguyên do nào khác. Bởi vốn dĩ, hơn một lần Chí Phèo luôn khát khao được sống, sống lương thiện, sống cho ra một kiếp người.

Cũng giống như Tràng, Chí cũng muốn có một gia đình nho nhỏ, “chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Nhưng, Nam Cao mới cho hắn được hạnh phúc chỉ vỏn vẹn có mấy ngày sau đó lại dập tắt, mọi sự bi phẫn, tủi cực đều được dồn nén ở cuối truyện thông qua cái chết đầy đau đớn của Chí.

Cùng là người nông dân, nhưng tại sao Tràng được hạnh phúc, tương lai Tràng lại tươi sáng còn Chí lại rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền được sống, quyền được làm người lương thiện?

Có lẽ, bối cảnh ra đời của truyện mới chính là câu trả lời thích đáng nhất cho số phận và cuộc đời của hai nhà văn với hai nhân vật trên. Với Nam Cao, tác phẩm “Chí Phèo” ra đời trước Cách mạng tháng Tám, đồng nghĩa với việc, số phận và cuộc đời người nông dân hoàn toàn bế tắc, không lối thoát.

Chẳng phải vậy mà Chí Phèo với bản chất vốn lương thiện đã chẳng thể tồn tại trong xã hội ấy đó sao? Anh phải tìm đến cái chết để được làm người lương thiện. Còn với Tràng của Kim Lân thì khác, dù lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu (1945) nhưng tác phẩm được viết lại vào năm 1955, tức sau Cách mạng tháng Tám thành công.

Đặc biệt, kết thúc truyện ngắn “Vợ nhặt” là hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới đầy ý nghĩa, điều đó tức là ánh sáng của Đảng, lý tưởng Cách mạng đã thật sự chiếu rọi đến quần chúng nhân dân. Do vậy mà số phận của người nông dân, mà chủ yếu qua nhân vật Tràng, có nhiều điểm khác biệt: Có lối thoát với kết thúc có hậu.

Thông qua hai nhân vật, người đọc có thể cảm nhận được những giá trị nhận thức lớn lao về tình người và niềm khát khao hạnh phúc, cũng như sự nhìn nhận đa chiều để càng trân trọng hơn những phẩm giá tốt đẹp của người nông dân Việt Nam.“Cái đẹp cứu vớt con người”.

Vâng, ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là ngọn nguồn sức mạnh giúp nhà văn Kim Lân hoàn thành tác phẩm này. Ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài người nông dân nói riêng một quan niệm nhân văn mới đầy ý nghĩa. Đây chính là điểm sáng tuyệt vời nhất còn đọng lại mãi trong tâm trí của những người yêu văn.

Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

Số 2: So sánh Chí Phèo và Tràng

Tôi định viết một số truyện ngắn những ý khác là khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hy vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người”.

Đây là lời tự sự của chính tác giả truyện ngắn Vợ nhặt – nhà văn Kim Lân – người một lòng đi về với vẻ đẹp thuần hậu nguyên thủy làng quê khuất lấp sau dãy tre làng. Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân để lại ấn tượng trong lòng bạn đọc không chỉ bởi thông điệp giàu ý nghĩa mà còn bởi giá trị tinh thần và giá trị giáo dục giàu có của thiên truyện này.

Truyện được lấy cảm hứng và viết từ nạn đói năm 1945. Sau đó, bị mất bản thảo nhưng khi hòa bình lập lại (1954), ông dựa vào cốt truyện cũ viết nên truyện ngắn này và in trong tập Con chó xấu xí.

Cốt truyện xoay quanh ba nhân vật là Tràng, bà cụ Tứ (mẹ Tràng) và Thị – người vợ nhặt (vợ Tràng). Nhân vật nào cũng đều là hiện thân của những người nông dân trong nạn đói năm ấy, khốn khổ, đói rách.

Hoàn cảnh nạn đói ấy đã ảnh hưởng sâu sắc đến ngoại hình và tính cách của họ. Tuy nhiên, được sống trong tình thương của gia đình, của tình người, những phẩm chất tốt đẹp tiềm ẩn trong họ mới lộ thiên.

Cùng với người vợ nhặt, nhân vật Tràng là một con người với hai phương diện tính cách đối lập như thế khi được sống trong những hoàn cảnh khác nhau “một gã trai quê nông nổi, liều lĩnh nhưng lại đầy khát khao và tốt bụng”. “Nông nổi” là bồng bột, thiếu cân nhắc suy nghĩ trước khi hành động, “liều lĩnh” là hành động mà không nghĩ đến hậu quả tai hại có thể xảy ra.

“Khao khát” là muốn có một cuộc sống hạnh phúc như bao người, “tốt bụng” có lòng tốt, thương người và sẵn sàng giúp đỡ người khác. Đó là hai mặt tính cách đối lập do hoàn cảnh sống tạo ra. Tuy hai tính cách có đối lập nhau nhưng chúng lại bổ sung cho nhau để hoàn thiện nhân vật Tràng trong tác phẩm.

Tràng là dân ngụ cư, cuộc sống chịu thiệt thòi. Vì mưu sinh, họ phải tha hương cầu thực nơi đất khách quê người. Ở đây, để tồn tại, họ phải bưng mặt đi làm thuê, làm mướn cho những người có quyền thế, có tiền của.

Họ còn phải chịu cái nhìn ghẻ lạnh, khinh miệt từ người dân địa phương. Tràng làm nghề đẩy xe thóc thuê cho Liên đoàn Nhật. Một nghề bấp bênh, ngắn hạn không ổn định. Tràng sống cùng người mẹ già trong một ngôi nhà “rúm ró” nằm trong một mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, xiêu vẹo, tối tăm, sống đời “mẹ quá, con côi” cơ cực cùng bà mẹ già.

Trong cái nạn đói năm ấy, người đói chết thây chất đầy đường, thiếu ăn đến độ phải ăn rễ cây mà sống, có được bát cháo cám mà húp thôi đã là một ân huệ rất lớn. Gia đình Tràng cũng chẳng ngoại lệ, cuộc sống bấp bênh khi tương lai của mình còn lo chưa xong, ở nhà “gạo chỉ đếm bằng hạt”. Thế nhưng, chỉ với hai lần gặp gỡ người đàn bà xa lạ trong hai lần kéo xe bò lên tỉnh, Tràng đã sẵn sàng đãi người đàn bà ấy bốn bát bánh đúc, cho không, biếu không Thị mấy cái thúng con,… Thế thì có nông nỗi không?

Không chỉ thế, trong tình cảnh “đến cái thân mình còn lo chưa xong” mà Tràng lại dẫn Thị về nhà, thêm một miệng ăn là thêm một “cơ hội” chết đói. Tính mạng mình mà cũng không màng, thế có phải là liều lĩnh không? Lý giải cho hành động nông nỗi, liều lĩnh này, phải kể đến tài năng của nhà văn Kim Lân.

Kim Lân đã rất thành công trong việc phác họa được một anh nông dân đúng bản chất khù khờ, hiền lành và chất phác. Nếu hiểu Tràng là người đầy khát khao và tốt bụng thì chẳng có gì nhân văn cả. Vậy Tràng bao dung, thương người?

Chính cái tính hồn nhiên, vô tư ấy là bước đệm, là nền tảng tạo dựng hạnh phúc cho Tràng sau này. Cái tính tốt bụng bắt đầu từ khi gặp người đàn bà xa lạ, khi chưa có danh phận gì với nhau cả, chỉ là người lạ gặp qua đường. Anh đã cho đi, để rồi anh đã nhận lại thứ quý giá nhiều hơn thế

Tràng tốt bụng nhưng khao khát có vợ của Tràng rất mãnh liệt, dẫu trong vài chi tiết hé lộ khá kín đáo, nhà văn đã cho bạn đọc thấy được điều đó: Trong lần thứ nhất, Tràng đẩy xe bò lên tỉnh gặp Thị, Tràng hò một câu tưởng tình cờ cho đỡ mệt nhưng thật ra lại đầy tình ý:

Muốn ăn cơm trắng mấy giò này

Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì

Khi Thị nhận lời, Tràng thích lắm. “Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế”. Rồi cả trong câu nói vu vơ nhưng đầy tình thương và thành ý: “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”.

Nhà văn Kim Lân muốn nhấn mạnh với bạn đọc điều gì qua khát vọng hạnh phúc gia đình của Tràng? Là dù trong hoàn cảnh nghèo đói cơ cực hay thậm chí là cái chết đang chờ đón trước mắt thì khao khát hạnh phúc của con người vẫn luôn dạt dào, mãnh liệt.

Tình người, hạnh phúc luôn mang đến những điều kỳ diệu, tươi đẹp cho cuộc sống để con người cảm thấy muốn sống, sống đẹp hơn trong những ngày cằn cỗi, khắc nghiệt. Chính điều đó đã làm cái vẻ xấu xí, thô kệch của Tràng bị lấn át bởi vẻ đẹp tỏa sáng tự bên trong.

Những ấn tượng còn lại về Tràng: Anh là một con người bao dung, ấm áp và đầy tình yêu thương. Ngoài vườn mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động.

Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Và nghĩ về tương lai tươi sáng sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.

Cuối tác phẩm, Tràng nghĩ về “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” làm người đọc hình dung ra rằng khát khao hạnh phúc mãnh liệt tương lai tươi sáng vẫn đang bùng cháy le lói trong tâm hồn của Tràng.

Với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đậm chất nông dân được chắt lọc kỹ lưỡng giàu sức gợi, xây dựng tình huống truyện độc đáo, miêu tả tâm lý nhân vật hấp dẫn sinh động. Nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật Tràng: “một gã trai quê nông nổi, liều lĩnh nhưng vừa lại đầy khát khao và tốt bụng” như ý kiến ở đề bài đã đánh giá.

Cùng viết về đề tài người nông dân nghèo vùng nông thôn, phải chịu nhiều thiệt thòi, sống cơ cực, lầm than dưới chế độ phong kiến, thực dân, Nam Cao đã gây được tiếng vang lớn với hình tượng điển hình Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên ra đời năm 1941, tức trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Chí là một người hiền hậu, chất phác được dân làng Vũ Đại cưu mang. Anh cũng ước mơ có một cuộc sống bình dị như bao người “một cuộc sống nho nhỏi, chồng cày thuê, vợ dệt vải”. Chỉ vì cường quyền của chế độ phong kiến khi chưa có Đảng lãnh đạo mà đứa con tinh thần của tác phẩm đã bị chà đạp không thương tiếc.

Chí Phèo là nhân vật điển hình cho người nông dân bần cùng dẫn đến lưu manh hóa – quy luật có tính phổ biến trong xã hội trước Cách mạng. Còn Tràng lại tiêu biểu cho người nông dân vùng nông thôn trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu (1945). Nhìn chung, số phận của Chí Phèo đáng thương, đau khổ hơn Tràng: bị cự tuyệt quyền làm người.

Ngoài những yếu tố chi phối như đề tài, cảm hứng, phong cách, quan niệm nghệ thuật, tư tưởng, khuynh hướng sáng tác của mỗi nhà văn có khác nhau thì có lẽ bối cảnh ra đời của hai tác phẩm là yếu tố quyết định đến sự khác nhau trong số phận của hai người nông dân này.

Tác phẩm Chí Phèo ra đời trước Cách mạng tháng Tám, đồng nghĩa với việc số phận và cuộc đời người nông dân hoàn toàn bế tắc, không lối thoát. Không phải vậy mà Chí Phèo với bản chất vốn lương thiện đã không thể tồn tại trong xã hội ấy đó sao? Anh phải tìm đến cái chết để được làm người… lương thiện.

Còn với Vợ nhặt thì khác, dù lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu (1945) nhưng tác phẩm được viết lại vào năm 1955, tức sau Cách mạng tháng Tám. Văn học thời kỳ này phải gắn liền và phục sự cho sự nghiệp cách mạng. Do vậy, số phận của người nông dân, mà chủ yếu qua nhân vật Tràng có nhiều điểm khác biệt: Có lối thoát với kết thúc có hậu.

Với Tràng, nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một người nông dân với những nét phẩm chất, tính cách, trí tuệ, ngôn ngữ tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam. Với Chí Phèo, Nam Cao đã xây dựng được một nhân vật điển hình cho một tầng lớp của xã hội. Đặc biệt, thông qua hai nhân vật này, người đọc cảm nhận được tấm lòng nhân đạo cũng như sự nhìn nhận đa chiều để trân trọng vẻ đẹp con người của hai nhà văn.

Số 3: So sánh tâm trạng của Tràng và Chí Phèo

Khi tiếp xúc với tác phẩm, có thể nói, bạn đọc chưa kịp day dứt khi thấy Tràng phải lay lắt từng ngày trong cái đói khát và tủi nhục để rồi dẫn đến bờ vực của cái chết trong Vợ nhặt của Kim Lân, thì lại một lần nữa đớn đau khi chứng kiến cảnh Chí Phèo chết ngay trên đường trở về với cuộc đời lương thiện trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao.

Kim Lân là một cây bút chuyên viết về truyện ngắn và đặc biệt là về đề tài nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Chính vì thế, văn phong của ông chân thật, gần gũi khiến người đọc dễ dàng đồng cảm trước nỗi đau của người nông dân lúc bấy giờ. Tác phẩm Vợ nhặt, được trích trong truyện ngắn Xóm ngụ cư ra đời cũng không phải là trường hợp ngoại lệ.

Vợ nhặt không chỉ miêu tả rõ nét nạn đói những năm 1945 mà qua đó khám phá ra vẻ đẹp của khát vọng sống trong mỗi con người ”Trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết thảm đạm để mà vui, mà hy vọng”.

Khi so sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo, tuy cùng miêu tả số phận và nỗi đau của người nông dân trước Cách mạng nhưng hai nhà văn lại hướng ngòi bút vào những khía cạnh khác nhau. Nếu như Kim Lân phác họa lên bức tranh đói khát, nỗi lo cơm áo gạo tiền thì Nam Cao lại tập trung bút lực để xoáy sâu vào bên trong con người, mà cụ thể là sự thèm thuồng lương thiện của Chí Phèo.

Sự mới mẻ trong quan điểm nghệ thuật của Nam Cao đã khiến ông trở thành nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc trong giai đoạn 1939 – 1945. Điều này dễ thấy khi tác phẩm Chí Phèo ra đời đã tạo nên tiếng vang lớn, không chỉ đưa tên tuổi của ông đi lên mà còn góp vào nền văn học Việt Nam một thiên truyện đặc sắc.

Văn học bao giờ cũng là câu chuyện của cuộc đời, bởi nhiệm vụ đầu tiên của nhà văn là vạch ra những khổ đau, những bất công của nhân loại để mà bảo vệ và phản ánh. Chính vì thế mà cả Kim Lân hay Nam Cao đều hướng ngòi bút nhân đạo của mình đến những nỗi đau của con người, mà đặc biệt là người nông dân trước cách mạng.

Cả hai nhà văn đã vạch nên một xã hội với đầy những bất công ngang trái, nơi người nông dân phải chịu một lúc nhiều chồng áp bức khiến con người mất đi những nét đẹp vốn có. Khi so sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo, ta thấy rằng họ phải cùng nhau chịu nỗi đau về mặt vật chất. Nhưng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào họ vẫn sáng ngời những phẩm chất cao quý, tốt đẹp của những con người Việt Nam.

Dù bị đẩy đến đường cùng vẫn chứng tỏ mình là một con người lương thiện, dù bị cái đói đeo bám nhưng vẫn thể hiện đầy đủ nét đẹp của người Việt Nam khi phải đối diện với cái đói và cái chết.

Nhân vật Tràng là một con người với hai phương diện tính cách đối lập như thế khi được sống trong những hoàn cảnh khác nhau “một gã trai quê nông nổi, liều lĩnh nhưng lại đầy khát khao và tốt bụng”. Hoàn cảnh nạn đói ấy đã ảnh hưởng sâu sắc đến ngoại hình và tính cách của anh.

Tràng làm nghề đẩy xe thóc thuê cho Liên đoàn Nhật. Một nghề bấp bênh, ngắn hạn không ổn định. Tràng sống cùng người mẹ già trong một ngôi nhà “rúm ró” nằm trong một mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, xiêu vẹo, tối tăm, sống đời “mẹ quá, con côi” cơ cực cùng bà mẹ già. Khi so sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo, chúng ta sẽ thấy thương cảm với cái đói cái nghèo cứ mãi đeo bám Tràng.

Trong cái nạn đói năm ấy, người đói chết thây chất đầy đường, thiếu ăn đến độ phải ăn rễ cây mà sống, có được bát cháo cám mà húp thôi đã là một ân huệ rất lớn. Gia đình Tràng cũng chẳng ngoại lệ, cuộc sống bấp bênh khi tương lai của mình còn lo chưa xong, ở nhà “gạo chỉ đếm bằng hạt”.

Khi so sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo, người đọc mới một lần nữa chứng kiến nỗi đau tột cùng của chí. Nam Cao không thể hiện nỗi đau về vật chất mà đi sâu vào bi kịch tinh thần và nhân vật phải chịu đựng. Ngay từ sự ra đời của hắn đã là một nỗi bất hạnh rồi. Chẳng ai biết cha mẹ hắn là ai, nhà văn chỉ để cho ta biết hắn xuất hiện ở một cái lò gạch cũ và lớn lên trong sự cưu mang của dân làng.

Chí bị đẩy vào tù dưới sự nhào nặn của nhà tù thực dân, hắn đã trở thành một con quỷ. Để rồi khi hắn ra tù chẳng ai nhận ra hắn, về hôm trước hôm sau đã thấy hắn ngồi uống rượu với thịt chó không chỉ nhân hình mà nhân tính hắn cũng đã thay đổi.

Với khuôn mặt đầy vết sẹo chằng chịt cùng với tiếng chửi bước đi khật khưỡng bản tính tốt đẹp của anh Chí ngày xưa đã mất đi thay vào đó là một linh hồn của quỷ. Hắn đã trở thành con người quỷ dữ của cả làng Vũ Đại khiến ai nhìn cũng phải khiếp sợ.

Tràng là dân ngụ cư, cuộc sống chịu thiệt thòi. Vì mưu sinh, họ phải tha hương cầu thực nơi đất khách quê người. Thế nhưng, chỉ với hai lần gặp gỡ người đàn bà xa lạ trong hai lần kéo xe bò lên tỉnh, Tràng đã sẵn sàng đãi người đàn bà ấy bốn bát bánh đúc, cho không, biếu không Thị mấy cái thúng con,…

Thế thì có nông nổi không? Trong tình cảnh “đến cái thân mình còn lo chưa xong” mà Tràng lại dẫn Thị về nhà, thêm một miệng ăn là thêm một “cơ hội” chết đói.

Một người đàn bà vốn vô tư, hồn nhiên đã thay đổi trở thành một con người chua ngoa liều lĩnh vì cái đói. Đặc biệt cái đói khiến thị nhắm mắt đưa chân theo không một người đàn ông xấu xí, thô kệch. Đi theo không Tràng một cách vô điều kiện, không cần treo hỏi cưới xin cũng chẳng cần sính lễ và chỉ từ mấy câu hò bốn bát bánh đúc.

Họ đã trở thành vợ chồng thật đơn giản mà nực cười, nhưng đó là cái cười ra nước mắt. Tràng, thị, bà cụ cho dù bị cái đói đeo bám, cái chết treo lơ lửng trên đầu nhưng họ đã dùng tình thương, tình yêu để sưởi ấm cho nhau.

Họ luôn tin rằng tương lai sẽ tươi sáng, điều đó được thể hiện rõ trong bữa cơm đón nàng dâu mới mặc dù chỉ có cháo loãng và cháo cám chát xít. Nhưng họ vẫn ăn rất vui vẻ họ nói về chuyện nuôi gà về chuyện đoàn người đi phá kho thóc của Nhật.

Kim Lân đã nêu bật lên tình cảnh cùng đường của con người Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Thế nhưng ông không hề có ý định mỉa mai những cái bất thành nhân của con người mà ngược lại ông muốn đề cao phẩm chất cao quý của con người, khát vọng vươn lên dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào của họ. Thông qua đó tác giả đã lớn tiếng lên án phê phán chế độ thực dân phong kiến và phát xít lúc bấy giờ, bởi vì đã đẩy con người vào con đường cùng.

Từ khi gặp Thị Nở, lần đầu tiên Chí cảm nhận được hơi thở cuộc sống, nghe thấy tiếng chim hót và tiếng nói cười để biết rằng mặt trời đã lên cao. Rồi có một cảm giác nôn nao buồn khi nghĩ đến ước mơ của cuộc đời mình “hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ”.

Một lần nữa, lần đầu tiên Chí biết đến trạng thái tự ý thức, chính bát cháo hành của Thị Nở đã giúp hắn làm được điều đó. Bát cháo là đại diện của tình người – điều mà tưởng chừng như cả cuộc đời này hắn không bao giờ có được. Sự chăm sóc từ đôi bàn tay người phụ nữ, nó thật ấm áp và mới mẻ so với hắn.

Bát cháo hành và cả tình thương của Thị Nở đã đánh thức phần nhân tính trong thân xác một con quỷ dữ như Chí. Có lẽ vì thế mà “hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt” Nam Cao gọi nước mắt là hạt châu của con người, nó cứu lấy, nó gột rửa mọi tội lỗi và giữ con người ở lại phần trong sáng của lương tri.

Đỉnh điểm của sự nhận thức trong Chí là sự thèm lương thiện. Tại sao một thứ luôn tồn tại sẵn bên trong mỗi con người nhưng khiến Chí phải thèm. Bởi mọi người không công nhận hắn, gạt bỏ sự tồn tại của hắn. Giọng văn Nam Cao còn khiến người đọc tức tưởi hơn khi chứng kiến cảnh Chí chết giữa đường tìm về với sự lương thiện bởi cái nhìn đay nghiến của con người bấy giờ đại diện qua nhân vật bà cô.

Khi so sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo, người đọc mới cảm nhận hết nỗi đau số phận của người nông dân trong thời đại bấy giờ. Nếu không là một cuộc sống đói khát đến chết trong Vợ nhặt thì kinh khủng hơn đó là những định kiến của xã hội khô khốc và lạnh lùng ấy đã làm biến dạng một nhân cách con người trong Chí Phèo.

So sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo, sở dĩ có sự khác biệt về cách nhìn và cách thể hiện khi viết về những người nông dân trong “Chí Phèo” và “Vợ Nhặt” vì tác phẩm “Chí Phèo” viết trước cách mạng, khi đó nhà văn chưa nhìn thấy được ánh sáng của Đảng, sự bế tắc của tác phẩm cũng chính là sự bế tắc chung của nhiều tác phẩm khác như “Tắt đèn”, “Bước đường cùng” còn đến với “Vợ nhặt” tác phẩm được viết sau cách mạng nhà văn đã nhìn thấy ánh sáng của Đảng nên ông đã mở đường cho nhân vật của mình. Bởi ông hiểu rằng muốn có cuộc sống hạnh phúc tự do, con người phải đến với ngày hội quần chúng phải cứu mình trước khi trời cứu.

Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

Số 4: So sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo

Nam Cao và Kim Lân là hai ngòi bút nổi tiếng và thành công nhất khi viết về đề tài người nông dân trong xã hội cũ, với những nỗi khốn khổ và bất công cùng cực diễn ra trong nhiều số phận con người những năm trước cách mạng.

Trong đó nếu như Nam Cao viết về những bi kịch và kết thúc đau thương tiêu biểu là cuộc đời của Chí Phèo, thì Kim Lân lại có cái nhìn tươi sáng và dịu dàng hơn hẳn, ông không quá chú trọng vào vấn đề phản ánh hiện thực mà thay vào đó ông chú tâm đi tìm những vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trong xã hội cũ, đồng thời gửi gắm reo rắc hy vọng ngay cả trong những hoàn cảnh khốn nạn nhất của xã hội, điều đó có thể nhìn thấy rõ trong tác phẩm Vợ nhặt với nhân vật Tràng.

Tuy nhiên dù viết theo xu hướng nào, thì ở cả hai tác phẩm, diễn biến tâm trạng của Chí Phèo và Tràng đều rất đáng chú ý, thể hiện được tài năng riêng của mỗi tác giả.

Ở Vợ nhặt, nhân vật Tràng cũng dính số kiếp của một người nông dân cùng khổ, không ruộng đất, nghèo đói phải chấp nhận tha hương cầu thực, làm dân ngụ cư xứ người chịu nhiều những xa lánh, áp lực.

Đặc biệt cuộc đời anh còn phải trải qua một sự kiện khủng khiếp nhất trong lịch sử dân tộc ấy là nạn đói năm 1945, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói, và mẹ con Tràng sống những ngày tháng khó nhọc trong những ám ảnh về cảnh người chết như ngả rạ, những người đói dò dẫm như những bóng ma đang chậm rãi tiến về nghĩa địa, mùi tử thi nồng nặc, tiếng quạ kêu thê lương,…

Thế nhưng trong hoàn cảnh đó, Tràng vẫn nỗ lực từng ngày để kiếm sống bằng cách đẩy xe bò thuê. Và có lẽ chính sự nỗ lực không ngừng nghỉ của một chàng trai xấu xí, nghèo khó và tồ tệch đã khiến Tràng có được một mối duyên kỳ lạ – Tràng nhặt được vợ.

Nói đến sự tích nhặt được vợ của Tràng, trước tiên phải đến sự hào phóng vào rộng lượng của nhân vật này. Tràng và thị biết nhau khi Tràng vô tư hò lên mấy câu cho đỡ mệt rằng “Muốn ăn cơm trắng mấy giò, lại đây mà đẩy xe bò cùng anh”, những tưởng chỉ đùa cho vui vậy mà thị lại đẩy xe cho Tràng thật. Rồi lần thứ hai khi gặp lại, thị đã lập tức sấn đến, cong cớn, sưng sỉa tức giận mắng nhiếc Tràng “Điêu người thế mà điêu!”, cốt để đòi lại cái miếng ăn mà Tràng đã chót hứa.

Thế rồi Tràng đã đãi người đàn bà xơ xác, tàn tạ chị còn da bọc xương ngay trước mắt một bữa 4 bát bánh đúc một cách hào phóng rộng lượng, đồng thời không thoát khỏi cái tính hay đùa cợt của mình Tràng lại nửa đùa nửa thật rằng “”Này có theo tớ về thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”.

Ai ngờ thị thế là lại đồng ý theo Tràng thật, từ đó một mối duyên vợ chồng đến từ hai câu đùa, 4 bát bánh đúc đã thành một cách đơn giản và dễ dàng. Có thể nhận thấy rằng, tình cảm ban đầu của Tràng với thị không phải là tình yêu, mà nó là sự đồng cảm giữa con người với nhau, xuất phát từ tấm lòng nhân hậu của chàng trai nghèo khó.

Thế nhưng sau khi đã nên duyên vợ chồng, dường như trong lòng Tràng đã đổi khác, từ một con người vô tư thích đùa, Tràng bỗng trở nên cẩn thận, tinh tế và biết quan tâm chăm sóc người khác, anh thấy mình có trách nhiệm phải chăm lo, bảo vệ cho thị, để thị đỡ tủi hổ.

Chính vì thế nên Tràng đã dẫn thị vào chợ tỉnh mua cho thị cái thúng con và mấy thứ đồ lặt vặt, lại dẫn thi đi ăn một bữa thật no coi như là mừng đám cưới, đồng thời mua thêm 2 hào dầu thứ vốn được coi là hoang phí lúc bấy giờ để về thắp sáng nhà cửa cho có không khí tân hôn.

Ngay lúc ấy người ta thấy Tràng dường như đã lột xác trưởng thành, trở thành người đàn ông của gia đình, ý thức được trách nhiệm với vợ con và tình cảm với thị cũng dần chuyển hóa từ tình cảm thương hại sang tình yêu, tình thân từ lúc nào không hay.

Trong lòng Tràng lúc này có những niềm tin, niềm hy vọng sống và khao khát hạnh phúc thật mãnh liệt, nó mạnh mẽ đến mức “trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt”.

Lòng Tràng đang tràn ngập những xúc cảm vui sướng để chờ đón những tháng ngày mới mẻ khi nhà có thêm người, một cuộc sống êm đềm, vợ chồng thuận hòa dường như đang hiện ra trước mắt, vượt lên trên tất cả những đói khổ, cùng cực ngoài kia.

Sau đêm tân hôn ta thấy sự thay đổi trong tâm hồn Tràng càng được biểu hiện rõ ràng, “cảnh tượng thật đơn giản bình thường, nhưng đối với hắn thật thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Anh thấy bừng lên”một nguồn vui sướng đột ngột tràn ngập trong lòng”.

Đặc biệt nhất là những suy nghĩ nội tâm đầy trách nhiệm của một người chồng người chủ gia đình khi mà “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”, và ngay khi ý thức thức được điều ấy Tràng đã ngay lập tức có những hành động rất thực tế “hắn chạy xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa căn nhà”.

Hơn thế nữa, trong bữa cơm mừng dâu mới, việc thị nhắc đến chuyện người ta cướp kho thóc ở Thái Nguyên, Bắc Giang dường như đã gợi ra trong lòng Tràng những chuyển biến mới, Tràng cảm thấy tiếc nuối khi một dạo trước nhìn thấy người ta kéo nhau đi cướp kho thóc, mà mình lại bỏ qua.

Có lẽ rằng, từ giờ trở đi nếu thấy chuyện ấy một lần nữa Tràng sẽ hòa vào đám người kia chăng, hoặc có thể trở thành một trong những người dẫn đầu cho phong trào ấy cũng nên. Việc xây dựng gia đình không chỉ đem đến cho Tràng niềm tin, niềm hy vọng và cuộc sống mà còn cả sức mạnh tinh thần, sự liều lĩnh dám hướng tới một con đường mới tươi sáng hơn khi hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới xuất hiện trong suy nghĩ của nhân vật này.

Có thể thấy rằng diễn biến tâm trạng của Tràng rất ổn định và luôn diễn tiến theo một xu hướng tích cực, mở ra một tương lai tươi sáng đầy hy vọng, vượt qua mọi khó khăn trắc trở kinh hoàng trong lịch sử.

Trái lại đối với nhân vật Chí Phèo, tâm trạng của nhân vật này có nhiều mâu thuẫn, đồng thời hoàn cảnh của Chí Phèo cũng xuất hiện quá nhiều bi kịch, khiến nhân vật dường như không còn cách giải thoát cũng như không còn một tia sáng hy vọng nào về cuộc đời phía trước.

Chí Phèo sinh ra đã là kẻ bất hạnh, bị cha mẹ bỏ rơi, rồi bị truyền tay hết người này đến người khác nuôi, khi đã yên ổn sống khỏe mạnh đến tuổi hai mươi, với những ước mơ khao khát đẹp đẽ về một gia đình nhỏ chồng cày thuê, vợ dệt vải, tậu đất, nuôi heo, thì anh lại bị đẩy vào một bi kịch khác.

Chí Phèo lọt vào mắt người vợ ba trắc nết của Bá Kiến, rồi bị tên này ghen tuông đổ vạ tống cổ vào tù đến tận 7, 8 năm. Cái nhà tù thực dân ấy đã biến một chàng trai hiền lành thằng một kẻ lưu manh với ngoại hình gớm ghiếc, đồng thời cướp hết cả tuổi trẻ và sức lực của nhân vật này.

Chí Phèo sau ra tù đã quên mất hết những mộng ước ban đầu, hắn không còn muốn làm lại cuộc đời mà thay vào đó là sa đọa trong rượu chè, rạch mặt ăn vạ để đổi lấy tiền uống rượu, sau cùng trở thành con quỷ của làng Vũ Đại khi làm tay sai chuyên đâm thuê chém mướn cho Bá Kiến.

Ngày càng trượt dài trên con đường tội lỗi, chấp nhận bán rẻ linh hồn để kiếm mấy đồng lẻ, tiếp diễn những cơn say triền miên đến hàng 15 năm trời. Người ta đâm ra ghê sợ hắn, xa lánh hắn, không ai muốn nói chuyện với Chí Phèo, hắn trở thành con vật “lạ” cô độc và lẻ loi giữa cuộc đời, không nhận được quyền giao tiếp như một con người thực thụ. Điều ấy khiến hắn đau khổ và càng thêm căm hận, bế tắc. Bước ngoặt cuộc đời của Chí đến từ một nhân vật tên là Thị Nở, một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, họ đã phải duyên phải phận, gặp nhau, ăn nằm với nhau và yêu nhau.

Buổi sáng sau đêm định mệnh, Chí Phèo lần đầu tiên tỉnh táo sau gần hai mươi năm đen tối của cuộc đời, hắn nghe được những âm thanh của sự sống, tiếng hót, tiếng người ta nói chuyện với nhau và cả ánh nắng sớm lọt qua căn lều rách.

Điều ấy khiến Chí Phèo tỉnh ngộ, hắn đã bước sang ngưỡng bên kia của cuộc đời, thân thể hắn đã tàn tạ lắm rồi, hắn không sợ cái chết nhưng hắn sợ cái cô đơn đằng đẵng trong chặng đường sắp tới.

Bát cháo hành của Thị Nở và sự quan tâm chăm sóc từ một người đàn bà mà lần đầu tiên Chí Phèo nhận được đã khiến hắn cảm động, làm sống lại những mong ước của hắn về một gia đình nhỏ êm ấm.

Hắn thấy yêu Thị Nở, hắn có niềm tin rằng thị sẽ dẫn hắn về lại thế giới loài người, sẽ cho hắn một cuộc sống khác, không rượu chè, không đâm thuê chém mướn, không còn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại nữa.

Thế nhưng thật đớn đau làm sao, khi một lần nữa bi kịch bị từ chối quyền làm người lại đổ ập lên đầu Chí, một câu nói cay nghiệt của bà cô Thị Nở đã giết chết tất cả những hy vọng trong hắn “Đàn ông đã chết hết hay sao mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”.

Câu nói ấy đã khiến Chí Phèo rơi vào tuyệt vọng và bế tắc hoàn toàn khi ý thức được rằng xã hội nào đã không còn đường lùi cho hắn nữa, hắn không thể trở về nữa rồi.

Hắn căm hận tột cùng cái kẻ đã đẩy mình vào con đường bất lương và chọn cách giải quyết tất cả một cách tiêu cực khi giết Bá Kiến rồi tự tử. Câu nói mà Chí Phèo nói với Bá Kiến khiến người ta không khỏi xót xa và sợ hãi về cái xã hội khốn nạn khi ấy “Không được! Ai cho tao lương thiện!”.

Có thể nhận định rằng, tâm trạng và cuộc đời của Chí Phèo là một dạng đồ hình sin đày gập ghềnh và trắc trở, con người ấy đã có những lúc đạt đến tột cùng của hy vọng và khao khát hạnh phúc, nhưng rồi cuối cùng phải chịu cái kết tang thương khi bị đạp rơi xuống hố sâu của tuyệt vọng rồi kết thúc cuộc đời trong đau đớn.

So với Chí Phèo nhân vật Tràng có một cái kết tốt đẹp và viên mãn hơn, bởi lẽ tác giả đã mở ra cho nhân vật của mình những con đường sáng, đồng thời mục đích chính là làm nổi bật những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý vượt lên trên mọi hoàn cảnh.

Trái lại đối với Chí Phèo, Nam Cao muốn khắc sâu hiện thực xã hội thế nên cái kết bi kịch của nhân vật là một điều tất yếu. Trong đó điểm chung đáng chú ý của hai tác phẩm mà ta cần nhớ ấy là vẻ đẹp của sức sống tiềm tàng, niềm tin, niềm hy vọng sống, khát khao hạnh phúc, tình yêu mãnh liệt trong cuộc đời của cả hai nhân vật.

Số 5: So sánh Chí Phèo và Tràng

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo. Sáng tác trước cách mạng của ông xoay quanh hai đề tài chính là nông dân nghèo và trí thức nghèo. Truyện ngắn “Chí Phèo” là kiệt tác của Nam Cao, thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của ông. Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Ông là một cây bút viết truyện ngắn tài hoa. Thế giới nghệ thuật của Kim Lân chủ yếu tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân.

“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, in trong tập “Con chó xấu xí”. Qua việc khắc họa hai nhân vật trong hai đoạn trích trên, ta thấy được sự thành công của hai nhà văn trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật.

Sau cuộc gặp gỡ tình cờ của Chí Phèo với thị Nở, Chí Phèo lần đầu tiên tỉnh rượu. Chí đã tỉnh rượu sau một cơn say rất dài. Trước đó Chí đã là tay sai cho kẻ thống trị nham hiểm – Bá Kiến.

Bá Kiến lợi dụng Chí Phèo để trừ khử những phe cánh đối nghịch, gây ra bao tội ác với dân làng mà yếu tố hỗ trợ cho Chí là rượu. Vì thế đời Chí là một cơn say dài mênh mông. Cơn say đã lấy mất của hắn già nửa cuộc đời, đẩy hắn vào kiếp sống thú vật tăm tối.

Sau khi tỉnh rượu, Chí nhận ra và cảm nhận được những thanh âm của cuộc sống: “tiếng chim hót, tiếng anh thuyền chài đuổi cá, tiếng mấy bà đi chợ bán vải về”. Đó là âm thanh vang vọng của cuộc sống thường nhật. Những âm thanh ấy chính là tiếng gọi thiết tha của cuộc sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo.

Âm thanh ấy như cơn mưa rào mùa hạ, như dòng suối ngọt ngào đổ vào tâm hồn quỷ dữ và thức dậy cả một trời ký ức tươi đẹp. Âm thanh ấy nhắc cho hắn nhớ đến một tuổi trẻ từng mơ ước “một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ ở nhà dệt vải…”.

Âm thanh ấy cũng đánh thức hiện tại đầy cay đắng. Hắn không nhớ mình năm nay bao nhiêu tuổi; chỉ biết đã qua bên kia con dốc của cuộc đời. Hắn nhận ra hiện tại đã già mà vẫn còn cô độc. Nghĩ đến tương lai, hắn chạnh lòng vì phải đối mặt với một “đói rét, ốm đau và cô độc, cô độc, còn sợ hơn cả đói rét và ốm đau”. Khi ý thức được hiện tại, đoán biết được tương lai, Chí không còn là quỷ dữ nữa mà đã trở lại năng lực làm người.

Khi thấy bát cháo hành của Thị Nở, Chí Phèo ngạc nhiên và thấy “mắt mình như ươn ướt”. Hắn xúc động vì lần đầu tiên được chăm sóc, lại là sự chăm sóc của một người đàn bà. Và cũng bởi vì đây là lần đầu Chí được bàn tay của một người đàn bà cho. Hắn nhận ra bát cháo hành mà hắn đón lấy là “cái cho” đầu tiên của cuộc đời, vì xưa nay muốn có cái ăn, hắn phải rạch mặt ăn vạ. Điều ấy khiến Chí chạnh lòng nhận ra bi kịch của đời mình.

Chí cảm nhận về cháo hành như cảm nhận về tình người, tình yêu thương mà bây giờ hắn mới nhận ra. Hắn nhận ra “cháo hành ăn rất ngon” nhưng cũng tự hỏi “sao đến bây giờ mới được ăn”; rồi lại tự trả lời “có ai nấu cho mà ăn đâu”.

Phút giây ấy, người đọc có thể hình dung ra tình cảnh thê thảm của Chí: không người thân, không kẻ thương, Chí cô độc đến tuyệt đối giữa làng Vũ Đại. Như vậy, bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc, là bát cháo của tình yêu thương, của tình người. Thầy Phan Danh Hiếu. Hương vị cháo hành còn là hương vị của tình yêu mà lần đầu Chí cảm nhận được.

Nếu như ban đầu, người đàn bà xấu xí, quá lứa lỡ thì, lại dở hơi ấy chỉ khơi lại cái bản năng ở Chí Phèo thì sau đó điều kì diệu đã xảy ra, sự săn sóc đầy ân tình và yêu thương mộc mạc của thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện tiềm ẩn trong con người Chí Phèo.

Chính bàn tay chăm sóc ân cần của thị Nở và hương vị của cháo hành đã xoa dịu trái tim con quỷ dữ và thức dậy bản tính người, thức dậy thiên lương trong sâu thẳm con người của Chí.

Sức mạnh của tình yêu thương đã lan tỏa từ bát cháo hành, xông đến tận cùng thớ não và tim gan của Chí, đưa hắn ra khỏi vùng tối của cuộc đời, mang hắn đến bến bờ thiên lương. Trái tim đầy tổn thương của hắn phải chăng đã được vá lại từ tình yêu thương của thị Nở.

Nếu lúc trước Chí say và ngã vào Thị vì Chí không biết rằng người đàn bà ấy vừa dở hơi vừa xấu xí, xấu đến mức ma chê quỷ hờn. Nhưng lúc này, khi hoàn toàn tỉnh táo, Chí không những chấp nhận thị mà còn yêu thị. Bởi chỉ có tình yêu mới khiến con người ta thấy xấu cũng thành đẹp.

Và Chí say thị thật. Đàn bà không có men như rượu nhưng cũng có thể làm người ta say. Chí thấy thị có duyên lắm. Vậy là Chí tỉnh, hắn đâu có say. Chính vì Chí tỉnh nên hắn mới cảm nhận được những hương vị của cuộc sống, của tình yêu.

Những chi tiết này cho ta khám phá ra thêm một đức tính nữa của Chí. Đó là tính thiện – Nam Cao tin rằng: lương thiện là thứ không bao giờ mất đi ở người nông dân. Đó là tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn dành cho nhân vật.

Đã có lúc, Chí hồn nhiên, hắn thấy lòng thành trẻ con, muốn làm nũng với Thị như làm nũng với mẹ. Ý nghĩ hồn nhiên ấy khiến Chí như trẻ lại. Còn người đọc nhận ra một điều chua chát: Chí không có mẹ, hắn chưa bao giờ được nhận sự yêu thương từ mẹ. Bởi thế thị đối với hắn như người ban ơn vậy.

Rồi hắn khao khát hạnh phúc. Tình yêu với Thị Nở khiến hắn đủ hi vọng và mong ước có một gia đình: “Giá cứ như thế này mãi thì thích nhỉ”; “Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Thầy Phan Danh Hiếu.

Rồi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người. Chí không còn là kẻ rạch mặt ăn vạ nữa, không còn là con quỷ dữ nữa. Hắn thực sự đã trở lại làm người với hai chữ “con người” đúng nghĩa. Như vậy, thị Nở chính là “thiên thần” của Chí.

Thị không có đôi cánh tình yêu như trong thần thoại nhưng lại ấm nóng như lửa và mạnh mẽ như gió. Nếu là gió, thị sẽ thổi tung đám tàn tro nguội lạnh vây quanh cuộc đời của Chí. Nếu là lửa, lửa sẽ đốt bỏ lớp vỏ quỷ dữ để trả lại cho anh hình hài của một con người.

Gặp thị Nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa hề có trong đời, mang đến niềm vui, niềm hi vọng và mong ước trở về làm người lương thiện trỗi dậy. Chí khát khao trở lại tháng ngày tươi đẹp. Và thị Nở sẽ là chiếc cầu nối đưa hắn trở về xã hội loài người nhưng niềm mong mỏi ấy đã bị chặn đứng bởi định kiến của bà cô, mà cũng là của xã hội ấy.

Buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ, Tràng có nhiều thay đổi. Tràng sung sướng, hạnh phúc, hãnh diện: thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”, việc có vợ đối với hắn vẫn hết sức bất ngờ. Tràng nhận ra sự thay đổi xung quanh khiến anh cảm động: “có cái gì vừa thay đổi mới lạ”: “Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong.

Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc cây ổi đã kín nước đầy ăm ắp”, bà cụ Tứ lúi húi giẫy cỏ, nàng dâu quét tước, nấu nướng. Tất cả những cảnh tượng đó thật bình thường nhưng đủ làm cho hắn cảm động vì chưa bao giờ Tràng được trải qua niềm hạnh phúc giản dị như thế.

Tràng có sự thay đổi trong suy nghĩ: yêu thương, gắn bó với gia đình; thấy có trách nhiệm phải lo lắng cho vợ con; và ngời lên niềm tin vào tương lai tươi sáng. Tràng thấy cuộc đời mình bỗng nhiên thay đổi hẳn, hắn thấy mình trưởng thành (“nên người”) và cần có trách nhiệm với gia đình của mình:

“Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Bởi vì Tràng đã có một gia đình, và trong cái buổi sáng đầu tiên ấy, hắn đã được tắm mình trong không khí ấm áp, hạnh phúc của tổ ấm gia đình.

Tác giả đã đặt nhân vật vào tình huống độc đáo để nhân vật bộc lộ phẩm chất, tính cách; Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đậm chất nông thôn và có sự gia công sáng tạo của nhà văn. Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động với nhiều chi tiết đặc sắc…

Như vậy, qua phân tích diễn biến tâm trạng của Chí và Tràng ta thấy được cả Nam Cao và Kim Lân đều rất quan tâm đến đời sống tâm hồn của những người lao động nghèo Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Hai nhà văn đều mô tả chi tiết, chân thực, sinh động diễn biến tâm trạng của mỗi nhân vật ở thời điểm buổi sáng – gắn liền với sự thức tỉnh/ đổi thay của mỗi nhân vật – thông qua cảm xúc và dòng ý nghĩ.

Có khi các nhà văn khách quan kể lại diễn biến đó nhưng cũng có khi Nam Cao và Kim Lân nhập thân vào nhân vật, trần thuật lại diễn biến tâm trạng thông qua lời văn nửa trực tiếp. Tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của mỗi nhà văn không chỉ giúp cho các nhân vật nổi hình nổi sắc mà còn giúp các nhà văn thể hiện sâu sắc tình cảm nhân đạo của mình.

Ngoài những yếu tố chi phối như đề tài, cảm hứng, phong cách, quan niệm nghệ thuật, tư tưởng, khuynh hướng sáng tác của mỗi nhà văn có khác nhau thì có lẽ bối cảnh ra đời của hai tác phẩm là yếu tố quyết định đến sự khác nhau trong số phận của hai người nông dân này.

Qua diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau buổi sáng gặp Thị Nở, ta thấy đó là tâm trạng của con người đang đứng trước bi kịch của đời mình; Chí Phèo “lần đầu tiên thức tỉnh” sau một cơn say dài – nhận thức sự bần cùng hóa dẫn đến tha hóa, lưu manh hóa của bản thân và khát khao muốn quay lại cuộc sống lương thiện; qua đó nhà văn Nam Cao thể hiện tin tưởng vào sự thức tỉnh lương tâm của người nông dân trước cách mạng.

Trong đoạn trích của “Vợ nhặt”, cùng tả tâm trạng nhân vật vào buổi sáng, Kim Lân đã phát hiện ra sự thay đổi và trưởng thành trong nhận thức, tình cảm và hành động của nhân vật Tràng. Nó không phải quá đột ngột bất ngờ mà nó là một lát cắt trong chuỗi diễn biến tâm trạng đầy ngạc nhiên, có sự thay đổi dần dần của Tràng từ lúc “nhặt” được vợ cho đến cuối truyện.

Qua đó, tác giả có cái nhìn trân trọng, ca ngợi người nông dân dù trong hoàn cảnh hết sức bi đát vẫn có ý thức xây dựng hạnh phúc gia đình. Nhân vật Chí Phèo tuy thức tỉnh để khao khát hoàn lương như cuối cùng rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, còn nhân vật Tràng cuối cùng đã được đổi đời, tìm thấy hạnh phúc đích thực của cuộc đời…

Với Tràng, nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một người nông dân với những nét phẩm chất, tính cách, trí tuệ, ngôn ngữ tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam. Với Chí Phèo, Nam Cao đã xây dựng được một nhân vật điển hình cho một tầng lớp của xã hội. Đặc biệt, thông qua hai nhân vật này, người đọc cảm nhận được tấm lòng nhân đạo cũng như sự nhìn nhận đa chiều để trân trọng vẻ đẹp con người của hai nhà văn.

Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

Tổng kết

Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 5 mẫu so sánh nhân vật Tràng và Chí Phèo chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 11.

0/5 (0 Reviews)
Chúng tôi tạo ra Top10timkiem.vn nhằm mục đích cung cấp cho người đọc những thông tin, liệt kê một cách chi tiết nhất về mọi lĩnh vực trong cuộc sống.