Tổng hợp các bài mẫu so sánh hình tượng nhân vật Tnú và A Phủ trong bài Rừng xà nu của tác giả Nguyễn Trung Thành một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 3 mẫu so sánh hình tượng nhân vật Tnú và A Phủ chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!
Xem thêm:
Top 3 mẫu so sánh hình tượng nhân vật Tnú và A Phủ
Số 1: So sánh hình tượng nhân vật Tnú và A Phủ
Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến, gắn bó mật thiết với mảnh đất Tây Nguyên. Vì vùng đất ấy đã rất quen thuộc đối với ông từ những ngày viết đất nước đứng lên thời kỳ chống Pháp. Nay trở lại vùng đất ấy để viết về những người con Tây Nguyên chống Mĩ thì tác giả đã gặp lại cái màu xanh bạt ngàn của những rừng xà nu chạy dài đến chân trời .
Chính vì thế mà tác giả đã yêu say mê cây rừng xà nu tù ngày đó ông đã kể lại như vậy. Cho hình tượng nhân vật Tnú gắn liền với hình ảnh cây xà nu đã trở thành ấn tượng mạnh mẽ và gợi cảm hứng sáng tác cho ông.
Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm của ông luôn thể hiện vốn hiểu biết sâu sắc, đặc biệt về những phong tục và sinh hoạt đời thường của những vùng văn hóa khác nhau trên đất nước ta. Ông thành công với những tác phẩm viết về loài vật và đặc biệt ấn tượng với những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống và con người Tây Bắc. Nổi bật là truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, với hình tượng người anh hùng A Phủ.
Khi so sánh hình tượng nhân vật Tnú và A Phủ, ta mới thấy được rằng cả hai nhân vật đều sinh ra ở những vùng quê hẻo lánh. Nếu như A Phủ sinh ra tại vùng núi Tây Bắc thiếu thốn thì Tnú lại sinh ra ở một nơi chẳng mấy khá hơn đó là Tây Nguyên đầy nắng và gió.
Cả hai đều mồ côi từ rất sớm, cùng lớn lên trong tình yêu thương của mọi người. Họ đại diện cho dân làng bằng tất cả sự khỏe mạnh, cường tráng và siêng năng. A Phủ biết làm nhiều việc như đúc lưỡi cày, cuốc, dăn bò tót, chạy nhanh như ngựa. Con gái trong làng bảo “đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà”. Tnú thì từ bé đã sống tự lập, có ý chí học tập. Cụ Mết từng nói “đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.
So sánh hình tượng nhân vật Tnú và A Phủ để thấy rõ cả hai nhân vật đều hướng đến chính nghĩa, bảo vệ công bằng, dũng cảm, có ý thức chống lại cái ác và tìm ra lối đi đúng đắn. A Phủ dám đánh cả con quan là A Sử vì hắn phá cuộc chơi. Khi bị bắt A Phủ nhận tội mình làm, được Mị cắt dây trói, A Phủ chạy tới Phiềng Sa và được cán bộ Đảng giác ngộ, anh tham gia du kích. Còn Tnú đã theo Cách mạng từ bé, anh nuôi quân, làm liên lạc, lớn lên chỉ huy dân làng đánh giặc.
Cuộc đời A Phủ nhiều thăng trầm, đau thương như thân phận những người dân nghèo miền núi. Anh là nạn nhân của cái đói, cái khổ: bị người làng đói quá bắt bán cho người Thái. Nạn nhân của những tập tục lạc hậu, dị đoan miền núi: đánh con quan nên bị xử phạt tiền và bị đánh đập, không có tiền thì Thống lí Phá tra cho vay, làm nô lệ để gạt nợ, bị đem cúng trình ma nhà chủ nợ.
Trong A Phủ là hai mặt đối lập của một con người tiêu biểu cho người nông dân nghèo miền núi chưa ý thức được giá trị bản thân. Tuy bị thế lực cường quyền đè nén nhưng vẫn ngời sáng sức sống tiềm tàng, ý chí phản kháng. Song, có lúc lại cam chịu, chấp nhận bị đánh đập, hành hạ bởi những kẻ cường quyền, lý dịch, buộc phải gánh những khoản nợ vô lý.
Tô Hoài đã để cho nhân vật sống theo thói quen cam chịu do bị chèn ép lâu ngày. Họ chưa tìm được lối đi cho cuộc đời, chưa được soi rọi bởi ánh sáng tự do. Sống trong đêm tối vì chưa ai vạch đường, chỉ lối.
Dù vậy trong mỗi con người A Phủ tồn tại sức mạnh của lòng ham sống, sức mạnh ấy bộc lộ rõ nhất khi họ đứng trước ranh giới giữa sự sống và cái chết. Tìm ra hai mặt đối lập bên trong nhân vật, Tô Hoài muốn gợi cho người đọc một bếp lửa tàn với bên trên là tro lạnh nhưng ẩn sâu trong ấy là những hòn than đang âm ỉ cháy. Chỉ đợi một cơn gió mạnh là có thể thổi tung lớp tro đi và bùng lên ngọn lửa. Chính vì lẽ ấy mà sau này khi gặp được A Châu, được giác ngộ lí tưởng, A Phủ đã nhận ra con đường đi của mình.
Cuộc đời Tnú được mở ra từ sự khép lại của A Phủ. Tnú không còn tìm đường nữa mà từ nhỏ đã được nuôi dưỡng bởi ánh sáng cách mạng và tình yêu thương, đoàn kết của dân làng. Tnú không chỉ vùng dậy đấu tranh theo tình thần tự phát mà anh được rèn luyện, dạy bảo để trở thành người lãnh đạo của phong trào cách mạng quê hương.
Tnú hòa mình vào cuộc chiến, quên đi nỗi đau của bản thân, anh là bước phát triển tiếp theo của A Phủ khi đã hóa thân vào cuộc chiến của cả dân tộc, vì thế anh có điều kiện để bộc lộ những phẩm chất mới mẻ mà A Phủ chưa có. Đó không chỉ là sự dũng cảm, kiên cường khi cùng dân làng đánh giặc mà còn thể hiện phẩm chất bên trong của con người đó là tình yêu thương gia đình.
Lập được chiến công cùng dân làng đánh giặc, Tnú có những lợi thế của thời đại. Khi so sánh hình tượng nhân vật Tnú và A Phủ, ta mới thấy rõ người con Tây Nguyên Tnú không phải sống trong kiếp nô lệ như A Phủ, lớn lên khi phong trào cách mạng đã đủ lông, đủ cánh, được anh Quyết rèn luyện, dạy bảo từ bé. Vì thế mà ở anh thể hiện những phẩm chất mới mẻ của người anh hùng trong thời kì kháng chiến chống Mỹ.
So sánh hình tượng nhân vật Tnú và A Phủ để thấy rõ giai đoạn lịch sử đều có ý nghĩa nhất định, giai đoạn sau bao giờ cũng là bước nối tiếp, kế thừa của giai đoạn trước đó. Tinh thần Cách mạng cũng thế, phải bắt đầu từ việc tìm đường, nhận đường thì mới có một phong trào Cách mạng sôi nổi với những con người sẵn sàng cống hiến bản thân cho Tổ quốc như Tnú và A Phủ.

Số 2: Cảm nhận về nhân vật Tnú và A Phủ
Tô Hoài và Nguyễn Trung Thành đều là những cây bút văn xuôi tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam sau năm 1945. Nếu Tô Hoài rất sở trường với hiện thực cuộc sống của người dân miền núi Tây Bắc thì Nguyễn Trung Thành lại gắn bó máu thịt với mảnh đất Tây Nguyên trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Nếu nói đến Tô Hoài, không thể quên truyện ngắn Vợ chồng A Phủ – một truyện ngắn xuất sắc viết về cuộc sống của những người dân Tây Bắc dưới chế độ phong kiến, thực dân, thì nhắc đến Nguyễn Trung Thành là phải nói đến Rừng xà nu – một “Đất nước đứng lên” của thời đánh Mĩ. Đặt hai nhân vật A Phủ (Vợ chồng A Phủ) và Tnú {Rừng xà nu) bên cạnh nhau, ta sẽ thấy rất nhiều ý nghĩa trong những nét tương đồng và khác biệt giữa họ.
A Phủ và Tnú tuy được xây dựng trong hai tác phẩm của hai tác giả ở hai thời kì khác nhau, ở hai miền đất khác nhau, nhưng đều là những con người miền núi. Một người thuộc dân tộc Mèo ở vùng Tây Bắc nên thơ (A Phủ), một người thuộc dân tộc Strá ở vùng Tây Nguyên hùng vĩ (Tnú). Cả hai đều mồ côi cha mẹ từ thuở ấu thơ, mang dáng dấp những đứa con côi trong cổ tích. A Phủ và Tnú đều sớm dạn dày, gan góc bởi hoàn cảnh sống đầy thử thách. Có nét gì chung rất dễ nhận ra ở hai con người cách nhau hàng ngàn cây số: đó là sự mạnh mẽ về thể chất và tinh thần.
A Phủ đã dám đánh cả con quan, để rồi kiên gan chịu đựng những trận đòn báo thù khủng khiếp. Tnú thì thuở ấu thơ đã dám ra rừng đem gạo nuôi cán bộ, bị bắt, bị chém ngang dọc trên bụng trên lưng vẫn không hé răng khai báo nơi ở của cán bộ, bị đốt mười đầu ngón tay bằng nhựa xà nu vẫn cắn mồi đến bật máu để chịu đựng. Hai người chịu hai kiểu hành hạ, hài kiểu cực hình khác nhau, nhưng ta đều thấy ở họ sự chịu đựng phi thường.
Cả A Phủ và Tnú đều là những con người luôn hướng về ánh sáng. Tnú bắt gặp lí tưởng cách mạng được truyền từ anh Quyết, cán bộ của Đảng hoạt động bí mật, Tnú giống như cây xà nu tiếp ánh sáng mặt trời để không ngừng vươn toả lên bầu trời tự do. A Phủ cũng lao khỏi bóng tối ở Hồng Ngài, chạy hàng tháng trời trong rừng để đến Phiềng Sa – khu du kích, rồi sau đó gặp cán bộ, được giác ngộ, trở thành đội trưởng đội du kích. Phẩm chất cách mạng ở những người dân miền núi trong hoàn cảnh ngặt nghèo đã được hai nhà văn thể hiện rất sinh động.
Hai nhân vật ở hai vùng đất khác nhau, thuộc hai tộc người khác nhau, nhưng ta vẫn thấy ở họ có nét nào đó tương đồng trong tính cách. Ngoài sự cứng cỏi, gan góc, A Phủ và Tnú đều rất lặng lẽ, ít nói. Họ thuộc loại nhân vật hành động. Ấn tượng sâu nhất mà người đọc có được về hai nhân vật này là những hành động của họ.
Với A Phủ, đó là hành động đánh con quan, hành động đi săn thú rừng, vác cả con bò bị hổ ăn mất một phần, làm bất cứ việc nặng nhọc nào trong nhà thống lí… Nó cho thấy sức mạnh thể chất của một con người. với Tnú, đó là hành động mang gạo ra rừng nuôi cán bộ, đi một mình lên núi cao ba ngày để mang đá trắng về làm phấn học chữ, lấy đá tự đập vào đầu khiến máu chảy ròng ròng khi học chữ không vào, cùng dân làng thức mài vũ khí hằng đêm để chuẩn bị chiến đấu, bóp chết tên đồn trưởng của giặc bằng hai bàn tay thương tích…
Bên cạnh nhiều điểm tương đồng, A Phủ và Tnú còn có những nét riêng, độc đáo, thể hiện khả năng cá biệt hoá của hai nhà văn. Điều này thể hiện đầy đủ qua số phận riêng của từng nhân vật.
A Phủ hiện ra qua những trang truyện của Tô Hoài là một chàng trai mang trong mình những phẩm chất đáng quý. A Phủ lao động giỏi, có thể đúc lưỡi cày hoặc làm bất cứ việc gì. Thế nhưng, dù giỏi giang như vậy, rốt cuộc A Phủ cũng chỉ an phận làm thuê làm mướn kiếm sống qua ngày. Mặc cho bao nhiêu con gái trong bản ước ao có được A Phủ, chàng trai nghèo này không bao giờ dám mong có được một tổ ấm hạnh phúc gia đình. Một nét nổi bật của A Phủ là sự mạnh mẽ và phóng túng.
Không bị trói buộc bởi mặc cảm nghèo hèn, A Phủ vẫn hoà mình vào những cuộc hẹn trong đêm tình mùa xuân như bao nhiêu trai gái trong bản. Cũng bởi tính cách mạnh mẽ, không chấp nhận sự ngang ngược vô lí của kẻ quyền thế, A Phủ dám đánh cả con quan. Có thể đây chỉ là hành động bột phát, tức thời, nhưng nó cũng cho thấy cái sức mạnh thể chất và tinh thần của một con người.
Cũng vì hành động liều lĩnh ấy mà A Phủ phải chịu đựng biết bao nhiêu đau khổ cả về thể chất lẫn tinh thần. Trước hết là những trận đòn báo thù độc ác. Bọn người nhà thống lí trói A Phủ, đưa về, đánh chửi tàn nhẫn mấy ngày liền, khiến cho mặt mày sưng lên như mặt hổ phù. Không dừng lại ở đó, chúng còn muốn tước đoạt quyền sống của một người tự do bằng cách bắt A Phủ phải nộp một trăm đồng bạc trắng để ăn vạ. Số tiền đó là một đời A Phủ nằm mơ cũng không thấy.
Buộc A Phủ vay tiền để nộp vạ, thực chất, thống lí Pá Tra đã sử dụng một thủ đoạn quen thuộc: dùng những đồng tiền nợ để trói buộc số phận con người. Hãy nghe lời tuyên án: “Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền giả thì cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Với A Phủ, đó là bản án chung thân.
Đi ở trừ nợ có nghĩa là phải chấp nhận thân phận của kẻ nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Với sự hỗ trợ của thần quyền, chúng tước đoạt hoàn toàn ý thức về sự tự do tối thiểu của con người. Đã làm kiếp con ở trừ nợ, A Phủ không hề có ý định bỏ trốn, dù đó là việc nằm trong tầm tay. Dường như có sợi dây trói vô hình siết chặt, khiến A Phủ chấp nhận số phận mình như một lẽ đương nhiên.
Nỗi đau khổ ghê gớm nhất của A Phủ thể hiện qua việc chịu đựng hình phạt của thống lí Pá Tra. Mải đi săn nhím, để hổ bắt mất một con bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra áp dụng hình phạt mà hắn quen dùng: trói đứng vào cột cho đến chết. Theo lệnh thống lí, A Phủ lặng lẽ đi lấy cọc, tự tay chôn cọc, lấy dây rồi ngoan ngoãn đứng vào bên cọc để thống lí thực hiện hành động trừng phạt. Không một sự phản kháng, không có sự vùng vằng chống đối. Con người mạnh mẽ, từng dùng cả con quay bằng gỗ ngát đánh vào mặt con quan giờ đây chỉ là một kẻ nô lệ mà sự sống chết hoàn toàn bị định đoạt bởi bàn tay của chủ.
Hành động trừng phạt A Phủ không chỉ cho thấy sự tàn bạo của những kẻ thống trị, mà quan trọng hơn, nó thể hiện sâu sắc bi kịch của những con người bị áp bức. Đó không chỉ là nỗi đau về thể xác, mà còn là nỗi thống khổ khôn cùng về tinh thần. Sợi dây trói và thái độ của A Phủ ở đây có tính chất như một biểu tượng. Nó giúp người đọc hiểu rằng: sợi dây trói vật chất thì có thể cắt đứt bằng dao, nhưng sợi dây trói tinh thần thì vô cùng bền chặt. Sợi dây ấy chỉ có thể bị chặt đứt bằng sự giác ngộ về quyền làm người của mỗi cá nhân mà thôi.
Xây dựng nhân vật Tnú trong truyện Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành tô đậm hai nét cơ bản trong tính cách của Tnú: sự gan góc, dũng cảm và đời sống tình cảm phong phú. Thuở ấu thơ, sống trong sự đùm bọc của dân làng, Tnú đã tỏ ra gan góc đến liều lĩnh. Không gì có thể khiến Tnú run sợ. Chính điều đó đã phát triển thành phẩm chất dũng cảm vô song của Tnú lúc trưởng thành. Vượt ngục trở về, Tnú thực hiện ngay hai điều anh Quyết dặn lại trước lúc hi sinh: thay anh làm cán bộ và cất giữ vũ khí để có lúc dùng đến.
Làm cán bộ của Đảng và mài vũ khí để cất giữ chẳng khác nào thách thức sự truy diệt của kẻ thù. Với lòng dũng cảm, Tnú đã đối mặt với thử thách ghê gớm này. Ấy là khi anh bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay bằng giẻ tấm nhựa xà nu. Là con người bằng xương bằng thịt, Tnú cũng đau đớn đến cháy ruột cháy gan, nhưng anh không thèm kêu. Anh đã giữ vững dũng khí của một người cách mạng, để người dân Xô Man nhìn vào anh mà hiểu rằng, kẻ thù dù tàn bạo đến đâu cũng không thể dập tắt tinh thần quật cường của họ.
Con người dũng cảm, cứng cỏi như sắt đá ấy cũng là một người rất giàu tình cảm. Tình cảm phong phú, đẹp đẽ của Tnú được thể hiện trước hết trong quan hệ với Mai. Từ nhỏ, Tnú và Mai đã bên nhau trong lúc vui cũng như lúc buồn, từng cùng nhau mang gạo ra rừng tiếp tế cho cán bộ, từng chụm đầu bên nhau để học những con chữ đầu đời. Vượt ngục trở về, người mà Tnú gặp đầu tiên lại cũng là Mai.
Tình yêu trong sáng, thắm thiết giữa đôi trai gái tự do, phóng khoáng của núi rừng Tây Nguyên đã cho kết quả là một gia đình hạnh phúc với đứa con trai đầu lòng. Tình cảm của Tnú đối với Mai và con đã trải qua những thử thách ghê gớm. Đó là lúc Tnú phải chứng kiến cảnh Mai và con bị đánh bằng roi sắt hết sức dã man, để rồi anh phải nhảy xổ ra giữa lũ giặc khi trong tay không một tấc sắt. Đó là đêm về thăm làng, bên bếp lửa xà nu tại nhà cụ Mết, hình ảnh Mai lại hiện lên rõ nét trong tâm trí anh, đến mức, thoạt nhìn thấy Dít, anh ngỡ đó là Mai.
Tình cảm riêng tư của Tnú hoà quyện đẹp đẽ với tình yêu quê hương. Đi chiến đấu ở chiến trường xa, anh xin về dù chỉ một đêm thôi để được nhìn thấy những khuôn mặt thân thương, để được sống trong không khí ấm áp, để được nghe lại câu chuyện huyền thoại của làng mình.
Như vậy, A Phủ và Tnú, bên cạnh những nét tương đồng, mỗi nhân vật còn có những nét cá biệt, thể hiện tài năng sáng tạo của hai nhà văn. Nhờ đó, nền văn xuôi của chúng ta vừa có sự thống nhất, vừa có sự phong phú.

Số 3: Phân tích nhân vật Tnú và A Phủ
Đọc truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nhà văn Tô Hoài viết năm 1953 và truyện ngắn “Rừng xà nu” nhà văn Nguyễn Trung Thành sáng tác năm 1975, ta bắt gặp hai hình tượng nhân vật A Phủ và Tnu được tái dựng chân thực, cảm động với những số phận, cuộc đời đau thương và phẩm chất cao đẹp. Điểm chung và nét riêng ở hai nhân vật khiến người đọc thêm ấn tượng với tác phẩm và văn phong, tài năng của hai cây bút văn xuôi hiện đại nước nhà này hơn rất nhiều.
Xây dựng hai nhân vật độc đáo A Phủ và Tnu, không hẹn mà gặp, hai nhân vật cũng có những điểm gặp gỡ thú vị. Cả A Phủ và Tnu đều mang một số phận khổ đau với nhiều mất mát. A Phủ mồ côi cha mẹ, mất gia đình từ nhỏ vì làng gặp một trận dịch đầu mùa. A Phủ bị một người làng đem bán cho người Thái ở cánh đồng thấp.
Vốn quen với cái bao la, khoáng đạt của thiên nhiên vùng cao, A Phủ đã trốn lên núi cao sống lang thang, vất vưởng nơi lòng thung đầu núi. A Phủ cũng mồ côi từ nhỏ, sống cùng người làng Xô – man, được họ đùm bọc, chở che, chăm sóc. Đó là điểm chung thứ nhất, còn điểm chung thứ hai mà hầu như hai cũng nhận thấy rất rõ qua lời kể của hai nhà văn đó chính là cái nghèo bủa vây cuộc sống vốn đã khốn khó của họ.
A Phủ là một trẻ thơ nhưng không có tuổi thơ, lớn lên phải bươn trải tự làm mọi thứ. Không cha, không mẹ, không cửa nhà, bạc vàng, ruộng nương…cái nghèo chính là nguyên do A Phủ không lấy được vợ dẫu “con gái trong làng nhiều cô mê”, nhiều người nói: “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà. Chẳng mấy chốc mà giàu”. Không thể hiện trực tiếp qua từng lời văn, hình ảnh nhưng ta cũng có thể cảm nhận được cái nghèo, cái khó khăn trong cuộc sống của Tnu.
Bên cạnh nét chung ở số phận, cuộc đời, hai nhân vật A Phủ và Tnu còn là những chàng trai mang những phẩm chất vô cùng cao đẹp. Ở A Phủ, ta thấy sự mạnh mẽ về thể chất, cường tráng về tinh thần. Cùng với đó là một tâm hồn trong sáng, hồn nhiên. Nhà nghèo, mồ côi cha mẹ, đó là một thiệt thòi, khó khăn lớn nhưng A Phủ không giam mình ở nhà đầy buồn đau mà Tết đến vẫn đi chơi, chơi hết mình và trở thành linh hồn của cuộc chơi náo nhiệt ngày Hồng Ngài vào xuân.
Không những thế, A Phủ còn là một chàng trai trung thực, bản lĩnh và chí tình khi sẵn sàng đánh con quan làng – A Sử để bảo vệ lẽ phải, khi bị bắt quỳ chịu đánh thì không kêu, “im như tượng đá” và quyết tâm dám làm dám chịu, dám xin lấy công để chuộc tội. Một nét đẹp tâm hồn sáng tươi Tô Hoài tâm huyết phác họa ở nhân vật này chính là khát vọng tự do, thoát khỏi cuộc sống đọa đày, thống khổ ở nhà thống lí Pá Tra.
Những trang văn trong “Rừng xà nu” cũng gợi lên trong tâm hồn người đọc những hình dung sắc nét, chân thực về hình ảnh một Tnu mang nhiều nét đẹp tâm hồn đáng trân quý. Đó là sự mưu trí, dũng cảm và chí tình Cách mạng. Nhờ lòng dũng cảm và mưu trí, khi bị giặc phát hiện, bị tra tấn dã man, Tnu vẫn không sợ, không khai tin tức và tìm cách vượt thoát khỏi tay giặc. Đứng trước mọi tình huống bất ngờ xảy ra, Tnu có phản ứng rất nhanh. Như khi đang trên đường làm liên lạc cho cán bộ bị địch phát hiện, Tnu đã nhanh trí nuốt ngay lá thư mật vào bụng để thông tin quan trọng không bị lộ với giặc.
Biết ở trong rừng đường mòn đã bị địch bao vây mọi ngả, Tnu chọn đi những con đường lắt léo hơn, trèo lên cây, lội qua suối để không để lộ rõ dấu vết của mình. Sự dũng cảm, mưu trí ở Tnu khiến ta cảm tưởng như ở trên rừng, Tnu như chúa tể bầu trời, khi dưới đất lại như chúa tể sơn lâm và ở trong nước lại như một linh ngư linh hoạt.
Với những cách khám phá và cái nhìn phát hiện khác nhau, Tô Hoài và Nguyễn Trung Thành cũng xây dựng và gửi gắm những nét riêng ấn tượng ở cuộc đời cũng như phẩm chất của hai nhân vật. Nếu như A Phủ là nạn nhân của chế độ phong kiến bảo thủ, lợi dụng cường quyền, bạo lực chà đạp lên người lao động nghèo khổ thì Tnu lại là nạn nhân của giặc giã ngoại xâm đặt ách đô hộ lên cuộc sống người dân. Có lẽ vì lý do đó mà ở A Phủ luôn rực cháy khát vọng tự do, khát vọng giải phóng chính mình để đến với cuộc sống hạnh phúc ở tương lai.
Trong khi đó, A Phủ cùng dân làng Xô – man lại khát khao độc lập, hòa bình để có cuộc sống yên ấm nơi bản làng, núi rừng Tây Nguyên. Bên cạnh nét riêng trong số phận, cuộc đời, ta còn bắt gặp sự khác nhau trong tâm hồn, phẩm chất. Rõ nét nhất có thể kể đến đó chính là sự chí tình Cách mạng trong con người Tnu. Cùng với dân làng, Tnu hăng hái tham gia nuôi giấu cán bộ bởi lẽ, ở nơi rừng sâu núi thẳm, lòng chí nghĩa chí tình Cách mạng có một gốc rất sâu khi nó được nuôi dưỡng, đắp bồi từ thế hệ cha ông anh hùng đến lớp cháu con.
Việc học chữ với Tnu quả là một công việc khó khăn nhưng Tnu đã quyết tâm học để có thể đọc, có thể viết và có thể làm liên lạc cho anh Quyết. Khi trưởng thành, lòng chí tình cách mạng vẫn thắm rực trong trái tim Tnu, vì thế mà Tnu hăng hái lên đường tham gia lực lượng quân giải phóng, góp sức mình vào công cuộc giải phóng buôn làng, đem lại sự tự do cho nhân dân, cho Tây Nguyên đại ngàn.
Cả hai tác phẩm đều mang khuynh hướng sử thi sâu sắc nhưng với nét riêng trong phẩm chất nhà văn, trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, Tô Hoài và Nguyễn Trung Thành đã xây dựng hai nhân vật với những nét đẹp riêng, làm giàu có thêm hình tượng nhân vật văn học trong kho tàng văn xuôi hiện đại Việt Nam.

Tổng kết
Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 3 mẫu so sánh hình tượng nhân vật Tnú và A Phủ chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 12.