Tổng hợp các bài mẫu so sánh Chí Phèo và Mị một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 10 mẫu so sánh Chí Phèo và Mị chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!
Dàn ý so sánh Chí Phèo và Mị
I. Mở bài
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, nghệ thuật khắc họa nhân vật của hai tác giả Tô Hoài và Nam Cao: nhân vật Mị và Chí Phèo.
II. Thân bài
- Diễn biến tâm trạng, hành động của nhân vật Mị:
– Yếu tố tác động: Khi đang thức sưởi lửa để xua đi cái lạnh, vô tình Mị thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ.
– Diễn biến tâm trạng, hành động:
+ Đầu tiên, Mị lạnh lùng, vô cảm khi “vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay”.
+ Nhưng Mị dần thay đổi. Mị nhớ lại hoàn cảnh của mình trước đây khi bị A Sử hành hạ.
+ Cô bắt đầu thấy cảm thông cho A Phủ và căm phẫn tội ác của cha con thống lí.
+ Cô nghĩ đến thân mình và nhận thức được sự vô lí đối với A Phủ, đồng thời Mị tưởng tượng cảnh nếu A Phủ trốn được, Mị sẽ phải chết thay.
– Kết quả: Dần dần, Mị đã thắng sự sợ hãi để dẫn đến kết quả là hành động cắt đây trói nhanh chóng, dứt khoát. Và sau phút giây ngắn ngủi “đứng lặng trong bóng tối”, Mị đã “vụt chạy ra” trốn thoát cùng A Phủ.
– Tác giả đã trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; dẫn dắt tình tiết khéo léo, tự nhiên với ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, sáng tạo; câu văn giàu tính tạo hình và đậm chất thơ.
– Diễn biến tâm lí và hành động của Mị đã thể hiện một tâm hồn khao khát hạnh phúc, một sức sống tiềm tàng mãnh liệt; thể hiện tình cảm nhân đạo của nhà văn.
- Diễn biến tâm trạng, hành động của nhân vật Chí Phèo:
– Sau năm ngày chung sống với Thị Nở, Chí đã bị Thị Nở tuyệt tình. Một chân trời tràn đầy hạnh phúc vừa mở ra trước mắt Chi đã tối sầm lại.
– Chí lâm vào bi kịch bị cự tuyệt vô cùng đau đớn tuyệt vọng. Vị mất Thị Nở là mất tất cả, mất sự bấu víu cuối cùng, là mất đi tổ ấm, mất đi cơ hội làm người mà chí hằng ao ước đến cháy lòng. Chí thảng thốt, bàng hoàng đến chết lặng. Chí không tin vào tai, vào mắt mình, Chí dường như không hiểu nổi, đến khi hiểu ra, Chí ngẩn mặt, ngẩn người. Đất dưới chân Chí như đang sụp đổ.
– Chí đã cố gắng níu lấy Thị Nở bằng mọi cách nhưng mọi nỗ lực của Chí đều trở nên vô vọng
– Hụt hẫng, đau đớn, tan nát cõi lòng, Chí lôi rượu ra uống, nhưng càng uống lại càng tỉnh. Giấc mơ hạnh phúc, khát vọng hoàn lương phút chốc tan tành mây khói để lại trong lòng Chí nỗi đau mênh mang, thăm thẳm mà không một thứ rượu nào có thể làm nguôi ngoai.
– Chí ôm mặt khóc, dưng dức, khóc hư thể chưa bao giờ được khóc, tức tưởi, đau đớn tuyệt vọng. Tiếng khóc của người lương thiện bị cự tuyệt quyền làm người.
- So sánh điểm gióng và khác nhau:
* Điểm giống nhau:
+ Chú ý khai thác cả về hành động lẫn thế giới nội tâm phong phú, phức tạp của nhân vật.
+ Tính cách nhân vật Mị và Chí Phèo đều được thể hiện sâu sắc, ấn tượng khi đặt trong quan hệ với một nhân vật khác.
+ Diễn biến hành động, tâm lí của nhân vật Mị và Chí Phèo có nhiều bước chuyển bất ngờ, gắn với bước ngoặt của tác phẩm, góp phần tạo nên kịch tính cho truyện ngắn.
* Điểm khác biệt:
Nhân vật Mị:
+ Diễn biến tâm lí và hành động thể hiện một tâm hồn khao khát hạnh phúc, một sức sống tiềm tàng mãnh liệt.
+ Miêu tả tâm lí chủ yếu bằng độc thoại nội tâm, bằng những xúc cảm phức tạp.
+ Nhân vật mang tính chất tiêu biểu cho số phận người nông dân nghèo miền núi trong giao điểm của cách mạng, mang đậm màu sắc địa phương.
Nhân vật Chí Phèo:
+ Diễn biến tâm lí và hành động của Chí Phèo đã thể hiện nỗi đau của bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, bi kịch vỡ mộng hoàn lương.
– Miêu tả tâm lí bằng đối thoại và độc thoại nội tâm vớ những xúc cảm phức tạp.
– Nhân vật mang tính chất điển hình cho số phận người nông dân nghèo đêm trước cách mạng.
III. Kết bài
Khái quát lại nghệ thuật khác họa nội tâm nhân vật Mị và Chí Phèo.
Top 10 mẫu so sánh Chí Phèo và Mị
Số 1: So sánh Chí Phèo và Mị
Nam Cao và Tô Hoài là hai cây bút xuất sắc trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Nếu như Nam Cao đi vào khai thác đề tài người nông dân ở làng Đại Hoàng – quê hương của nhà văn, thì Tô Hoài lại rất thành công trong việc tìm đến người lao động miền núi Tây Bắc xa xôi để xây dựng nên những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc. Đọc Chí Phèo của Nam Cao và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài hẳn bạn đọc không thể quên được hai nhân vật Chí Phèo và Mị, nhất là sự hồi sinh nhân tính của họ.
“Văn chương là điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu”, Nam Cao và Tô Hoài đã có sự gặp gỡ, đồng điệu về tư tưởng, tình cảm. Đó chính là tiếng nói yêu thương sâu sắc của nhà văn dành cho nhân vật của mình.
“Hồi sinh” có nghĩa là sống lại. “Hồi sinh nhân tính” là tính người, tình người được sống lại. Nói về sự hồi sinh nhân tính, ta đã bắt gặp sự hồi sinh ấy trong văn học trước đó, bất cứ nhân vật nào, một khi đã tha hóa, họ đều có quá trình thức tỉnh về tâm hồn, như Trương Sinh (Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ, như Hộ (Đời thừa – Nam Cao),
… Nếu như Trương Sinh thức tỉnh sau cái chết oan uổng của vợ, thì Hộ thức tỉnh sau khi đánh đuổi vợ con vì gánh nặng cơm áo. Trương Sinh đã lập đàn giải oan cho vợ, Hộ đã khóc, giọt nước mắt của Hộ chính là bằng chứng cho sự thức tỉnh, hồi sinh nhân tính. Còn sự hồi sinh nhân tính của Chí Phèo và Mị được Nam Cao, Tô Hoài dẫn giải như thế nào?
Để lí giải sự hồi sinh nhân tính của hai nhân vật, Nam Cao và Tô Hoài đều viện dẫn đến những tác nhân tác động từ bên ngoài. Đúng vậy, phải có sự tác động thì con người ta mới có thể thức tỉnh, cũng giống như con người khi chìm vào giấc ngủ say triền miên, phải có sự tác động thì ta mới có thể tỉnh giấc. Cả Chí Phèo và Mị đều có tác nhân như vậy.
Chí hồi sinh nhân tính sau đêm gặp thị Nở. Tình người của thị Nở đã đánh thức tình người nơi Chí và chỉ có tình người ấy mới khơi dậy sự hồi sinh của Chí. Còn Mị lại thức tỉnh về nhân tính trong đêm tình mùa xuân. Nếu như Chí nhờ có tác động của con người, tình người thì Mị lại nhờ sự tác động của cảnh vật, để hồi tỉnh lại nhân tính.
Trước khi hồi sinh nhân tính, cả Chí và Mị đều có những số phận và bi kịch đau đớn giống nhau.
Chí Phèo vốn là người nông dân hiền lành, chất phác, chăm chỉ, ở thuê cho nhà bá Kiến. Vì sự ghen tuông của bá Kiến mà Chí bị đẩy vào nhà tù thực dân. Nhà tù thực dân ấy, oan trái thay, nó tiếp nhận con người khi người ta vô tội, lương thiện và trả người ta ra khi họ đã trở thành kẻ tha hóa, mất đi cả nhân hình và nhân tính, về nhân hình, Chí là một con vật lạ với khuôn mặt “vằn dọc vằn ngang không biết bao nhiêu là sẹo”,
về nhân tính, Chí là “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, một kẻ chuyên rạch mặt ăn vạ và làm tay sai đòi nợ cho bá Kiến. Bi kịch đau đớn nhất của Chí Phèo là “bị từ chối quyền làm người, cha mẹ từ chối Chí, dân làng cũng từ chối Chí”. Chí rơi vào bi kịch khi không có ai đón nhận Chí trở về với cái xã hội bằng phẳng kia.
Nếu như là con người thì đâu ai dám vạch mặt mình như vậy, đâu ai dám sẵn sàng đâm thuê, chém mướn, chĩ vì đồng tiền, đâu dám “đốt quán” của “bà bán rượu” nhưng Chí đã trở nên mất đi “tính người”, mất đi “nhân tính” như vậy.
Mị cũng là một cô gái xinh đẹp, tài giỏi và hiếu thảo, và Mị cũng phải chịu một số phận đau đớn không kém Chí Phèo là mấy. Mị phải trở thành “con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra”.
Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô gái, ngồi quay sợi, thái cỏ ngựa,… lúc nào cô ấy cũng cúi mặt buồn rười rượi. Mị giống như một con rùa được nuôi trong xó cửa. sống ở nhà thống lí Pá Tra, Mị cũng như những người phụ nữ trong nhà này, làm việc tối ngày bận bịu. Nếu như Chí Phèo của Nam Cao mong muốn được giao tiếp với con người thì Mị lại không buồn giao tiếp.
Mị lúc nào cũng lầm lũi, cô cũng mất đi tính người nhưng “tính người” bị mất đi ở đây khác với Chí. Nếu như Chí Phèo bị tha hóa về nhân tính, trở thành một con quỷ dữ thì Mị lại mất đi nhân tính ở chỗ cô không được coi là một con người. Sống ở nhà thống lí Pá Tra, MỊ như một “con trâu, con ngựa”.
Bởi con trâu, con ngựa còn có lúc nghỉ ngơi, đằng này Mị phải làm quần quật suốt cả ngày. Chính vì cuộc sống như vậy mà Mị đã trở thành một con người mất đi sức sống.
Tuy có những nét giống nhau về số phận và cuộc đời, song quá trình hồi sinh nhân tính của Chí Phèo và Mị lại rất khác nhau.
Sự hồi sinh nhân tính của Chí là sau đêm gặp thị Nở, chính tình người của thị Nở đã đánh thức “nhân tính” trong con quỷ dữ của làng Vũ Đại ấy. Thị là người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Thế nhưng, bên trong cái ngoại hình xấu xí và tính cách dở hơi của thị là một tấm lòng rất bao dung và vị tha.
Sau một đêm ăn nằm với nhau, sáng hôm sau tĩnh dậy, Chí lần đầu tiên để tâm lắng tai nghe những âm thanh xung quanh mình, những âm thanh của cuộc sống và cảm thấy cuộc sống cũng thật thú vị. Và Chí thèm được làm người lương thiện. Khát vọng lương thiện ấy chính là bằng chứng cho sự hồi sinh nhân tính của Chí.
Chí nhớ lại cuộc đời mình trước khi bị đẩy vào nhà tù thực dân với những ước mơ hết sức bình dị. Chí nhận ra rằng thị Nở cũng có duyên và muốn cùng thị chung sống. Chí đã mong muốn được làm người và thị Nở chính là chiếc cầu nối đưa Chí trở về với con người lương thiện.
Nhờ có tình người của thị mà Chí hồi sinh nhân tính, khao khát được sống một cuộc sống lương thiện. Với Mị sức sống hồi sinh nơi người con gái ấy là tiếng sáo vi vu gọi bạn tình trong đêm tình mùa xuân Tây Bắc. Mùa xuân, mùa của sức sống mãnh liệt. Mị sống trong nhà thống Pá Tra như một con người đã mất đi linh hồn.
Thế nhưng, trong đêm tình mùa xuân năm ấy, khi cái lạnh tràn về, khi những thiếu nữ phơi “chiếc váy xòe như những cánh bướm của mình trên những phiến đá” và đám trẻ con chơi đùa và tiếng sáo gọi bạn tình đã bắt đầu xuất hiện. Mị dường như được sống lại với chính tâm hồn mình. Cô hồi tưởng lại quá khứ khi được cùng người yêu đi chơi trong những đêm tình mùa xuân.
Cũng giống như Chí, Mị cũng hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp, khi Mị còn là người con gái đẹp có tài thổi sáo rất hay. MỊ uống rượu và khi ngà ngà say, Mị bỗng nhiên nghe thấy tiếng sáo gọi bạn tình và Mị cũng muốn đi chơi.
Mị muốn đi chơi như hồi còn trẻ. Mị vào góc nhà xắn thêm ít mỡ bỏ vào chiếc đèn cho sáng, với tay lấy chiếc váy. Những hành động ấy chứng tỏ rằng Mị đã thật sự hồi sinh, sức sống tiềm tàng trong con người Mị đã được sống dậy nhờ âm thanh của tiếng sáo. Cũng giống như Chí Phèo âm thanh của cuộc sống xung quanh thức tỉnh tâm hồn, đánh thức sức sống mãnh liệt của Mị.
Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, ngay cả khi Mị đã bị A Sử trói chặt vào cột nhà. MỊ đã thả hồn bay theo tiếng sáo của đêm tình mùa xuân. Mị vô thức, Mị không cảm thấy đau đớn vì lúc này sự hồi sinh nhân tính của Mị rất mạnh mẽ.
Chí Phèo và Mị đều được hồi sinh nhân tính. Sự hồi sinh ấy cho ta thấy cái nhìn nhân đạo của Nam Cao và Tô Hoài. Phải thực sự yêu thương cảm thông với nhân vật của mình, hai nhà văn mới có thể để cho họ hồi sinh nhân tính như vậy. Với Chí Phèo là trở về với cuộc sống lương thiện, còn với Mị là được bộc lộ sức sống tiềm tàng của cô. Cả Nam Cao và Tô Hoài đều rất xót thương, đồng cảm cho số phận của Chí Phèo và Mị, trân trọng nhữỉig ước mơ bình dị của họ.
Mặt khác, từ sự hồi sinh về nhân tính của Chí Phèo và Mị, họ đã nói lên tiếng nói phê phán gay gắt những thế lực chà đạp lên số phận của con người bất hạnh ấy. Cái xã hội với những tàn dư phong kiến, bá Kiến đã đẩy Chí vào sự tha hóa.Và những hủ tục cổ hủ của miền núi với kẻ thông trị gian ác, tham lam như thống lí Pá Tra đã cướp sạch, bào mòn sức sống của Mị.
Mặt dù, viết về những đề tài khác nhau, nhưng cuộc đời và số phận của các nhân vật đều là sự trải nghiệm, dày công tìm tòi của các nhà văn. Thông qua các nhân vật của mình nhà văn muốn nói lên tiếng lòng, sự cảm thương cho số phận của họ. Đó chính là những giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Gấp lại hai truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, ta có thể nhận thấy sự hồi sinh nhân tính đưa hai nhân vật đến với những cuộc sống mới khác nhau nhưng giá trị của sự hồi sinh ấy lại có một giá trị hết sức giống nhau, nó phản ánh tiếng lòng của Nam Cao và Tô Hoài dành cho nhân vật Chí Phèo và Mị, những con người có số phận rất đáng thương xót.

Số 2: So sánh Mị và Chí Phèo
Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm của ông luôn thể hiện vốn hiểu biết sâu sắc, đặc biệt về những phong tục và sinh hoạt đời thường của những vùng văn hóa khác nhau trên đất nước ta. Ông thành công với những tác phẩm viết về loài vật và đặc biệt ấn tượng với những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống và con người Tây Bắc. Nổi bật là truyện ngắn Vợ chồng A Phủ – bức tranh chân thực về cuộc sống dân nghèo miền núi và sức sống tiềm tàng của họ.
Nam Cao là cây bút tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực phê phán trước Cách mạng. Ông luôn ý thức sâu sắc về quan niệm nghệ thuật của mình, đồng thời yêu cầu nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, chạm thấu vào nỗi đau của con người để cất tiếng kêu giành lại hạnh phúc.
Chính vì thế, nhà văn phê phán khá toàn diện tư tưởng “nghệ thuật là ánh trăng lừa dối”, mang tính thoát ly với cuộc đời. Để từ đó, ông mang lại cho kho tàng văn học Việt Nam thiên truyện Chí Phèo, vượt qua bao thời gian vẫn giữ nguyên giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc.
Khi so sánh nhân vật Mị và Chí Phèo, ta thấy được rằng cả hai tác giả đều hướng ngòi bút của mình đến cuộc sống khốn khổ của những người nông dân Việt Nam bấy giờ.
Nếu như Nam Cao đi sâu khai thác hình ảnh con quỷ dữ Chí Phèo của làng Vũ Đại bằng tất cả sự ghê sợ về nhân hình lẫn nhân tính thì Tô Hoài lại ngược về vùng núi Tây Bắc để tìm kiếm hình ảnh người con gái xinh đẹp chịu thương, chịu khó. Đọc hai tác phẩm trên hẳn ta không thể quên được hình ảnh của hai nhân vật Mị và Chí Phèo, nhất là sự hồi sinh trỗi dậy trong họ.
Miêu tả nhân vật Mị, Tô Hoài không khiêm tốn lời lẽ để ca ngợi về một cô gái tài sắc chẳng kém cạnh ai. Người con gái vùng núi Tây Bắc vốn xinh đẹp, không những vậy còn có tài thổi sáo nên không ít chàng trai trong và ngoài làng luôn khao khát có được nàng. Đặc biệt, khác với số đông Mị là người yêu tự do và có lòng tự trọng, người con gái này không ngừng khát vọng vươn lên trong cuộc sống bằng cách lao động.
Không những có tâm hồn lãng mạn mà bên trong Mị còn toát lên vẻ đẹp của lòng hiếu thảo và bi kịch của cuộc đời người con gái này cũng bắt đầu từ đó. Ba tiếng “dâu gạt nợ” chính là cách báo hiếu duy nhất của Mị khi muốn trả dứt món nợ của gia đình. Để từ đó, Mị trở thành nạn nhân của nạn nhân của xã hội phong kiến đầy bóc lột và là nạn nhân của tập tục hôn nhân cổ hủ bấy giờ.
Khi làm dâu nhà thống Lý, Mị chịu những đau khổ về thể xác lẫn tinh thần. Mị bị bóc lột sức lao động tàn nhẫn, phải làm việc suốt ngày đêm và bị cột chặt trong vòng vây của công việc. Việc so sánh nhân vật Mị và Chi Phèo đã chân thực hóa, hiện thức hóa cuộc sống lầm than và nhiều đau khổ của con người trong chế độ cũ.
Dưới ngòi bút kể của nhà văn Tô Hoài, Mị hiện lên như một công cụ biết nói, để rồi đã hơn một lần Mị thổn thức mình không bằng con trâu con ngựa. Cuộc sống của Mị đang dần bị vật hóa. Bên cạnh đó, Mị còn bị chính chồng của mình đánh đập và hành hạ một cách dã man đầy vô lý.
Khi so sánh nhân vật Mị và Chí Phèo, ta mới thấy Mị vốn đã tủi nhục rồi nhưng qua đó ta mới càng thấy rõ hơn sự khốn nạn của cuộc đời Chí. Sự ra đời của hắn vốn đã là một sự bất hạnh, với hình ảnh một đứa bé bị bỏ rơi ở một cái lò gạch cũ.
Nam Cao dường như để nhân vật của mình tự lớn lên và trưởng thành giữa tình thương của những con người làng Vũ Đại, đó như một lời khẳng định rằng Chí Phèo vốn là một con người có bản chất hiền lành và có suy nghĩ. Để rồi sau đó, nhà văn mới xoáy ngòi bút của mình vào sự tha hóa cũng như sự khốn cùng của cuộc đời nhân vật một cách tàn nhẫn nhất.
Nam Cao không ngại cho nhân vật của mình trở thành hình tượng một con quỷ dữ, khi mở đầu thiên truyện là hình ảnh “hắn vừa đi vừa chửi…” và tiếp đó là không ít những hình ảnh rạch mặt ăn vạ, vào ra tù không ít lần. Chính nhà tù thực dân đầy oan trái đã lấy đi ở Chí sự hiền lành, lương thiện và trả lại một kẻ đã mất đi cả nhân hình lẫn nhân tính.
Sự sắc lạnh trong giọng kể của nhà văn chính là sự tường thuật chân thật về một xã hội phong kiến thối nát bấy giờ, nơi mà chỉ có sự bóc lột và đẩy những con người lương thiện đến tận cùng của sự thống khổ. Việc phân tích tâm trạng và diễn biến tâm lý của Chí giúp làm bật lên sự so sánh nhận vật Mị và Chí Phèo.
Sự hồi sinh của nhân vật thông qua tình huống truyện độc đáo.Khát vọng sống mãnh liệt của Mị qua tâm trạng và hành động trong đêm tình mùa xuân. Hiện thực Mị đang sống là một hiện thực tối tăm, ngột ngạt khiến cô trở thành cái bóng lầm lũi, sống mà như chết.
Nhưng một lần nữa quá khứ gọi tìm đến khiến cô gái này rạo rực, náo nức với niềm hân hoan sống và khát vọng tự do. Chất xúc tác khiến Mị sống trở lại đó là tiếng sáo, là chính hơi nồng của rượu và cả chất tình của mùa xuân, “tiếng sáo gọi bạn yêu lơ lửng bay ngoài đường…”
Nhà văn đã dùng từ láy để miêu tả âm thanh tiếng sáo một cách đầy gọi mời, nó khiến Mị không thể ngồi yên với quá khứ mà đánh thức sự thèm muốn đi chơi xuân trong cô. Mị đã có những hành động táo bạo “Mị không nói, Mị đến góc nhà lấy ống mỡ xắn một miếng… Mị quấn lại tóc, Mị với lấy cái váy hoa, Mị muốn đi chơi”.
Những suy nghĩ và hành động dồn dập ấy đã cho thấy Mị không còn sợ hãi đối với hiện tại, trong đầu cô bây giờ chỉ còn rập rờn bởi âm thanh tiếng sáo và sự khát khao sống. Tâm trạng của Chí Phèo thay đổi theo từng đợt tâm lý đã phản ánh rõ khát vọng sống của y, đồng thời cũng giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể khi so sánh nhân vật Mị và Chí Phèo.
Sự trỗi dậy của Mị một lần nữa được nhấn mạnh khi cô bắt gặp hình ảnh A Phủ “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Tình yêu thương đồng loại trong Mị trỗi dậy bắt nguồn từ sự đồng cảm và thương xót cho chính cuộc đời mình.
Nhà văn đã miêu tả hàng loạt hành động Mị cứu A Phủ từ nhẹ nhàng, cẩn trọng với câu thúc giục “đi ngay” để A Phủ có thể chạy đi và sống. Sau đó, đỉnh điểm của sự trỗi dậy khát vọng sống trọng Mị đó là tiếng nói trong sự phức tạp đầy sợ hãi của tâm lí “A Phủ cho tôi đi với…Ở đây thì chết mất”
Từ sự rung cảm trước tiếng sáo của đêm tình mùa xuân đến liều mình cắt dây trói cho A Phủ đã cho thấy Mị đã can đảm tự giải thoát cuộc đời mình khỏi sự cường quyền. Bước chân của Mị đã đạp đổ sự áp bức của chế độ bấy giờ và thể hiện sức sống tiềm tàng của bản thân. Tô Hoài đã ca ngợi vẻ đẹp phụ nữ Tây Bắc, đồng thời khẳng định khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc của con người dù trong tận cùng của bế tắc.
Sự tàn khốc của xã hội đã vùi dập một con người, thế nhưng chỉ cần những tác động nhỏ của tình người thì bước chân của con quỷ dữ đã kịp dừng lại, đánh dấu sự trở lại của một kiếp người.“Chưa bao giờ hắn tỉnh. Và chưa bao giờ hắn tỉnh táo để biết hắn có mặt trên đời này”.
Hai câu văn liên tiếp tưởng chừng như mang một ý nghĩa nhưng lại mở ra một bước ngoặt về những “lần đầu tiên” của Chí từ ngày hắn tha hóa. Đây không chỉ là sự thức tỉnh của thể xác mà còn là sự thức tỉnh của tâm hồn.
Lần đầu tiên hắn cảm nhận được hơi thở của cuộc sống và mông lung mơ về những ước mơ trong quá khứ “Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ”. Chi tiết này như nút thắt của thiên truyện và cũng chính là nút thắt của cuộc đời Chí, sự tự nhận thức và trỗi dậy của nhân tính đã khiến hắn một lần nữa được sống và tỉnh táo nhìn nhận về cuộc đời chính mình.
Khi so sánh nhân vật Mị và Chí Phèo, nếu như sự trỗi dậy của Mị xuất phát từ sự hoài niệm về quá khứ tươi đẹp thì sự trỗi dậy của Chí là được đánh thức nhờ vào hơi ấm từ bát cháo hành của Thị Nở. Bát cháo hành đại diện cho tình người – điều mà suốt cuộc đời này tưởng chừng như hắn không bao giờ có được nữa. Sự chăm sóc từ đôi bàn tay người phụ nữ thật mới mẻ và ấm áp đối với hắn để từ đó hắn tìm đường trở về với lương thiện.
“Hắn thấy mắt mình ươn ướt” là hình ảnh đánh dấu sự trỗi dậy của con người trong Chí. Nam Cao gọi nước mắt là hạt châu của con người, nó cứu lấy, nó gột rửa mọi tội lỗi và giữ con người ở lại phần trong sáng của lương tâm. Quá trình tự ý thức lên đến đỉnh điểm khi “nghĩ đến rượu hắn hơi rùng mình”. Bởi cái hắn thèm giờ đây không phải là mùi cay nồng của rượu mà là hương vị của sự lương thiện “Hắn thèm lương thiện”.
Khi so sánh nhân vật Mị và Chí Phèo, người đọc mới cảm nhận sâu sắc giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong hai tác phẩm Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo. Qua đó. tác giả đã khái quát được bộ mặt xã hội phong kiến tàn bạo. Đồng thời ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn và sự trổi dậy tìm kiếm sự sống của những con người cùng khổ.
Khác với những nhà văn hiện thực phê phán đương thời, Nam Cao và Tô Hoài không đi sâu miêu tả quá trình đói cơm rách áo của người nông dân mặc dù đó là thực tế vô cùng phổ biến. Ông yêu thương nhân vật bằng cách nêu cao giá trị hiện thực qua những bi kịch cuộc đời của nhân vật. Để từ đó khi so sánh nhân vật Mị và Chí Phèo, người đọc mới thấu rõ nỗi đau đòi quyền sống, quyền làm người và góp tiếng nói tố cáo xã hội bấy giờ.
Nếu không phải là một tấm lòng nhân đạo nhân đạo và tài năng xuất chúng thì cả hai nhà văn đã không khiến người đọc rung cảm đến như vậy khi so sánh nhân vật Mị và Chí Phèo. Mỗi nhà văn đều có cách sáng tạo riêng nhưng khi viết về người nông dân, họ luôn tập trung bút lực của mình vào vẻ đẹp tiềm tàng của nhân vật.

Số 3: Liên hệ nhân vật Mị và Chí Phèo
Nam Cao và Tô Hoài là hai gương mặt nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Bằng tài năng và tấm lòng nhân đạo sâu sắc, hai nhà văn đều dùng ngòi bút của mình hướng đến phản ánh cuộc sống và số phận của những người nông dân nghèo khổ.
Nếu như Nam Cao đi sâu khai thác về bi kịch bị tha hóa của con người thông qua nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên thì Tô Hoài lại tìm đến những người nông dân nghèo khổ, bị chà đạp về thể xác và tinh thần tại vùng núi Tây Bắc, điển hình có thể kể đến là Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”.
Cả Nam Cao và Tô Hoài trong tác phẩm của mình không chỉ xây dựng được nội dung tác phẩm sâu sắc mà còn gặp gỡ trong tinh thần nhân đạo sâu sắc. Thông qua nhân vật Chí Phèo (Chí Phèo) và Mị (Vợ chồng A Phủ), hai nhà văn đã thể hiện tiếng nói cảm thông đối với những người nông dân nghèo khổ, bất hạnh, đồng thời lên án sâu sắc đối với xã hội phong kiến đã chèn ép, bóc lột, chà đạp lên nhân phẩm của những con người lương thiện.
Mị và Chí Phèo là những người có xuất thân nghèo khổ, bị cường quyền chèn ép, chà đạp đến mức tê liệt, đánh mất khả năng phản kháng, phải sống trong cuộc sống tăm tối, đánh mất chính mình. Tuy nhiên, bên trong những con người bất hạnh ấy lại là sức sống tiềm tàng, mãnh liệt, họ không mãi cam chịu cuộc sống đen tối mà đã vươn lên vượt thoát ra khỏi bóng đen của cường quyền, thức tỉnh để hồi sinh quay trở lại với bản chất lương thiện của mình.
Chí Phèo vốn là một người nông dân lương thiện, chân chất, vì sự ghen tuông của Bá Kiến mà bị đẩy vào tù một cách vô lí, oan uổng. Nhà tù thực dân đã biến Chí Phèo một người lương thiện trở thành một tên lưu manh với vẻ ngoài ngang ngược, hống hách.
Với lí lịch “đen” sau khi ra tù, Chí Phèo khó có thể quay trở về với những công việc lương thiện như trước đây, không ai muốn, cũng không ai dám thuê Chí. Để tiếp tục sống, Chí Phèo đã tìm đến chính kẻ thù của mình, kẻ đã đẩy mình vào con đường tù tội – Bá Kiến.
Từ khi chấp nhận làm tay sai cho Bá Kiến cũng là khi Chí Phèo bước vào con đường tội lỗi, một tay Chí Phèo đã gây nên bao tội ác, Chí dần bị tha hóa và trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Cả làng Vũ Đại đều căm ghét, từ chối công nhận quyền làm người của Chí. Những tưởng Chí sẽ mãi trượt dài trên con đường tha hóa, mãi là con quỷ dữ của làng Vũ Đại nhưng bát cháo hành của Thị Nở đã đánh thức phần nhân tính bên trong con người của Chí. Những ước mơ bình dị thời trai trẻ bỗng sống dậy trong Chí, Chí khát khao muốn làm hòa với mọi người, muốn trở về với con đường lương thiện.
Khi biết mình mãi mãi không thể trở về cuộc đời lương thiện được nữa, Chí Phèo thà lựa chọn cái kết bi thảm nhất cho mình chứ không chịu bắt tay với tội ác một lần nữa. Cái chết của Chí Phèo không chỉ lên án xã hội phong kiến thối nát mà còn thể hiện thái độ đồng cảm sâu sắc của Nam Cao đối với số phận bi thảm của người nông dân.
Mị là người con gái xinh đẹp, yêu đời với sức sống thanh xuân căng tràn nhưng buộc trở thành con dâu trừ nợ cho gia đình thống lí. Sống tại gia đình thống lí, Mị phải làm việc quần quật ngày đêm, bị đối xử như con trâu, con ngựa, chà đạp cả về thể xác và tinh thần. Sống lâu trong cái khổ, Mị từ một cô gái trẻ trung, yêu đời trở thành người đàn bà cam chịu, lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
Mị bị tê liệt, đánh mất đi khả năng phản kháng trước thực trạng đau khổ trước mắt. Trong đêm tình mùa xuân, sức sống bên trong Mị đã được đánh thức nhưng sau đó lại bị thực tại tàn nhẫn đè nén để cô trở lại đối với cuộc sống cam chịu thường ngày.
Trong đêm tình mùa xuân sức sống bên trong Mị được đánh thức thì giọt nước mắt của A Phủ đã khiến cho sức sống ấy bùng cháy dữ dội để thôi thúc Mị vùng lên cứu sống A Phủ cũng là giải thoát cho cuộc sống của chính mình.
Qua hai nhân vật Chí Phèo và Mị, hai nhà văn Nam Cao và Tô Hoài đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với những người nông dân nghèo bất hạnh. Sự hồi sinh của Chí Phèo và Mị thể hiện sự trân trọng, niềm tin của hai nhà văn đối với những giá trị nhân phẩm, sức sống tiềm tàng bên trong con người, đồng thời phê phán sâu sắc đối với xã hội đen tối đã đẩy con người đến con đường tha hóa.
Số 4: So sánh sự hồi sinh của Chí Phèo và Mị
Trong nền văn học hiện thực Việt Nam, sự xuất hiện của một loạt các cây bút tài năng như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,… đã phản ánh một cách rất chân thực số phận bi kịch của người nông dân, trí thức nghèo trong xã hội cũ, cùng với những bất công, sự tàn ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đẩy con người ta vào đến bước đường cùng.
Trong đó với Chí Phèo của Nam Cao và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, ta đều nhận thấy nội dung chính xuyên suốt tác phẩm ấy là sự thức tỉnh, trỗi dậy mạnh mẽ của nhân vật chính.
Tuy nhiên với bối cảnh ra đời và hướng đi khác nhau trong phong cách viết của mỗi tác giả thể nên sự thức tỉnh của các nhân vật và cái kết của họ cũng phát triển theo những lối đi riêng, một bên là bi kịch, một bên lại là con đường rực sáng đầy hy vọng.
Trước hết nói về quá trình thức tỉnh của Mị trong Vợ chồng A Phủ, Mị là một cô gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, chăm chỉ làm lụng, lại có một tình yêu đẹp, những tưởng cô sẽ có một cuộc đời ấm êm bên người mình yêu, dù không sang giàu.
Thế nhưng cái hủ tục của cường quyền và thần quyền phong kiến đã phá vỡ hết tất cả, món nợ truyền kiếp của người cha nghèo mà Mị phải gánh thay, đã đẩy Mị vào bước đường trở thành người con dâu gạt nợ.
Bước vào làm dâu nhà giàu nhưng buộc phải sống một cuộc đời không khác gì trâu ngựa, trở thành một cỗ máy lao động biết nói. Mị đã từng đau khổ tuyệt vọng chỉ muốn ăn lá ngón để chết quách đi cho đỡ khổ, nhưng nghĩ đến cha già Mị lại không đành lòng chết, chỉ đành cắn răng chịu đựng. Mãi rồi “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa.
Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Cô trở nên trơ lì, không còn thiết tha gì đến cuộc sống, không còn biết thế nào là đau đớn, khổ sở, tâm hồn Mị trở nên nguội lạnh như tro tàn, cô thu mình vào một chiếc vỏ bọc cứng rắn bởi những nỗi đau quá sức chịu đựng khi mà chính bản thân Mị cũng ý thức được rằng “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”.
Không chỉ bị đày đọa về thể xác mà nỗi đau của Mị còn đến từ những hoạt cảnh tù túng trong tâm hồn, khi mà lúc nào người ta cũng thấy Mị buồn rười rượi, đầu cúi xuống, không thiết tha nói năng, tâm trí lúc nào cũng chỉ nghĩ đến việc đi làm.
Căn buồng Mị ở chẳng khác nào một cái nhà tù khi chỉ có một cái lỗ vuông bé bằng bàn tay “lúc nào trông ra cũng thấy một màu trăng trắng không biết là sương hay là nắng”, tối tăm chật hẹp, giam giữ cả tâm hồn và thể xác của Mị, mà có lúc Mị đã nghĩ rằng cả cuộc đời này mình sẽ sống và chết ở cái căn buồng nhỏ bé này
Ngẫm thật xót xa cho một kiếp người. Ngoài ra một nỗi đau khổ khác của Mị ấy là nỗi đau bị chia cắt tình duyên và việc phải chung sống cả đời với người mà mình căm ghét – A Sử, một kẻ độc ác, vũ phu, chỉ biết chơi bời, nó không coi Mị là vợ mà coi cô như một nô lệ trong nhà, mặc sức đối xử tàn bạo.
Một cuộc đời như như vậy sao không khiến người ta trở nên tuyệt vọng, chai lì, lầm lũi như con rùa trong xó cửa cho được, nó có khác nào địa ngục trần gian, mà cái gian nhà giàu ấy chính là cái nhà tù chung thân được canh giữ bởi thần quyền và cường quyền, nó đã chà đạp, tàn phá tâm hồn và thể xác của những người đàn bà khốn khổ như Mị.
Sự thức tỉnh của Mị diễn ra một cách rất tự nhiên, khởi nguồn từ tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân, những tưởng tâm hồn Mị đã hoàn toàn chết lặng, thế mà giờ đây nghe tiếng sáo réo rắt, vui tươi, nó lại mạnh mẽ thức tỉnh, tựa như một mầm cây non được sau bao ngày nắng hạn gặp mưa rào bỗng trỗi dậy.
Mị bỗng thấy yêu đời, Mị lẩm nhẩm hát theo tiếng sáo, Mị lặng lẽ nhớ về những ký ức vui vẻ ngày chưa về làm dâu nhà thống lý Pá Tra. Rồi Mị uống rượu, uống ừng ực từng bát như muốn trút hết tất cả những nỗi muộn phiền đau đớn, cô nhớ lại mình đã từng thổi sáo, thổi lá rất hay, thế là Mị lại lấy lá thổi lên những điệu nhạc vui tươi, yêu đời.
Lòng Mị từ đó bắt đầu thức dậy những khao khát được vui chơi được giao tiếp với mọi người, khao khát được hưởng niềm hạnh phúc tuổi thanh xuân “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết”.
Nói là làm Mị vào buồng mặc váy hoa, vấn lại tóc, thế nhưng A Sử về nó đã trói Mị lại, nó không cho Mị được đi chơi, cô tuy bị trói thế nhưng tâm hồn vẫn lơ lửng theo tiếng sáo ngoài đường. Mãi đến khuya khi vẩn vơ nghĩ về một người đàn bà trong nhà này đã từng bị trói cho đến chết, Mị mới giật mình sợ hãi “Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau từng mảnh thịt”.
Sự đau đớn, nỗi sợ hãi chính là những minh chứng rõ ràng nhất cho sức sống tiềm tàng của Mị, hóa ra Mị vẫn còn ham sống, ham cuộc đời này lắm, Mị không muốn chết ngay tại đây, ngay bây giờ, Mị vẫn còn khao khát những hạnh phúc thanh xuân, khao khát tự do mãnh liệt và chúng đang bùng cháy trong trái tim người đàn bà trẻ, chỉ là chưa biết phải làm thế nào để đạt được những ước vọng ấy.
Đang trong lúc Mị bế tắc, thì sự xuất hiện tả tơi của A Phủ đã chỉ cho Mị một lối thoát đầy hy vọng, cảnh chàng trai tưởng chừng lả đi vì bị đói, bị rét, nhưng khi được Mị giải cứu đã dùng hết sức bình sinh để chạy, lăn xuống dưới sườn đồi, chứ quyết không chịu ở lại đợi chết, đã làm tâm hồn Mị vỡ ra một chân lý: Mị đã giải thoát được cho người khác, cớ sao lại không tự giải thoát cho bản thân mình được. Thế là Mị đã bất chấp liều mình chạy theo A Phủ, tự trả lại tự do cho bản thân, hướng về một cuộc đời mới, thoát khỏi cái nhà tù tàn ác, bế tắc ấy.
Tất cả những biến đổi trong tâm lý của Mị, cũng như hành động táo bạo của cô đều bộc lộ những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý đó là sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sự phản kháng mạnh mẽ, khao khát tự do, hạnh phúc cháy bỏng trong tâm hồn. Tất cả đã trở thành động lực khiến Mị tự giải phóng, cứu vớt bản thân và cả A Phủ.
Còn đối với Chí Phèo, quá trình thức tỉnh của anh gặp nhiều gian truân và lắt léo hơn Mị rất nhiều, bản thân Chí cũng có một cuộc đời đầy bất hạnh, với những tấn bi kịch họa vô đơn chí tương tự Mị.
Sống với thân phận mồ côi trôi nổi đến 20 tuổi với những ước vọng tươi đẹp thì lại bị tống vào tù chỉ vì sự lăng loàn của một người đàn bà và sự ghen tuông của một gã đàn ông bất lực sợ vợ. Bảy tám năm sau cái nhà tù thực dân ấy đã trả lại cho làng Vũ Đại một tên lưu manh với ngoại hình gớm ghiếc “trông đặc như thằng sắng cá!
Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế.
Trông gớm chết!”. Không chỉ tha hóa về nhân hình mà ở Chí Phèo còn là sự tha hóa về nhân phẩm khi hắn trở nên thích uống rượu và ăn thịt chó, quen việc rạch mặt ăn vạ, cùng với những tiếng chửi làng, chửi đời, chửi người ghê gớm.
Trượt dài trong sự tha hóa, Chí Phèo vì bị những bi kịch cuộc đời đày đọa và cả sự ngu dốt cả tin mà dễ dàng lún sâu vào bước đường tội lỗi khi trở thành tay sai của Bá Kiến, thay hắn làm tất cả những việc đâm thuê chém mướn, đòi nợ thuê. Trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, con vật lạ trong mắt người đời, bán rẻ linh hồn để kiếm mấy đồng lẻ phục vụ cho những cơn say dài chưa một lần tỉnh trong suốt 15 năm trời.
Sự thức tỉnh của Chí Phèo đã diễn ra tổng thể hai lần, lần đầu tiên ấy là nhờ Thị Nở, nhờ mối tình kỳ lạ với người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, lại thêm tính dở hơi. Thế nhưng thị đã cho hắn sự quan tâm, ấm áp của một người mẹ, một người đàn bà có tâm hồn đẹp bằng bát cháo hành bốc hơi nghi ngút.
Chí Phèo bỗng nhận ra bản thân đã bước sang phía bên kia của cuộc đời, hắn đã già, cơ thể đã bắt đầu suy sụp, hắn không sợ chết nhưng lại sợ sống một cuộc đời cô đơn, lay lắt, Rồi hắn nhớ lại những ước mơ thuở đôi mươi, có một gia đình đầm ấm, chồng cày thuê vợ dệt vải, nuôi lợn, mua đất.
Và hắn khao khát được làm những việc ấy với thị Nở, hắn muốn xây dựng gia đình với thị và thị sẽ là cây cầu đưa hắn về với thế giới loài người, để hắn hoàn lương và sống một cuộc đời mới.
Thế nhưng thật đớn đau thay, Chí Phèo chỉ vừa mới thoát ra khỏi cơn say dài được mấy ngày, mới có được những niềm hy vọng niềm vui sống thì nó đã lập tức bị đạp đổ bởi định kiến gay gắt của xã hội qua lời của bà cô Thị Nở “Đàn ông đã chết hết hay sao mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha.
Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Lời nói cay nghiệt ấy đã giáng một đòn chí mạng vào Chí Phèo, khiến hắn tỉnh mộng, ý thức thật rõ ràng về thân phận về cái số kiếp chất chồng đầy bi kịch và tội lỗi của mình, hắn đã không còn cơ hội quay trở về nữa rồi, hắn muốn lương thiện, nhưng ai cho hắn cái lương thiện quý giá ấy đây.
Đồng thời Chí Phèo cũng nhận thức được kẻ thù của mình, kẻ đã gây ra cho hắn biết bao bi kịch chính là Bá Kiến. Hắn cũng lựa chọn cách giải thoát cho bản thân như Mị, để giữ lại những thiên lương tốt đẹp còn sót lại trong người hắn. Thế nhưng khác so với Mị, kết thúc của quá trình thức tỉnh của Chí Phèo đó là một bi kịch.
Hắn giết chết Bá Kiến, đồng thời tự tử để kết thúc một đời đầy bất hạnh đau thương và đầy tội lỗi của mình. Đây có thể xem là cái kết hợp lý cho truyện ngắn, cũng phản ánh một cách gay gắt sự bất công của xã hội cũ đã mang đến cho con người biết bao bi kịch đau thương, khiến họ không còn đường lùi, buộc phải chọn cách thức tiêu cực nhất để giải thoát.
Chung quy lại, có thể thấy rõ ràng ở hai nhân vật Mị và Chí Phèo đều có những điểm chung ấy là những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý như tấm lòng ham sống, khao khát hạnh phúc, tình yêu mãnh liệt. Tuy nhiên nếu như bản thân Mị chọn cách chôn giấu, bao bọc tâm hồn của mình bằng lớp vỏ chai lì, khô cứng, không cảm xúc, thì Chí Phèo lại chọn cách phó mặc cho số phận, trượt dài theo con đường tội lỗi, chính vì thế đến tận cuối quá trình thức tỉnh, hai nhân vật có kết cục người tìm được tự do, hạnh phúc, người phải chịu bi kịch kết thúc cuộc đời, âu cũng là một hướng phát triển cốt truyện hợp lý và phù hợp với hoàn cảnh cũng như những tư tưởng mà hai tác giả muốn truyền tải cho người đọc.

Số 5: So sánh sự thức tỉnh của Chí Phèo và Mị
Chí Phèo – một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Bản chất của Chí Phèo là một con người lương thiện, luôn khao khát được sống như một người bình thường, muốn sống lương thiện nhưng lại bị xã hội lúc bấy giờ biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Bi kịch này bắt đầu diễn ra trong nội tâm Chí Phèo khi hắn gặp Thị Nở với “bát cháo hành”. Chính tình yêu Chí Phèo – Thị Nở đã đánh thức con người lương thiện của hắn. Hay nói cách khác chính sự xuất hiện của Thị đã cứu Chí Phèo thoát khỏi tấn bi kịch đó dù chỉ là trong phút chốc
Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao. Trên cơ sở người thật, việc thật ở quê mình, tác giả đã hư cấu, sáng tạo nên bức tranh hiện thực sống động về xã hội nông thôn Việt Nam trước CMT8 với tất cả sự tăm tối, ngột ngạt cùng bao nhiêu bi kịch đau đớn, kinh hoàng… Dù có được đặt tên là Cái lò gạch cũ, Đôi lứa xứng đôi hay Chí Phèo thì tác phẩm ấy vẫn được nhận ra bởi giá trị hiện thực và nhân đạo vô cùng to lớn của nó.
Nhân vật chính Chí Phèo là đại diện điển hình cho bi kịch của những người nông dân bị tha hoá trong xã hội cũ. Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong cái xã hội ấy đã không thể làm cho những người dân quê khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống tốt đẹp và lương thiện. Trong con người họ lúc nào cũng luôn âm ỉ một sự phản kháng vô cùng mạnh mẽ.
Một chút về Chí Phèo, ta có thể thấy hắn là một đưa con rơi, ra đời trong cái lò gạch cũ, lớn lên bằng tình thương bố thí của những người nghèo. Khi lớn lên làm canh điền trong nhà Bá Kiến lại bị vợ ba Bá Kiến gọi lên “bóp chân”; Bá Kiến sanh long ghen tuông nên đưa đi tù. Thời gian sau, Chí Phèo lại trở thành “con quỷ dữ của làng “Vũ Đại” tác oai tác quái dân lành.
Chí Phèo chìm trong cơn say, chỉ có một lần hắn tỉnh thật sự vào một buổi sáng (đã được Thị Nở đánh thức). Nhưng rồi tình yêu bị đổ vỡ. Bế tắc, đi tìm lương thiện, hắn giết Bá Kiến rồi tự giết mình. Chí Phèo chết nhưng chưa hết truyện. Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và “và thoáng hiện ra cái lò gạch cũ”. Một “Chí Phèo con” sắp ra đời. Cách sắp xếp khá tinh tế độc đáo. Cứ mỗi lần Chí Phèo ngoi lên thì lại bị cuộc đời này đè xuống. Khiến người đọc phải theo dõi liên tục không thể rời được.
Hay cho Nam Cao khi xây dựng được một chiều diễn biến tâm lý nhân vật thật xuất sắc. Ta có thể nhận thấy dễ dàng nhất ở đoạn Chí Phèo mở mắt thì trời đã sang… Một lần hắn tỉnh. Những thanh sắc cuộc sống “mặt trời chắc đã cao”, “tiếng chim ríu rít” lại hiện lên mặc dù hắn đang ở trong cái lều ẩm thấp. Lần đầu tiên hắn tỉnh, và cũng là lần đầu tiên hắn có những rung động với trước cuộc sống. Hắn nghe “tiếng cười nói của những người đi chợ”, “nghe tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”.
Trong truyện ngắn Chí Phèo , quá trình bị cự tuyệt quyền làm người thật ra đã bắt đầu từ lâu, diễn ra đồng thời với quá trình bị tha hoá. Tiếng chửi ngay từ đầu tác phẩm đã thể hiện điều đó.Chí cất lên tiếng chửi trời, chửi đời, chửi làng xóm, tất cả mọi người – những kẻ không chửi lại, cả những kẻ đã đẻ ra hắn. Tiếng chửi ấy như là tiếng hát để được giải thoát, vu vơ, ngẩn ngơ của một thằng say. Vậy mà nó thật trừu tượng mà cụ thể, xa đến gần, có thứ tự và vô cùng văn vẻ.
Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với đời dù là hình thức giao tiếp hạ đẳng nhất .nhưng nó lại không được ai đáp lại cả. Nhưng phải từ khi gặp Thị Nở, tức là từ khi Chí Phèo thức tỉnh, bi kịch mới thật sự bắt đầu. Chí Phèo ngạc nhiên ,xúc động khi Thị Nở bê bát cháo hành sang cho Chí Phèo. Hương vị cháo hạnh là hương vị của tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị mà to lớn. Rồi liên tiếp, Chí Phèo đều cảm thấy hơi cháo hành thoang thoảng trong mũi.
Lần đầu là khi Thị từ chối, hắn nghĩ ngợi một tí, rồi hình như hiểu, hiểu mình đã có quá nhiều tội lỗi, ngẩn người ra để tự hỏi làm sao để trở lại làm một con người bình thường?!
Lần thứ hai là lần quyết định hành động, hắn uống thật nhiều rượu nhưng càng uống lại càng tình, tình ra lại buồn, lúc đó hơi cháo hành lại thoang thoảng xuất hiện, đó là ý nghĩa biểu trưng, hắn lại nghĩ đến Thị, phân vân giữa việc làm người và một con quỷ, đó chính là ước mơ lương thiện, làm một con người như mọi người! Rồi đến lúc gặp mặt Bá Kiên, những hành động đó mới là tư thế làm người cuối cùng trước khi chết của Chí Phèo.
Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết 1 Chí Phèo say. Chí Phèo bằng xương, bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là Chí Phèo đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng sống như trước nữa.
Và Chí phèo chết trong bi kịch đau đớn, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống. Đây không thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp phong kiến thống trị tha hoá, những bi kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn.
Số 6: So sánh Chí Phèo và Mị
Là một nhà văn luôn băn khoăn trăn trở về cách sống và cách viết, Nam Cao đã từng tuyên ngôn “Sống đã rồi hãy viết”. Một nhà văn muốn viết được nhân đạo trước hết phải sống cho nhân đạo bởi cuộc đời quyết định đến văn chương. Nam Cao luôn nhìn đời bằng đôi mắt của tình thương, đôi mắt của lòng nhân ái. Với cách nhìn đời này, Nam Cao bắt đầu cầm bút sáng tác.
Trước Cách Mạng, Nam Cao viết về hai đề tài, đề tài người nông dân và đề tài người trí thức tiểu tư sản. Ở đề tài nông dân hay nhất, tiêu biểu nhất phải kể đến sáng tác đầu tay của Nam Cao, tác phẩm Chí Phèo. Linh hồn của câu chuyện là nhân vật cùng tên được nhà văn miêu tả với một tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người: Sinh ra là người nhưng không được làm người, cả đời khao khát lương thiện, cuối cùng trở thành kẻ bất lương.
Thông qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của hắn nông dân Chí, ngòi bút Nam Cao bộc lộ là một ngòi bút nhân đạo, nhân văn, sâu sắc và cao cả. Người ta thường nói bi kịch là một hoàn cảnh bi thảm, bi thương, bi đát nào đó, điều này không chính xác. Bi kịch vốn được hiểu là những khát vọng chân chính, cháy bỏng, mãnh liệt của một con người nhưng không có điều kiện thực hiện trên thực tế, cuối cùng người mang khát vọng bị rơi vào kết cục của một thảm kịch.
Bi kịch là cuộc đấu tranh dai dẳng, không khoan nhượng giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cao thượng và thấp hèn, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Trong cuộc sống thường ngày, thương nhật, bi kịch không diễn ra giữa các lực lượng xã hội đấu tranh với nhau.
Trái lại nó là lực lượng tinh thần trong đời sống tâm hồn của một con người, ví như nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao, cả đời hắn khao khát lương thiện, cuối cùng trở thành kẻ bất lương, sinh ra là người nhưng không được làm người, để rồi hắn chết trên con đường trở về lương thiện.
Cuộc đời con người là một chuỗi biến động liên hoàn mà chúng ta không thể phân tách hay chia cắt được.Tuy nhiên cuộc đời mỗi con người được hình thành bởi những điều kiện, hoàn cảnh . Ở những điều kiện lớn, hoàn cảnh lớn,bản chất con người mới được bộc lộ bởi nói như H.Balzac: “Bản chất của con người thường bị bánh xe của số phận che đậy, và khi lao vào bão tố, dù tốt hay xấu, tự nó bộc lộ.”
Cuộc đời Chí Phèo tù lúc sinh ra đến lúc chết đi được chia làm hai chặng đường: chặng đường đầu tiên từ lúc Chí sinh ra đến năm hai mươi tuổi và sau khi ra tù. Lai lịch Chí Phèo được mở ra trong câu chuyện là một đứa trẻ xám ngắt, được bọc trong một tấm váy đụp bên cạnh lò gạch bỏ hoang, được người thả ống lươn đem về trong một buổi sớm tinh sương. Lớn lên, Chí Phèo được cưu mang bởi những con người nghèo khổ, Chí Phèo đi ở hết nhà này cho đến nhà khác, từ bà goá mù cho đến ông Phó Cối.
Quá khứ ấy không khiến Chí Phèo trở thành một đứa trẻ hư hỏng, trái lại, đến năm hai mươi tuổi, khi đi làm hắn chắn điền cho nhà lí Kiến, Chí Phèo vẫn giữ nguyên bản tính của một người nông dân thuần hậu. Cũng như biết bao người nông dân làng Vũ Đại, Chí Phèo ước mơ có được một cuộc sống bình dị bởi mơ ước của một con người phần nào bộc lộ bản tính của người ấy. Ở đây, Chí Phèo ước mơ có một cuộc sống nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ con lợn để nuôi, khá giả mua năm ba sào ruộng cấy.
Mơ ước ấy chứng tỏ rằng hắn là một người nông dân thuần hậu, thậm chí làng Vũ Đại còn gọi hắn là người “lành như cục đất”. Ta còn thấy Chí phèo là một người trong sáng và trọng danh dự. Làm hắn chắn điền cho nhà lí Kiến, rồi một lần bị bà Ba Kiến gọi lên bóp chân, Chí Phèo chỉ thấy nhục, thấy sợ. Trái tim của Chí Phèo hai mươi tuổi đâu còn là gỗ đá, Chí Phèo đã nhận thức được đâu là tình yêu chân chính, đâu là thói dâm ô.
Bị gọi “đấm bóp cho bà 3 quỷ quái hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Như vậy, rõ ràng, đến đây ta có thể khẳng định hắn là một người nông dân thuần hậu, nhưng xã hội ấy không cho Chí Phèo sống yên ổn. Chí Phèo đang sống trong cái xã hội mà “Kiếp người cơm vãi cơm rơi – Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi.”, trong cái xã hội mà cạm bẫy người giăng giăng như mắc cửi thì những ngời hiền lành như Chí Phèo bao giờ cũng phải chịu thiệt thòi.
Vì một cơn ghen bóng gió, Chí Phèo đã bị Bá Kiến tống vào ngục tù, con người xảo quyệt này sẵn sàng chà đạp lên cuộc đời người khác không thương tiếc, không ghê tay. Bắt đầu từ đây, Chí Phèo chuyển sang một trạng thái khác, một cuộc sống khác. Nhân đây cũng phải nói qua cái nhà tù, đây là nhà tù thực dân, đồng lõa với lão Bá tha hóa Chí Phèo.
Nhà tù này có bản chất xã hội trái hoàn toàn với bản chất xã hội của một nhà tù mà loài người đang mong đợi. Nhà tù này chỉ thu nạp tù nhân khi hắn ta còn lành như cục đất, vào nhào nặn, đào tạo đến khi thành con quỷ dữ thì thả họ ra.
Nhà tù này tiếp tay cho lão Bá tha hóa Chí Phèo, nhà tù này đã biến hắn Chí “lành như cục đất” giờ đây ra tù… hãy nghe Nam Cao mô tả diện mạo của Chí Phèo lúc ra tù: ”Cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm, ngực và tay chạm trổ đầy những hình rồng phượng, có cả một ông tướng cầm chuỳ.
Trông Chí Phèo đặc như một tên săng đá”.Hình ảnh này đã làm tái hiện một Chí Phèo khác hoàn toàn, thay thế hắn nông dân thuần hậu ngày xưa giờ đây là một Chí Phèo sinh ra làm người nhưng không được làm người, hiền lành chân chất là thế giờ dây trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Đây là bi kịch đầu tiên của Chí Phèo bởi bi kịch là khát vọng chân chính, mãnh liệt của một con người nhưng không có điều kiện thực hiện trên thực tế, Chí Phèo cả đời khao khát lương thiện nhưng giờ đây thành kẻ bất lương mất rồi, thành con quỷ dũ mất rồi. Hình ảnh của Chí say rượu vừa đi vừa chửi hết sức buồn cười, phải chăng đằng sau sự lảm nhảm của hắn là tiếng kêu gào tuyệt vọng của sự thèm khát được giao tiếp với đồng loại.
Trong cơn say hắn nhận ra được sự cô đơn khủng khiếp của 1 con người bị xh ruồng bỏ. “Hắn thèm được người ta chửi, chửi hắn có nghĩa là còn công nhận hắn là người”. Thế nhưng hắn cứ chửi, xung quanh hắn là sự im lặng đáng sợ, hắn chửi rồi lại nghe: “chỉ có 3 con chó dữ với 1 thằng say rượu”. Hắn đã bị từ chối quyền làm người tuyệt đối. Bản chất của hắn đâu phải là kẻ nát rượu.
Khi còn trẻ hắn đã “ao ước có 1 mái ấm gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn vợ dệt vải nuôi heo”. Mơ ước của hắn thật bình dị bằng sức lao động chân chính, cái hạnh phúc đơn sơ nhưng ấm cúng tình người tưởng chừng ai cũng có được nhưng với Chí lại quá xa vời. Giờ đây, hắn muốn sống trong cái Làng Vũ Đại “đầy bọn ăn thịt người không thắn” thì hắn phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ.
Muốn thế hắn phải có gan, phải mạnh, thế là hắn mượn rượu để say như hủ chìm, như thế hắn sẽ làm “bất cứ điều gì người ta muốn hắn làm”, xã hội đã vằm nát bộ mặt người của hắn để hắn không còn được coi là con người nữa “ai cũng tránh mỗi lần hắn đi qua”. Trong cơn say rượu, Chí đã gặp Thị Nở và họ đã ăn nằm với nhau….
Sau khi tỉnh cơn say, hắn nhận được sự t/yêu c/sóc của TNở làm cho trong sâu xa t/hồn hắn lay động 1 tia chớp lóe sáng trong cuộc đời tối tăm dài dằng dặc của hắn và hắn nhận ra được tình trạng bi thương của số phận mình. “Hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có 1 lúc mà người ta không thể liều lĩnh được nữa, bấy giờ mới nguy”, hắn tủi thân vì hắn nhận ra sự trơ trọi của chính mình.
Đó những ân hận khi Chí Phèo hiểu ra hắn đã làm quá nhiều điều tội lỗi, khốn nổi khi gây ra những điều này Chí triền miên trong những cơn say nên nào biết gì! Tình yêu của Thị Nở làm cho hắn “bỗng thèm lương thiện”, bát cháo hành đã đưa Chí rẽ vào bước ngoặc mới, bát cháo hành là biểu tượng của sự cảm thông yêu thương giữa những người cùng cảnh ngộ, nó mãi mãi đi vào cuộc sống văn chương với tư cách là biểu tượng của chủ nghĩa nhân đạo.
Hắn cảm động quá! cảm động vì lần đầu tiên hắn được ăn 1 thứ ngon như thế. Hơn nữa muốn có cơm ăn, rượu uống chí phải dọa, cướp giật. Lần đầu tiên có người tự nguyện cho hắn ăn, đặc biệt hơn đó lại là đàn bà nên con quỷ dữ đã mềm ra thành từng giọt nước mắt. Cùng với những giọt nước mắt là Chí nghe được tiếng chim hót buổi sáng, tiếng gõ mái chèo của người thuyền chài đuổi cá trên sông, tiếng trò chuyện của những người đi chợ sớm.
Cái đẹp của tự nhiên, cái đẹp của lao động chứa chan tình người, tất cả thật đơn sơ nhưng cũng thật gần gũi thân thiết, những âm thanh này ngày nào cũng có nhưng đây là lần đầu tiên Chí cảm nhận được. Giọt nước mắt của Chí cùng những âm thanh buổi sáng đã làm nên một Chí Phèo khác hẳn, có nghĩa là hắn chắn điền lương thiện năm nào đã sống lại.
Đây là lần đầu tiên Chí tỉnh và lần đầu tiên nhận thức được tội lỗi, sự ân hận muộn màng nhưng dù sao cũng đáng ghi nhận. Đó là biểu hiện của sự làm lành “hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao” Chí muốn được mọi người bỏ qua cho tất cả. Thị Nở sẽ giúp hắn làm loại từ đầu, niềm khát khao mới người làm sao! Tình yêu của Thị Nở làm cho hắn thức tỉnh và mở đường cho hắn trở lại làm người, nhưng thật trớ trêu, bà cô Thị Nở đã đóng sầm cánh cửa lại, bà không cho cháu bà “đi lấy 1 thằng ăn vạ”.
Cách nhìn của bà cũng chính là cách nhìn của Làng Vũ Đại, linh hồn của Chí vừa trở về thì bị cự tuyệt, không ai nhận ra. Khát vọng của Chí đã bị đã bị xã hội từ chối, điều này cũng dễ hiểu vì xã hội quen nhìn Chí trong bộ dạng quỹ dữ, không thể chấp nhận một Chí Phèo hiện lên với tư thế con người. Sự từ chối của xã hội đầy định kiến, xã hội không độ lượng bao dung đón đứa con lạc loài trở về vòng tay cộng đồng.
Hoàn cảnh đặt Chí trước 2 con đường để lựa chọn: “hoặc sống làm quỷ dữ hoặc chết để khẳng định gía trị làm người”. Thực chất Chí chỉ có 1 con đường để đi, khi giá trị làm người thức tỉnh thì chí không thể làm quỹ dữ, đó chính là bi kịch thân phận con người không được quyền làm người.
Sự từ chối của Thị Nở đã đóng sập cánh cửa hoàn lương của Chí. Lúc này hắn đã uống rất nhiều rượu “càng uống càng tỉnh ra” để thấm thía thân phận mình “hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Trong cơn say hắn xách dao ra đi, hắn lảm nhảm đến nhà Thị Nở để đâm chém nhưng bước chân lại tìm đi tìm “kẻ gây ra tình trạng tuyệt vọng cho đời mình”. Thực trạng này đòi hỏi chúng ta phải xác định Chí say hay tỉnh?
Nếu bảo hắn tỉnh thì không thuyết phục vì ý thức của hắn không còn khả năng điều khiển hành vi, bảo hắn say cũng không thỏa đáng vì người say không thể biết đòi lương thiện “tao muốn làm người lương thiện” và biết rất rõ không ai cho hắn lương thiện, nghịch lý này là rượu đã làm cho thế giới tinh thần hắn mụ mị đi, nhưng 1 bộ phận mà rượu không thể làm tê liệt được là ý thức làm người, cho nên hành động đòi lương thiện là vô cùng tỉnh táo.
Vì vậy Chí đã giết Bá Kiến và tự hủy diệt mình. Cái kết thúc thật rùng rợn vì máu chảy nhưng cũng thật nhân bản vì tội ác đã được trừng trị và giá trị làm người được khẳng định. Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết một Chí Phèo say . Chí Phèo bằng xương, bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lòng người đọc là Chí Phèo đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi làm người lương thiện.
Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng sống như trước nữa. Và Chí Phèo chết trong bi kịch đau đớn, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống . Đây không thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống.
Chí Phèo – một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Ở cuối tác phẩm, “đột nhiên thị thoáng thấy hiện ra một cái lò gạc cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người qua lại…”, chi tiết ấy muốn nói với chúng ta rằng, một ngày gần đây thôi, Thị Nở lại bụng mang dạ chửa vượt cạn giữa đồng không mông quạnh, giữa con mắt thờ ơ của người dân làng Vũ Đại, lai một Chí Phèo con xuất hiện.
Điều này chứng tỏ rằng “Chí Phèo” không phải là bi kịch của một con người mà là bi kịch của người nông dân tồn tại trong lòng nông thôn trước Cách mạng tháng Tám. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp phong kiến thống trị tha hoá, những bị kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn.

Số 7: So sánh Mị và Chí Phèo
Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Trong suốt sự nghiệp cầm bút của mình, ông luôn có những trăn trở, nghĩ suy về sống và viết. Mỗi tác phẩm của Nam Cao đều hướng về con người, vì con người, và với ông, đỉnh cao của sự sáng tạo là những cái mới mẻ, ông từng viết: “Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu.
Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có”. Có lẽ chính bởi những quan niệm nghệ thuật chân chính ấy mà Nam Cao đã cho ra đời hàng loạt những tiểu thuyết, truyện ngắn thành công, đánh đấu tên tuổi của mình trên văn đàn văn học.
Truyện ngắn “Chí Phèo” là tác phẩm xuất sắc cho thấy được tài năng nghệ thuật trong ngòi bút điêu luyện của nhà văn, đồng thời qua đó phản ánh được số phận con người với tấn bi kịch đau đớn nhất- bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Nhân vật Chí Phèo là nhân vật tư tưởng của tác phẩm.
Chí Phèo xuất hiện trong tác phẩm với tiếng chửi đời, chửi người một cách bất cần. Hắn chửi mà chẳng ai màng quan tâm, để ý tới, tiếng chửi chứa đựng cả những sự xót xa, cả đau thương và tủi nhục. Phải chăng Chí cũng đang khát khao có được sự quan tâm, lời hỏi han từ ai đó, nhưng chẳng một ai, chẳng một ai trong cái làng ấy thực lòng để tâm đến Chí. Tiếng chửi chua chát ấy mở đầu cho câu chuyện thương tâm về cuộc đời Chí.
Chí Phèo vốn sinh ra đã bất hạnh, thiếu thốn sự yêu thương, tình thân gia đình. Hắn được một người đi thả ống lươn thấy với bộ dạng trần truồng đặt trong cái váy đúp nơi lò gạch cũ bỏ không nhặt về rồi đem cho một bà goá mù. Trớ trêu thay, mụ lại bị đem bán cho phó côi, một người già mà không có con. Khi bác phó côi chết đi, Chí lại sống một thân một mình, bơ vơ.
Cuộc đời không may mắn ấy lại cứ thế vận vào con người tội nghiệp kia. Chí phải đi ở làm thuê cuốc mướn để có cái ăn nuôi sống bản thân mình, dù vậy, Chí vẫn rất chăm chỉ lại lương thiện và có lòng tự trọng. Cũng như bao người khác, Chí cũng khát khao có được bình yên trong ngôi nhà nhỏ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”, vậy đấy, những người nông dân nghèo họ đâu mong giàu sang phú quý chỉ mong được ấm êm, tình cảm yêu thương gắn bó dành cho nhau rồi cùng nhau cố gắng mà làm ăn vậy thôi. Nhưng ngay cả đến cái ước mơ nhỏ nhoi ấy cũng xa vời với Chí, đắng cay hơn, Chí phải trải qua những bi kịch tồi tệ nhất cuộc đời.
Vào làm thuê cho Bá Kiến, vì sự lẳng lơ của bà vợ ba trẻ mà Chí Phèo phải chịu cái ghen oan của Bá Kiến. Bị đẩy vào tù tội ngót 7, 8 năm trời, Chí Phèo trở thành một con người khác, một còn người mất đi cả hình hài vốn có, mất đi cả nhân tính trước đây, giờ đây người ta xem Chí như một con quỷ dữ của làng Vũ Đại..
Chí Phèo trở về với cái ngoại hình ghê sợ: “Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Trong bộ dạng với chiếc quần nái màu đen, cái áo tây vàng, ngực, cánh tay chạm trỗ những rồng phượng, ai nhìn thấy cũng phải thốt lên “trông gớm chết!”.
Cái nhân dạng xấu xí, tồi tệ đến thế nào mà còn có tính cách hướng thiện thì người đời còn để tâm, nhưng Chí Phèo ra tù tính tình cũng đổi khác, hắn uống rượu say khướt cả ngày từ trưa tới tối, rồi vác thân đến nhà Bá Kiến làm loạn ăn vạ.
Tưởng cương quyết vạch tội ác của bầy lũ thất đức kia những chỉ vài câu dỗ ngọt, vài chén rượu thừa, vài đồng bạc thuê, Chí lại xuôi lòng mà làm thuê cho hắn “Chí Phèo chẳng biết họ hàng ra làm sao, nhưng cũng thấy lòng nguôi nguôi….Vậy mà không: cái cụ bá thét ra lửa ấy lại xử nhũn, mời hắn vào nhà xơi nước.
Thôi cũng hả, đã xử nhũn thì hắn vào”. Tên Bá Kiến độc ác kia lại dàn xếp với ý nghĩ ngông cuồng có tính toán của hắn: ” Không có những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị những thằng đầu bò? ” để dùng Chí Phèo như một tên lưu manh, đầu bò.
Và Chí đã sập bẫy Bá Kiến, từ đấy hắn làm hại không biết bao nhiêu người, phá phách của cải của bao nhiêu gia đình lương thiện. Hắn châm lửa đốt nhà của mụ hàng rượu, hắn đòi nợ cho Bá Kiến rồi tự huênh hoàng: “anh hùng làng này cóc có thằng nào bằng ta!”.
Được nhận vài đồng bạc, vài sào ruộng, Chí càng hả hê sung sướng, rồi đâm đầu theo tên Bá Kiên gian hùng, hiểm độc. Theo thời gian, hắn cứ thế như một kẻ vô danh, không tên không tuổi, “Bây giờ thì hắn đã thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín?
Bốn mươi hay ngoài bốn mươi? Cái mặt hắn không trẻ cũng không già; nó không còn phải là mặt người; nó là mặt của con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi?”. Hắn không có cả thẻ biên tuổi, trong làng xem hắn là dân lưu tán, vậy mà tội lỗi của Chí nếu viết ra sớ cũng dài ngốn giấy “Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm!”.
Đau đớn thay cái xã hội với những kẻ tàn ác, những kẻ vì lợi ích, mục đích cá nhân mà đẩy con người đến đường cùng của sự tha hoá, dạy con người đi từ tội lỗi này đến tội lỗi khác.
Chí trở thành một kẻ gian ác bởi bàn tay kẻ gian ác tạo nên, Chí giờ đây không còn là Chí của năm nào nữa, Chí chẳng hề biết được rằng mình chính bây giờ lại “là con quỷ dữ của làng Vũ Ðại”. Người ta xa lánh, sợ hãi hắn như xa lánh một điều gì đó đáng sợ, ghê tởm.
Những tưởng rồi sẽ chẳng có ai đánh thức được phần người trong kẻ tha hoá kia. Nhưng chính trái tim yêu thương hay lòng thương hại của một cô gái xấu xí lại cho Chí cảm nhận được tình người. Chí gặp Thị Nở nơi vườn chuối khi hắn đang say khướt, sự thú vị mà hắn cảm nhận được từ một người “ma chê quỷ hờn” làm hắn “rộn rạo khắp người”.
Và sau cái đêm trăng sáng ấy, Chí mở mắt, cảm nhận được hết những điều xung quanh mà bấy lâu hắn không hề biết, không hề quan tâm tới, lòng hắn có chút bâng khuâng, lạ lùng: “Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc, hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình.
Ruột gan lại nôn nao lên một tý. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, rồi hắn nôn nao nhớ lại những ước mơ bình dị xưa kia của mình.
Bát cháo của Thị đã cứu vớt tâm hồn Chí, Chí bắt đầu thấy được thực tại quá nghiệt ngã của mình, nghĩ về một tương lai đầy những nỗi cô độc, đói rét ,ốm đau, hắn bắt đầu thấy sợ hãi, sợ hãi tột cùng. Còn biết sợ là còn có tính người, còn biết sợ mới chính là con người thực trong Chí. Chí bắt đầu hồi sinh chính mình, bắt đầu biết nhận thức về cuộc đời mình một lần nữa.
Chí cảm động đến phát khóc khi bưng bát cháo trên tay, bởi từ trước tới nay miếng ăn đều do hắn cướp bóc mà có được, Thị là người đầu tiên cho hắn cháo một cách tự nguyện như thế.
Chí thấy ăn năn và hối hận, Chí khát khao, nghĩ suy được làm người lương thiện, được cùng sống vui vẻ với mọi người xung quanh: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được”.
Lấp lánh lương tri trong người Chí lại không thể thắng nổi sự tàn bạo của xã hội lúc bấy giờ. Chí một lần nữa lại rơi vào bi kịch. Hắn muốn được chung sống cùng Thị nhưng Thị lại cự tuyệt hắn, những lời lẽ cay nghiệt, mỉa mai nhưng là sự thực của bà cô khiến hắn càng tức giận, đau đớn.
Dù đã cố gắng nhưng mọi sự đều không thể thay đổi bởi cái định kiến, nghĩ suy mà người ta gán vào trong cái nhân hình của Chí, người ta khinh sợ Chí, không chấp nhận một kẻ như Chí làm chồng.
Nỗi cay đắng cuộn trào, sự căm thù càng lớn, Chí vác dao hòng giết bà cô nhưng bước chân hướng đến nhà tên Bá Kiến, bởi trong Chí lúc này đã hiểu ra rằng, kẻ đẩy hắn vào đường cùng, vào kết cục tàn nhẫn bị thảm này là tên Bá Kiến hung tàn chứ không là ai khác.
Chí đã giết chết Bá Kiến, kết thúc cuộc đời đầy đau khổ, bi đát của chính mình. Một cái chết đáng thương, một cái chết để lại cho lòng người những nghĩ suy , trăn trở, cái chết tố cáo một xã hội thực dân đã đẩy những người khốn khổ vào cái chết bi thương.
Đến khi chết, Chí vẫn kêu gào những tiếng xót xa: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa”. “Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không? Chỉ có một cách… biết không! Chỉ có một cách là… cái này biết không?”
Bằng việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh điển hình, Nam Cao đã khắc hoạ nên nhân vật Chí Phèo hết sức thành công. Qua nhân vật Chí Phèo ta hiểu hơn được những khốn khổ của người nông dân trước cách mạng, thêm căm phẫn một xã hội mà ngay chính cả quyền được sống, được làm người của con người cũng bị tước đoạt.
Số 8: Liên hệ nhân vật Mị và Chí Phèo
Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã gây ấn tượng mạnh với người đọc bằng tiếng chửi của Chí Phèo, hắn chửi trời, chửi đời, chửi dân làng Vũ Đại, nhưng chẳng ai đáp lại, hắn lại chửi đến “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo” . Tại sao tiếng chửi lại đau đớn, uất ức đến vậy? Ngược về quá khứ, Nam Cao đã cho thấy số phận bất hạnh của Chí Phèo, đẻ ra là một đứa trẻ mồ côi, bị mẹ bỏ mặc ở lò gạch cũ, Chí may mắn được ông thả ống lươn nhìn thấy và nhặt về.
Chí bị trao tay qua nhiều người, ban đầu là bà góa mù, rồi đến bác phó cối, khi bác phó cối mất, Chí lớn lên trong sự đùm bọc của xóm làng. Từ nhỏ Chí đã sống trong sự thiếu thốn tình yêu thương, nhưng bản thân Chí vẫn là con người lương thiện. Chí làm việc cho Bá Kiến để nuôi sống mình, Chí yêu lao động và có những mơ ước thuần phác, hồn hậu: lấy vợ, sinh con, chồng làm thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, để được chút vốn liếng sẽ mua ruộng để làm.
Khôngchỉ vậy, Chí còn là người có lòng tự trọng, bóp chân cho bà ba hắn chỉ thấy nhục hơn là thấy thích. Ai có thể ngờ rằng một con người lương thiện đến vậy có thể tha hóa, trở thành quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Sự tha hóa của Chí Phèo nguyên nhân trực tiếp là Bá Kiến, sự ghen tuông khiến Bá Kiến đẩy Chí Phèo vào nhà tù thực dân. Nhà tù thực dân với sự tàn bạo, tra tấn dã man cả về thể xác và tinh thần đã biến Chí Phèo trở thành kẻ mất cả nhân hình và nhân tính. Ngày ở tù về Chí trông như thằng “săng đá” răng cạo trắng, đôi mắt gườm gườm, xăm trổ toàn thân, … khiến cho ai cũng phải khiếp sợ. Người đọc vừa ngỡ ngàng, vừa đau đớn, anh Chí của ngày xưa đâu?
Nhưng cái hay trong tác phẩm Nam Cao chính là liên tục tạo ra những khúc rẽ, những biến cố giúp thúc đẩy câu chuyện phát triển. Cuộc đời Chí tưởng rằng sẽ chìm trong bế tắc, sẽ mãi mãi không nhận ra kẻ thù của mình cho đến ngày Chí gặp thị Nở. Thị Nở xuất hiện như một luồng gió mới đến với cuộc đời chí Phèo. Sáng hôm sau, Chí nằm một mình trong lều, trận cảm đã làm hắn yếu đi nhiều, đây cũng là cơ hội để hắn cảm nhận cuộc sống xung quanh.
Hắn nghe những âm thanh quen thuộc của cuộc sống, tiếng chim hót, tiếng người ta đi chợ và hắn chợt thấy nhớ về ngày xưa, về những mơ ước rất đỗi dung dị của mình. Nhìn lại thực tại hắn chẳng có gì ngoài những vết sẹo chằng chịt trên mặt, nhận ra mình đã sang cái dốc bên kia của cuộc đời.
Trong dòng suy nghĩ miên man, Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành trên tay. Lần đầu tiên trong cuộc đời chỉ có chém giết và ăn vạ chị được người ta cho bát cháo hành, chí đường người ta yêu thương, quan tâm, chăm sóc. Đây cũng là lần đầu Chí thấy cháo hành ngon đến vậy “những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành rất ngon. Nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm mùi vị cháo hành?”. Câu hỏi ấy vang lên làm ta không khỏi nhức nhối, thương cảm cho số phận của Chí.
Hắn cầm bát cháo Thị Nở cho bằng đôi mắt thật hiền, cảm động, đôi mắt hắn ươn ướt vì sự biết ơn. Cùng với năm ngày chung sống cùng thị Nở trong hắn lại trỗi dậy khao khát về một cuộc sống khác, hắn khao khát được làm hòa với mọi người biết bao. Mong mỏi được làm người lương thiện, nhân tính trong Chí đã trở về: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, thị Nở sẽ mở đường cho hắn”.
Năm ngày đó như ánh nắng rực rỡ làm bừng sáng quãng đời đen tối của Chí Phèo. Chưa bao giờ người ta thấy một thằng chuyên rạch mặt ăn vạ lại hiền lành đến vậy, hắn cố uống rượu cho thật ít, để tỉnh tạo tận hưởng hạnh phúc, để được say trong men tình. Lần đầu tiên sau khi ở tù về Chí Phèo mới có lại mục đích và lí tưởng sống. Đó là những mong ước giản dị mà bất cứ ai cũng nâng niu, trân trọng.
Nhưng cuộc đời Chí Phèo vẫn chưa thoát khỏi những bi kịch. Thị Nở từ người cứu vớt lại trở thành người chối tự quyền làm người và hạnh phúc của Chí Phèo, chỉ vì bà cô không cho phép lấy một kẻ chỉ có chuyên đi rạch mặt ăn vạ. Bà cô chính là đại diện cho những hủ tục của xã hội đương thời, đẩy Chí đến bi kịch của sự tuyệt vọng. Chí Phèo uống, nhưng càng uống lại càng tỉnh, càng nhận ra số phận nghiệt ngã của bản thân. Chí xách dao định tìm đến nhà Thị Nở để giết cả nhà “nó”, nhưng bước chân lại hướng về nhà Bá Kiến.
Chí Phèo dõng dạc đòi lương thiện, nhưng bản thân hiểu rõ: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể làm người lương thiện nữa?” Và hắn rút dao giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu đời mình. Cái chết của cả hai quá đỗi bất ngờ. Chí giết kẻ thù của mình, kẻ cướp đi người nông dân lương thiện, và tự giết chết thân xác của một thằng tha hóa, giữ lại cho mình phẩm chất lương thiện. Cái chết của Chí Phèo là hệ quả tất yếu nhưng cũng không khỏi làm cho ta thương xót, đồng cảm.
Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về một người nông dân chất phác, lương thiện nhưng bị đẩy đến bước đường tha hóa phải tìm đến cái chết để khôi phục danh dự. Đồng thời với nhân vật Chí Phèo tác giả cũng lên án, tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến độc ác, bất nhân đẩy con đường đến bước đường cùng. Không chỉ vậy, ông còn thể hiện cái nhìn tin yêu vào bản chất lương thiện của những người nông dân.

Số 9: So sánh sự hồi sinh của Chí Phèo và Mị
Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống. Hiện thực ấy không chỉ là mô phỏng lại những gì đang diễn ra, không chỉ là vẽ lại ngọn cỏ dáng núi hay người nông dân đang cấy lúa dưới nắng hè gay gắt, văn học còn cam được những bước đi của tâm hồn con người.
Sự chuyển giao cảm xúc thể hiện qua từng dấu chấm dấu phẩy, thể hiện trong không khí mà ngôn từ tạo ra và trong sự vận động của những hình tượng văn học. Với nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài cũng cảm được bước đi của tâm hồn con người.
Điều đó thể hiện rất rõ qua sự hồi sinh của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó vừa là sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, từ đau khổ lặng câm sang tin yêu khát vọng, vừa là sự khám phá bản chất vĩnh hằng của con người khi lâm vào cảnh cùng đường mạt lộ.
Dưới đây là bài viết chi tiết cho đề bài: phân tích sự hồi sinh của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân. Liên hệ với sự hồi sinh của Chí Phèo vào buổi sáng đầu tiên sau khi tỉnh rượu trong tác phẩm “Chí Phèo” (Nam Cao).
Hiện thực trong tác phẩm nghệ thuật, không phải phân cảnh nào cũng rực rỡ ánh sáng. Văn học có cái tươi vui thuần khiết cũng có cái u tối mịt mù. Nhưng tư cách nhà văn luôn tồn tại như những “kẻ nâng giấc mơ” (Nguyễn Minh Châu). Xây dựng hình tượng nhân vật Mị, Tô Hoài với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” đã nâng đỡ cho đôi cánh khát vọng sống của người con người bị cùng đường mạt lộ bay cao.
Sự hồi sinh trong đêm tình mùa xuân của Mị là một đoạn văn thể hiện rõ sứ mệnh ấy. Đó cũng là điều mà Nam Cao gửi gắm thông qua sự hồi sinh của Chí Phèo vào buổi sáng đầu tiên sau khi tỉnh rượu.
Tô Hoài là cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam. “Vợ chồng A Phủ” là một trong những sáng tác để lại dấu ấn đậm nhất trong sự nghiệp của nhà văn. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế của Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc trong tám tháng.
Cuộc sống và con người nơi đây là chất men say cho tâm hồn Tô Hoài viết lên “Vợ chồng A Phủ”. Đoạn văn tái hiện lại sự hồi sinh của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân là đoạn văn tập trung nhất bút lực của nhà văn.
Trước đêm tình mùa xuân ấy, Mị vẫn sống lặng câm, lùi lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”. Sự hồi sinh của Mị trong đêm tình mùa xuân là sự tác động của một loạt các tác nhân. Đó là một đêm xuân-mùa của chồi non lộc biếc, làng mở lễ, trai gái mở hội lòng. Xuân là là sắc “xuân” của vũ trụ, của trần gian.
Nhà văn dùng thanh xuân của đất trời để khơi gợi thanh xuân của con người. Trong sắc xuân ấy, cảnh vật, không gian hiện lên cũng nồng đượm vị xuân. Có màu xuân: màu vàng của hoa bí đỏ, “vàng ửng” của cỏ gianh, màu “sặc sỡ” như con bướm của những chiếc váy dân tộc.
Có âm thanh quen thuộc , yên bình của bản làng: tiếng chó sủa xa xa, tiếng “cười ầm” của trẻ em chơi quay trước sân nhà, và Mị còn nghe thấy “tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”. Tiếng sáo, khi thì “lấp ló” nơi đầu núi, khi “văng vẳng” đầu làng, lúc lại “thiết tha bổi hổi” trong lòng Mị, khi thì “lửng lơ” gọi mời.
Không khí ngày tết yên bình, vui tươi và ấm áp ẩn trong những sắc vàng đón nắng mới, trong ngọn lửa “đốt lều canh nương”, trong men rượu ngô song sánh cúng trình ma ngày tết.
Đoạn văn đã kết tinh bút lực của Tô Hoài, đó là sự hiểu biết về phong tục vùng cao, khả năng miêu tả thiên nhiên và phong tục bằng vốn ngôn ngữ phong phú, giàu có, đậm đà màu sắc dân tộc.
Dưới sắc xuân rực màu sắc và thanh âm ấy, sức sống của Mị quay trở lại bằng sự hồi sinh mạnh mẽ. Sự hồi sinh bắt đầu với những giác quan cơ bản nhất. Đó là đôi mắt, không còn “lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” nữa mà đã nhìn thấy những sắc màu rực rỡ: đỏ, vàng, thậm chí Mị còn cảm nhận được sắc “vàng ửng”của cỏ gianh.
Đó không chỉ là những sắc màu đơn thuần mà nó là sắc màu của cuộc sống tươi vui ngoài kia, là vệt màu của tự do ẩn hiện trong từng ngọn cỏ dáng núi. Nếu trước đôi tai Mị chỉ nghe thấy tiếng chân ngựa đạp vách thi nay lại nghe được những âm thanh vui tươi, gọi mời.
Tiếng cười con trẻ khiến lòng Mị nóng lên những xúc cảm hồn nhiên của cuộc sống tự do. Thân xác Mị không còn héo hon ủ rũ mà bắt đầu rạo rực bởi men say của bát rượu ngô, bởi hơi lửa nóng ấm chạm vào da thịt. Tiềm thức Mị trỗi dậy, Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi:
“Mày có con trai có gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.”
Lời hát tựa như bật ra từ tâm hồn thẳm sâu, từ sự quen thuộc của một kí ức đã lâu ngày ngủ quên của Mị. Những thứ tưởng đã khóa kín nay lại thức dậy tìm về, bung tỏa ra như bông hoa nở trong tâm hồn người con gái ấy. Kí ức tràn vào tiềm thức thông qua chất lỏng nóng ấm của bát rượu ngô chẳng trong cổ họng: Mị “sống” về ngày trước.
Không phải “nhớ” mà là “sống” về ngày trước. Quá khứ không chỉ hiện về trong trí nhớ mà nó còn đưa Mị trở về trọn vẹn với tháng ngày tự do tự tại, xóa đi mọi trói buộc khổ đau ở hiện tại để Mị trở về những đêm hội mùa xuân tình tứ ấy. Hành động “cứ uống ực từng bát” đồng nghĩa với cái đắng cay của hiện tại mà Mị muốn nuốt cho sâu, vùi cho chặt tận đáy lòng.
Chỉ khi hiện tại ngủ yên thì quá khứ mới có đường quay trở lại. Quá khứ, giác quan quay trở lại, và cảm xúc của Mị cũng bừng tỉnh: “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước.”.
Lòng dập dìu như men rượu sóng sánh, tâm hồn lại phơi phới cũng là lúc nhận thức về điều đã đánh mất thức dậy trong lòng Mị. Mị thấy Mị còn “trẻ lắm”, nên “Mị cũng muốn đi chơi”. Tuổi trẻ đúng nghĩa quay trở lại khiến lòng Mị rạo rực những khát vọng. Mị bắt đầu sửa soạn đi chơi: “đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”.
Không gian tối tăm được ánh lửa chiếu rọi, Mị không muốn sống trong bóng tối nữa. Điệp từ “Mị”, các động từ được sử dụng liên tiếp kết hợp với câu ngắn, nhịp nhanh diễn tả những hành động hối hả, tốc độ mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt của một con chim muốn tháo cũi sổ lồng. Khi bị A Sử trói đứng vào cột nhà, Mị “vùng bước đi”.
Sợi dây đay nghiệt ngã của số phận chỉ có thể trói được đôi chân nhưng không buộc được đôi cánh tâm hồn Mị. Con chim dù không thoát khỏi lòng chật nhưng nhưng tiếng ca khát vọng vẫn bay bổng đến tận trời xanh.
Thoát khỏi hỏi quá khứ, đến sáng hôm sau, Mị lại trở về với thực tại. Tuy nhiên nhận thức về sức sống đã trở về khiến cho Mị có những nghĩ suy về số phận của người đàn bà lấy chồng giàu, Mị nhớ lại người đàn bà đồng phận, Mị “sợ”, “cựa mình”. Một lần nữa Tô Hoài nói đến khát vọng sống của con người: khi con người bị dồn vào đường cùng mạt lộ, phải đối diện với cái chết thì người ta càng ham sống, càng sợ chết.
Mị bắt đầu sợ cái chết, đối lập hẳn với trạng thái buông xuôi mặc số phận trước đêm tình mùa xuân. Hành động “cựa mình” chính là sự xoay chuyển của ý thức sống, là sự thức dậy rất khẽ nhưng vô cùng rõ ràng của khát vọng tự do.
Sự hồi sinh của Mị trong đêm tình mùa xuân dường như gợi nhắc lại cho ta về sự thức dậy của Chí Phèo trong buổi sáng đầu tiên sau khi tỉnh rượu trong tác phẩm “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao. Sự xuất hiện của Thị Nở – người đàn bà xấu xí, dở hơi nhưng lại có trái tim giàu yêu thương và sự tự thức tỉnh sau những cơn say triền miên là những yếu tố làm hồi sinh lại sức sống của Chí.
Chí thức dậy vào sáng hôm sau, những giác quan thoát khỏi men rượu dần dần cảm nhận được cuộc sống. Hắn nghe thấy âm thanh bình dị của tiếng người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng chim hót. Đó là những âm thanh của tự nhiên, của cuộc sống sinh hoạt và của lao động miệt mài.
Sự bình dị ấy kéo tâm trí hắn trôi về quá khứ, cái thời mà hắn từng mơ về cuộc sống tương lại êm dịu và giản dị như thế: một gia đình nho nhỏ, cùng nhau trồng cấy chăn nuôi, yên bình vượt qua những vất vả mưu sinh. Rồi hắn lại nghĩ về chính cái thân mình bây giờ, tàn tạ, già nua, bệnh tật, và cô độc. Hắn biết, biết rất rõ chỉ có mình mình sống một thế giới.
Những cơn say triền miên của Chí thực ra là con đường duy nhất mà Chí có thể tìm đến để quên đi hiện thực bị bỏ rơi như vậy. Khi hắn còn ngẩn ngơ bởi những thức nhận thì bát cháo hành của Thị Nở đến, mang cho hắn đủ những cung bậc cảm xúc dồn dập trong tâm trí hắn, buồn bã, tiếc nuối, ngạc nhiên, xúc động,…
Sự trỗi dậy lên cao nhất là khi khát vọng được sống cho ra sống, sống hòa nhập và gắn bó với mọi người, khát khao thèm lương thiện lại quay trở lại với Chí tựa như cái ngày hắn còn trẻ, còn thuần nông như xưa ấy.
Không còn là con quỷ dữ làng Vũ Đại nữa, Chí bây giờ là một con người có tính người, nói ra khát vọng nhỏ nhoi với thị: “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”, “Hay mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.”. Lời nói hiền lành, mang theo ý vị trân trọng, thậm chí là đầy khát khao và mong chờ hồi đáp của Thị Nở. Cả Mị và Chí Phèo đều có sự thức nhận, từ những điều nhỏ nhất cho đến những suy nghĩ, hành động lớn lao để rồi chuyển hóa thành khát vọng.
Những tác động bên ngoài đều bình dị, vẫn diễn ra, chỉ là Mị và Chí đều tự khóa chặt đôi tai, làm mờ đôi mắt để tự cô lập mình với thế giới bên ngoài, để quên đi hiện thực và phó mặc cho số phận định đoạt. Nhưng mọi điều có thể qua đi, chỉ có bản chất là ở lại. Bản chất của Mị là tự do, là cô gái tràn sức sống.
Bản chất của Chí là hiền lành, chất phác, thuần hậu hệt như đất. Nên, sự thức tỉnh luôn trực chờ trong họ, chỉ cần một tác động nhỏ thôi, ví như sắc màu và thanh âm bình dị của cuộc sống, ví như hương thơm của thứ cháo hành loãng và nhạt toẹt cũng khiến họ trở mình, tìm đến quá khứ, “sống” lại quá khứ ấy và mơ, và khát vọng cho tương lai. Sự hồi sinh trong hai nhân vật, dưới ngòi bút hai nhà văn đều là sự tự giải thoát khỏi đau khổ, là bản chất vĩnh hằng của con người khi lâm vào đường cùng mạt lộ.
Sự hồi sinh của Mị và Chí Phèo góp phần thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm. Tô Hoài và Nam Cao, những nhà văn chân chính, thực sự đã trở thành những “kẻ nâng giấc mơ”, nâng đôi cánh của bản chất thuần lương, đôi cánh của khát vọng bay cao. Và hai nhà văn, hai tác phẩm không chỉ nâng cánh cho Mị, cho Chí Phèo mà còn nâng bước cho những đôi chân đang mệt mỏi, tuyệt vọng ngoài kia, truyền cho người đọc sức mạnh tinh thần để tiếp tục sống, tiếp tục ngắm nhìn và cảm nhận cuộc đời dù là trong gian khó.
Số 10: So sánh sự thức tỉnh của Chí Phèo và Mị
Tô Hoài và Nam Cao được xem là hai cây bút xuất sắc trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Hai ông có đặc điểm chung là ưa thích viết về những người nông dân chịu thương chịu khó bị áp bức bọc lột. Nếu như Nam Cao đi sâu khai thác hình ảnh người nông dân ở làng Đại Hoàng – quê hương nhà văn tiêu biểu là nhân vật Chí Phèo. Thì Tô Hoài lại tìm đến những người nông dân chịu thương chịu khó ở vùng núi Tây Bắc xa xôi tiêu biểu là nhân vật Mị. Hai nhân vật khác nhau nhưng đều có điểm chung là sự hồi sinh thức tỉnh sau những ngày tháng dài sống trong tăm tối.
Nam Cao và Tô Hoài được xem là có sự đồng điều tâm hồn, gặp gỡ về mặt tư tưởng nhân đạo.Khi văn thơ của họ đều là tiếng nói yêu thương cảm thông sâu sắc với số phận con người trong xã hội phong kiến phải chịu áp bức bóc lột đến tha hóa cả bản thân.Tuy nhiên, nhân vật của họ không bị khuất phục trước bóng đen của quyền lực mà ngay cuối đường họ đã được hồi sinh quay trở lại với bản ngã thiện lương.
Trước khi hồi sinh về với ước vọng sống bình thường cả Chí và Mị đều là những người nông dân hiền lành chăm chỉ.Chí Phèo vốn là một anh nông dân chăm chỉ ở đợ cho nhà Bá Kiến.Vì ham mê nhục dục của bà Ba cùng sự ghen tuông đớn hèn của Bá Kiến đã đẩy chàng thanh niên đó vào tù.
Nhà tù thực dân nơi đầy oan trái đã làm tha hóa con người hiền lành của Chí và trả lại một kẻ mất đi cả nhân hình và nhân tính. Trên mặt Chí có biết bao nhiêu là vết sẹo “vằn dọc vằn ngang”, “răng cạo trắng hớn”, “đầu trọc lốc” trông gớm ghiếc. Về nhân tính hắn được xem là con quỷ của làng Vũ Đại chuyên rạch mặt ăn vạ.
Chí đã phải đối mặt với bi kịch đau đớn nhất của cuộc đời cha mẹ ruồng bỏ hắn, dân làng từ chối hắn.Không một ai đón nhận hắn trở về với xã hội.Hắn bị xã hội chối bỏ quyền làm người và coi như “cục thịt thừa” trong làng.
Mị vốn là một cô gái xinh đẹp tài giỏi được biết bao chàng trai ngưỡng mộ muốn có được nàng.Tuy nhiên, người con gái hương sắc vẹn toàn ấy lại rơi vào tấn bi kịch của cuộc đời khi phải làm dâu gạt nợ cho gia đình nhà Thống Lí Pá Tra.Từ đây, cuộc đời của Mị bước vào chuỗi ngày dài tăm tối. Mị sống ở nhà Thống Lí lầm lũi như một con rùa trong xó cửa. Ngày ngày chỉ biết quay sợi, thái cỏ ngựa, lên nương…làm quần quật từ sáng đến đêm.
Đến con trâu con ngựa còn có lúc được nghỉ ngơi ăn cỏ còn đàn bà con gái nhà này không lúc nào được ngơi tay. Vì thế mà lúc nào, mặt cô cũng buồn rười rượi.Mị sống một cuộc sống không biết ngày mai sống mà như đã chết.
Để lý giải cho sự hồi sinh của hai nhân vật Chí Phèo và Mị cả Nam Cao và Tô Hoài đã xây dựng những tình huống kịch tính thức tỉnh nhân vật có bước chuyển biến về suy nghĩ cũng như hành động.
Ta thấy, ở nhân vật Chí Phèo sau những ngày dài chìm trong men rượu. Đêm hôm đấy Chí đã gặp Thị Nở – người con gái xấu như ma chê quỷ hờn của nàng Vũ Đại. Sau cái đêm tình trong vườn chuối đó đã thực sự hồi sinh con người Chí.
Hắn lại nghe thấy những tiếng động thân thương của cuộc sống hàng hàng. Hắn cũng nhớ ra cũng đã có thời mình mơ ước được sống một cuộc sống bình dị.Vợ chồng bảo nhau làm ăn, nuôi lợn, chăn gà xây dựng gia đình hạnh phúc. Một ước mơ về cuộc sống bình thường như bao người khác nay lại được khơi gợi lên từ khi gặp Thị Nở.
Chí lại muốn làm người lương thiện. Hắn đến tìm Bá Kiến và kết thúc cuộc đời đầy đau khổ của mình bằng câu hỏi “Ai cho tao lương thiện”.Mặc dù, Chí Phèo đã chết nhưng trước khi chết hắn đã tìm lại được thiện lương trong con người.
Đối với nhân vật Mị sự thức tỉnh của Mị nằm ở hoàn cảnh Mị trong cái đêm tình mùa xuân ấy và khi nhìn thấy những giọt nước mắt lăn dài trên gò má của A Phủ. Lòng ham sống mãnh liệt được đánh thức trong Mị. Mị nghe thấy tiếng áo gọi bạn tình và cô lại muốn mặc váy, muốn được sửa soạn đi chơi hội như ngày xưa. Những hành động đấy cho thấy chứng tỏ Mị đã đã thức tỉnh.
Sức sống tiềm tang trong con người đã được đánh thức nhờ tiếng sáo.Rồi đến khi cô chứng kiến A Phủ bị cha con nhà Thống Lí hành hạ trói ở cây cột ngoài sân. Cô biết nếu không chạy khỏi đây thì cũng chết dần chết mòn như những người con dâu sống trong nhà Thống Lí trước đây. Nên cô đã cởi trói cho A Phủ và cùng anh chốn đi tìm chân trời mới.
Cả Nam Cao và Tô Hoài đều xót thương và đồng cảm cho nhân vật của mình.Sự hồi sinh về nhân tính cũng như khát vọng sống mãnh liệt của Chí Phèo và Mị là tiếng nói phê phán gay gắt xã hội phong kiến thối nát. Nơi mà con người ta đã dùng quyền lực để áp bức đẩy những người nông dân hiền lành trở nên bị tha hóa mất hết ý thức sống.
Hai truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và Chí Phèo của Nam Cao đã cho ta thấy mặc dù viết về cuộc đời của hai nhân vật có số phận khác nhau. Nhưng điểm chung giữ nhân vật Chí Phèo và Mị là đều có một cuộc đời bất hạnh. Trải qua nhiều đau khổ mất mát họ mới tìm lại được con người trước đây của mình.Sự hồi sinh và thức tỉnh của họ chính là tiếng nói cảm thương của tác giả. Và thể hiện được giá trị nhân văn sâu sắc trong hai tác phẩm.

Tổng kết
Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 10 mẫu so sánh Chí Phèo và Mị chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 11.