Tổng hợp các bài mẫu phân tích vẻ đẹp sông Hương ở trong lòng thành phố Huế trong bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 5 mẫu phân tích vẻ đẹp sông Hương ở trong lòng thành phố Huế chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!
Dàn ý phân tích vẻ đẹp sông Hương ở trong lòng thành phố Huế
I. Mở bài
- Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường: là nhà văn của xứ Huế, ông có sức liên tưởng tưởng tượng dồi dào, lối hành văn mê đắm, ông chuyên viết về bút kí.
- Tác phẩm là tùy bút tiêu biểu cho phong cách văn học của tác giả: sự liên kết thuần thục giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều.
- Hình tượng trung tâm của tác phẩm là hình tượng con sông Hương.
II. Thân bài
Dòng sông tự nhiên
– Ở thượng nguồn:
- Là “bản trường ca của rừng già” “rần rộ dưới bóng cây đại nghìn”, “mãnh liệt qua những ghềnh thác”; lúc lại dịu dàng say đắm dưới dặm dài chói lọi hoa đỗ vũ …”
- “cô gái Di – gan”: phóng khoáng, man dại, tâm hồn tự do, trong sáng, bản tính gan góc, có sức mạnh bản năng
- Sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”.
– sông Hương từ thượng nguồn tới Huế:
- sông Hương “như một người gái đẹp nằm ngủ mơ mòng…” được đánh thức bởi tiếng gọi của tình yêu, mở đầu hành trình gian truân, “tìm kiếm có ý thức” tới với Huế, lần đầu tới với tình yêu một mặt rất nhát gan, một mặt táo tợn chủ động “vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”.
- sông Hương có nhịp chảy chậm rãi, “mềm như tấm lụa” (liên hệ hình ảnh sông Đà như “áng tóc trữ tình”),
- Từ ngã ba Tuần tới chân đồi Thiên Mụ: mang dáng vẻ trầm ngâm lúc chảy qua những lăng tẩm, đổi dòng chuyển hướng liên tục.
- Từ chân đồi Thiên Mụ tới lúc gặp Huế: “vui hẳn lên”, “kéo một nét thẳng” vì tìm đúng đường về
- Giáp mặt Huế, sông Hương ko gặp Huế ngay nhưng mà “uốn một cánh cung …tình yêu” như một người con gái bẽn lẹn, ngại ngùng.
– Trong lòng Huế
- Tác giả so sánh sông Hương với những dòng sông nổi tiếng trên toàn cầu, sông Hương chỉ thuộc về một thành thị duy nhất, giống như người con gái thủy chung.
- sông Hương mang tới cho Huế một vẻ đẹp thượng cổ dân dã: “ánh lửa thuyền chài … xưa cũ”, trôi đi chậm như một mặt hồ.
- Người con gái đắm say tình tứ lúc bên người mình yêu, người con gái tài hoa “tài nữ đánh đàn trong đêm khuya”.
– Từ biệt Huế ra biển:
Như một người con gái lưu luyến, thủy chung từ biệt người yêu.
=> Tác giả chủ yếu cảm nhận vẻ đẹp sông Hương từ góc độ tình yêu khiến sông Hương hiện lên như một người con gái chung tình hết lòng vì tình yêu.
Dòng sông lịch sử
- sông Hương là một nhân chứng lịch sử của Huế, của quốc gia: “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người người hùng Nguyễn Huệ”, chứng kiến những mất mát đau thương của các cuộc khởi nghĩa thế kỉ XIX, …
- sông Hương như một công dân có ý thức trách nhiệm thâm thúy với quốc gia: “biết hiến đời mình để làm nên chiến công”,…
- Là một người con gái người hùng: cùng gắn bó với Huế qua nhiều trận đánh đấu người hùng trong thời kì trung đại, tới cách mệnh tháng Tám,…
Dòng sông văn hóa
- sông Hương là “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”: toàn thể âm nhạc cổ điển Huế, những bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều và bản Tứ đại cảnh đều được sinh thành trên sông nước sông Hương.
- Là người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya: ko bao giờ lặp lại trong cảm hứng của các thi nhân
III. Kết bài
- Nêu cảm nhận về hình tượng dòng sông Hương
- Thẩm định nghệ thuật nổi trội: liên tưởng lạ mắt, sử dụng từ ngữ rực rỡ, văn phong tao nhã, thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng sông Hương.
- Qua tác phẩm ta cảm thu được niềm tự hào tha thiết của tác giả với vẻ đẹp tự nhiên xứ Huế cũng như quốc gia.
Xem thêm:
- Top 15 mẫu phân tích vẻ đẹp của sông Hương chi tiết nhất
- Top 10 mẫu dàn ý vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương chi tiết nhất
- Top 5 mẫu sơ đồ tư duy hình tượng sông Hương chi tiết nhất
- Top 10 mẫu phân tích vẻ đẹp sông Hương ở thượng nguồn chi tiết nhất
- Top 5 mẫu phân tích vẻ đẹp sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế chi tiết nhất
- Top 5 mẫu phân tích vẻ đẹp sông Hương ở trong lòng thành phố Huế chi tiết nhất
Top 5 mẫu phân tích vẻ đẹp sông Hương ở trong lòng thành phố Huế
Số 1: Phân tích vẻ đẹp sông Hương ở trong lòng thành phố Huế
“Ai đặt tên cho dòng sông?” là một bài bút ký nổi tiếng của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Trong bài kí này, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ca ngợi vẻ đẹp của con sông Hương và cũng chính là ca ngợi vẻ đẹp của con người Huế. Nhà văn miêu tả vẻ đẹp của con sông Hương bằng tất cả tình cảm đắm say tha thiết và đầy tự hào của mình, nhất là khi nhà văn mô tả hình ảnh của con sông Hương khi chảy vào kinh thành Huế.
Sông Hương khi chảy vào thành phố được tác giả miêu tả bằng một lối văn trữ tình, hướng nội, độc đáo và tài hoa. Với cái nhìn tinh tế, đầy cảm xúc và đầy sáng tạo của nhà văn, dòng sông Hương khi chảy vào thành phố Huế hiện lên với những đặc trưng riêng của nó mà không có dòng sông nào có được. Khi chảy vào thành phố thân yêu, sông Hương như tìm thấy chính mình, nên “vui hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”. Từ đó, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”, rồi sông Hương được nhà văn nhân hóa, “sông Hương nhìn về phía đó và nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần lên nền trời, nhỏ nhắn như những vầng trăng non”.
Và đến khi “giáp mặt thành phố ở cồn Giá Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng sang đến cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Với sự so sánh độc đáo này, nhà văn đã làm nổi bậc tính dịu dàng, trầm mặc của con sông Hương khi chảy vào thành phố”. Và hơn nữa để làm nổi bật tính chất này, nhà văn đã so sánh sông Hương cũng “‘giống như sông Xen của Pari, sông Đa- nuýp của Budapest; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông”. Nhưng sông Hương đã tạo cho thành phố Huế một nét độc đáo riêng mà không có thành phố hiện đại nào trên thế giới có được: “Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừ cổ thụ tỏa lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”.
Sông Hương khi chảy qua thành phố được tác giả cảm nhận dưới nhiều góc độ: có khi nhà văn nhìn sông Hương dưới góc độ hội họa: sông Hương và những chi lưu của nó tạo nên những đường nét tinh tế làm nên vẻ đẹp của cố đô; có khi nhà văn cảm nhận sông Hương bằng âm nhạc: sông Hương đẹp như điệu slow chậm rãi, sâu lắng, trữ tình; có khi nhà văn cảm nhận sông Hương bằng cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình đầy lãng mạn: “sông Hương là người tình dịu dàng và chung thủy”.
Điều này được tác giả diễn tả trong một đoạn văn thật thú vị, đầy sáng tạo, với một cảm quan nghệ thuật độc đáo: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về phía chính bắc, ôm lấy đảo cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vàng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt theo hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình”. Và cũng bằng cảm quan nghệ thuật, tác giả đã có phép so sánh và nhân hóa tuyệt vời: “Riêng với sông Hương” vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thật bất ngờ biết bao. Có một cái gì đó rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hóa nó lên, tôi gọi đó là nỗi vương vấn. Cả một chúi lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tự tình, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để có một lời thề trước khi về biển cả…”.
Như vậy, dưới cái nhìn và sự cảm nhận đầy tinh tế, đầy nghệ thuật, dòng sông Hương hiện lên qua đôi mắt và tâm hồn của nhà văn, nó không còn là một dòng sông bình thường nữa mà nó là một cô gái dịu dàng đi tìm người yêu chung thủy của mình với một tình yêu sâu lắng, đắm say, tha thiết.

Số 2: Vẻ đẹp sông Hương trong lòng thành phố Huế
Ngay từ khi đọc nhan đề, ở người đọc đã vang lên câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng sông” – câu hỏi có dáng dấp ngẩng ngơ rất thi sĩ. Từ thoáng ngẩn ngơ này, bao nhiêu ấn tượng về cái đẹp của sông Hương sẽ ùa về trong tâ, trí, khơi lên mạch viết dạt dào cảm xúc về “nhan sắc” thiên phú của dòng nước êm đềm chảy qua Huế cố đô. Vang lên những lần khác trong tác phẩm, câu hỏi biến thành một nỗi suy tư thâm trầm, đánh động bao vốn liếng văn hóa tích tụ trong người viết và cũng dòi hỏi nó phải được hiện diện trên trang giấy. Vậy đó, ta đang nói đến những mạch cảm hứng lớn đã dẫn dắt nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đến và đi với sông Hương, để rồi tiếp nữa, làm một cuộc viễn du vào lòng muôn dộc giả, đóng vai người truyền cảm hứng cho họ bộc lộ tình yêu xứ sở hết sức thiết tha của mình.
Sau khi làm “bản trường ca của rừng già” và “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn” ở khúc thượng nguồn, thành “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” ở ngoại vi thành phố Huế, sông Hương chính thức chảy vào trong thành phố Huế.
Dưới góc nhìn địa lí, sông Hương giáp mặt với Huế ở Cồn Giã Viên, uốn mình một đường cong chảy vào thành phố Huế. Lưu tốc của sông giảm hẳn do có sự hiện diện hai hòn đảo nhỏ và những chi lưu mang nước đi khắp thành phố. Vì thế sông trôi thật chậm như một mặt hồ yên tĩnh.
Dưới góc nhìn tài hoa và mê đắm của Hoàng Phủ Ngọc Tưởng, sông Hương hiện lên với gương mặt riêng. Sông chảy theo hướng tây nam – đông bắc, “kéo một nét thẳng thực yên tâm” “như tìm đúng đường về”, như người con gái đã tìm thấy bến đỗ của tình yêu, vui tươi và yên tâm. Dáng người con gái ấy “mềm mại như dáng lụa”, mềm như “tiếng vâng không nói ra của tình yêu” vừa duyên dáng và ý nhị. Cái nhìn ấy của Hoàng Phủ không chỉ đơn giản là cái nhìn quan sát, khám phá mà là cái nhìn mê đắm của chàng trai dành cho người con gái. Hai bên bờ sông có đủ những cảnh đẹp: xa – gần, cổ kính – bình dị, sang trọng – mộc mạc của cuộc sống cần lao: “những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Tiếp theo đó là dáng nước. Trong cái nhìn của Hàn Mặc Tử, nhịp điệu của sông nước là nhịp buồn:
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Trong cái nhìn Tố Hữu là nhịp của những tình nghĩa:
“Hương giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta, vẫn ngày đêm tự tình”
Với Thu Bồn lại là nhịp lắng đọng:
“Con sông dùng dằng, con sông không chảy”
So với con sông ở Lê-nin-grát, sông Nê- va, tác giả lại càng thấy nhớ, thấy quý điệu chảy lặng lờ. Bởi điệu chảy của sông Hương là điệu tâm hồn, là nhịp sống chậm, là những giây phút vừa sống vừa cảm nhận, vừa lắng nghe. Nhìn con sông xứ người mà thêm yêu con sông xứ mình. Tác giả đã thực sự trở thành một tri kỉ của sông Hương, hiểu ngọn ngành khí chất của nó.Theo tác giả, sông Hương đã thật “tâm lí” khi “trôi chậm, thực chậm” qua kinh thành Huế, như để an ủi người ta đừng quá sầu muộn về sự biến đổi vô thường của cuộc đời, về sự vèo qua chóng mặt của thời gian. Dòng nước sông đã lặng tờ một cách cố tình để muốn những ánh hoa đăng trong đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về qua Huế “bồng ngập ngừng như muốn đi muốn ở” . Bằng cách trôi rất riêng đó của mình, sông Hương như muốn nhắc người ta rằng cuộc đời này có rất nhiều cái đáng vương vấn. Rồi nữa, nếu không nhờ sự phát hiện đầy tính chất đồng điệu của tác giả đối với sông Hương, mấy ai biết rằng việc sông Hương đột ngột đổi dòng ngay khi vừa chia tay Huế là thuận theo một lí do rất tình cảm, rất “người”: chẳng qua nó muốn gặp lại Huế “để nói một lời thề trước khi về biển cả”. Ở đây có đến ba tháu độ chí tình cùng “hợp lưu” với nhau: chí tình của sông Hương đối với Huế, chí tình của con người Huế trong tình yêu và chí tình của chính tác giả dành cho sông Hương, dành cho cả mảnh đất xưa gọi là Châu hóa. Suy cho cùng nếu không có cái chí tình của tác giả thì cái chí tình của sông Hương không thể trở thành một “khách thể tinh thần” gay ấn tượng sâu đậm đến vậy!
Nếu biết cất tiếng người, hẳn sông Hương sẽ nói rằng nó đã thực sự yên tâm khi chọn trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường để hóa thân. Có lẽ chính nhà văn cũng nhận thấy, cũng hiểu niềm tin cậy đó, nên từng câu văn của ông bay bổng, diễm ảo lạ thường. Nhiều lúc độc giả có cảm tưởng ngôn từ trong bài bút kí không phải là của tác giả dùng để miêu tả sông Hương mà chính là ngon từ của sông Hương đang hát lên bài ca cho mình. Ngôn từ ấy trôi chảy hết sức tự nhiên, nếu có “luyến láy” thì cũng “luyến láy” một cách tự nhiên bởi chất hào hoa, đa tình vốn đã là cái gì thuộc về căn cốt của người viết rồi. Thiên bút kí đưa đến rất nhiều thông tin mà đọc lên vẫn thấy thanh thoát là nhờ thế. Rất nhiều trải nghiệm của một đời viết luôn gắn bó với con người, dân tộc và đất nước đã được đưa vào đây. Yêu sông Hương nhưng tình yêu ấy không ngăn cản ta yêu những dòng sông khác có trên trái đất. Và ngược lại, niềm thích thú được quan sát dáng nét độc đáo của những dòng sông thuộc các vùng khác nhau lại làm tươi mười trong ta nỗi rung động bổi hồi rất đặc biệt trước dòng sông quê hương đã nuôi lớn cuộc đời mình.
Số 3: Cảm nhận cẻ đẹp sông Hương trong lòng thành phố Huế
Nếu như sông Đà trong “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân nổi bật với vẻ đẹp hung bạo, hùng vĩ thì sông Hương trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc lại mang một vẻ đẹp trữ tình, dịu dàng. Trước khi vào với thành phố Huế, sông Hương đã phải trải qua một hành trình đầy gian truân và thử thách trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả. Khi đến với thành phố Huế, sông Hương thực sự đã được là chính mình và để lại nhiều dấu ấn riêng biệt cho cố đô.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn hóa xứ Huế trong việc khảo cứu các đối tượng để phục vụ các lĩnh vực văn học, văn hóa. Ông là nhà văn chiến sĩ có phong cách nghệ thuật độc đáo và là người có công đưa thể kí Việt Nam phát triển lên đến đỉnh cao. “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một trong tám bài kí xuất sắc nhất của Hoàng Phủ Ngọc Tường và được xuất bản lần đầu năm 1986.
Khi chảy vào thành phố Huế, sông Hương như tìm thấy mình khi gặp thành phố thân yêu, nó vui hẳn lên giữa những bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long. Dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hương Tây Nam – Đông Bắc”, tự “uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng sang đến Cồn Hến khiến dòng sông mềm hẳn đi” như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Sông Hương duy nhất thuộc về một thành phố, nó là niềm tự hào của xứ Huế và của con người Huế bởi nó đem một nét đặc trưng riêng mà không dòng sông nào có được. Sông Hương đánh thức được linh hồn dân tộc, nó khác hẳn với các dòng sông khác ở cảnh lập “lòe trong sương đêm những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ”. Sông Hương thật yên bình là bởi ở đó còn có hình ảnh của những con người mưu sinh. Sông Hương trôi đi “chậm, thực chậm” như không muốn rời khỏi thành phố yêu quý để lại một mặt hồ yên tĩnh. Khi chảy trong lòng thành phố Huế, nó còn đem đến “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, nó “ngập ngừng như muốn đi muốn ở”.
Không chỉ nhẹ nhàng như một điệu “slow” tình cảm, sông Hương còn được cảm nhận rất riêng trong sự tìm tòi thú vị của nhà văn. Sông Hương và những chi lưu của nó đã tạo nên những nét cổ kính của cố đô bởi những nhánh sông đào mang nước của sông Hương “tỏa đi khắp phố thị với những cây đa, cây cửa”. Sông Hương như người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, khiến cho nhà thơ có những liên tưởng đến với cảnh được ngồi trên thuyền lênh đênh, nghe ca Huế trên dòng sông lấp lánh ánh trăng bởi nhà văn đã nhiều lần thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày. Sông Hương chảy vào thành phố bỗng làm cho Huế đẹp một cách trầm lặng và kín đáo bởi sông Hương là dòng sông của âm nhạc, của thơ ca, của lịch sử và nó gắn liền với vẻ đẹp của con người xứ Huế.
Sông Hương về với Huế như người con gái đi được nửa cuộc đời và tìm được tình nhân đích thực của mình cho nên nó có chút e thẹn và kín đáo của người con gái đang yêu. Dưới ngòi bút điêu luyện của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương được nhìn nhận ở nhiều phương diện khác nhau và mang vẻ đẹp của toàn thành phố rất đỗi thơ mộng, trữ tình.
Qua những cảm nhận tinh tế và sâu sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường ta có thể thấy sông Hương đã được tiếp cận và miêu tả ở nhiều góc độ khác nhau khi chảy vào trong thành phố Huế. Có thể thấy, sông Hương chính là đối tượng để tác giả bộc lộ tâm tình với con người xứ Huế. Chắc hẳn, nhà văn phải yêu thiên nhiên và con người nơi đây lắm thì mới có được những cảm nhận vô cùng tinh tế và sâu sắc như vậy.

Số 4: Phân tích vẻ đẹp sông Hương ở trong lòng thành phố Huế
Sông Hương ở hạ nguồn khác với sông Hương lúc còn ở trên đại nghìn. Vẻ đẹp của sông Hương trước lúc vào thành thị Huế là cái đẹp mềm mại của một người con gái đang phô khoe những đường cong tuyệt mĩ. Bằng nghệ thuật so sánh, nhà văn đã ví sông Hương như “người gái đẹp đang ngủ mơ mòng thì được người bạn tình mong đợi tới đánh thức”. Với lối so sánh đấy, dòng chảy uốn lượn của con sông, những khúc quanh của nó hiện lên như những đường cong trên thân thể của một người thiếu nữ đương thì xuân sắc: “sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”.
Về mặt địa lý, hành trình tới với “người yêu mong đợi” của “người gái đẹp” này khá gian truân và nhiều thử thách lúc nó phải vượt qua Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán. Nhưng chính trong quá trình đấy, con sông lại như có dịp phô khoe tất cả vẻ đẹp của mình – vẻ đẹp gợi cảm của người thiếu nữ đi ra từ “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” : “qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở thành xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”.
Có thể thấy, bằng một lối hành văn uyển chuyển, tiếng nói nhiều chủng loại và giàu hình ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh động và thu hút những khúc quanh, ngã rẽ của con sông. Mỗi đường đi nước bước của sông Hương gắn liền với những địa danh không giống nhau của xứ Huế được nhà văn dành cho một cách diễn tả riêng. Nhờ đó nhưng mà hành trình về xuôi của dòng sông ko đơn điệu, nhàm chán nhưng mà trái lại nó xoành xoạch biến hóa khiến người đọc đi từ ngạc nhiên, thú vị này tới bất thần, khoái cảm khác. Có những câu văn giàu chất họa tới mức cứ ngỡ như đường cọ của người họa sĩ đang đưa những nét vẽ về sông Hương trên bức tranh tự nhiên xứ Huế (“vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán… vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc”). Lại có câu văn gợi một nét mơ hồ với nhiều liên tưởng và xúc cảm rất thích : “sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”.
Thủ pháp nhân hóa và so sánh được sử dụng liên kết với hệ thống ngôn từ giàu xúc cảm và hình ảnh cũng góp phần đáng kể vào việc khắc họa một dòng sông thơ mộng, trữ tình. Nó làm cho cảm nhận về con sông như người con gái đẹp càng trở thành rõ nét và gợi cảm : sông Hương “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ” trước lúc “xuôi dần về Huế”; sông Hương như con người biết tự làm mới mình, trang điểm cho mình đẹp hơn trước lúc gặp người yêu nhưng mà nó mong đợi : “vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở thành xanh thẳm”; sông Hương như “tấm lụa” mềm mại trên thân thể người thiếu nữ…
Tóm lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã “vẽ” lên bằng chất liệu ngôn từ cái dáng điệu yêu kiều và rất tạo hình của sông Hương lúc nó ở ngoại vi thành thị Huế. Nhà văn ko chỉ tái tạo lại một cách chân thực dòng chảy địa lý tự nhiên của con sông nhưng mà quan trọng hơn biến cái thủy trình đấy thành “hành trình đi tìm người yêu” của một người con gái đẹp, duyên dáng và tình tứ. Đây cũng chính là cảm nhận riêng, lạ mắt và rất rực rỡ của nhà văn về sông Hương trước lúc nó chảy vào lòng thành thị thân yêu.
Đi giữa tự nhiên, sông Hương cũng chuyển mình ngày đêm bên những lăng tẩm, thành quách của vua chúa thời Nguyễn. Con sông hiền hòa ở ngoại vi thành thị Huế, tới đây, như đang nép mình bên “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch”. Chảy bên những di sản văn hóa đấy, con sông như bổng trở thành nghiêm trang hơn, nó như khoác lên mình tấm áo “trầm ngâm” mang cái “triết lí cổ thi” của cổ nhân. Dòng sông hay chính là dòng chảy của lịch sử vẫn dẻo dai chảy qua năm tháng và đang vọng về trong ngày hôm nay.
Trên hành trình của một con sông mềm mại như lụa, nhà văn đã “hướng ống kính máy quay” ra ko gian xung quanh hai bên bờ sông. Hình ảnh thu được là ko gian văn hóa Huế trình bày ở cảnh sắc tự nhiên và những lăng tẩm đền đài của vua chúa thời Nguyễn : “sông Hương trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách… Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời Tây Nam thành thị : sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
Vậy là, sông Hương đi trong vẻ đẹp của cảnh sắc tự nhiên Huế và chính nó lại là tấm gương phản chiếu nét đẹp của phong cảnh đất trời hai bên bờ sông. Không có sông Hương, những ngọn đồi ở ngoại vi Huế vẫn có vẻ đẹp riêng nhưng vẻ đẹp đấy sẽ mất đi cái long lanh, cái đa sắc màu và ko còn những “điểm cao đột khởi” xuất hiện như một điểm nhìn văn hoá, thưởng thức. sông Hương chính là “trung tâm trạng”, là vong hồn của tự nhiên cảnh vật.
Cuối cùng, sông Hương cũng tới nơi nhưng mà nó cần tới, cũng gặp được “thành thị tương lai” nhưng mà nó mong đợi: thành thị Huế. Có nhẽ vì thế nhưng mà con sông “tươi vui hẳn lên”. Như đã tìm đúng đường đi, sông Hương cập bến thành thị thân yêu giữa những “thuyền bãi xanh lè của vùng ngoại thành Kim Long” để rồi “giáp mặt thành thị ở cồn Giã Viên”. Tới đây, con sông giống như một cô gái đẹp nhát gan, dịu dàng nghiêng mình “chào” Huế : “…sông Hương đã uốn một cánh cung rất nhẹ sang tới cồn Hến”, “như một tiếng vang ko nói ra của tình yêu”. Giống như sông Xen ở Pari, sông Đa- nuýp ở Bu- đa- pét, “sông Hương nằm ngay giữa lòng thành thị yêu quý của mình”.
Miêu tả dòng sông giữa lòng thành thị, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chọn kênh tiếp cận là âm nhạc. Ở góc độ này, sông Hương chính là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Trong tiếng Anh, “slow” tức là chậm và sông Hương như một nhạc điệu trữ tình chậm rãi chỉ dành riêng cho Huế nhưng mà thôi. Có thể thấy, nhà văn đã tinh tế lúc nhìn ra một đặc trưng của Hương giang. So với các dòng sông khác ở Việt Nam và toàn cầu, lưu tốc của sông Hương ko nhanh. Điều này đã được nhà văn lý giải từ đặc điểm địa lý : “những chi lưu đấy cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước làm cho sông Hương lúc đi qua thành thị đã trôi đi chậm, thực chậm cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”.
Để làm nổi trội hơn cái đặc trưng này, nhà văn đã liên tưởng, so sánh sông Hương với sông Nêva – con sông chảy băng băng lướt qua trước cung điện Petecbua cũ để ra bể Ban-tích. Lưu tốc của con sông này nhanh tới mức “ko kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngơ ngẩn trông theo”.
Tuy nhiên, tất cả sự lý giải và so sánh nêu trên chưa lột tả được hết ý nghĩa của cái mệnh đề nhưng mà nhà văn đã nói chung về sông Hương lúc nó chảy giữa lòng thành thị : “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Mượn câu nói của Hêraclít – nhà triết học Hi Lạp, trong một cách nói thật hình ảnh “khóc suốt đời vì những dòng sông trôi quá nhanh”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem lại một kiến giải khác, hết sức thú vị và lạ mắt về lưu tốc của dòng sông nhưng mà ông yêu quý. Đó là cách lý giải từ “trái tim” : sông Hương chảy chậm, điệu chảy lững lờ là vì nó quá yêu thành thị của mình, nó muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành thị thân yêu trước lúc phải dời xa. Đó là tình cảm của sông Hương với Huế hay chính là tình cảm của nhà văn với sông Hương, với xứ Huế mộng mơ ? Có nhẽ là cả hai !
Viết về sông Hương giữa lòng thành thị, Hoàng Phủ Ngọc Tường ko quên một nét đẹp văn hoá đặc trưng gắn liền với dòng sông thơ mộng này. Đó là những đêm trình diễn âm nhạc cổ điển Huế trên dòng sông Hương. Ở góc nhìn âm nhạc này, tác giả gọi sông Hương là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Ai đã từng có dịp tới Huế thưởng thức nền âm nhạc Huế, được xem các nghệ sĩ trình diễn âm nhạc trên sông vào những đêm khuya mới thấy hết vẻ đẹp của âm nhạc và màu sắc văn hoá đặc trưng ở nơi đây. Toàn bộ nền âm nhạc đấy, trong cảm nhận của tác giả, chỉ thực sự là chính nó lúc “sinh thành trên mặt nước” của Hương Giang “trong một khoang thuyền nào đó, giữa những tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Ở đây có cái thú vị, cái sắc điệu riêng trong cách trình diễn âm nhạc của người Huế nhưng cũng có quy luật của nghệ thuật trình diễn trên ko gian sông nước.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã một lần nữa khẳng định mối quan hệ gắn bó ko thể tách rời giữa sông Hương và nền âm nhạc cổ điển Huế. Đây chính là văn hoá Huế nói chung và vẻ đẹp của sông Hương nói riêng, vẻ đẹp hiếm thấy ở bất kì một dòng sông nào ở trong nước cũng như trên toàn cầu.
Khi dời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc. Tuy nhiên, do đặc điểm địa lý ở quốc gia ta (hồ hết mọi dòng sông đều chảy về hướng đông để đổ ra biển) nên thủy trình của con sông đã phải thay đổi. Nó phải chuyển dòng sang hướng đông và tương tự sẽ lại đi qua một góc của thành thị Huế ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đó là đặc điểm địa lý tự nhiên của dòng sông. Nhưng trong con mắt của người nghệ sĩ tài hoa, khúc ngoặt đấy lại là bộc lộ của nỗi “vương vấn”, thậm chí có chút “lẳng lơ kín đáo” của người yêu thủy chung và chí tình. Nhà văn tưởng tượng, tưởng tượng sông Hương như nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước lúc đi xa. Đây đúng là một phát hiện, một liên tưởng thú vị, lạ mắt và đậm màu sắc văn học của tác giả về dòng sông thân yêu của xứ Huế. Hương giang vốn đã đẹp, nay lại càng đẹp hơn, trọn vẹn hơn trong cảm nhận của người đọc. Một vẻ đẹp hài hòa giữa hình dáng bên ngoài với phần tâm hồn, tâm linh sâu thẳm bên trong.
Qua những cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông Hương lúc chảy vào thành thị Huế, có thể nhận thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận và mô tả dòng sông từ nhiều ko gian, thời kì không giống nhau. Ở mỗi điểm nhìn, mỗi góc độ, nhà văn đều trình bày một cảm tưởng thâm thúy và khá mới mẻ về con sông đã trở thành biểu tượng của xứ Huế. Từ trong những cái nhìn đấy và qua giọng điệu của các đoạn văn, ta thấy bàng bạc một tình cảm yêu quý, gắn bó tha thiết, một niềm tự hào và một thái độ trân trọng, giữ gìn của nhà văn đối với những vẻ đẹp tự nhiên và đậm màu sắc văn hóa của dòng sông quê hương.
Số 5: Vẻ đẹp sông Hương trong lòng thành phố Huế
Nếu sông Đà trong “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân nổi bật bởi vẻ đẹp dữ dội, hùng vĩ thì sông Hương trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc lại mang vẻ đẹp trữ tình, dịu dàng. Trước khi vào kinh thành Huế, sông Hương đã phải trải qua một hành trình gian nan, thử thách trong nhãn quan tinh tế và lãng mạn của tác giả. Đến thành phố Huế, sông Hương trở mình và để lại nhiều dấu ấn riêng cho vùng đất Cố đô.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn hóa đến từ Huế trong việc nghiên cứu các đề tài phục vụ cho lĩnh vực văn học và văn hóa. Ông là một nhà văn chiến sĩ có phong cách nghệ thuật độc đáo và có công đưa nền văn học viết Việt Nam phát triển lên đỉnh cao. “Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông” là một trong tám tập bút ký hay nhất của Hoàng Phủ Ngọc Tường và được xuất bản lần đầu năm 1986.
Chảy vào thành phố Huế, sông Hương như tìm lại chính mình khi gặp thành phố thân yêu, trở nên sống động giữa những bãi biển xanh ngắt của vùng ngoại ô Kim Long. Dòng sông “vẽ một khúc thẳng êm đềm theo hướng Tây Nam – Đông Bắc”, “uốn một cánh cung thật hiền về phía Cồn Hến, khiến dòng sông mềm mại” như một lời “xin vâng” của tình yêu ngầm. Sông Hương chỉ thuộc về một thành phố đã khiến người dân Huế, Huế tự hào vì nó mang một nét riêng mà không một dòng sông nào có được. Sông Hương đánh thức hồn dân tộc, nó được phân biệt với những dòng sông khác bởi cảnh “lấp lánh trong sương đêm, ánh lửa thuyền chài của một hồn xưa”. Sông Hương êm đềm vì ở đó có hình ảnh những con người đang sinh sống. Sông Hương chảy “thật chậm, thật chậm” như không muốn rời xa thành phố thân yêu, để lại một mặt hồ yên ả. Khi chảy qua trung tâm thành phố Huế, nó cũng mang một “giai điệu chậm rãi dành riêng cho Huế”, “khúc mắc như muốn đi và ở lại”.
Không chỉ ngọt ngào như một luồng không khí “trôi chậm” đầy cảm xúc, sông Hương còn được cảm nhận rất riêng trong sự khám phá thú vị của nhà văn. Sông Hương và các phụ lưu của nó đã tạo nên nét cổ kính của cố đô bởi những nhánh rỗng chở nước của sông Hương “tỏa khắp phố với cây đa, cây cổng”. Sông Hương như một người tài nữ thổi đàn về đêm, khiến nhà thơ liên tưởng đến cảnh ngồi trên thuyền lênh đênh, nghe ca Huế trên dòng sông lấp lánh ánh trăng bởi nhà văn đã nhiều lần thất vọng khi nghe. Ca nhạc Huế trong ngày. Sông Hương chảy qua thành phố bỗng khiến Huế đẹp một cách lặng lẽ, kín đáo bởi sông Hương là dòng sông của nhạc, của thơ, của lịch sử và nó gắn liền với vẻ đẹp của người dân xứ Huế.
Sông Hương về với Huế như một cô gái đã đi nửa đời người, tìm được người yêu đích thực nên có chút e thẹn, dè dặt của một cô gái đang yêu. Dưới ngòi bút tài tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương được nhìn nhận trên nhiều phương diện và mang vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình cho toàn thành phố.
Qua cảm nhận tinh tế và sâu sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường, chúng ta có thể thấy sông Hương đã được tiếp cận và miêu tả từ nhiều góc độ khác nhau khi chảy vào thành phố Huế. Có thể thấy, sông Hương chính là đối tượng để tác giả gửi gắm tình cảm của mình với người dân xứ Huế. Chắc chắn người viết phải rất ưu ái thiên nhiên và con người nơi đây mới có những cảm nhận tinh tế và sâu lắng đến vậy.

Tổng kết
Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 5 mẫu phân tích vẻ đẹp sông Hương ở trong lòng thành phố Huế chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 12.