Top 15 mẫu phân tích vẻ đẹp của sông Hương chi tiết nhất

574
Top 15 mẫu phân tích vẻ đẹp sông Hương chi tiết nhất
Top 15 mẫu phân tích vẻ đẹp sông Hương chi tiết nhất
4.7/5 - (14 votes)

Tổng hợp các bài mẫu phân tích vẻ đẹp sông Hương trong bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 15 mẫu phân tích vẻ đẹp của sông Hương chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Dàn ý phân tích vẻ đẹp sông Hương

I. Mở bài

– Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm

+ Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên viết về bút kí với những sáng tác kết hợp nhuần nhị giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với những suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú, uyên bác thuộc nhiều lĩnh vực đời sống.

+ Ai đã đặt tên cho dòng sông là bài bút kí trữ tình đặc sắc thể hiện rõ phong cách tác giả của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

– Giới thiệu hình tượng sông Hương: để lại cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ khó quên về một con sông trong mối quan hệ gắn bó máu thịt với cội nguồn, lịch sử, văn hoá và con người xứ Huế.

II. Thân bài

Luận điểm 1: Trong mối quan hệ với cội nguồn, sông Hương là dòng chảy trải qua hành trình nhiều thăng trầm, gian truân từ dãy núi Trường Sơn về biển cả

– Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương như một bản trường ca của rừng già mang những giai điệu, tiết tấu vừa hùng tráng, vừa dữ dội, và đã sống một nửa cuộc đời… như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại… bản lĩnh gan dạ… tâm hồn tự do và trong sáng.

– Ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở.

– Vừa ra khỏi vùng núi, về với vùng đất châu thổ êm đềm, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục… Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc… nó chuyển hướng sang tây bắc… đột ngột vẽ một hình vòng cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”.

– Sông Hương khi chảy vào thành phố thân yêu, nó như đã tìm được đường về, tìm thấy chính mình. Nó “vui hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”. Dòng sông “kéo một nét thẳng” theo hướng tây nam – đông bắc, cuối đường “nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng… in ngần trên nền trời… như những vành trăng non”, rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến khiến dòng sông mềm mại đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Sông Hương về đến Huế đã mang được linh hồn mảnh đất, con người nơi đây.

– Rời khỏi kinh thành, sông Hương “chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến… xa dần thành phố để lưu luyến ra đi… nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”. Sông Hương là người tình dịu dàng và thủy chung với Huế. Trong cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương và Huế chẳng khác nào một cặp tình nhân, quyến luyến, ngập ngừng, dùng dằng tiếc nuối bởi sông Hương làm đẹp cho Huế, và Huế cũng khiến sông Hương mang vẻ đẹp riêng không lẫn với bất kì dòng sông nào.

=> Nhờ sức tưởng tượng phong phú trong việc xây dựng những hình ảnh so sánh tài hoa, độc đáo, kết hợp tư duy nghiên cứu với tư duy nghệ thuật, tác giả đã cung cấp cho người đọc những tri thức, hiểu biết thú vị về sự hình thành của sông Hương. Điều quan trọng, bằng cách thể hiện như vậy, người viết đã làm cho con sông không còn là vật thể thiên nhiên vô tri vô hồn mà trở thành một nhân vật có tâm hồn, sức sống mãnh liệt như con người qua những thăng trầm của cuộc đời.

=> Hành trình sông Hương từ nguồn ra biển khiến ta liên tưởng đến hành trình sinh tồn của một con người, của một miền đất, của một dân tộc.

Luận điểm 2: Sông Hương mang vẻ đẹp “sử thi” bi tráng khi “đã sống hết những thế kỉ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó”.

– Tác giả tỏ ra là người am hiểu lịch sử khi công phu tra cứu, lật tìm trong tư liệu lịch sử những sự kiện có liên quan đến dòng sông. Từ đó mà có liên tưởng thật chính xác và độc đáo:

+ Sông Hương như người dũng sĩ “đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”, “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”.

+ Sông Hương vừa là chứng nhân vừa là nạn nhân “lịch sử bi tráng của thế kỉ XX với máu của những cuộc khởi nghĩa”.

+ Sông Hương là chủ nhân những “chiến công rung chuyển” trong cách mạng tháng Tám, mùa xuân Mậu Thân.

+ Sông Hương đồng hành cùng dân tộc trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống Pháp và chống Mĩ.

=> Quả thật, từ cách tiếp cận riêng của Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đọc có cơ hội thấy hiểu sông Hương như một con người “biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công” góp phần viết nên trang sử vẻ vang của xứ Huế nói riêng, của cả dân tộc nói chung.

Luận điểm 3: Sông Hương còn bộc lộ vẻ đẹp nên thơ, gợi cảm trong quan hệ với nền văn hoá cố đô Huế

– Sông Hương là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn cho thơ ca nhạc hoạ “dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”.

– Gắn với âm nhạc cổ điển xứ Huế: sông Hương là “một tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”; “điệu chảy lặng lờ” của dòng sông được nhà văn liên tưởng như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế” làm sông Hương khác hẳn những con sông mà nhân vật “tôi” từng đặt chân đến khi sống xa xứ.

– Trong thi ca, sông Hương có khả năng tự tạo nên “một dòng thi ca” với những sắc thái trữ tình đa dạng, muôn màu qua hồn thơ Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Du, Tố Hữu…

– Sông Hương chứa đựng vẻ đẹp biến ảo, phản quang nhiều màu sắc của nền trời tây nam Huế “sớm xanh, trưa vàng chiều tím” như một bức hoạ của Tạo hoá.

– Con sông xứ Huế còn ẩn chứa vẻ đẹp “trầm mặc” khi lặng lẽ chảy dưới chân những rừng thông u tịch với những lăng mộ âm u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn; vẻ đẹp triết lí, cổ kính khi đi trong âm hưởng tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga; vẻ “vui tươi” lúc qua những bãi bờ xanh biếc vùng ngoại ô Kim Long; vẻ “mơ màng… sương khói” khi rời xa thành phố.

Luận điểm 4: Gắn bó máu thịt với con người Huế, sông Hương trở thành dòng sông – đời người

– Sông Hương sống ân nghĩa với xứ sở đã sinh thành, cưu mang mình bằng cách đem đến dòng nước mát lành và bồi đắp những lớp phù sa màu mỡ để cây cỏ mỡ màng, hoa trái ngọt lành.

– Sông Hương như một “người tình mong đợi đến đánh thức người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại”. Cách so sánh tài hoa cho thấy người viết đã nhìn dòng sông và thành phố Huế như cặp tình nhân lí tưởng Kim – Kiều trong một kiệt tác văn học dân tộc thời trung đại. Cặp tình nhân ấy luôn trong hành trình tìm kiếm, đuổi bắt hào hoa và đam mê.

* Đặc sắc nghệ thuật

– Thể loại bút kí

– Văn phong hướng nội, súc tích, tinh tế và tài hoa

– Sức liên tưởng phong phú, vốn hiểu biết phong phú trên nhiều lĩnh vực

– Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng các biện pháp tu từ (so sánh, nhân hóa…)

– Có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan

III. Kết bài

– Đoạn trích mang đậm phong cách của thể tùy bút vì chất tự do phóng túng và hình tượng cái “tôi” tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một hồn thơ thực sự trong văn xuôi với trí tưởng tượng lãng mạn và những xúc cảm sâu lắng.

– Từ tình yêu say đắm với dòng sông quê hương, từ những hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lý, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương trong một văn phong tao nhã, hướng nội, qua đó người đọc nhận ra tình yêu và sự gắn bó tha thiết của một trí thức yêu nước với cảnh sắc quê hương và lịch sử dân tộc.

Xem thêm:

Top 15 mẫu phân tích vẻ đẹp dòng sông Hương

Số 1: Phân tích vẻ đẹp sông Hương

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là tác phẩm xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết về sông Hương. Tác phẩm khắc họa hình tượng một con sông thơ mộng, trữ tình của Huế.

Ở thượng nguồn, sông Hương như một người con gái man dại của núi rừng. Sự man dại ấy được so sánh như “trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn” khi chảy qua những miền hiểm trở, sông Hương mang những vẻ dữ dội đặc trưng. “Mãnh liệt qua ghềnh thác” nhưng cũng có lúc sông Hương như một cô gái đầy nữ tính dịu hiền “dịu dàng, say đắm”.

Ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả sông Hương như một người con gái Di-gan man dại. Nhờ có rừng già, sông Hương đã được hun đúc một bản tính tự do phóng khoáng sức mạnh ấy được chế ngự bởi cấu trúc địa hình lãnh thổ nơi đây, để khi đi khỏi, bắt gặp xứ Huế mộng mơ, sông Hương “nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ”.

Khi tả sông Hương ở đồng bằng, Hoàng Phủ Ngọc Tường như ngụ ý tả tỉ mỉ sông Hương “nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục”. Từ ngã ba Tuần đến điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc rồi dần dần ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế.

Vì gặp Huế, sông Hương trong lòng tác giả như thay đổi tâm tình đột ngột “sông như chế ngự được bản năng của người con gái” cảnh đẹp, có đường nét và hình khối “nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo” sông Hương còn mang màu sắc vô cùng đẹp “sớm xanh trưa vàng chiều tím”.

Lại còn vẻ đẹp trầm mặc u tịch đó là vẻ đẹp mang tính triết lí cổ thi khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông nơi chùa Thiên Mụ. Vậy đấy, một cô gái hoang dại như những nàng Di-gan, nay đã mang lại mỡ màu phù sa cho xứ Huế. Sông Hương thực đã thay tính đổi nết vì gặp được nơi này.

Đặc biệt đoạn miêu tả sông Hương đi qua thành phố miêu tả đầy ấn tượng. Những chiếc cầu bắc qua dòng sông thật đẹp “nhỏ nhắn như những vầng trăng non” dòng sông như không muốn xa thành phố. Nó cứ như vậy “để nói một lời thề trước khi về biển cả” ấy như một tấm lòng của người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ xở.

Sông Hương còn được nhìn dưới góc độ văn hóa, như một âm nhạc cổ điển của Huế. Như một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya… Quả thật, âm nhạc Huế đã sống trên mặt nước nơi con sông này. Sông Hương còn gắn với lịch sử dân tộc, “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, nó là điểm tựa bảo vệ biên cương thời Đại Việt. Nó đi vào thời cách mạng tháng Tám như một chứng nhân lịch sử quan trọng. Gắn với lịch sử Huế, lịch sử dân tộc.

Nói chung, sông Hương đã nêu bật được vẻ đẹp của một ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Xem thêm:

Số 2: Cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn chuyên viết về bút kí, một loại văn giàu tính chân thực của đời sống. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự keets hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy tổng hợp đa chiều đa diện. Sự nghiệp văn chương của ông để lại rất nhiều trong đó tập bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” 1986 là một tập văn tiêu biểu. Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được lấy làm tựa đề cho tập bút kí nói trên là một tác phẩm đặc sắc của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phần đầu bài bút kí này tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp đa chiều đa diện của dòng sông Hương xứ Huế trong mối quan hệ với địa lí lịch sử thi ca. Tìm hiểu sâu sắc bài bút kí chúng ta sẽ thấy được sắc diện và tâm hồn của dòng sông Hương thơ mộng.

Bài viết mang tính bút kí nên nhà văn khi giới thiệu về dòng sông Hương tác giả bắt đầu từ phía thượng nguồn của dòng sông. Một nhận xét chung của tác giả về dòng sông Hương khi ở thượng nguồn “là một bản trường ca của rừng già”. Bản trường ca này thể hiện hai cung bậc mạnh mẽ hoang dại và dịu dàng say đắm.

Trước hết vì dòng sông sinh ra giữa rừng già giữa đại ngàn nên nó mang âm hưởng của vùng núi cao vực sâu, nó ‘rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn’. Tuy nhiên “cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài cói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Cũng có lúc nó “phóng khoáng và man dại như cuộc đời của cô gái Digan” ở vùng nước Nga xa xôi.

Ngoài những dáng vẻ nói trên, cái nhìn tổng thể của nhà văn là sông Hương ở phía thượng nguồn có “tâm hồn sâu thẳm”, “đã đóng kín ở cữ rừng và ném chìa khóa trong những hang đá’ như giữ nguyên điều bí ẩn của mình. Qua vài nét phác thảo của nhà văn sông Hương phía đại ngàn có sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng đầy cá tính bí ẩn.

Khác với sông Hương ở thượng nguồn, sông Hương khi về phía đồng bằng ở ngoại vi thành phố Huế đã có một hình dáng và một màu sắc mới. Cảm nhận vẻ đẹp sông hương ở ngoại vi thành phố Huế của tác giả là luôn uốn lượn xanh thẳm và trầm mặc.

Khi “ra khỏi vùng núi”, sông Hương “chuyển mình một cách liên tục” nó vòng khúc nó vặn mình, khi thì “theo hướng nam bắc”, khi “sang hướng tây bắc”, khi “về phía đông bắc”, rồi “xuôi dần về Huế”. Về với vùng thấp sông Hương “mềm như tấm lụa xanh thẳm”. Nhìn chung sông Hương khi về phía đồng bằng nó chạy qua những vùng đồi những rừng thông có lăng mộ của các vua chúa với giấc ngủ nghìn năm nên sông Hương có “vẻ đẹp trầm mặc nhất”.

Nếu như sông Hương ở phía thượng nguồn hoang dã man dại thì sông Hương khi về đồng bằng có vẻ đẹp uốn lượn trầm mặc. Đoạn sông Hương chảy qua thành phố Huế được nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường tả một cách cụ thể và tinh tế hơn. Đoạn sông này vừa mang dáng dấp xanh thẳm dịu dàng của đoạn sông ở phía ngoại ô nhưng lại vừa có nét rất riêng của nó là mềm mại dịu dàng yên tĩnh.

Sông Hương “khi giáp mặt thành phố”, nó “vui tươi hẳn lên”. Nét nổi bật của dòng sông qua thành phố là “uốn một cánh cũng rất nhẹ” rồi “mềm hẳn đi” như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Khi đi qua thành phố sông Hương “trôi đi chậm thực chậm cơ hồ chỉ còn là mặt hồ yên tĩnh”. Nếu như liên hệ với dòng sông Neva ở nước Nga xa xôi chảy qua thành phố với tốc độ rất nhanh “không kịp cho lũ hải âu nói điều gì với ban” thì sông Hương lại “chảy lặng lờ” như một “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế” và khi bắt đầu ra khỏi Huế “con sông như ngập ngừng vấn vương” một nỗi lòng. Đúng như nhà thơ Thanh Hải viết:

“Con sông dùng dằng con sông không chảy

Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”

Ở những phần trên của bài bút kí nhà văn đặt dòng sông Hương trong mối quan hệ với những đại ngàn với những lăng tẩm trầm mặc, với thành phố Huế mộng mơ để mà ca ngợi vẻ đẹp của nó. Thì đến đoạn cuối của đoạn trích này nhà văn đã đặt dòng sông trong mối quan hệ với lịch sử và thơ ca của dân tộc, để từ đó nói lên vẻ đẹp mang tính tầm vóc của dòng sông.

Theo tác giả sông Hương có quan hệ với lịch sử dân tộc từ rất lâu đời. Nó là “dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua hùng”, là “biên giới phía nam của tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”, là “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” ở thế kỉ 18, nó gắn với “những cuộc khởi nghĩa bi tráng” của nhân dân ta thế kỉ 19, nó chứng kiến “những chiến công rung chuyển của thời đại cách mạng tháng tám”, nó “cổ vũ nồng nhiệt cho chiến công năm Mậu Thân”.

Không những gắn liền với lịch sử mà sông Hương còn là một dòng sông thi ca. Điều đặc biệt của sông Hương là bất cứ nghệ sĩ nào phản ánh về nó cũng không lặp lại nhau không trùng nhau về ý nghĩa sáng tạo. Đã rất nhiều thi nhân viết về sông Hương với những vẻ đẹp rất khác nhau. Với Tản Đà là “dòng sông trắng lá cây xanh”, với Cao Bá Quát là “như kiếm dựng trời xanh”, với bà huyện Thanh Quan là “bóng chiều bảng lảng”, với Tố Hữu là “dòng sông gắn liền với sức mạnh tâm hồn”.

Với một vốn kiến thức phong phú uyên bác về lịch sử văn hoá văn chương, với một văn phong tao nhã hào hoa tinh tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dựng lên một chân dung về sông Hương với một vẻ đẹp rất đa chiều đa dạng.

Cảm nhận của em về sông hương ở thượng nguồn và ngoại vi thành phô qua Ai đã đặt tên cho dòng sông

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn có phong cách độc đáo và sở trường về thể bút kí, tuỳ bút. Lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường được cấu tạo bởi hệ thống ngôn từ nghệ thuật sang trọng, ám ảnh, đậm chất trữ tình của cái tôi uyên bác, tài hoa.

Ông là một trí thức yêu nước, đã từng gắn bó đời mình với cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ, anh hùng của dân tộc. Để rồi, sau năm 1975, khi đất nước thống nhất, ông đã chắp bút viết tập kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Trong tác phẩm, nhà văn gắn bó lòng yêu nước, tinh thần dân tộc với tình yêu sâu sắc dành cho thiên nhiên đất nước và với truyền thống văn hoá lịch sử lâu đời của dân tộc mà ông đã bỏ công say mê tìm tòi, tích lũy cả một đời người. Tất cả những phẩm chất ấy đã được thể hiện rất rõ qua việc ông tái hiện lại vẻ đẹp của dòng sông Hương như một nhân vật trữ tình, với những nét tính cách phức tạp, biến đổi một cách kì diệu trong không gian thời gian. Tất cả được phô diễn qua những lời văn giàu chất trí tuệ, kết hợp giữa tự sự và trữ tình tài hoa, mê đắm.

Sông Hương hiện ra qua sự kết hợp nhiều góc nhìn khác nhau của Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ địa lý, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật… “hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn mãnh liệt qua những ghềnh thác”. Nhưng rồi cũng có những lúc sông Hương “trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Viết tùy bút, theo Nguyễn Tuân là “lối chơi độc tấu”, “mạch văn tràn chảy tùy theo cảm hứng”. Đặc trưng này xác đáng với những lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả về sông Hương. Nhà văn đã đưa người đọc đến những liên tưởng bất ngờ, khi ông so sánh “Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Ông cho rằng sông Hương là đứa con của rừng già với một tâm hồn tự do và trong sáng, để rồi rừng già đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, “sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”.

Với đôi mắt khảo sát nghiêm túc của nhà địa lí có một tầm văn hoá sâu rộng, kết hợp vốn ngôn từ nghệ thuật phong phú mượt mà giàu chất thi họa, Hoàng Phủ Ngọc Tường tái hiện thủy trình của sông Hương từ vùng trung du trở xuống, nó liên tục chuyển dòng, “theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Nhà văn đã đặt sông Hương vào giữa cảnh quan núi đồi, lăng tẩm, bãi biển vùng ngoại ô tây-nam thành phố Huế, gương mặt Hương Giang trong xanh phẳng lặng tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn dòng sông Hương như một chủ thể có ý thức góp phần tôn vinh thêm vẻ đẹp của xứ Huế. Và trước khi về với Huế, sông Hương trôi lặng thầm giữa một vùng không gian “Bốn bề núi phủ mây phong. Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”. Giữa đám quần sơn lô xô, ở phía tây thành Huế, nơi dành cho giấc ngủ ngàn năm của các bậc vua chúa thời Nguyễn, sông Hương hiện ra với vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi kéo dài mãi “giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. Đến khi sông Hương đổ vào thành phố tương lai của nó, “nó đã kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam-đông bắc…, nó đã thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”. Nhà văn đã dành cho sông Hương một tình cảm trìu mến, thân thương. Có như vậy, ông mới liên tưởng trạng thái sông Hương uốn một cánh cũng rất nhẹ sang cồn Hến như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ biện chứng giữa dòng sông Hương mềm mại với con người xứ Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng như đã góp phần hình thành nên tính cách nết na, ý nhị của người con gái cố đô.

Với một trình độ văn hoá uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh vẻ đẹp của sông Hương với nhiều dòng sông nổi tiếng thế giới như sông Seine của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Nga,… Từ đó mà ông đã tôn vinh vẻ đẹp độc đáo của dòng sông Hương vào buổi đêm về, “vẫn lập lòe trong đêm sương, những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Nhà văn quý điệu chảy lững lờ của sông Hương qua thành Huế. Ông cho rằng “Đây là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy… chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.”

Có thể nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn hoá Huế, ông không chỉ nhìn sông Hương trôi ở trong thì hiện tại, ngày ngày mang phù sa và nguồn nước ngọt trao tặng vô tư cho những cánh đồng Châu Hoà, cho cuộc sống người dân xứ Huế; mà ông còn nhìn sông Hương như là khởi nguồn cho những giá trị tinh thần lịch sử. Sông Hương trong quá khứ qua các triều đại phong kiến vàng son, nó đã từng mang cái tên Linh giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam Tổ quốc nước Đại Việt. Nó đã từng vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ, rồi nó đi suốt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ góp phần làm nên những chiến công lẫy lừng vang dội cả thế giới như lời đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”.

Từ hiện thực kiêu hùng của Huế, mà Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng: “Sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết dưới màu cỏ lá xanh biếc”. Mặt khác, sông Hương cũng là cội nguồn của thi ca nghệ thuật. Có biết bao văn nhân, thi sĩ đã từng rung động với dòng sông Hương như Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố Hữu. Nhà văn đã tin rằng “có một dòng sông thi ca về sông Hương và tôi hy vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”. Tản Đà thấy “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Hàn Mặc Tử thì lại so sánh tôn vinh sông Hương như sông ngân hà: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay”. Thu Bồn nhìn dòng nước lững lờ của sông Hương mà bâng khuâng “con sông dùng dằng con sông không chảy/Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Và với Nguyễn Trọng Tạo, Hương Giang lãng đãng một bầu khí quyển huyền thoại thi ca giúp nhà thơ thăng hoa những vần mê đắm:

“Con sông đám cưới Huyền Trân

Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn

Hèn chi thơm thảo nỗi buồn

Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ

Con sông nửa thực nửa mơ

Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên”

Đất nước Việt Nam có rất nhiều dòng sông chảy qua mọi miền xứ sở, và nó đã kịp chảy vào trong những vần thơ, trang văn tuyệt vời. Bạn đọc từng xót xa với Hoàng Cầm khi nghe tin sông Đuống bị quân thù chiếm đóng. Nhà thơ đã thốt lên: “Sông Đuống trôi đi/Một dòng lấp lánh/Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”. Công chúng yêu văn cũng đã chiêm ngưỡng vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của “Đà Giang độc bắc lưu” qua những “trang hoa” xuất sắc của nhà tuỳ bút hàng đầu Nguyễn Tuân. Giờ chúng ta lại tìm đến với sông Hương-dòng sông chỉ tự thu mình khiêm tốn trong lãnh địa Thừa Thiên Huế, nhưng qua những trang kí tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương hiện ra với những vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, góp phần làm cho Huế trở nên một bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Hơn thế, sông Hương còn là dòng sông lịch sử, văn hoá, thơ ca, nghệ thuật. Nó đã là một phần trong đời sống tâm linh của người Huế trầm mặc, sâu sắc. Câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gợi lên trong miền tình cảm của bạn đọc nhiều băn khoăn về một dòng sông ngỡ là quá quen, hoá ra lại có nhiều bí ẩn cần được khám phá thêm. Có như vậy, chúng ta mới hiểu sâu sắc hơn về quê hương đất nước, tự hào hơn về giang sơn cẩm tú Việt Nam.

Xem thêm:

Số 3: Phân tích vẻ đẹp của sông Hương

“Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ

Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt

Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được

Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư.”

Đó là những câu hát rất thật về vẻ đẹp thơ mộng nhưng cũng rất đôi trầm tư trong bài hát “Huế tình yêu của tôi”. Huế đã gieo vào lòng người những vấn vương, những cảm xúc khó nói nên lời. Mỗi ai khi đến Huế cũng sẽ một lần yêu cái dòng chảy lững lờ nhưng cũng có lúc nhanh của dòng sông Hương mộng mơ ấy. Vẻ đẹp của nó dường như được nhà văn Nguyễn Phủ Ngọc Tường, nhà văn chuyên về bút ký, khắc họa đầy rõ nét trong bài kí đặc sắc “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Tác phẩm qua nhiều yếu tố như cuộc đời, bản sắc văn hóa và hơn hết là thông qua cảnh sắc thiên nhiên đã bộc tả thành công đẹp nên thơ trữ tình và khác biệt trong dòng chảy của sông Hương thơ mộng.

Dòng sông thơ mộng ấy đã có những vẻ đẹp đa chiều từ dòng chảy nơi thượng nguồn. Mang tính lưỡng thể, dòng sông có lúc tưởng chừng như nhẹ nhàng, êm đềm nhưng cũng có lúc dữ dội đến không ngờ. Sự dữ dội và đầy mạnh mẽ khác lạ của sông Hương được Hoàng Phủ Ngọc Tường ví như “một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”. Nhưng chốc nữa, ta lại thấy một dòng chảy khác đầy dịu dàng thơ mộng của nó, sông Hương “trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Một dòng sông vừa phóng khoáng và man dại “như một cô gái Di-gan”. Phải chăng sự biến đổi ấy là do sự tôi luyện của rừng già nơi đây? Sức mạnh của người con gái đã bị chế ngự, “trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Một vẻ đẹp mà chính nhà văn cũng phải thừa nhận sự đa diện của nó. “Người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua”

Trước khi chảy vào lòng thành phố Huế, sông Hương là một “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” chờ người tình đến đánh thức. Để có vẻ ngoài đẹp nhất, sông Hương đã chuyển mình, thay đổi rất nhiều lần trước khi có cuộc gặp mặt với định mệnh đời mình-một thành phố tương lai của nó. Nó đã “uốn mình theo những đường cong thật mềm như tấm lụa tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Nhà văn yêu dòng sông quê mẹ, yêu sự chuyển mình với dáng hình uốn lượn của con sông, tình yêu thốt lên qua những câu văn cũng như Tố Hữu đã nói: “Hương Giang ơi, qua tim ta vẫn ngày đêm tự tình”.Từ một dòng sông dịu dàng, sông Hương trở nên hoạt bát, sống động rồi lại trầm mặc như đang suy tư điều gì khi qua những rừng thông u tịch với những lăng tẩm đồ sộ âm u của vua chúa triều Nguyễn” . Nếu ai đến Huế, thăm thú Khiêm Lăng (lăng vua Tự Đức) mới cảm nhận được vẻ đẹp trầm buồn, cổ kính nơi đây:

“Bốn bề núi phủ mây phong

Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng vạn niên”

Với sự hiểu biết sâu sắc, những so sánh, nhân hóa cùng ngôn ngữ giàu đẹp đầy trang nhã, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm nổi bật cảnh đẹp của sông Hương giữa ngoại vi thành phố Huế.

Vào đến thành phố, dòng sông như bản chất hiền hòa và dịu dàng của người dân nơi đây, cũng mang một vẻ đẹp tĩnh lặng. Sông Hương vui hẳn lên như đã tìm được người tình trong mộng của mình, nó đã vào đến cái thành phố của nó, in bóng cầu Tràng Tiền “chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời nhỏ nhắn như những vành trăng non, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Xuôi về Cồn Hến, dòng sông có sự huyền ảo khiến người đọc nhớ đến vẻ đẹp của ánh trăng trong dòng thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Khác với dòng chảy của những con sông nổi tiếng trên thế giới như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Hương đã giữ cho Huế “trong tổng thể vẫn giữ nguyên vẹn dạng một đô thị cổ, trỉa dọc hai bờ sông”. Nước sông Hương tỏa đi khắp đô thị, dòng sông thơ mộng ấy đã làm cho cố đô Huế như “một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào có được”. Dường như sự thơ mộng, trữ tình của Hương Giang nói riêng và con người Huế, mảnh đất miền Trung này nói chung đã được ngòi bút tài năng, sống động của nhà văn bộc lộ rõ ràng. Cách liên tưởng, sự miêu tả sát đáng: “Đấy là một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế qua trăm ngàn ánh hoa đăng chao nhẹ trên mặt nước như vương vấn một nỗi lòng”.

Quả thật vậy, cái sự vấn vương, thương nhớ và nuối tiếc khi phải rời đi của dòng sông Hương đã được diễn tả bằng ngòi bút nghệ thuật rất đỗi tài hoa. Dưới ngòi bút đó, dòng sông Hương “trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, tiếng đàn vang vọng và đầy níu kéo. Cũng giống như cách dòng chảy rời thành phố rồi vòng lại nhìn ngắm người tình mong đợi của mình một lần nữa rồi mới rời đi. Sự đổi dòng đột ngột như một sự lưu luyến không nỡ rời đi “như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói”. Hay phải chăng là do bản chất thủy chung của Hương Giang lững lờ trôi này đã tồn tại từ xưa cũng như nàng Kiều lưu luyến Kim Trọng: “Còn non, còn nước, còn dài – Còn về, còn nhớ…”

Tóm lại, câu văn trong bút ký này đầy hào hoa, tài năng mới đủ diễn tả rõ nét cái vẻ đẹp trong ngần, mãnh liệt, thơ mộng của Hương Giang. Bài ký qua vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên cũng đủ làm bật lên cái đẹp độc đáo này, toát lên một tình yêu xứ sở, đằm thắm qua cách cảm nhận bình dị mà sâu sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Số 4: Cảm nhận về vẻ đẹp sông Hương

Hoàng Phủ Ngọc Tường được mệnh danh là ông hoàng của thể kí Việt Nam. Những trang kí mà đặc biệt là những trang tùy bút của ông thường đẹp ở lối miêu tả, sâu sắc ở cách cắt nghĩa, lí giải và mãnh liệt cảm xúc. Trong cách viết có sự kết hợp giữa đĩnh đạc, nghiêm cẩn với cái tinh tế, tài hoa, lãng mạn. Ai đã đặt tên cho dòng sông là kết tinh nghệ thuật của ông, tác phẩm đã miêu tả một cách tài hoa vẻ đẹp của dòng sông Hương thơ mộng.

Bằng cách tiếp cận địa văn hóa, tác giả đã phát hiện ra ở sông Hương vẻ đẹp đa chiều. Từ vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên, đến vẻ đẹp chiều sâu văn hóa, tâm hồn con người, từ vẻ đẹp của lịch sử oai hùng đến vẻ đẹp kì diệu, bay bổng lãng mạn trong trí tưởng tượng của tác giả.

Trên phương diện cảnh sắc thiên nhiên, sông Hương cho thấy vẻ đẹp phong phú, đa dạng của nó. Sông Hương khi hùng vĩ ở thượng nguồn, khi lại êm đềm, mơ mộng ở kinh thành Huế. Sông Hương ở thương nguồn vô cùng dữ dội, mãnh liệt, được tác giả ví như một cô gái Di gan, man dại và phóng khoáng. Khi về đến kinh thành Huế, sông Hương lại mang một khuôn mặt khác hẳn, nếu như thượng nguồn cuộn xoáy, mãnh liệt thì tới đây lại dịu dàng, tha thướt, đầy chất mộng mơ đặc trưng của xứ Huế. Dòng sông Hương, mềm hẳn đi khi bước chân vào kinh thành, những khúc uốn mình, những đường tròn của sông Hương bao quanh Huế đã khiến lòng sông thực sự mềm mại như một tấm lụa để ôm ấp lấy thành phố thân yêu của mình. Màu sắc của sông Hương thay đổi theo từng địa hình mà nó chảy qua: khi chảy qua lòng vực dưới chân núi Ngọc Tản, nước sông trở nên xanh thẳm, còn nhìn phản quang những màu sắc của ngọn đồi phía Tây Nam thành phố thì: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Sự biến đổi đó cho thấy sông Hương như một tấm gương, đồng thời cũng cho thấy vẻ đẹp biến ảo của dòng sông. Không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp hình dạng, màu sắc, vẻ đẹp của sông Hương còn thể hiện qua sắc thái, với hai sắc thái chính là hung bạo và trữu tình. Khi sông Hương sôi nổi, trẻ trung, chủ động, lúc lại trầm mặc, cổ kính như triết lí, như cổ thi. Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên muôn hình muôn vẻ, đa dạng màu sắc. Trên phương diện cảnh sắc thiên nhiên dù ở thượng nguồn hay khi chảy trong lòng thành phố Huế, sông Hương đều chứng tỏ nó là sự sáng tạo hoàn mĩ của tạo hóa, một món quà vô giá mà thiên nhiên đã ban tặng riêng cho đất Huế.

Không chỉ dừng lại ở việc miêu tả vẻ đẹp của dòng sông trên phương diện tự nhiên, mà tác giả còn đi sâu khám há vẻ đẹp trong chiều sâu văn hóa của nó. Trước hết sông Hương mặc đặc điểm tâm hồn của con người xứ Huế. Bằng quá trình nghiên cứu, tìm hiểu vô cùng nghiêm túc tác giả đã nhận thấy một điều rất đặc biệt: “có một cái gì rất lạ với tự nhiên và giống với con người nơi đây”. Như thế có nghĩa là sông Hương không đơn thuần chỉ là vẻ đẹp tự nhiên mà nó còn là kết đọng rõ nét và đầy đủ của tất cả vẻ đẹp con người xứ Huế. Dòng chảy cuộn chảy cũng như con người khỏe khoắn của xứ Huế, còn dòng chảy dịu êm lại là vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng của con người nơi đây. Chỉ với con sông này nhưng ta thấy đầy đủ tính cách, tâm hồn Huế, vừa mạnh mẽ táo bạo, vừa dịu dàng, sôi nổi, trẻ trung.

Sau vẻ đẹp cốt cách, tâm hồn con người đất Huế, tác giả tiếp tục chứng minh chiều sâu văn hóa trên phương diện âm nhạc và thi ca. Dòng sông Hương trong lòng thành phố với tốc độ chậm chãi, khoan thai như một điệu slow tình cảm, chính nhịp điệu này đã nói lên cái thần, cái hồn rất riêng của nhã nhạc cung đình Huế, đó là sự khoan thai, dìu dặt, trang trọng. Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả còn khai thác dòng sông Hương ở phương diện thi ca. Bằng vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng, tác giả đã chứng minh vô cùng thuyết phục, sông Hương đã tạo nên dòng thi ca riêng cho văn học. Từ dòng sông lung linh biến ảo màu sắc tác giả đưa người đọc đến dòng sông sức mạnh khí thế trong thơ Cao Bá Quát. Từ không khí bảng lảng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan tác giả lại đưa người đọc đến với dòng sông ân tình, thắm thiết trong thơ Tố Hữu. Bằng những dẫn chứng thuyết phục, đa dạng tác giả đã cho thấy vẻ đẹp đa chiều của sông Hương.

Sau vẻ đẹp sông Hương trên góc nhìn văn hóa, Hoàng Phủ Ngọc Tường tiếp tục nhìn nhận sông Hương ở bề dạy lịch sử. Sông Hương ghi tên mình từ thuở sơ khai, từ thời đại các vua Hùng nó được coi là dòng biên thùy xa xôi của đất nước. Trong thời kì trung đại, sông Hương mang tên Linh Giang, có nhiệm vụ bảo vệ biên giới tổ quốc. Trong cuộc cách mạng tháng Tám, Huế là một trong ba nơi giành thắng lợi vẻ vang nhất, cách mạng tháng Tam đã phủ lên sông Hương một lớp hào quang chói lọi với chiến công lật đổ thành trì chế độ phong kiến và sự đô hộ của Pháp…. Điểm nhanh các mốc lịch sử theo chiều thời gian đã cho thấy bề dày lịch sử của dòng sông song hành với vận mệnh phát triển của đất nước. Nhìn vào những mốc son cũng như những đau thương mất mát của dòng sông này ta thấy lịch sử Huế và con người Huế: đau thương nhưng quật khởi, bi tráng nhưng cũng vô cùng hào hùng, hiển hách.

Qua các phương diện cảnh sắc thiên nhiên, chiều sâu văn hóa, bề dày lịch sử, sông Hương đã hiện lên vô cùng đẹp đẽ, đáng chân trọng. Nhưng để ấn tượng về dòng sông Hương thêm đậm nét, tác giả còn tái hiện nó trong trí tưởng tượng của mình với diện mạo, tâm hồn riêng. Toàn bộ trường liên tưởng của tác giả về sông Hương được quy chiếu về hình ảnh người con gái Huế rất Huế, bởi vậy hình ảnh dòng sông càng trở nên đẹp đẽ hơn.

Khi dòng sông Hương ở thượng nguồn, dòng chảy dữ dội, mãnh liệt đi qua trí tưởng tượng của tác giả là một cô gái Digan phóng khoáng, man dại. Bằng trí tưởng tượng phong phú, tác giả đã biến dòng sông Hương ở thượng nguồn thành một người con gái khỏe khoắn, tràn đấy sức sống, mang vẻ đẹp thuần khiết vẫn còn đôi chút hoang dã.

Bắt đầu vào thành phố, sông Hương có sự thay đổi toàn diện, nhanh chóng về cả diện mạo và tính cách. Sự thay đổi mạnh mẽ của sông Hương theo tác giả chính là cuộc gặp gỡ giữa sông Hương với người tình mong đợi của nó – Huế. Hình ảnh so sánh độc đáo đã cho thấy sông Hương phải trải qua sự chờ đợi, thử thách trong khoảng thời gian rất dài, “phải nhiều thế kí đi qua”. Chính vì vậy sông Hương được đền đáp bằng mối tình đẹp đẽ đầy mơ mộng. Sau sự lay thức đầy ân tình của người tình mong đợi, sông Hương bừng tỉnh để sống trọn vẹn với tất cả cung bậc cảm xúc. Ra khỏi vùng núi, sông Hương đổi hưởng liên tục, một cách thật chủ động, mạnh mẽ, với trí tưởng tượng của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì đó chính là biểu hiện của một cá tính sôi nổi, trẻ trung, táo bạo của trái tim yêu nồng nhiệt. Vượt qua những trở ngại, nhìn thấy thành phố sông Hương tươi tắn hẳn lên, bởi đã được gặp người tình của mình. Đằng sau sự táo bạo, sôi nổi lại là một người con gái hết sức dịu dàng, nữ tính. Bởi vậy, sau khi đã chính thức chảy trong lòng thành phố, sông Hương trở về với vẻ dịu dàng, tha thướt của mình. Sông Hương dịu dàng, e ấp, dồn hết cả sự tinh tế, tao nhã trong tiến đàn để dành tặng cho thành phố bản đàn lúc đêm khuya, lúc này sông Hương chính là một tài nữ đang gảy đàn. Vì mang nặng ân tình với xứ Huế, nên khi phải rời xa thành phố, dòng sông Hương còn đột ngột đổi dòng, để gặp lại thành phố lền cuối tại góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Khi buộc phải ra đi, song Hương rời đi với lời thề sâu sắc: “Còn non còn nước còn dài, con về con nhớ …” mà tác giả cảm nhận trong câu hò vang vọng khắp lưu vực sông Hương.

Bằng ngòi bút tinh tế, tài hoa, bằng trí tưởng tượng phong phú, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm tái hiện một cách chân thực và đầy đủ nhất vẻ đẹp của sông Hương. Khung cảnh xứ Huế đã làm ta thêm yêu con người, mảnh đất nơi đây.

Số 5: Phân tích vẻ đẹp con sông Hương

Văn học hiện đại Việt Nam với sự xuất hiện của nhiều cây bút tên tuổi đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Trong đó, nhắc tới những người viết tuỳ bút thực tài, không ai có thể quên Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cả hai ông đều khao khát kiếm tìm và diễn tả cái đẹp. Nếu Nguyễn Tuân ưa tìm vẻ đẹp dữ dội, mạnh mẽ, hùng tráng thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại tìm về với những nét đẹp dịu dàng, thơ mộng. Ai đã đặt tên cho dòng sông? đã thể hiện rõ điều đó. Vốn am hiểu đời sống sâu sắc trên mọi lĩnh vực kết hợp với sự tài hoa, liên tưởng phong phú, tác giả đã đem đến cho người đọc những ấn tượng khó quên về hình tượng “dòng sông Hương”, dòng sông chỉ thuộc về một thành phố duy nhất.

Trong lí luận văn học, hình tượng văn học được định nghĩa: “là những khách thể đời sống được nhà văn tái hiện cụ thể, sinh động trong tác phẩm của mình. Bất cứ vật gì, hiện tượng gì cũng có thể trở thành một hình tượng văn học”. Cho nên sông Hương cũng là một hình tượng nghệ thuật như vậy. Với vị trí là hình tượng trung tâm của Ai đã đặt tên cho dòng sông?, sông Hương đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả như một sinh thể có hồn. Dòng sông ấy sinh động, đẹp đẽ, và toả sáng trong tác phẩm ở ba góc độ: một dòng sông của tự nhiên, một dòng sông của văn hoá và một dòng sông của lịch sử. Tất cả đã đem đến cho người đọc những cảm nhận vừa quen thuộc gần gũi, vừa mới mẻ thiêng liêng về vẻ đẹp của dòng sông này.

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

 Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.

(Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)

Vâng, đó là những vần thơ đầy xúc động của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khi viết về “Đất Nước” của nhân dân với hình ảnh hàng trăm dòng sông đẹp, những vẻ đẹp khác nhau nhưng đó là dòng sông của đất nước, viết về sông Hương cũng chính là viết về đất nước với tình yêu mãnh liệt, nồng nàn nhất trong nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hình ảnh ấy đã đi vào bao áng cổ thi của dân tộc. Để rồi đến với bài tuỳ bút Ai đã đặt tên cho dòng sông?, nó lại mang vẻ đẹp lấp lánh khác thường.

Sông Hương qua cảnh sắc thiên nhiên, từ thượng nguồn chảy về biển cả, mỗi khúc sông, mỗi khúc ngoặt lại đem đến những ấn tượng rõ nét, khắc sâu trong tâm tưởng độc giả về dòng sông đất nước. Trước khi về đến châu thổ, sông Hương nằm ẩn dưới những cánh rừng đại ngàn, qua dãy Trường Sơn hùng vĩ. Đó là thượng nguồn – nơi rừng già đã hun đúc cho nó vẻ đẹp khác lạ. Nếu trước đây, nhắc đến sông Hương là người đọc nghĩ ngay đến vẻ thơ mộng, lãng mạn thì đến với tuỳ bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương hoàn toàn mạnh mẽ, đẹp một cách “dữ dội”. Nó như “bản trường ca của rừng già” với những tiết tấu “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn xoáy”. Nhưng cũng có lúc nó “dịu dàng”, “say đắm”. Sông Hương trở thành một bản đàn với muôn vàn nốt trầm, nốt bổng như ngân nga vang vọng giữa đại ngàn Trường Sơn.

Trong cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không phải là sự vật vô tri vô giác mà là một con người, cái mà ông gọi là “tâm hồn sâu thẳm”. Sống hơn nửa cuộc đời với chốn Trường Sơn gió lộng “đại ngàn”, rừng cây u tịch, sông Hương mang trong mình tâm hồn phóng khoáng và man dại, bản lĩnh gan dạ của một cô gái Di gan tự do, trong sáng. Nhưng khi ra khỏi rừng già, dòng sông Hương như một người con gái e dè, “đóng kín phần tâm hồn sâu thẳm của mình ở cửa rừng” để trở nên dịu dàng, sắc sảo, trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của vùng đồng bằng xứ sở.

Ngay từ những trang viết đầu, người đọc đã thấy nét tài hoa trong ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bằng óc quan sát tinh tế, trí tưởng tượng phong phú cùng ngôn ngữ gợi cảm, tác giả đã khắc họa được vẻ đẹp mạnh mẽ, trẻ trung, đầy cá tính của dòng sông gợi trong lòng người đọc những liên tưởng kì thú, hấp dẫn.

Trải qua muôn vàn thử thách, cuối cùng sông Hương đã tìm về châu thổ – nơi có thành phố Huế thơ mộng – nơi mà chỉ nó thuộc về. Tìm về với Huế là một “cuộc tìm kiếm có ý thức để đến nơi gặp gỡ thành phố tương lai của nó. Sức hấp dẫn của cuộc hành trình toát lên ở những câu văn tuỳ bút đầy tài hoa, lịch lãm của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Dòng sông giống như “người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại. Và chỉ khi “người tình mong đợi” đến đánh thức, người con gái ấy mới trẻ trung lại và giàu khao khát của tuổi thanh xuân. Từ ngã ba tuần, sông Hương theo hướng Nam Bắc rồi chuyển hướng Tây Tây Bắc, đột ngột rẽ một vòng thật tròn về phía Đông Bắc ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Chỉ cần đọc những cách đi của sông Hương, người đọc có thể cảm nhận sông Hương thật đẹp: vừa mềm mại, uyển chuyển, vừa duyên dáng, dịu dàng. Thật bất ngờ, hình ảnh so sánh sông Hương “mềm như tấm lụa và những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi” càng tô đậm vẻ duyên dáng đó. Khi chảy qua những rừng thông với những lăng tẩm của vua chúa thời Nguyễn, sông Hương trở nên trầm mặc như triết lí, như cổ thi. Còn khi tới ngoại ô Kim Long thì dòng sông bỗng như tươi hẳn lên. Phải chăng, cuộc hành trình tìm kiếm Huế đã tới nơi, tới đích.

Gặp gỡ Huế, có ai hình dung ra dòng sông ấy sẽ vui như thế nào không. Có lẽ chỉ có Hoàng Phủ Ngọc Tường mới hiểu mà miêu tả tường tận, chi tiết đến vậy. Nhưng ai cũng có thể hiểu: sông Hương và Huế đã hòa làm một, sông Hương làm cho Huế trở nên mộng mơ còn Huế tôn lên vẻ đẹp trầm tư, sâu lắng của sông Hương. Từ xa, dòng sông đã nhìn thấy chiếc “cầu trắng” “nhỏ nhắn như vành trăng non”. Phía ấy là một niềm vui háo hức mà không ồn ào đang chờ đợi sự xuất hiện của sông Hương. Dòng sông uốn một cánh cung rất nhẹ “như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dùng tiếng nói của tình yêu để tả cảnh nhưng đây là ngôn ngữ của một cô gái Huế e lệ, kín đáo và duyên dáng. Diễn tả vẻ uốn lượn của dòng sông bằng một so sánh như thế quả là rất tinh tế, tài hoa mà cũng thật tình tứ. Sông Hương gặp Huế và được những nhánh sông đào mang nước “toả đi khắp phố thị”. Từ đây, sông Hương giảm hẳn lưu tốc, đi thực chậm “cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”. Tác giả đã so sánh dòng chảy chậm rãi của sông Hương với dòng chảy tốc độ của sông Nêva để quý hơn nữa điệu “slow” lặng lờ, của dòng nước. Điệu chảy trữ tình ấy khiến bao người mê đắm:

Con sông dùng dằng con sông không chảy

Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.

(Thu Bồn)

Sông Hương tiếp tục đi, rời xa Huế nhưng “ngập ngùng muốn đi muốn ở”. Ra khỏi Huế, sông Hương ôm lấy đảo cồn Hến để lưu luyến ra đi nhưng “sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói”, nó đột ngột rẽ ngoặt lại để gặp thành phố yêu dấu lần cuối. Sự lưu luyến này gợi liên tưởng đến sự bịn rịn của đôi tình nhân trước giờ li biệt. Bởi thế, khúc ngoặt bất ngờ của sông Hương được hình dung như một “nỗi vương vấn không cả chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Cái nhìn đắm say và đa tình của người viết khiến sông Hương hiện ra như một người tình dịu dàng, chung thuỷ của đất cố đô.

Nhờ sức tưởng tượng phong phú, cảm nhận tinh tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả thành công vẻ đẹp của dòng sông Hương qua cảnh sắc thiên nhiên. Trong mắt tác giả, sông Hương sao đẹp vậy. Không chỉ là một sinh thể có hồn, mà cuộc hành trình tìm gặp Huế của nó tượng trưng cho cuộc tìm kiếm của người con gái với một tình yêu đích thực trong truyện cổ tích. Qua đó, chúng ta hiểu thêm về hành trình sống của một con người, một cuộc đời, một dân tộc khó khăn để có vinh quang.

Nhắc đến Huế là nhắc tới vùng đất giàu văn hoá truyền thống, thể hiện bản sắc dân tộc. Bởi vậy, dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không tách rời với đời sống văn hoá của người cố đô. Sông Hương chăng những tạo nên vẻ đẹp của cảnh quan thiên nhiên mà còn góp phần tạo nên vẻ đẹp tâm hồn người nghệ sĩ nói riêng và con người Huế nói chung. Cô gái Huế đẹp nhất, duyên dáng kín đáo nhất trong chiếc áo màu điều lục. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, đó là màu của sương khói dòng sông, vẻ đẹp trầm mặc, như triết lí, như cổ thi của đời sống phải chăng đã tạo nên nét đẹp riêng rất dịu dàng, trầm tư của con người xứ Huế.

Không chỉ dừng lại ở việc phản ánh mối quan hệ của sông Hương với người dân Huế mà Hoàng Phủ Ngọc Tường còn khẳng định: “Có một dòng thi ca về sông Hương”. Đó là nguồn cảm hứng sáng tạo cho các nghệ sĩ. Mỗi cây bút lại có những rung cảm riêng về vẻ đẹp và sức hấp dẫn của dòng sông này. Đó là “Dòng sông trắng – lá cây xanh” trong thơ Tản Đà, là “thanh kiếm dựng trời xanh” của Cao Bá Quát hoặc nỗi quan hoài vọng cổ với bóng chiều bảng lảng… Nhưng tất cả đều thấy rằng: sông Hương rất đẹp, đẹp từng vẻ đẹp riêng mà mỗi người chỉ khám phá được một ít. Còn vẻ đẹp lớn vẫn ẩn sâu trong “tâm hồn” vô hình của dòng sông. Điều đó là cơ sở để người nghệ sĩ luôn luôn hướng tới, tìm kiếm và diễn tả cái đẹp của cuộc sống mà trước hết là cái đẹp của dòng sông.

Ai đã đến Huế và lắng nghe khúc nhạc nào của Huế trên dòng Hương Giang chưa? Có lẽ là có rất nhiều. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vậy, ông thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày và trên sân khấu nhà hát. Bởi theo tác giả, “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được hình thành trên mặt nước của dòng sông này”. Như vậy, sông Hương với vẻ đẹp kì diệu sinh ra để dành riêng cho nghệ thuật, cho thi ca, cho nhạc họa. Hôm nay, chính nó lại khơi nguồn cho sự ra đời của một bài tuỳ bút đặc sắc Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Sông Hương mang trong mình vẻ đẹp thiên nhiên, văn hoá đất nước thì lẽ đương nhiên, sông Hương cũng gắn liền với nhiều thời kì lịch sử thăng trầm của dân tộc. Nó đã trở thành một thiên sử thi đầy hấp dẫn với những chiến công vang dội. Trong địa dư của Nguyễn Trãi, sông Hương vốn tên là Linh Giang – một dòng sông biên thuỳ đã đấu tranh oanh liệt để bảo vệ biên giới phía Nam Đại Việt. Như vậy, sông Hương tiềm tàng trong chiều sâu lịch sử của nó sức mạnh quật cường của dân tộc từ những ngày khai sơn, phá thạch, mở thành Hoá Châu. Sau này, nó tiếp tục soi bóng kinh thành Phú Xuân của Nguyễn Huệ. Vừa là chứng nhân, vừa là nạn nhân của lịch sử bi tráng thế kỉ XIX, sông Hương là chủ nhân của những chiến công rung chuyển trong Cách mạng tháng Tám, mùa xuân Mậu Thân. Sông Hương không chỉ là bản hùng ca tấu tên bao chiến công oai hùng trong lịch sử, nó còn là nhân chứng nhẫn nại, kiên cường trong những thăng trầm của đời sống. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự biến đời mình làm một chiến công để rồi trở về với đời thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Có lẽ vì thế mà tác giả gọi sông Hương “là sử thi viết dưới màu cỏ lá xanh biếc” tức là sử thi mà rất đỗi trữ tình.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện và khám phá được những vẻ đẹp khác nhau của dòng sông: sông Hương như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá khơi nguồn cảm hứng cho bao thế hệ nghệ sĩ, tạo nên bề dày lịch sử, văn hoá của đất cố đô. Xưa nay nói đến sông Hương và Huế, người ta chỉ nghĩ đến vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng trữ tình:

Đây xứ mơ màng đây xứ thơ.

(Tố Hữu)

Nhưng do tìm hiểu sông Hương từ cội nguồn của nó, do gắn sông Hương với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra vẻ đẹp phóng khoáng, hoang dại, hào hùng của dòng sông thơ mộng này. Sông Hương đẹp dưới ngòi bút tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trở thành dòng sông bất tử chảy mãi trong trí nhớ và tâm khảm của người đọc, bồi đắp thêm cho mỗi người tình yêu quê hương, đất nước.

Số 6: Phân tích vẻ đẹp sông Hương

Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn nặng lòng với xứ Huế mộng mơ, với dòng sông Hương hiền hòa chảy. Có lẽ ông có duyên với mảnh đất và con người nơi đây nên những gì ông viết thường rất bình dị, mộc mạc nhưng lãng mạn và trữ tình. Bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông này” được xem là thành công của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi khắc họa rõ ràng từng đường nét và vẻ đẹp đa chiều của dòng sông Hương. Một vẻ đẹp trầm lắng, dịu dàng, nên thơ và rất mực cổ kính.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông này” được viết theo thể kí, một thể loại có thể ghi chép lại cảm xúc, tâm tư tình cảm, những dòng cảm xúc bất chợt, suy nghĩ bất chợt một cách sâu sắc nhất. Có lẽ chính thể loại này đã khiến cho bài kí đi vào lòng người đọc một cách chân thành như vậy. Vẻ đẹp của dòng sông Hương theo ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường hiện lên một cách đầy ấn tượng, một vẻ đẹp khiến cho người đọc ngỡ ngàng, sửng sốt.

Sông Hương là dòng sông “duy nhất” chảy qua lòng thành phố Huế nên nó mang những nét đẹp riêng mà không có dòng sông nào có được. Hình như Hoàng Phủ Ngọc Tường rất tự hào vì điều này, tự hào với một tình yêu sông Hương đến mê đắm.

Vẻ đẹp dòng sông Hương ẩn hiện dưới ngòi bút tinh tế và một tình yêu tha thiết đã khiến cho nó càng trở nên mê đắm đối với người đọc. Sông Hương được nhìn từ nhiều gốc độ, từ nhiều khía cạnh, từ chiều dài của thời gian và chiều sâu của không gian. Nhưng dù ở góc độ nào thì sông Hương vẫn mang một nét đẹp riêng rất Huế.

Ở vùng thượng nguồn, sông Hương mang một vẻ đẹp không nơi nào có được. Đó là hình ảnh “một cô gái di gan phóng khoáng và man dại” có tâm hồn ‘tự do và trong sáng”. Vẻ đẹp ấy được ngôn ngữ của tác giả ưu ái đã khiến nó đi vào lòng người đọc một cách chân thực nhất. Hoàng Phủ Ngọc Tường còn vẽ lên từng đường nét đầy mê hoặc, sông Hương như “bản trường ca của rừng già” rầm rộ và mãnh liệt nhưng có lúc lại “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của màu đỏ hoa đỗ quyên rừng”. Chỉ một màu hoa đỏ hoang dại, đơn sơ giữa núi rừng ấy đã phần nào làm toát lên vẻ đẹp bình dị nhưng đầy sức ám ảnh của dòng sông hương. Như vậy vẻ đẹp của sông hương ở vùng thượng nguồn là vẻ đẹp mê đắm, hoang daị và không kém phần tinh tế. Có lẽ đây là nét đặc trưng của sông Hương , của Huế.

Và sông Hương được biết đến là dòng sông thuộc về một thành phố duy nhất, chỉ đến với Huế và thuộc về Huế, như một mối duyên ngầm có từ lâu đời. Vẻ đẹp sông Hương là vẻ đẹp vang bóng một nền văn hóa trầm tích, nhiều thăng trầm, nhưng không kém phần dịu dàng và quyến rũ. Hoàng Phủ Ngọc Tường liên tưởng đến sông Hương như “người con gái dịu dàng, đằm thắm, mềm mại trong lòng huế”. Thật tài tình và thật lãng mạn biết bao nhiêu dòng sông của Huế mộng mơ.

Khi sông hương rời thượng nguồn về với thành phố xinh đẹp thì nó trở nên lãng mạn và đắm say. “Cô gái digan” ấy đã “vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẳm, trầm mặc như triết lí, như cfoor thi…cho đến khi gặp được tiếng chuông Thiên Mụ, nghe âm thanh bát ngát tiếng gà, từ ấy sông Hương rạng rỡ như nắng mới, nàng uốn một cánh cung thật nhẹ, đến khi giáp mặt với thành phố, đường cong ấy làm cho nàng mềm hẳn đi, như mọt tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Một đoạn văn nhẹ nhàng và không kém phần tình tứ, đầy duyên dáng của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi miêu tả vẻ đẹp sồng Hương lúc về thành phố. Từng đường nét mềm mại, đầy mê hoặc của sông Hương thực sự khiến người đọc ngỡ ngàng. Với lối viết gần gũi nhưng chân thành, tác giả đã mon men đi sâu vào tâm hồn người đọc những cảm xúc trong trẻo, chân thành nhất.

Sông hương như một “nàng thơ’ đắm mình trong thành phố, và đắm mình trong những trang viết của Hoàng Phù Ngọc Tường.

Sông hương còn là dòng sông chứng kiến biết bao đổi thay của Huế, của những thăng trầm lịch sử “vẻ vang soi bóng kinh thành phú xuân”, “dòng sông của thời gian ngân vang, của lịch sử viết giữa màu cỏ xanh, lá biếc…”. Như vậy, sông Hương không chỉ tồn tại như vậy, nó còn là nhân chứng của lịch sử đất nước, của những tháng năm không thể nào quên đi.

Từ một dong sông hoang dại, phóng khoáng, sông Hương đã trở nên dịu dàng, tài hoa và đầy ý chí kiên cường.

Có lẽ đối với Hoàng Phủ Ngọc tường nói chung, với nhân dân Huế nói chung thì sông Hương chính là một biểu tượng đẹp đẽ nhất tạo nên vẻ đẹp Huế suốt mấy nghìn năm lịch sử.

Bằng ngòi bút tinh tế, cảm xúc chân thành và một tâm lòng yêu thương của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ nên một bức tranh tuyệt đẹp về sông Hương. Một vẻ đẹp rất riêng, rất dịu dàng, rất huế khiến người đọc muốn một lần đến đó tận hưởng.

Bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Số 7: Cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều hình vực. Ông chuyên về thể loại bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí, lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa. Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế 1981, in trong tập sách cùng tên của ông.

Tác phẩm đã miêu tả cảnh quan thiên nhiên sông Hương, sự gắn bó của con sông với lịch sử và văn hoá của xứ Huế, của đất nước. Qua đó nhà văn bộc lộ niềm tự hào tha thiết, sâu lắng dành cho dòng sông Hương, cho xứ Huế thân yêu và cũng là cho đất nước.

Sông Hương nhìn từ cội nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Trong mối quan hệ đặc biệt này, sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội: khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.

Với cái nhìn được nhân hoá, sông Hương tựa cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại với một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Theo tác giả, nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành mà không chú ý tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội, người ta khó mà hiểu hết các vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó đã không muốn bộc lộ.

Như vậy, ở thượng nguồn, sông Hương có thể chất mạnh, toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính. Sông Hương khi chảy về kinh thành Huế lại mang nhiều vẻ đẹp đa dạng, gắn bó với đặc trưng văn hoá, không gian kinh thành Huế. Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.

Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ nét lịch lãm và tài hoa trong lối hành văn của tác giả. Độc giả khó cưỡng một sức hấp dẫn toát lên từ hàng loạt động từ diễn tả cái dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế. Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái đẹp ngủ mơ màng”; nhưng ngay sau khi ra khỏi vùng núi, thì cũng như nàng tiên được đánh thức, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân trong sự “chuyển dòng liên tục”, “rồi vòng những khúc quanh đột ngột”, vẽ một hình cung thật tròn, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, rồi “vượt qua”, “đi giữa âm vang”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”…

Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương có lúc “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh. Tam Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” lúc qua những dãy đồi núi phía Tây Nam thành phố và mang vẻ đẹp trầm mặc khi qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch cho đến lúc bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung khi gặp “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”…

Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa trong đoạn văn đã làm nổi bật một sông Hương đẹp bởi phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế phong phú mà hài hoà.

Sông Hương khi chảy trong Huế, như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những bến bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”, rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói là của tình yêu”. Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, sông Hương cũng giống sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét,… nhưng trong cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông Hương được cảm nhận với nhiều góc độ: nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương “đẹp như điệu Slow” chậm rãi, sâu lắng, trữ tình và với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thuỷ. Điều này được diễn tả trong một phát hiện thú vị của tác giả: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ”. Cũng theo tác giả khúc quanh thật bất ngờ đó, tựa như một “nỗi vương vấn”, và dường như còn có cả “một chút lẳng lơ kín đáo” của tình yêu…

Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc lại mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng, thủa nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”, “nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào thế kỉ mười tám; “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa”, nó chứng kiến thời đại mới với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao chiến công rung chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc sau này…

Sông Hương với cuộc đời và thi ca là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của cuộc đời. Tuy nhiên, điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ: khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Có lẽ chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.

Có thể nói, nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn là tình yêu say đắm với dòng sông được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu trí tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hoá, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.

Trích đoạn bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông đã gợi ra vẻ đẹp của Huế, của tâm hốn người Huế qua sự quan sát sắc sảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông Hương. Ông xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điển sống về Huế, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Bài kí góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương đất nước.

Số 8: Phân tích vẻ đẹp của sông Hương

Từ lâu, xứ Huế nói chung và dòng sông Hương nói riêng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của các nghệ sĩ. Huế không chỉ là một vùng văn hoá đặc sắc mà còn là xứ sở của thơ ca, nhạc, hoạ. Đến Huế, ta vừa được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một vùng thiên nhiên tuyệt mỹ mà tạo hoá đã dày công tạo dựng, vừa được đắm mình trong không khí trầm mặc mang dấu ấn lịch sử của những lăng tẩm, đền đài. Cũng như bao tâm hồn nghệ sĩ khác, Hoàng Phủ Ngọc Tường bị mê hoặc bởi sức hấp dẫn lạ kì của Huế, đặc biệt là dòng Hương giang. Bằng tình yêu và sự hiểu biết sâu sắc về văn hoá, địa lí, lịch sử của con sông thơ mộng này, nhà văn đã sáng tạo thành công một hình tượng đẹp, một bức “điêu khắc bằng ngôn từ” có tên: sông Hương. Tác phẩm hấp dẫn người đọc ngay từ cái tên gọi đầu tiên: “Ai đã đặt tên cho dòng sông ?”.

Sông Hương ở thượng lưu. Sông Hương – “bản trường ca của rừng già”. Thủy trình của Hương giang bắt đầu từ thượng lưu – nơi mà sông Hương, trong cảm nhận của nhà văn, giống như “bản trường ca của rừng già”. Thật vậy, ở nơi khởi nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, con sông mang vẻ đẹp mạnh mẽ với sức mạnh nguyên sơ bản năng: “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”. Những động từ mạnh, những cấu trúc giống nhau được điệp lại liên tiếp đã khiến cho con sông hiển hiện như một khúc ca dài bất tận của thiên nhiên. Nhưng trường ca đâu chỉ có sức mạnh mà trong bản chất của mình nó còn mang chứa yếu tố trữ tình bay bổng. Quả đúng thế, con sông Hương, sau những “rầm rộ”, “cuộn xoáy”, đã trở nên “dịu dàng”, đằm thắm có thể làm “say đắm” bất cứ chàng trai nào khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó “giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.

Sông Hương – “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Không phải là trường ca của “những người đi tới biển”, cũng không giống trường ca “mặt đường khát vọng” của tuổi trẻ đô thị miền Nam những ngày đánh Mỹ, sông Hương là bản “trường ca của rừng già”. Vẻ nguyên sơ, hoang dã, thâm nghiêm của rừng già đã đem đến cho nó một vẻ đẹp mà trong suy cảm của nhà văn giống như một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Những cô gái Bô-hê-miêng từ lâu vẫn được biết đến là những người thích sống lang thang, tự do và yêu ca hát. Đó là những thiếu nữ có vẻ đẹp man dại đầy quyến rũ. Ví sông Hương với những cô gái Di-gan, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh về vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất thiếu nữ, rất tình tứ của con sông. Đó là vẻ đẹp tự nhiên, vẻ đẹp của “một tâm hồn tự do và trong sáng”.

Sông Hương – “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Không chỉ giúp cho bạn đọc có thêm một góc nhìn, một sự hiểu biết về vẻ đẹp hùng vĩ, man dại nhưng cũng đầy chất thơ của sông Hương, nhà văn còn muốn đem đến một cái nhìn sâu hơn, muốn “ghi công” sông Hương như một “đấng sáng tạo” đã góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên xứ sở. Lâu nay, ta mới chỉ nhìn sông Hương ở vẻ đẹp bên ngoài của nó mà hầu như không biết rằng con sông còn là một khởi nguồn, một sự bắt đầu của một không gian văn hóa – văn hóa Huế. Sẽ là không quá nếu ai đó cho rằng : không có sông Hương thì khó có thể có văn hóa Huế ngày nay. Bởi từng ngày từng giờ, sông Hương vươn mình chảy ra cửa Thuận thì cũng từng ngày từng giờ dòng sông đem đến, duy trì và bồi đắp “phù sa” cho cả một vùng văn hóa đã được hình thành ở trên và hai bên bờ sông. Ấy thế nhưng, “dòng sông hình như không muốn bộc lộ” cái công lao to lớn ấy. Nó đã âm thầm chảy và đã lặng lẽ cống hiến cho Huế nhiều thế kỉ qua. Đây chính là chiều sâu vẻ đẹp và “nhân cách” của dòng sông, là nét “tính cách” đáng trân trọng của Hương giang mà Hoàng Phủ Ngọc Tường muốn khắc họa.

Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế: Sau cái khởi nguồn ở vùng thượng lưu, sông Hương tiếp tục hành trình cam go, vất vả của mình để đến với Huế. Trước khi chảy vào lòng thành phố thân thương, nó cũng đã kịp để lại những dấu ấn riêng của mình.

Sông Hương – người gái đẹp của cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại: Vẻ đẹp của sông Hương trước khi vào thành phố Huế là cái đẹp mềm mại của một người con gái đang phô khoe những đường cong tuyệt mĩ. Bằng nghệ thuật so sánh, nhà văn đã ví sông Hương như “người gái đẹp đang ngủ mơ màng thì được người bạn tình mong đợi đến đánh thức”. Với lối so sánh ấy, dòng chảy uốn lượn của con sông, những khúc quanh của nó hiện lên như những đường cong trên cơ thể của một người thiếu nữ đương thì xuân sắc : “Sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”.

Về mặt địa lý, hành trình đến với “người tình mong đợi” của “người gái đẹp” này khá gian truân và nhiều thử thách khi nó phải vượt qua Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán. Nhưng chính trong quá trình ấy, con sông lại như có cơ hội phô khoe tất cả vẻ đẹp của mình – vẻ đẹp gợi cảm của người thiếu nữ đi ra từ “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” : “qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. Có thể thấy, bằng một lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ đa dạng và giàu hình ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh động và hấp dẫn những khúc quanh, ngã rẽ của con sông. Mỗi đường đi nước bước của sông Hương gắn liền với những địa danh khác nhau của xứ Huế được nhà văn dành cho một cách diễn đạt riêng.

Nhờ đó mà hành trình về xuôi của dòng sông không đơn điệu, nhàm chán mà trái lại nó luôn luôn biến hóa khiến người đọc đi từ ngạc nhiên, thú vị này đến bất ngờ, khoái cảm khác. Có những câu văn giàu chất họa đến mức cứ ngỡ như đường cọ của người họa sĩ đang đưa những nét vẽ về sông Hương trên bức tranh thiên nhiên xứ Huế (“vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán… vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc”). Lại có câu văn gợi một nét mơ hồ với nhiều liên tưởng và cảm xúc rất thích : “sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”. Thủ pháp nhân hóa và so sánh được sử dụng kết hợp với hệ thống ngôn từ giàu cảm xúc và hình ảnh cũng góp phần đáng kể vào việc khắc họa một dòng sông thơ mộng, trữ tình. Nó khiến cho cảm nhận về con sông như người con gái đẹp càng trở nên rõ nét và gợi cảm : sông Hương “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ” trước khi “xuôi dần về Huế”; sông Hương như con người biết tự làm mới mình, trang điểm cho mình đẹp hơn trước khi gặp người tình mà nó mong đợi : “vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm”; sông Hương như “tấm lụa” mềm mại trên cơ thể người thiếu nữ…

Tóm lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã “vẽ” lên bằng chất liệu ngôn từ cái dáng điệu yêu kiều và rất tạo hình của sông Hương khi nó ở ngoại vi thành phố Huế. Nhà văn không chỉ tái hiện lại một cách chân thực dòng chảy địa lý tự nhiên của con sông mà quan trọng hơn biến cái thủy trình ấy thành “hành trình đi tìm người yêu” của một người con gái đẹp, duyên dáng và tình tứ. Đây cũng chính là cảm nhận riêng, độc đáo và rất đặc sắc của nhà văn về sông Hương trước khi nó chảy vào lòng thành phố thân yêu.

Sông Hương – vẻ đẹp “trầm mặc”, “như triết lí, như cổ thi”: Đi giữa thiên nhiên, sông Hương cũng chuyển mình ngày đêm bên những lăng tẩm, thành quách của vua chúa thời Nguyễn. Con sông hiền hòa ở ngoại vi thành phố Huế, đến đây, như đang nép mình bên “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch”. Chảy bên những di sản văn hóa ấy, con sông như bổng trở nên nghiêm trang hơn, nó như khoác lên mình tấm áo “trầm mặc” mang cái “triết lí cổ thi” của cổ nhân. Dòng sông hay chính là dòng chảy của lịch sử vẫn bền bỉ chảy qua năm tháng và đang vọng về trong ngày hôm nay. Trên hành trình của một con sông mềm mại như lụa, nhà văn đã “hướng ống kính máy quay” ra không gian xung quanh hai bên bờ sông. Hình ảnh thu được là không gian văn hóa Huế thể hiện ở cảnh sắc thiên nhiên và những lăng tẩm đền đài của vua chúa thời Nguyễn : “Sông Hương trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách… Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời Tây Nam thành phố : sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Vậy là, sông Hương đi trong vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên Huế và chính nó lại là tấm gương phản chiếu nét đẹp của cảnh quan đất trời hai bên bờ sông. Không có sông Hương, những ngọn đồi ở ngoại vi Huế vẫn có vẻ đẹp riêng nhưng vẻ đẹp ấy sẽ mất đi cái long lanh, cái đa sắc màu và không còn những “điểm cao đột khởi” xuất hiện như một điểm nhìn văn hoá, thưởng thức. Sông Hương chính là “trung tâm cảnh”, là linh hồn của thiên nhiên cảnh vật.

Sông Hương giữa lòng thành phố Huế. Cuối cùng, sông Hương cũng đến nơi mà nó cần đến, cũng gặp được “thành phố tương lai” mà nó mong đợi : thành phố Huế. Có lẽ vì thế mà con sông “tươi vui hẳn lên”. Như đã tìm đúng đường đi, sông Hương cập bến thành phố thân yêu giữa những “thuyền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long” để rồi “giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên”. Đến đây, con sông giống như một cô gái đẹp e lệ, dịu dàng nghiêng mình “chào” Huế : “…sông Hương đã uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến”, “như một tiếng vang không nói ra của tình yêu”. Giống như sông Xen ở Pari, sông Đa- nuýp ở Bu-đa-pét, “sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình”.

Sông Hương – “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Miêu tả dòng sông giữa lòng thành phố, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chọn kênh tiếp cận là âm nhạc. Ở góc độ này, sông Hương chính là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Trong tiếng Anh, “slow” nghĩa là chậm và sông Hương như một giai điệu trữ tình chậm rãi chỉ dành riêng cho Huế mà thôi. Có thể thấy, nhà văn đã tinh tế khi nhìn ra một đặc trưng của Hương giang. So với các dòng sông khác ở Việt Nam và thế giới, lưu tốc của sông Hương không nhanh. Điều này đã được nhà văn lý giải từ đặc điểm địa lý : “những chi lưu ấy cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước khiến cho sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”. Để làm nổi bật hơn cái đặc trưng này, nhà văn đã liên tưởng, so sánh sông Hương với sông Nêva – con sông chảy băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra bể Ban-tích. Lưu tốc của con sông này nhanh đến mức “không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo”.

Tuy nhiên, tất cả sự lý giải và so sánh nêu trên chưa lột tả được hết ý nghĩa của cái mệnh đề mà nhà văn đã khái quát về sông Hương khi nó chảy giữa lòng thành phố: “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Mượn câu nói của Hêraclít – nhà triết học Hi Lạp, trong một cách nói thật hình ảnh “khóc suốt đời vì những dòng sông trôi quá nhanh”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến một kiến giải khác, hết sức thú vị và độc đáo về lưu tốc của dòng sông mà ông yêu quý. Đó là cách lý giải từ “trái tim” : sông Hương chảy chậm, điệu chảy lững lờ là vì nó quá yêu thành phố của mình, nó muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thân thương trước khi phải dời xa. Đó là tình cảm của sông Hương với Huế hay chính là tình cảm của nhà văn với sông Hương, với xứ Huế mộng mơ ? Có lẽ là cả hai !

Sông Hương – “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Viết về sông Hương giữa lòng thành phố, Hoàng Phủ Ngọc Tường không quên một nét đẹp văn hoá đặc trưng gắn liền với dòng sông thơ mộng này. Đó là những đêm trình diễn âm nhạc cổ điển Huế trên dòng sông Hương. Ở góc nhìn âm nhạc này, tác giả gọi sông Hương là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Ai đã từng có dịp đến Huế thưởng thức nền âm nhạc Huế, được xem các nghệ sĩ biểu diễn âm nhạc trên sông vào những đêm khuya mới thấy hết vẻ đẹp của âm nhạc và màu sắc văn hoá đặc trưng ở nơi đây. Toàn bộ nền âm nhạc ấy, trong cảm nhận của tác giả, chỉ thực sự là chính nó khi “sinh thành trên mặt nước” của Hương Giang “trong một khoang thuyền nào đó, giữa những tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Ở đây có cái thú vị, cái sắc điệu riêng trong cách trình diễn âm nhạc của người Huế nhưng cũng có quy luật của nghệ thuật biểu diễn trên không gian sông nước. Trong Tì Bà hành, Bạch Cư Dị đã từng viết :

“Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt

Một vầng trăng trong vắt lòng sông

Nguyễn Du cũng đã từng miêu tả tiếng đàn của Thúy Kiều:

Trong như tiếng hạc bay qua,

Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”

Dẫn ra câu chuyện về một người nghệ nhân già chơi đàn hết nửa thế kỉ khi nghe người con gái đọc câu thơ trên nhổm dậy vỗ đùi chỉ vào trang sách của Nguyễn Du mà thốt lên: “Tứ đại cảnh” (một điệu nhạc Huế), Hoàng Phủ Ngọc Tường đã một lần nữa khẳng định mối quan hệ gắn bó không thể tách rời giữa sông Hương và nền âm nhạc cổ điển Huế. Đây chính là văn hoá Huế nói chung và vẻ đẹp của Sông Hương nói riêng, vẻ đẹp hiếm thấy ở bất kì một dòng sông nào ở trong nước cũng như trên thế giới.

Sông Hương – người tình dịu dàng và chung thủy. Khi dời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc. Tuy nhiên, do đặc điểm địa lý ở đất nước ta (hầu hết mọi dòng sông đều chảy về hướng đông để đổ ra biển) nên thủy trình của con sông đã phải thay đổi. Nó phải chuyển dòng sang hướng đông và như vậy sẽ lại đi qua một góc của thành phố Huế ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đó là đặc điểm địa lý tự nhiên của dòng sông. Nhưng trong con mắt của người nghệ sĩ tài hoa, khúc ngoặt ấy lại là biểu hiện của nỗi “vương vấn”, thậm chí có chút “lẳng lơ kín đáo” của người tình thủy chung và chí tình. Nhà văn tưởng tượng, hình dung sông Hương như nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa. Đây đúng là một phát hiện, một liên tưởng thú vị, độc đáo và đậm màu sắc văn chương của tác giả về dòng sông thân thương của xứ Huế. Hương giang vốn đã đẹp, nay lại càng đẹp hơn, trọn vẹn hơn trong cảm nhận của người đọc. Một vẻ đẹp hài hòa giữa hình dáng bên ngoài với phần tâm hồn, tâm linh sâu thẳm bên trong.

Qua những cảm nhận nêu trên về sông Hương, có thể nhận thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận và miêu tả dòng sông từ nhiều không gian, thời gian khác nhau. Ở mỗi điểm nhìn, mỗi góc độ, nhà văn đều thể hiện một cảm nghĩ sâu sắc và khá mới mẻ về con sông đã trở thành biểu tượng của xứ Huế. Từ trong những cái nhìn ấy và qua giọng điệu của các đoạn văn, ta thấy bàng bạc một tình cảm yêu mến, gắn bó tha thiết, một niềm tự hào và một thái độ trân trọng, gìn giữ của nhà văn đối với những vẻ đẹp tự nhiên và đậm màu sắc văn hóa của dòng sông quê hương.

Sông Hương – dòng sông của lịch sử và thi ca. Sông Hương – bản hùng ca ghi dấu các chiến công oanh liệt của dân tộc. Ở góc nhìn lịch sử, sông Hương gắn liền với những thế kỉ vinh quang của Đất Nước từ thuở còn là một dòng sông biên thùy xa xôi ở thời đại các vua Hùng. Trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, sông Hương được biết đến với tư cách là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt”. Tiếp nối truyền thống đó, con sông “vẻ vang soi kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào thế kỉ XVIII, “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa”. Thế kỷ XX, sông Hương “đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển” để rồi sau đó nó tiếp tục có mặt trong những năm tháng bi hùng nhất của lịch sử đất nước với cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ ác liệt.

Sông Hương – vẻ đẹp giản dị của một người con gái dịu dàng của đất nước. Điều làm nên vẻ đẹp đáng trân trọng và đáng mến của con sông là khi nghe lời gọi của Tổ quốc “nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công” nhưng khi “trở về với cuộc sống bình thường” sông Hương tự nguyện “làm một người con gái dịu dàng của đất nước”. Những đổi thay này của sông Hương ngỡ bất ngờ mà không hề bất ngờ bởi nó đã mang cái dáng dấp, cái vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam suốt mấy nghìn năm qua :

Đạp quân thù xuống đất đen

Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa

(Nguyễn Đình Thi)

Lịch sử – hùng tráng và đời thường – giản dị, sông Hương đã tự biết thích ứng với từng hoàn cảnh, không gian và thời gian khác nhau. Điều đó không chỉ khiến cho dòng sông luôn trở nên mới mẻ trong cảm nhận của con người mà còn có thêm những vẻ đẹp mới.

Sông Hương – dòng sông thi ca. Với vẻ đẹp độc đáo và đa dạng, lại không bao giờ tự lặp lại mình nên sông Hương luôn có những vẻ đẹp mới, có khả năng khơi những nguồn cảm hứng mới cho các văn nghệ sĩ đặc biệt là các nhà thơ. Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”. Tản Đà thấy “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Hàn Mặc Tử thì cảm nhận về sông Hương như dòng “sông trăng” lung linh, thơ mộng : “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó. Có chở trăng về kịp tối nay”. Thu Bồn nhìn dòng nước lững lờ của sông Hương mà bâng khuâng: “Con sông dùng dằng con sông không chảy. Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Và với Nguyễn Trọng Tạo, Hương giang lãng đãng một bầu khí quyển huyền thoại giúp nhà thơ thăng hoa những vần thơ mê đắm:

“Con sông đám cưới Huyền Trân. Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn. Hèn chi thơm thảo nỗi buồn. Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ. Con sông nửa thực nửa mơ. Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên”.

Bài kí mở đầu bằng một câu hỏi đầy trăn trở: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” nhưng phải gần đến kết thúc, đến những dòng cuối cùng của bài bút kí nhà văn mới đưa ra câu trả lời cho nó. Có nhiều cách để trả lời câu hỏi trên nhưng nhà văn đã chọn cho mình một “đáp án” đầy chất trữ tình: “Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi”. Tuy nhiên, nếu đọc kĩ thì ta sẽ thấy câu hỏi ấy thực ra đã được trả lời ngay từ những dòng đầu tiên và tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện cho đến dòng cuối cùng của bài kí. Nói cách khác, chính thiên nhiên hoang dại và trữ tình “đã đặt tên cho dòng sông”; chính lịch sử hào hùng và truyền thống văn hóa đậm bản sắc của xứ Huế “đã đặt tên cho dòng sông”; và chính con người với tình yêu thiết tha của mình dành cho con sông quê hương đã góp phần tạo nên “tên tuổi” của nó.

Tóm lại, nếu xem sông Hương là một công trình nghệ thuật tuyệt tác mà tạo hoá đã dày công tạo dựng thì cũng có thể coi hình tượng sông Hương trong bài bút kí này là một tượng đài nghệ thuật diệu kỳ mà người nghệ sĩ ngôn từ đã dành tất cả tâm huyết và tinh huyết của mình để “chạm khắc”. Có thể nói, sông Hương đã được sinh ra một lần nữa trong tình yêu và sự tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tôi bỗng nhớ câu nói của một triết gia phương Tây: Mọi thứ trên đời đều sợ thời gian bởi thời gian sẽ phủ lớp bụi của mình lên vạn vật để làm mờ tất cả. Nhưng thời gian lại sợ những vĩ nhân bởi chỉ có các vĩ nhân là tồn tại vĩnh hằng. Dù biết rằng “mọi sự so sánh là khập khiễng”, tôi vẫn cứ nghĩ: con sông Hương thơ mộng của xứ Huế và đất nước Việt Nam, con sông Hương của văn học nghệ thuật trong bài ký xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường sẽ trường tồn với thời gian, nhịp bước cùng năm tháng.

Số 9: Cảm nhận về vẻ đẹp sông Hương

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một bài kí đầy chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường viết về Hương Giang. Nhắc đến Huế là du khách nhớ đến sông Hương; nhắc đến sông Hương là ta nhớ đến Huế. Ngự Bình, sông Hương, chùa Thiên Mụ, lăng tẩm các vua chúa nhà Nguyễn,… là những thắng cảnh của cố đô Huế.

Bạn tôi đã có lần hát trong đêm liên hoan văn nghệ toàn trường đầu năm học:

Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ

Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt…

Sông Hương có cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, tình tứ. Lần theo tác giả ta đi tìm vẻ đẹp sông Hương, đi từ thượng nguồn cho đến đoạn sông Hương rời kinh thành Huế.

Giữa mái núi phía đông Trường Sơn, đầu nguồn, sông Hương là “một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác“… Con sông quê mẹ trở nên “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng“. Nó mang vẻ đẹp “phóng khoáng và man dại” như một nửa cuộc đời cô gái Di-gan trước khi trở thành “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Và khi đến chân núi Kim Phượng, nó đã thay hình đổi sắc một cách kỳ lạ, đã đóng kín bí mật “cuộc hành trình gian truân” mà nó đã vượt qua.

Từ ngã ba Tuần đến chân đồi Thiên Mụ, sông Hương như một người con gái đang “ngủ mơ màng” vừa vượt qua cánh đồng Châu Hóa đầy hoa đại được đánh thức bởi “Người tình mong đợi”. Nó chuyển dòng, nó uốn lượn và “chuyển dòng một cách liên tục”. Nó được nhân hóa như một thiếu nữ xinh đẹp làm duyên. Qua điện Hòn Chén, Ngọc Trản, sông Hương qua bãi Nguyệt Biều, Lương Quán, rồi “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ” để lắng nghe tiếng chuông chùa ngân rung trong bóng hoàng hôn. Qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo, nó mê ngắm nhìn những thành quách, những lăng tẩm vua chúa, qua những đồi thông xanh biếc, sông Hương phẳng lặng hơn, “mềm như tấm lụa”, gương sông trở nên lấp lánh như một cô gái luôn thay đổi màu áo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Giữa phong cảnh “Bốn bề núi phủ mây phong // Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng vạn niên” của Khiêm Lãng, sông Hương mang vẻ đẹp “trầm mặc… như triết lí, như cổ tích”. Nó trở nên phẳng lặng hơn, mơ màng và tình tứ hơn giữa âm thanh “bát ngát tiếng gà” của những xóm làng trung du.

Sông Hương phẳng lặng hơn, rộng thoáng hơn, từ đôi bờ sông ta thấy thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi” lúc canh khuya còn văng vẳng tiếng hò giã gạo, điệu lí của dân chài.

Đoạn sông từ ngã ba Tuần đến đồi Thiên Mụ, sông Hương xinh đẹp hẳn lên trong muôn ngàn cảnh sắc thiên nhiên, nó còn mang vẻ đẹp u tịch của chùa chiền, thành quách, lăng tẩm, sông Hương ẩn chứa trong lòng vẻ đẹp cổ kính lịch sử, văn hóa.

Sông Hương đã đến với người tình mong đợi. Giữa vùng biền bãi xanh biếc ngoại ô kim long, nó rạng rỡ và “vui tươi hẳn lên” khi nó nhìn thấy cầu Tràng Tiền, chiếc cầu trắng “in ngần trên bầu trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”. Đó là niềm vui ước hẹn, gặp gỡ.

Cồn Giã Viên và Cồn Hến ở đầu và cuối thành phố tựa hai cù lao xanh như níu giữ sông Hương lại để tâm tình. Sông Hương mềm hẳn đi, mặt nước êm đềm hơn, trong xanh hơn mà nhà thơ Thu Bồn, một lần nhắc đến thăm Huế đã rung cảm khẽ hát lên:

“Con sông dùng dằng, con sông không chảy

Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”.

Hoàng Phủ Ngọc Tường cho ta biết sông Hương là con sông “nằm ngay thành phố yêu quý”, nó đã làm tôn “Huế đẹp và thơ”, nó là “cô gái Huế xinh đẹp, dịu dàng và đa tình” mà một du khách Ý đã nói.

Ai đã ngắm nhìn sông Hương trong đêm hội hoa đăng rằm tháng bảy mới cảm thấy lòng mình như tỉnh như mơ khi bâng khuâng ngắm nhìn “hàng trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh” từ điện Hòn Chén trôi về. Tình người tỏa sáng tình sông nước.

Phía dưới cầu Tràng Tiền, sông Hương “ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng“. Đó là ân nghĩa, ân tình.

Sông Hương rời kinh thành ra đi. Nhiều ngập ngừng, lưu luyến. Ở đời mọi cuộc giã biệt đều man mác buồn. Giữa màu xanh tre trúc và những vườn cau vùng Vĩ Dạ, sông Hương lại đổi dòng, lại uốn lượn để được gặp lại thành phố lần cuối cùng ở góc thị trấn Bao Vinh, “như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói”, tác giả bài kí cho rằng đó là “nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Ở đây, đã bao đời nay có nhiều ca nhi hát và đàn Nam ai, Nam bình nổi tiếng tài sắc. Ở đây, chỗ chia tay này, sông Hương “có cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người”. Hoàng Phủ Ngọc Tường nhắc lại và bỏ lửng một câu thơ Kiều để nói lên lời hẹn ước của con sông Hương mang tình lưu luyến của một giai nhân với tấm lòng son sắt thủy chung: “Còn non còn nước, còn dài/ Còn về, còn nhớ,…”.

Du khách nào đã đến Vĩ Dạ, ngắm cau, ngắm trúc, ngắm sông Hương, và được thưởng thức tiếng đàn tranh từ một ngôi nhà cổ thánh thót ngân nga, rồi khẽ ngâm một vài câu thơ của Hàn Mặc Tử: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc / Lá trúc che ngang mặt chữ điền..”,

Nói rằng sông Hương cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, mà còn phải nghĩ nhiều đến vẻ đẹp lịch sử, vẻ đẹp văn hóa của sông Hương.

Sông Hương – dòng sông của lịch sử, dòng sông của thơ ca, của văn hóa, là ngọc bích của cố đô Huế”. Nhiều thi nhân đã cất bút đề thơ vào dòng sông thơ mộng. Với Tản Đà là “Dòng sông trắng, lá cây xanh… Với Cao Bá Quát, sông Hương đầy hùng khí được hun đúc nên “như kiếm dựng trời xanh”. Tố Hữu, đứa con thương yêu của Huế với đầy tình thương nhớ: “Hương Giang ơi! Qua tim ta vẫn ngày đêm tự tình…”.

Thời các vua Hùng, Hương Giang là “con sông biên thùy xa xôi”; thời Trần – Lê nó là “con sông viễn châu”; nó là nơi Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế rồi thẳng tiến ra Thăng Long quét sạch 20 vạn quân Tôn Sĩ Nghị ra khỏi bờ cõi. Ngày 23/8/1945, lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên đỉnh Ngọ Môn, v.v…

Huế có 99 chùa, có Đông Ba, Gia Hội, Diệu Đế… Có nhiều lăng tẩm vừa cổ kính vừa nguy nga. Huế và Sông Hương có vẻ đẹp sâu xa là “những trầm tích văn hóa, lịch sử”.

Dân làng hoa nào ở Huế đã nấu nước trăm loài hoa thơm đổ xuống sông để sông Hương mang cái tên con sông Thơm? Ai còn nhớ huyền thoại đó? Và để nhân dân ta nhớ Huế là nhớ sông Hương, nhớ màu tím Huế trong chiếc áo cưới của người con gái Huế.

Tôi vô cùng xúc động được đọc, được học hai bài kí nổi tiếng, đó là “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, và “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Con sông nào cũng đẹp, bài kí nào cũng hay, cũng thú vị biểu lộ niềm tự hào về giang sơn gấm vóc.

Bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Số 10: Phân tích vẻ đẹp con sông Hương

Tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một bài bút kí nổi tiếng của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ông là một nhà văn mang nặng ân tình với xứ Huế. Tác phẩm của ông đã lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông Hương, con sông mang đậm đặc trưng và dấu ấn của xứ Huế mộng mơ.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” được tác giả trình bày dưới dạng ký, thể loại văn ghi lại cảm xúc cũng như tình cảm của con người một cách sâu sắc và súc tích nhất. Thể loại này đưa bài kí vào lòng người đọc một cách nhẹ nhàng nhưng cũng rất chân thành. Qua giọng văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương hiện lên thật ấn tượng, với một vẻ đẹp thơ mộng đến ngỡ ngàng. Con sông này chính là dòng chảy duy nhất qua thành phố Huế, chính vì điều đó nên nó mang một đặc trưng riêng của xứ Huế mà không nơi nào có được. Có lẽ không chỉ tác giả mà những người dân xứ Huế cũng rất tự hào vì điều này.

Dưới ngòi bút tinh tế, sâu sắc cùng tình yêu tha thiết của Hoàng Phủ Ngọc Tường, con sông đã trở nên lộng lẫy, mê hoặc người đọc. Con sông hiện lên với nhiều góc độ, nhiều khía cạnh, với chiều dài của thời gian và chiều sâu của không gian. Và dù cho dưới góc độ nào thì sông Hương vẫn rất đẹp và nên thơ như thế.

Đầu tiên, tác giả muốn nói đến sông Hương ở vùng thượng nguồn. Đó là một vẻ đẹp mà không lẫn vào đâu được. Hình ảnh “một cô gái di gan phóng khoáng và man dại; tự do và trong sáng” được tác giả ưu ái khiến cho bóng dáng ấy đi vào lòng người đọc một cách chân thực nhất. Sông Hương còn được tác giả vẽ lên một cách đầy mê hoặc, đó là sông Hương như bản trường ca của rừng già; rầm rộ và mãnh liệt nhưng có lúc lại “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của màu đỏ hoa đỗ quyên rừng”. Dường như chỉ có duy nhất màu đỏ, một màu sắc đầy hoang dại ấy mới toát lên được vẻ đẹp đầy sức ám ảnh nhưng lại rất đỗi bình dị của sông Hương. Vẻ đẹp của con sông ở vùng thượng nguồn chắc chắn là một vẻ đầy mê đắm và tinh tế. Và đây cũng chính là đặc trưng của xứ Huế nên thơ và trữ tình.

Hơn thế nữa, sông Hương là dòng sông duy nhất thuộc về thành phố Huế. Chính vì thế nên vẻ đẹp của sông Hương là vẻ đẹp vang bóng một nền văn hóa trải qua nhiều thăng trầm nhưng cũng rất đỗi bí ẩn, quyến rũ của cố đô Huế. Trong con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương như “người con gái dịu dàng, đằm thắm, mềm mại trong lòng Huế”. Dòng sông thật đẹp và lãng mạn biết bao.

Để rồi khi sông Hương về với thành phố mộng mơ, rời xa thượng nguồn thì con sông lại trở nên mê đắm hơn bao giờ hết. Cô gái digan hoang dại ấy đã “vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẫm, trầm mặc như triết lý…; cho đến khi gặp được tiếng chuông Thiên Mụ, nghe âm thanh bát ngát tiếng gà, từ ấy sông Hương rạng rỡ như nắng mới, nàng uốn một cánh cung thật nhẹ, đến khi giáp mặt với thành phố, đường cong ấy làm cho nàng như mềm hẳn đi, như một tiếng vang không nói ra của tình yêu.” Những câu văn thật nhẹ nhàng nhưng vô cùng tình tứ, lãng mạn được tác giả dùng để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương khi về với thành phố Huế. Những đường nét mềm mại, mê đắm của sông Hương khiến cho tất cả ai khi đọc cũng đều cảm thấy sửng sốt, ngỡ ngàng, và cứ thế sông Hương len lỏi vào trong lòng người đọc một cách chân thực nhất.

Không chỉ vậy, đối với cố đô Huế, sông Hương còn là một nhân chứng đã cùng chứng kiến biết bao đổi thay, cùng những thăng trầm của thành phố Huế. Sông Hương cứ thế tồn tại như vậy, trải qua biết bao sự việc, cùng những năm tháng không thể nào quên của cố đô Huế nói riêng và thành phố Huế nói chung.

Chỉ với những câu văn giản dị, tinh tế, cùng với tình yêu chân thành tha thiết đối với mảnh đất và con người xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc hình ảnh dòng sông Hương thơ mộng, lãng mạn hơn bao giờ hết. Dòng sông Hương trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường khiến cho ai đã từng đọc qua đều mong muốn được một lần đặt chân đến nơi đây, để được đắm mình trong những gì nên thơ nhất của xứ Huế.

Số 11: Phân tích vẻ đẹp sông Hương

“Ai đã đặt tên cho dòng sông này” là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết về dòng sông trữ tĩnh, thơ mộng của Huế. Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy qua dòng thành phố Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất tài tình khi lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của Huế này.

Có lẽ vì đặc trung của thể loại bút kí nên lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường rất phóng khoáng, điêu luyện, nhẹ nhàng và mềm mại. Với một tấm lòng yêu Huế, yêu cảnh sắc thiên nhiên, yêu sông Hương nên Hoàng Phủ Ngọc tường đã khoác lên bài kí một màu sắc, âm hưởng riêng có của Huế.

Dòng sông Hương được tác giả ngợi ca “dòng sông duy nhất chảy qua thành phố Huế”, dòng sông vắt mình qua thành phố, chứng kiến bao nhiêu đổi thay của mảnh đất này.

Cái nhìn đầu tiên của tác giả khi viết về sông Hương là cái nhìn từ vùng thượng nguồn. Vẻ đẹp của dòng sông lúc này khiến tác giả liên tưởng đến cô gái Di gan phóng khoáng, mê dại, đầy sức hút. Qua ngòi bút của tác giả, sông Hương hiện lên thật kì vĩ “sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già, khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua nhiều ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu hoa đỗ quyên rừng”. Chỉ với một vài chi tiết và Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lột tả được vẻ đẹp lúc mãnh liệt, lúc dịu êm của sông Hương. Có lẽ đây chính là đặc trưng của sông hương khi ở thượng nguồn, hứng chịu nhiều biến đổi của thời tiết.

Thật độc đáo khi dưới con mắt của tác giả, sông hương tựa như “Cô gái di gan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng”. Có lẽ đây là phép nhân hóa đầy ẩn ý nhằm gợi lên nét đẹp hoang sơ nhưng hấp dẫn của con sông này. Như vậy có thể thấy được qua ngòi bút phóng khoáng của tác giả, sông Hương vùng thượng nguồn toát lên vẻ đẹp kì bí, hùng vĩ và đầy cá tính.

Tuy nhiên đây mới chỉ là ở thượng nguồn, cùng Hoàng Phủ Ngọc tường khám phá vẻ đẹp của dòng sông này khi chảy về thành phố Huế. Có lẽ người đọc sẽ bất ngờ với vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại và uyển chuyển của nó. Tác giả đã ví sông Hương như “người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô”. Không phải vô duyên vô cớ mà tác giả lại đi ví von so sánh đầy tính nghệ thuật như vậy.

Sông Hương khi chảy về thành phố có sức hấp dẫn tuyệt vời đối với người đọc. Ở đây chúng ta nhận ra một lối viết nhẹ nhàng, tinh tế, rất mực tài hoa của tác giả. Ông vẽ lên vẻ đẹp của sông hương không chỉ bằng ngôn ngữ mà còn bằng cả trái tim đầy tình yêu thương. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương như “cô gái đẹp ngủ mơ màng” – một vẻ đẹp màu màu sắc của câu chuyện cổ tích tuyệt đẹp. Và sông hương bỗng “chuyển dòng liên tục” “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “trôi giữa hai dãy đồi sững sững như thành quách”. Một sự diễn tả quá trữ tình, quá độc đáo khiên ngưỡng đọc khó cưỡng lại được vẻ đẹp tuyệt vời này.

Sông hương vừa mềm mại, vừa dịu dàng “mềm như tấm lụa”, có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Sự chuyển đổi màu sắc theo mùa, theo thời gian như thế này đã làm nên một nét đặc trưng cho những ai muốn ngắm nhìn sông hương thật lâu.

Hoàng Phủ Ngọc Tường tả sông hương như vẽ, vẽ lên một bức tranh hoàn mĩ và tuyệt vời nhất về dòng sông huyền thoại này. Sông Hương tạo nên nét đẹp của đất cố đô Huế, ẩn mình trong trầm tích của nét văn hóa hàng nghìn năm lịch sử.

Thú vị nhất là đoạn sông hương chảy trong lòng Huế, tác giả cứ ngỡ rằng sông Hương tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu nên tươi vui hẳn lên.

Vẻ đẹp của dòng sông này được cảm nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhìn bằng con mắt của hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông hương như điệu slow chậm rãi sâu lắng, trữ tình… Một vẻ đẹp khiến người khác phải ngỡ ngàng và đắm say chẳng thể dứt ra.

Sông hương còn là chứng nhân lịch sử, là “người” chứng kiến sự đổi thay của cố đô Huế từng ngày. Trong sách Dư địa chí “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc đại việt qua những thế kỉ trung đại, vẻ vang soi bóng kinh thành phú xuân của anh hùng Nguyễn Huệ…”

Có thể nói rằng để cảm nhận sông hương với nhiều góc độ, nhiều vẻ đẹp khác nhau, Hoàng Phủ Ngọc tường phải có trái tim nhạy cảm, yêu và thương tha thiết dòng sông thơ mộng này. Một lối viết giản dị, nhẹ nhàng nhưng đầy lôi cuốn đã khiến độc giả không thể để dứt mạch cảm xúc. Tác giả đã phát huy được đặc trưng của thể loại bút kì đầy sắc bén và tình cảm này.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông này” thực sự là bài bút kí độc đáo. Sông Hương hiện lên với tất cả vẻ đẹp mà nó mang

Số 12: Cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn học kháng chiến. Ông trưởng thành qua hai cược kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông có thế mạnh viết tùy bút. Những tác phẩm của ông ghi nhận đặc sắc vẻ đẹp của non sông đất nước. Đồng thời cũng bộc lộ tình yêu nước thiết tha, đằm thắm.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông này” là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác phẩm viết về dòng sông trữ tĩnh, thơ mộng của xứ Huế. Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy qua dòng thành phố Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất tài tình khi lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của Huế này.

Hình tượng con sông Hương được nhà văn khám phá từ nhiều điểm nhìn và nhiều góc độ khác nhau. Đó là một vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên. Trước hết là vẻ đẹp của sông Hương được phát hiện ở cảnh sắc thiên nhiên.

Con sông có vẻ đẹp “phóng khoáng và man dại”. Đôi khi nó “rầm rộ” và “mãnh liệt” vô cùng. Nó giống như một bản trường ca của rừng già khi nó đi qua giữa lòng Trường Sơn. Sông Hương tô điểm cho vẻ đẹp Trường Sơn vốn đã rát kì vĩ thêm lớn lao hơn. Sông Hương mềm mại đem đến sự dễ chịu trong bức tranh núi non trùng điệp. Nó xoa dịu những khổ ngọc của núi rừng khắc nghiệt. Mỗi khi ta từ núi cao xuống thấp, sông Hương mang đến một vẻ dễ chịu êm ái.

Sông Hương có vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ” đi qua đất Huế. Nó trở thành “người mẹ phù sa” của một vùng văn hóa đất đế đô. Người mẹ ấy hiền hòa và bao dung ôm lấy vừng đất thanh bình. Từ bao đời nay, sông Hương mang đến cho con người sự tr phú, thịnh vượng. Đôi khi, nó trầm tư như đang nghĩ ngợi về một ddieuf gì đó xa xăm khó hiểu.

Sông Hương lại có vẻ đẹp biến ảo như phản quan nhiều màu sắc của nền trời Tây Nam thành phố. Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Mỗi thời khắc một sắc màu, huyền ảo vô cùng.

Sông Hương có vẻ đẹp “trầm mặc” khi lặng lẽ chảy dưới rừng thông u tịch. Với những lăng mộ âm u và kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn nó có vẻ đẹp mang màu sắc triết lí cổ thi. Hay khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ.

Sông Hương có vẻ đẹp “vui tươi” khi đi qua những bãi bờ xanh biết của vùng ngoại ô Kim Long. Có vẻ đẹp “mơ màng trong sương khói” khi nó rời xa thành phố để đi qua những nương dâu, lũy trúc và những thảm cau thôn Vĩ Dạ.

Sông Hương quả thực là một kiệt tác của thiên nhiên hoang dại và trữ tình. Dòng sông chảy qua nhiều vùng thiên nhiên của đất nước. Con sông được nhà văn nhìn nhận trong mối quan hệ mật thiết gắn bó với cảnh sắc thiên nhiên hai bên bờ sông. Khác với cách nhìn nhận miêu tả của Nguyễn Tuân đối với con sông Đà.

Sông Hương gắn liền với âm nhạc mà đặc biệt là nhã nhạc cung đình Huế. Sông Hương còn gắn liền với thơ ca. Hình ảnh con sông đã đi vào thơ của của thi nhân bao đời nay từ Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Bà huyện Thanh Quan, Tản Đà cho đến nhà thơ Tố Hữu. Mỗi nhà thơ có cách cảm nhận riêng mà nhờ con sông Hương hiện lên với nhiều hình ảnh thật lạ, thật đẹp.

Với một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, một vốn văn hóa phong phú về Huế, một tình cảm vô cùng thiết tha gắn bó với Huế, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã huy động triệt để mọi tiềm năng văn hóa cùng với ngôn từ giàu có của mình để phát hiện, diễn tả vẻ đẹp và chất thơ của Huế, được thể hiện tập trung dòng sông Hương như một biểu tượng của Huế.

Bình luận về vẻ đẹp của sông Hương được tác giả nhìn nhận trong mối tương quan của nó với những vùng đất. Đi qua mỗi vùng đất, nó lại có một nét đặc trưng riêng. Cũng chính vì vậy mà vẻ đẹp của con sông Hương hiện lên thật đa dạng và phong phú. Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế, với không gian nhã nhạc cung đình – một di sản văn hóa thế giới được UNESSCO công nhận.

Sông Hương cũng là đối tượng thẩm mĩ, là nguồn cảm hứng của thi nhân bao đời nay. Do vậy, còn có cả một dòng thi ca về sông Hương. Trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, sông Hương là “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Trong cái hùng tâm tráng chí của Cao Bá Quát, dòng sông như “kiếm dựng trời xanh”. Trong nỗi “quan hoài vạn cổ” của Bà huyện Thanh Quan, Hương Giang luôn in “Trời chiều bản làng bóng hoàng hôn”. Trong cái nhìn lạc quan, “cái nhìn phục sinh” của Tố Hữu thì “Sông Hương quả thật là Kiều, rất Kiều”.

Sông Hương được tác giả nhìn nhận từ góc độ lịch sử. Nó là hiện thân, là bộ mặt, là linh hồn của xứ Huế. Sông Hương gắn liền với lịch sử của đất cố đô. Từ thuở xa xưa, nó là dòng sông biên thùy với nước Đại Việt. Trong sách “Dư địa chí” – Nguyễn Trãi, là dòng sông thiêng với cái tên Linh Giang cổ kính. Sông Hương cũng từng soi bóng kinh thành Phú Xuân của Nguyễn Huệ. Nó từng chứng kiến những ngày sôi nổi Cách mạng tháng Tám năm 1945. Rồi đến cả chiến dịch Mậu Thân 1968.

Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vẽ con sông Hương bằng ngôn ngữ nghệ thuật một cách tài tình. Sông Hương “vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đội ngột vẻ một đường cong thật tròn…”. Trong tác phẩm, nhà văn cũng sử dụng nhiều từ láy tạo hình đặc sắc. Một vài từ xuất hiện với tần số cao như: lặng lờ, lững lờ, bồng bềnh, ngập ngừng, lô xô, sừng sửng, lập lòe,… Và những so sánh táo bạo, gợi cảm như: “dòng sông như thành quách”, “mềm như tấm lụa”, “những chiếc thuyền ngược xuôi chỉ bé vừa bằng con thoi”, rồi “nhỏ nhắn như những vầng trăng non”,…

Bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Số 13: Phân tích vẻ đẹp của sông Hương

Sông Hương có lẽ là một đặc ân trời ban cho Việt Nam nói chung và cho mảnh đất xứ Huế nói riêng. Nó là sự hội tụ của văn hóa, lịch sử, truyền thống,… Bởi vậy, từ bao đời nay sông Hương đã làm say đắm biết bao thế hệ nghệ sĩ. Hoàng Phủ Ngọc tường – cây bút kí tài hoa của văn học Việt Nam cũng không thể cưỡng nổi vẻ đẹp của dòng sông này. Dưới con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dường như mỗi chúng ta lại khám phá, phát hiện ra một vẻ đẹp thật khác, thật lạ của dòng sông này.

Ở mỗi khúc đoạn khác nhau của sông Hương bằng sự am hiểu tường tận, bằng tình cảm chân thành ông nhìn nhận sông Hương với vẻ đẹp vô cùng đa dạng, phong phú.

Trước khi về đến kinh thành Huế, sông Hương tựa như một bản trường ca dữ dội của rừng già. Sông Hương ở thượng lưu mang trong mình sự hoang dại, sức sống mãnh liệt nhưng cũng có những nét hết sức dịu dàng, đằm thắm. Bờ sông Hương, bãi sông Hương được tác giả quan sát vô cùng tinh tế, những câu văn đầy chất tạo hình, gây ấn tượng về khung cảnh dữ dội của rừng núi kết hơp sự mãnh liệt của sông Hương qua những gềnh thác “cuộn xoáy như cơn lốc”. nào ai có thể ngờ được, một dòng chảy cuộn trào như vậy lại còn có thể mang vẻ đẹp hết sức đằm thằm , đầy nhiệt huyết của một cô gái di-gan phóng khoáng. Trường liên tưởng đó của ông được gợi lên từ chính “màu đỏ của hoa đỗ quyên”. Cách liên tưởng đó vừa tinh tế, vừa chính xác, mang đến cho sông Hương một vẻ đẹp khác hẳn, rừng già đã mang đến cho sông Hương sự “bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng”.

Cách miêu tả của ông vô cùng say đắm, ngọt ngào, mang một nét rất riêng, khắc hẳn với sự sắc sảo, tinh tế trong bút kí của Nguyễn Tuân. Ông cũng miêu tả cái dữ dội của sông nhưng nếu như sông Đà – Nguyễn Tuân đầy oán trách, đầy dữ dội, nguy hiểm, thì sông Hương lại là bản trường ca của rừng già. Cách miêu tả dòng sông luôn được đặt trong tương quan với con người, lúc hoang dại như một cô gái Di-gan, lúc lại êm đềm, sâu sắc như bà mẹ phù sà bồi đắp, nuôi dưỡng mảnh đất xứ Huế mộng mơ. Chính cái tương quan đó đã tạo nên vẻ đẹp khác biệt cho dòng sông Hương.

Trải qua biết bao thăng trầm, từ thượng nguồn về đến kinh thành Huế, rồi đổ ra biển lớn sông Hương đã phải vượt qua biết bao khúc đoạn khác nhau. Ra khỏi rừng già Trường Sơn, về đến cánh đồng Châu Hóa, sông Hương được ví như một người con gái đẹp đang nằm ngủ mơ mà, chờ đợi người tình trăm năm đến đánh thức mình dậy. Sông Hương khôn còn mang vẻ hoang dại cua người con gái Di gan mà thay vào đó là sự nên thơ, với những đường cong mềm mại hết sức nữ tính, nó như một dải lụa mềm maik “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”. Có được những quan sát tinh tế và chính xác như vậy, cho thấy ông là người hết sức am hiểu văn hóa, địa lí nơi đây và còn có một tình cảm đặc biệt dành cho khung cảnh và con người xứ Huế.

Từ hàng nghìn năm nay, sông Hương đã chứng kiến biết bao biến chuyển của lịch sử, có thể coi nó chính là chứng nhân lịch sử của mảnh đất này. Đây đồng thời cũng là yếu tố làm nên cốt cảnh, phẩm chất của dòng sông Hương. Dòng sông Hương uốn mình quanh những địa danh nổi tiếng, lăng tẩm của vị vua triều Nguyễn nó mang vẻ đẹp trầm mặc, như “triết lí, như cổ thi”. Trong phần này, Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đặc biệt chú ý miêu tả màu sắc đặc biệt của sông hương. Nó không thay đổi theo mùa như sông Đà mà thay đổi theo từng thời điểm trong ngày “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Có bất giác chúng ta nhớ đến tâm tư của một người con gái trẻ, tâm tư cũng thay đổi tựa như màu sắc của dòng sông này vậy. “Quả thực sông Hương có được vẻ đẹp bình dị nhưng không tầm thường, trầm mặc nhưng không ủy mị, dịu dàng nhưng vẫn tiềm ẩn khí mạnh của đất đai” (Sử thi buồn).

Đẹp nhất là sông Hương khi đã vào đến kinh thành Huế. Lúc này con sông “như đã tìm đúng hướng về” nên “vui tươi hẳn”. “Giáp mặt với thành phố ở cồn Giã Viên sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến, đường con ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Con sông vào đến kinh thành Huế được Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn nhận thật nhẹ nhàng, thanh thoát, có nét gì đó bẽn lẽn, yêu kiều của người con gái mới lớn. Cách so sánh cũng rất đăc biệt và tài tình. Sông Hương vừa mang trong mình cái kín đáo lại cũng rất đỗi thâm tình, nhẹ nhàng. Khiến ta cũng bất giác nhớ đến câu thơ của Thu Bồn:

    Con sông dùng dằng con sông không chảy

    Con sông chảy vào long Huế rất thơ.

Dòng sông chậm chạp trôi như đang ngóng mong, đợi chờ, như đang mơ màng, suy ngẫm điều gì đó. Cảm tình quyến luyến không muốn rời đi “ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của nỗi lòng”. Sự dung dằng ấy cho thấy sông hương không chỉ đẹp ở cảnh sắc mà còn đẹp ở cả tâm hồn, một tâm hồn sâu nặng như chính con người nơi đây.

Trước sự chùng chình của dòng sông Hương, tác giả đã có liên tưởng hết sức độc đáo, chùng chình như “người tài nữa đánh đàn lúc đêm khuya”. Đồng thời ông thấy sự tương đồng giữa cảnh cảnh thiên nhiên Huế và cảnh sắc thiên nhiên trong truyện Kiều – Nguyễn du, đó là tiếng đàn định mệnh, day dứt và đầy chua xót.

Rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương lưu luyến chẳng muốn rời xa, “và rồi như sực nhớ lại điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ hướng sáng hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa”. Đó chính là sự lưu luyến, dịu dàng mãi chẳng muốn dời xa của những đôi tình nhân, mà như chính tác giả cũng đã khẳng định: “nỗi vấn vương, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Sông Hương và kinh thành Huế chẳng phải là một cặp tình nhân đó sao?

Dưới ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương hiện lên vô cùng đẹp đẽ, hòa quyện nhiều nét đẹp khác nhau, khi mạnh mẽ , dự dỗi khi lại rất đỗi thâm trầm kín đáo. Vẻ đẹp của sông Hương cũng chính là vẻ đpẹ của con người nơi đây. Đồng thời qua bài kí này, tác giả cũng thể hiện tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng.

Số 14: Cảm nhận về vẻ đẹp sông Hương

Có ai về xứ Huế mộng mơ mà không một lần ngắm nhìn dòng sông Hương huyền diệu. Con sông đã làm nên nét đặc trưng của xứ Huế. Bởi vậy mà, nó đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho nghệ thuật trong đó có văn chương. Và một trong những tác phẩm nổi tiếng về sông Hương chính là tùy bút “ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nổi bật của tác phẩm này là hình tượng sông Hương đẹp, đầy màu sắc.

Trước hết, sông Hương là “bản trường ca của rừng già”. Sông Hương gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ. Con sông toát lên vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt vừa hùng tráng trữ tình như bản trường ca bất tận của thiên nhiên: “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Câu văn dài gợi dậy cái dư vang của trường ca. “Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Digan phóng khoáng man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Đây là một liên tưởng thú vị độc đáo. Bằng việc ví sông Hương với cô gái Digan, tác giả đã khắc sâu vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh mẽ. Sông Hương hiện lên như một con người có cá tính, có tâm hồn với vẻ đẹp hoang dại đầy tình tứ. Khi ra khỏi rừng, “sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Cách gọi này giúp người đọc có thêm một cách nhìn, một sự hiểu biết về vẻ đẹp hùng vĩ đầy chất thơ. Sông Hương còn là một đấng sáng tạo. Nó đã tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng xứ sở.

Nhà văn tiếp tục hình dung sông Hương như “người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” được người tình mong đợi đến đánh thức. Từ đây, thủy trình của sông Hương khi nó bắt đầu về xuôi như một cuộc tìm kiếm có ý thức. Người tình nhân đích thực của một người con gái đẹp trong câu truyện tình yêu nhuốm màu cổ tích. Thủy trình của sông Hương được miêu tả với sức sống mới, vóc dáng mới. Dòng sông chuyển dòng một cách kiên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột uốn mình qua những đường cong thật mềm. Hành trình khá gian truân, vượt qua nhiều thử thách: “từ ngã ba tuần sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Những câu văn miêu tả dòng chảy địa lý tự nhiên của dòng sông, biến dòng chảy ấy trở thành một hành trình của người con gái đẹp duyên dáng.

Vào giữa lòng thành phố, sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc”. “Sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quí của mình”. Sông Hương phẳng lặng đã khiến cho cảnh vật phố Huế trở nên mộng mị, ảo diệu, nhẹ nhàng. Sông Hương như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Sông Hương như một giai điệu chậm rãi khiến cho mọi cảnh vật, mọi thứ xô bồ như một phút lặng. Sông Hương còn được ví với “tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Tác giả đã gợi đến một nét đẹp văn hóa của Huế gắn với dòng sông thơ mộng: nhã nhạc cung đình Huế. Nhã nhạc phải được biểu diễn trên sông vào đêm khuya mới cảm nhận hết được vẻ đẹp âm nhạc và màu sắc văn hóa đặc trưng ở nơi đây.

Khi rời khỏi thành phố, sông Hương như một “người tình thủy chung”. Khúc ngoặt về hướng Đông của dòng sông trong con mắt của người nghệ sĩ là biểu hiện của nỗi vấn vương, cả một chút lẳng lơ kín đáo. Nhà văn hình dung sông Hương như nàng Kiều trở lại gặp Kim Trọng để nói lời thề trước khi đi xa.

Dòng sông Hương là dòng sông của lịch sử, của thi ca. Trong lịch sử, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản anh hùng ca, ghi dấu bao chiến công oanh liệt của dân tộc. Từ dòng sông biên thùy của các vua Hùng, đến bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt thời trung đại. Thế kỉ mười tám nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của các cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám của những chiến công rung chuyển. Không chỉ lịch sử mà còn là thi ca. Dòng sông không bao giờ tự lặp lại mình. Nó luôn mang vẻ đẹp mới. Nó có khả năng khơi nguồn cảm hứng mới cho các nhà văn nghệ sĩ. Một cảm hứng vô tận, nhiều sắc màu.

Số 15: Phân tích vẻ đẹp con sông Hương

Hoàng Phủ Ngọc Tường là cây bút nổi tiếng trong văn học Việt Nam hiện đại. Ông có sở trường về tuỳ bút và bút kí. Các tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường tạo được dấu ấn riêng trong nền văn học nhờ chất trữ tình đằm thắm cùng tư duy đa chiều, giàu chất trí tuệ. “Ai đã đặt tên cho dòng sông” rút từ tập bút ký cùng tên là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông.

Tác phẩm được hoàn thành vào năm 1981, sau chiến thắng 1975. Tác phẩm đã tái hiện chân thực, sống động vẻ đẹp của sông Hương, đánh thức linh hồn của cả một vùng đất. Và trong tác phẩm, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả vẻ đẹp của sông Hương ở hai góc nhìn là địa lý và văn hoá lịch sử.

Trước hết, dưới góc nhìn địa lý, sông Hương được miêu tả ở thượng nguồn và ở châu thổ.

Ở nơi thượng nguồn, sông Hương như “bản trường ca của rừng già”, với nhiều tiết tấu: khi “rầm rộ” giữa bóng cây đại ngàn, khi “mãnh liệt” qua những ghềnh thác, khi “dịu dàng, say đắm” giữa những rặng dài chói lọi màu đỏ của hoa Đỗ Quyên rừng. Trong cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường dòng sông còn giống như một cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại với những ghềnh thác cuộn xoáy như cơn lốc để xuống những vực sâu giữa lòng Trường Sơn. Rồi khi ra khỏi rừng già sông Hương mang vẻ đẹp của sự dịu dàng, trí tuệ. Đến lúc này, mọi sóng gió dữ dội nơi đại ngàn đã không còn nữa mà sông Hương giống như một bến đỗ bình an mà con người vẫn mong đợi sau những thác ghềnh, bão tố. Vẻ đẹp trí tuệ của dòng sông là vẻ đẹp của một con người từng trải biết giấu kín đi sự dữ dội, hoang sơ đằng sau những êm đềm, bình lặng. Sông Hương đã tích tụ cho mình một lượng phù sa lớn để trở thành bà mẹ của một vùng văn hoá xứ sở và sẽ không thể có kinh thành Huế ngày hôm nay nếu như không có sông Hương miệt mài bồi đắp phù sa suốt bao thế kỷ. Rồi sông Hương trở về châu thổ, trở về với Huế – thành phố tình yêu của nó.

Trước khi có sông Hương, Huế là một cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại với những đám “quần sơn lô xô”. Huế hoang dại và đơn điệu như đang thiếu vắng một cái gì đó. Ra khỏi vùng núi, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân. Dòng sông chuyển dòng liên tục, uốn mình theo những đường cong thật mềm. Từ ngã ba tuần sông chảy theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén rồi chuyển hướng Tây Bắc qua Nguyệt Biều, Lương Quán, cuối cùng đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía Đông Bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Trước khi có thể trở thành người tình êm dịu của mảnh đất này, sông Hương đã phải trải qua một cuộc hành trình dài đầy khó khăn và thử thách.

Khi trôi chảy giữa đôi bờ của ngoại vi thành phố Huế, sông Hương mang vẻ đẹp biến ảo, đa dạng. Khi nó giống đường con thân thể của người con gái, khi thì lại như một tấm lụa mềm mại, khi lại giống tấm gương lớn nhiều màu sắc: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Đến những nơi u tịch với nhiều lăng tẩm với nhiều vua chúa triều Nguyễn, sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc như triết lý, như cổ thi. Đến vùng ngoại ô Kim Long, sông Hương bỗng vui tươi hẳn lên. Đó là tinh thần của một người đi xa đã tìm thấy đường về giữa những bãi bờ thân thuộc của quê hương.

Bằng việc sử dụng hàng loạt các động từ cùng các từ ngữ chỉ địa danh, kết hợp với miêu tả và tự sự, tác giả đã làm nổi bật được vẻ đẹp của dòng sông khi xuôi về châu thổ, tìm đến với tình yêu của nó.

Khi sông Hương gặp Huế, hai vẻ đẹp như hoà vào làm một. Ngay từ xa, sông Hương đã nhìn thấy cầu Tràng Tiền như vành trăng non nhỏ nhắn in ngần trên nền trời hoàng hôn. Tác giả đã sử dụng một so sánh độc đáo, mới lạ để gợi tả vẻ đẹp của cầu Tràng Tiền. Cây cầu như một nét bừng sáng tô điểm cho vẻ đẹp của thành phố cũng như của dòng sông. Các nhánh sông toả đi khắp thành phố như muốn ôm trọn Huế vào lòng. Từ đây, sông Hương giảm hẳn lưu tốc, trôi đi chậm, cực chậm. Tác giả đã dùng nhiều liên tưởng so sánh khác nhau để miêu tả sông Hương. Điệu chảy của dòng sông khiến tác giả hình dung tới sông Nê – va của Lêningrat, tới dòng sông thời gian, dòng sông đời người của Hê – ra – clít. So sánh ấy đã làm nổi bật thêm cái vẻ lặng tờ của sông Hương. Điệu chảy rất riêng ấy của sông Hương đã làm nên vẻ đẹp như thực như mơ của Huế. Cuộc gặp gỡ này của sông Hương với Huế như cuộc hội ngộ trong tình yêu với rất nhiều cung bậc cảm xúc.

Rời khỏi kinh thành sông Hương ôm lấy đảo Cồn Hến để lưu luyến ra đi. Rồi đang chảy theo hướng chính Bắc, dòng sông đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố yêu dấu lần cuối. Cái khúc quanh đột ngột này của sông Hương được người ta ví như nỗi vướng bận trong tình yêu.

Có thể thấy, dưới góc nhìn địa lý, sông Hương vừa êm đềm, vừa thơ mộng trữ tình nhưng cũng vừa mãnh liệt, hoang sơ. Toàn bộ thuỷ trình của dòng sông giống như một cuộc tìm kiếm có ý thức của một người con gái, kiếm tìm một tình yêu đích thực trong câu chuyện tình đẹp như cổ tích của mình.

Dưới góc nhìn văn hoá và lịch sử, qua ngòi bút của tác giả, sông Hương không tách rời với đời sống văn hoá của đất cố đô mà hoà nhập với phần văn hoá vật thể của nơi này. Với những “quần sơn lô xô”, với những “đền đài lăng tẩm mang tầm vóc nghìn năm của vua chúa”, với những “rừng thông u tịch”… tất cả những điều đó đã làm nên một quần thể xứ Huế sơn thuỷ, hữu tình.

Trong cảm nhận tinh tế của nhà văn, sông Hương còn hàm chứa trong nó cả nền văn hoá phi vật thể của Huế. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, sắc áo điều lục – màu tím mà người Huế ưa thích vốn là màu của sương khói trên sông Hương. Nó tựa một tấm voan huyền ảo đến từ thiên nhiên. Dòng sông cũng góp phần làm nên vẻ đẹp êm đềm, phẳng lặng của người Huế. Sông Hương cũng đã khơi nguồn cho biết bao thế hệ nghệ sĩ. Dòng sông trở thành nàng thơ trong tâm hồn thi sĩ với vẻ đẹp đa dạng, biến ảo, không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nhà thơ. Ở thơ Tản Đà, đó là “dòng sông trắng, lá cây xanh” tha thướt, mơ màng. Ở thơ Cao Bá Quát nó hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh”. Ở thơ Bà Huyện Thanh Quan nó là “nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng. Không chỉ thế, nó còn gắn với những câu hò, điệu hát. Ở sông Hương là sự tồn tại song song giữa hai dòng nhạc cung đình và dân gian. Âm nhạc được sinh ra trên dòng chảy sông Hương khi người nghệ sĩ lênh đênh trên sông Hương, trên một khoang thuyền nào đó, nghe tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya mà nảy sinh cảm hứng viết nên những bản đàn. Chính vì vậy, với Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương giống như một tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya thanh vắng.

Khi nhắc đến màu sắc sông Hương chúng ta không thể không nhắc đến một giai thoại đẹp mà nhà văn đã phải kỳ công lục tìm “tôi thích một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, nhân dân hai bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi”. Giai thoại này không phải ai cũng biết, kể những người đã sống lâu năm ở Huế. Khi tác giả kể về giai thoại này, câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông” ít nhiều đã được giải đáp.

Và sông Hương không chỉ được đặt trên mối quan hệ với không gian địa lý, với các giá trị văn hoá mà còn được soi ngắm trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm kiếm rất nhiều tư liệu lịch sử về sông Hương trong đó có cả những kiến thức mà không mấy người biết đến kể cả những người sống lâu năm tại Huế. Sông Hương là dòng sông biên thuỳ xa xôi ở thời các vua Hùng. Ở thời trung đại với tên gọi là Linh Giang nó đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía Nam của Đại Việt. Trong thế kỷ mười tám, sông Hương vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. Sông Hương đã sống hết thế kỷ mười chín bi tráng với máu của các cuộc khởi nghĩa. Từ đây, sông Hương tiếp tục đi vào thời đại cách mạng tháng Tám, trải qua chiến dịch Mậu Thân và cuộc tổng tiến công 1975. Như vậy, sông Hương luôn vận động xuyên suốt tiến trình lịch sử Việt Nam. Nó vừa là chứng nhân lịch sử vừa phải gánh vác trên vai  nhiệm vụ lịch vụ lịch sử đầy vinh quang. Bởi thế sông Hương đã được gọi là “dòng sông của thời gian ngân vang” bởi nó chứa đựng những âm hưởng hào hùng, bi tráng của lịch sử dân tộc.

Có thể thấy, sông Hương đã được nhìn nhận, miêu tả từ góc nhìn địa lý đến văn hoá lịch sử và trong cả sinh hoạt, phong tục cũng như văn hoá đời sống của nhân dân.

Từ tình yêu dành cho sông Hương, dành cho xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tái hiện được nhiều vẻ đẹp khác nhau của sông Hương. Tất cả đã được ông thể hiện trong một lối viết tao nhã, hướng nội. Người đọc đã nhận ra được tài năng cũng như tình cảm của nhà văn đối với quê hương, đất nước.

Bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Tổng kết

Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 15 mẫu phân tích vẻ đẹp sông Hương chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 12.

0/5 (0 Reviews)
Chúng tôi tạo ra Top10timkiem.vn nhằm mục đích cung cấp cho người đọc những thông tin, liệt kê một cách chi tiết nhất về mọi lĩnh vực trong cuộc sống.