Top 10 bài phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân chi tiết nhất

299
Top 10 bài phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân chi tiết nhất
Top 10 bài phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân chi tiết nhất
4.9/5 - (13 votes)

Tổng hợp các bài mẫu phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 10 bài phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Dàn ý phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân

I. Mở bài

Chương Đất nước trích trong trường ca Mặt dường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm là sự cảm nhận của tác giả về vai trò và những hi sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc. Cũng như những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thời kì chống Mĩ, Nguyên Khoa Điềm đã thể hiện những suy ngẫm của mình về nhân dân thông qua những trải nghiệm của chính bản thâ 1 mình. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V của bản trường ca này.

II. Thân bài

a) Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” được thể hiện qua cái nhìn về thời gian – lịch sử của đất nước.

– Nói về sự hình thành của đất nước, tác giả không nhắc tới những sử liệu mà gợi lên những cái gần gũi, thân thuộc, bình dị trong đời sống hằng ngày của nhân dân.

Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”… mẹ thường hay kể:

Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.

Suy ngẫm về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước “thời gian đằng đẵng”, nhà thơ không kể đến những anh hùng lừng danh trong sử sách mà nhắc tới những lớp người bình thường, vô danh:

Có biết bao người con gái con trai

Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất nước

Chính những con người vô danh đó đã tạo dựng lên đất nước này từ những giá trị vật chất đến những giá trị tinh thần: “Họ truyền cho ta hạt thóc lúa ta trồng. Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi. Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói”… Họ mang chính máu xương của mình gìn giữ non sông, đất nước này: “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm, có nội thù thì vùng lên đánh giặc”…

b) Đất nước còn được nhìn nhận trong chiều rộng của không gian, lãnh thổ, địa lí “không gian mênh mông”. Non sông tươi đẹp ấy, qua cái nhìn của nhà thơ, cũng được tạo nên từ công sức, mồ hôi, máu thịt của nhân dân:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái…

Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên.

Từ những phát hiện trên, nhà thơ đã “qui nạp”, nâng lên thành một khái quát sâu sắc:

Và ở dâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.

c) Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” còn được thể hiện ở phương diện chiều sâu của vãn hóa, phong tục, của tâm hồn, tính cách dân tộc. Tâm hồn dân tộc được thể hiện sâu sắc nhất trong văn hóa, văn học dân gian. Vì thế, “Đất nước của nhân dân” cũng chính là “Đất nước của ca dao, thần thoại”.

d) Đề xuất nhận định, đánh giá

– Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” là tư tưởng thấm nhuần tinh thần của thời đại chống Mĩ. Tư tưởng đó được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện bằng một hình thức thơ trữ tình – chính luận. Cái lí lẽ mà tác giả đưa ra nhằm thuyết phục người đọc thật giản dị: không ai khác mà chính nhân dân, những con người vô danh – đã kiến tạo và bảo vệ, gìn giữ đất nước, đã xây dựng nên những truyền thống văn hóa, lịch sử hàng ngàn đời của dân tộc. Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ những năm chống Mĩ.

– Trong đoạn thơ Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng rộng rãi và có sáng tạo các chất liệu văn hóa dân gian, từ ca dao tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích và cả những phong tục, tập quán sinh hoạt. Điều đó không đơn thuần chỉ là một thủ pháp nghệ thuật mà còn là sự thấm nhuần sâu sắc tư tưởng “Đất nước của nhân dân” trong cảm hứng sáng tạo của nhà thơ.

III. Kết bài

Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” là một tư tưởng lớn, và thực ra đã có từ lâu trong lịch sử xa xưa của dân tộc. Những nhà tư tưởng lớn của dân tộc như Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu v.v… đã từng phát biểu về vai trò to lớn của nhân dân trong lịch sử.

– Đến giai đoạn chống Mĩ, tư tưởng ấy đã được những nhà thơ trẻ phát biểu một cách chân thành và thấm thía qua sự trải nghiệm của chính mình với tư cách là một con người cùng chung số phận với nhân dân, cùng chia sẻ với nhân dân mọi hi sinh, gian khổ. Nguyễn Khoa Điềm, trong trường ca Mặt đường khát vọng đã góp thêm một tiếng nói cho dòng thơ về đất nước, làm sâu sắc và phong phú thêm nhận thức về nhân dân và đất nước.

Xem thêm:

Top 10 bài phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân

Số 1: Phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân

Đất nước luôn là một chủ đề bao trùm trong thơ ca, đặc biệt là thơ ca thời kì chống Mĩ. Cảm nhận của các nhờ thơ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ có những nét rất riêng mang dấu ấn sự trải nghiệm bằng chính cuộc sống của mình, nhất là thơ của những cây bút trực tiếp cầm súng. Trong sự cảm nhận về đất nước của các nhà thơ thời kì chống Mĩ, thấm nhuần tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, đoạn trích Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm thể hiện rõ nội dung tư tưởng ấy.

Bao trùm cả đoạn thơ nói về đất nước là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Đây là một đoạn tiêu biểu nhất trong trường ca Mặt đường khát vọng. Nhà thơ viết để thức tỉnh nhân dân các đô thị miền Nam trong vùng bị giặc chiếm và rộng hơn là cho mọi người nhận thức lại một vấn đề đã trở nên quá quen thuộc, đó là vấn đề đất nước: Đất nước có tự bao giờ? Đất nước là gì? Ai làm nên đất nước… để từ đó mỗi người tự xác định trách nhiệm của mình đối với đất nước.

Thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng những chất liệu thuộc văn hóa dân gian một cách đậm đà và sáng tạo, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, truyện cổ tích, từ những phong tục tập quán đến những chi tiết lấy từ đời sống hàng ngày của nhân dân như cau trầu, cái kèo, cái cột, hạt gạo ta ăn hàng ngày đến hòn than, con cúi… Có khi tác giả giữ nguyên văn một câu ca dao nhưng chủ yếu là tác giả nhào nặn những chất liệu ấy bằng một cảm xúc với một cách nói mới khiến cho những câu thơ vừa hiện đại vừa thấm đẫm bất liệu dân gian, chẳng hạn như câu thơ:

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Lấy từ ý của câu ca dao:

Tay nâng chén muối đĩa gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.

Câu thơ: “Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” là lấy từ bài ca dao nổi tiếng: “Khăn thương nhớ ai khăn rơi xuống đất/Khăn thương nhớ ai khăn vắt lên vai”…

Đoạn thơ được sáng tác theo thể tự do, các dòng thơ cũng như mạch cảm xúc và sự triển khai ý thơ khá tự do, thoải mái, có thể gọi là một thứ tùy bút thơ, nhưng thực ra nó vẫn có một trình tự kết cấu rất logic. Những liên tưởng dựa trên những câu ca dao, các môtíp thần thoại, truyện cổ tích và những chi tiết về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán… tựu trung để thể hiện đất nước trên các phương diện thời gian, không gian địa lí, lịch sử, bề dày văn hóa, phong tục tập quán, lối sống và tình cách dân tộc. Ở phương diện nào thì tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” cũng vẫn là tư tưởng cốt lõi, chi phối mọi cảm xúc của sáng tạo nghệ thuật.

Đó cũng chính là đặc điểm cơ bản của thơ Nguyễn Khoa Điềm, vừa chính luận, triết lí, vừa tình cảm thhiết tha. Chính vì thế khi nói về lịch sử đất nước, tác giả không nói như các nhà lịch sử đưa ra những sử liệu mà bằng cách để cho ta nghe từ thuở ấu thơ, là miếng trầu của bà ăn, cái kèo, cái cột tro nhà, hạt gạo ta ăn hàng ngày đến tình nghĩa của cha mẹ:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.

Những câu thơ không phải chỉ cụ thể hóa khái niệm đất nước bằng những cái thường ngàu dần gũi trong đời sống con người mà còn gợ lên một bề dày lịch sử mốn nghìn năm và chiều sâu của một nền văn hóa phong phú, lâu đời của dân tộc. Những câu thơ cũng không phải chỉ nhắc đến những phong tục tập quán, truyền thống đánh giặc giữ nước mà còn gợi đến các truyền thuyết, các truyện cổ tích vào loại cổ xưa nhất của dân tộc: truyện cổ tích Sự tích trầu cau, truuyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh giặc… và dưới tầng sâu của những câu chữ ấy còn nhắc ta nhớ đến những người đã làm nên đất nước, tức là những người đã sáng tạo ra nền văn hóa, đã tạo ra những truyện dân gian và truyền thống ấy. Họ chính là nhân dân, những con người vô danh giản dị nhưng vô cùng thông minh. Chính họ đã làm ra đất nước. Lời thơ như những lời trò chuyện tâm tình thủ thỉ về những kỉ niệm của chính mình.

Lịch sử của đất nước đã trải qua bốn nghìn năm xây dựng và bảo vệ, khi nghĩ về chiều dài truyền thống dân tộc thường người ra nghĩ về những triều đại, đến những bậc vua chúa và những anh hùng trong sử sách, nhưng đất nước đâu phải chỉ có những bậc vua chúa và những anh hùng lưu danh ấy, đâu chỉ có riêng họ làm nên đất nước, vì thế khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm, Nguyễn Khoa Điềm chỉ điểm lại các triều đại mà không nhắc đến tên tuổi các anh hùng dân tộc nổi tiếng. Nhà thơ nhấn mạnh đến vô vàn những con người vô danh bình dị trong suốt bốn nghìn năm lịch sử:

Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

Những con người vô danh ấy chính là nhân dân, họ là một tập thể những anh hùng vô danh. nr Họ sống rất giản dị, họ chính là những người sáng tạo ra đất nước và họ không tiếc máu xương để chiến đấu bảo vệ đất nước. Họ chiến đấu và hi sinh không phải đem lợi ích gì cho cá nhân họ, cũng không phải để lại dòng tên lưu danh mà vì lẽ thiêng liêng cao cả là bảo vệ đất nước. Họ cũng chính là những người đã giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau giá trị văn hóa, tinh thần, vật chất của đất nước, của dân tộc, từ hạt lúa với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa tạo nên bước tiến của loài người đến những giá trị tinh tần quý báu như ngôn ngữ, giọng nói của cha ông, phong tục tập quán, tên xã tên làng… Họ cũng chính là những người an hùng văn hóa:

Họ giữ lửa truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân.

Những câu thơ không chỉ thể hiện sự nhận thức sâu sắc mà còn ẩn chứa biết bao cảm xúc chân thành của nhà thơ trước những hi sinh thầm lặng và những đóng góp lớn lao của những người vô danh trong suốt chiều dài lịch sử.

Đất nước là máu xương của những con người vô danh, là truyền thống lâu đời của dân tộc tồn tại mãi cho đến ngày hôm nay nhưng đất nước cũng là một không gian địa lí cụ thể từ thuở xa xưa “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông:, từ thuở một trăm người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ, người lên núi, kẻ xuống biển sinh cơ lập nghiệp, đất nước còn là không gian gần gũi với đời sống mỗi người: “Đất là nơi anh đến trường/Nước là nơi em tắm”, với tình yêu tuyệt vời của đôi lứa “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Cái không gian ấy cũng là cái không gian sinh tồn trong cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ vẫn giữ gìn mãi những nét đẹp trong phong tục tập quán, cội nguồn làm nên sức mạnh của dân tộc:

Những ai đã khuât

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặ dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biến cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.

Từ quan niệm “Đất Nước của nhân dân”, tác giả đã có những phát hiện sâu sắc và mới mẻ về những thắng cảnh của đất nước, đồng thời là niềm tự hào của dân tộc nghìn năm văn hiến:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những hòn núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

………………………..

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, bà Đen, bà Điểm.

Từ sự tích núi Vọng Phu đến hòn Trống Mái, từ lịch tích Thánh Gióng đến sự tích chín mươi chín con voi quây quần thuần phục nơi đất tổ Hùng Vương, từ những sự tích về núi Bút non Nghiên, thắng cảnh Hạ Long đến những địa danh ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm… mỗi danh lam thắng cảnh đều gắn với một truyền thuyết riêng, tạo nên một thời gian cổ tích huyền thoại. Những thắng cảnh ấy đâu phải chỉ là những vật vô tri vô giác ngẫu nhiên do kiến tạo địa lí mà là do những con người cùng hóa thân mình tạo dựng làm nên những vẻ đẹp của đất nước. Từ những danh lam thắng cảnh cụ thể ấy, tác giả đi đến khái quát sâu sắc bằng những câu thơ giàu triết lí:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dánh hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…

Và khi nói về “Đất Nước của Nhân dân”, một cách tự nhiên, tác giả trở về với ngọn nguồn phong phú đẹp đẽ của nền vă hóa vă học dân gian mà tiêu biểu là ca dao. Vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, được thể hiện trong ca dao và cổ tích: “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”. Tư tưởng cốt lõi của đoạn thơ đến đây được gợi lên một cách trực tiếp thật giản dị mà cũng thật độc đáo. Đến với thơ ca, tác giả chỉ chọn ba câu thơ trong kho tàng ca dao dân gian để nói về ba phương diện quan trọng nhất của đời sống dân tộc. Thật say đắm trong tình yêu “yêu em từ thuở trong nôi”, quý trọng tình nghĩa: “quý công cầm vàng những ngày lặn lội” nhưng cũng thật quyết liệt trong căm thù và chiến đấu: “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/Đi trả thù mà không sợ dài lâu”. Đấy là những phẩm chất tạo nên vẻ đẹp và sức mạnh kì diệu của dân tộc Việt Nam trong suốt bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” thực ra không phải nói đến Nguyễn Khoa Điềm và thơ ca chống Mĩ mới có mà nó đã xuất hiện từ thời xa xưa. Thơ ca chống Mĩ chỉ là sự kế tục, làm phong phú, sâu sắc thêm cảm hứng này. Từ thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã quan niệm “lật thuyền mới biết dân như nước”. Phan Bội Châu cũng đã từng viết “dân như nước, nước là nước dân”.

Đây là những nhận thức vô cùng đúng đắn, nhưng phải đến giai đoạn chống Mĩ, tư tưởng này mới lại một lần nữa đực nhận thức sâu sắc thêm bởi những vai trò, những đóng góp to lớn, những hi sinh anh dũng của nhân dân trong cuộc chiến tranh ác liệt nhất trong lịch sử dân tộc. Và với Nguyễn Khoa Điềm, từ tưởng này được thể hiện rõ nhất và được nâng lên thành cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Đây là một đóng góp rất quý báu của Nguyễn Khoa Điềm đối với việc bồi dưỡng tình cảm yêu nước cho người đọc.

Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm

Xem thêm:

Số 2: Tư tưởng đất nước của nhân dân

Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Trường ca “Mặt đường khát vọng” là tác phẩm xuất sắc, mang vẻ đẹp độc đáo của ông, được sáng tác vào năm 1971 tại núi rừng chiến khu Trị – Thiên. Bài “Đất Nước” là chương V của trường ca này. Tác giả đã sử dụng một cách sáng tạo các chất liệu – thi liệu từ tục ngữ, ca dao dân ca, từ truyền thuyết cổ tích đến phong tục, ngôn ngữ… của nền văn hóa dân tộc để khơi nguồn cảm hứng về Đất Nước, một Đất Nước có nguồn gốc lâu đời, một Đất Nước của Nhân Dân vĩnh hằng muôn thuở.

Đoạn thơ 12 câu này trích trong phần II bài “Đất Nước” đã ca ngợi Đất Nước hùng vĩ, tự hào khẳng định những phẩm chất cao đẹp của nhân dân ta, dân tộc ta. Câu thơ mở rộng đến 13, 14, 15 từ, nhưng vẫn thanh thoát, nhịp nhàng, giàu âm điệu và nhạc điệu gợi cảm:

Tám câu thơ đầu nói về tượng hình Đất Nước, một Đất Nước hùng vĩ, một giang sơn gấm vóc. Khắp nơi trên mọi miền Đất Nước ta, ở đâu cũng có những danh lam thắng cảnh. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái đã đi vào huyền thoại cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm đã có một cái nhìn khám phá, nhân văn. Núi ấy, hòn ấy là do “những người vợ nhớ chồng”, hoặc cặp vợ chồng yêu nhau mà đã “góp cho”, đã “góp nên”, làm đẹp thêm, tô điểm thêm Đất Nước:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”.

Núi Vọng Phu Ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định,… hòn Trống Mái ở Sầm Sơn không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Vợ có “nhớ chồng”, cặp vợ chồng có “yêu nhau” thì mới “góp cho Đất Nước”, mới “góp lên” những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái ấy. Tình yêu lứa đôi có thắm thiết, tình nghĩa vợ chồng có thủy chung thì Đất Nước mới có tượng hình kì thú ấy. Tác giả đã vượt lên lối liệt kê tầm thường để có một cách nhìn, một cách diễn đạt mới mẻ, nhân văn.

Hai câu thơ tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống. Cái “gót ngựa của Thánh Gióng” đã để lại cho Đất Nước ta bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay, 99 núi con Voi Ở Phong Châu đã quần tụ, chung sức chung lòng “góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”. Các từ ngữ: “đi qua còn… để lại”, “góp mình dựng” đã thể hiện một cách bình dị mà tự hào về sự thiêng liêng của Tổ quốc, về khí phách anh hùng, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc của nhân dân ta trong xây dựng và bảo vệ Đất Nước:

“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”.

Đất Nước ta có núi cao, biển rộng, sông dài. Có sông Hồng Hà “đỏ nặng phù sa”. Có sông Mã “bờm ngựa phi thức trắng”. Và còn có Cửu Long Giang với dáng hình thơ mộng, ôm ấp huyền thoại kiêu sa:

“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”.

Rồng “nằm im” từ bao đời nay mà Nam Bộ mến yêu có “dòng sông xanh thẳm” cho quê hương nhiều nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông biển lúa bốn mùa. Phải chăng nhà thơ trẻ qua vẻ đẹp dòng sông Chín Rồng để ca ngợi giang sự gấm vóc, con người Việt Nam rất đỗi tài hoa?

Quảng Nam, Quảng Ngãi quê hương của Hoàng Diệu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,… có núi Ân sông Đà, có núi Bút non Nghiên. Ngắm núi Bút non Nghiên, Nguyễn Khoa Điềm không nói về “địa linh nhân kiệt” mà nghĩ về người học trò nghèo, về truyền thống hiếu học và tấm lòng tôn sư trọng đạo của nhân dân ta:

“Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên “.

Nghèo mà vẫn “góp cho” Đất Nước ta núi Bút non Nghiên, làm rạng rỡ nền văn hiến Đại Việt. Nghèo vật chất mà giàu trí tuệ tài năng. Hạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có “con cóc, con gà quê hương cùng góp cho”. Và những tên làng, tên núi, tên sông như ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm… ở vùng cực Nam Đất Nước xa xôi đã do “những người dân nào đã góp tên” đã đem mồ hôi, xương máu bạt rừng, lấn biển, đào kênh, bắt sấu, săn hổ… làm nên? Nhà thơ đã có một cách nói bình dị mà thấm thía ca ngợi đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân ta, khẳng định nhân dân vô cùng vĩ đại, người chủ nhân đã “làm nên Đất Nước muôn đời”:

“Con cóc con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”.

Tám câu thơ với bao địa danh và cổ tích huyền thoại được nhà thơ nói đến thể hiện niềm tự hào và biết ơn Đất Nước cùng Nhân dân. Các thi liệu – hình ảnh: người vợ, cặp vợ chồng, gót ngựa, 99 con voi, con rồng, người học trò nghèo, con cóc con gà, những người dân nào… dưới ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm mang ý nghĩa tượng trưng cho tâm hồn trung hậu, cho trí tuệ và tài năng, đức tính cần cù và tinh thần dũng cảm,… của nhân dân ta qua trường kì lịch sử. Chính nhân dân vĩ đại đã “góp cho”, “góp nên”, “để lại”,… đã làm cho Đất Nước ngày thêm giàu đẹp. Nhà thơ đã đem đến cho những động từ – vị ngữ ấy (góp cho, góp nên…) nhiều ý nghĩa mới mẻ, nhiều sắc thái biểu cảm với bao liên tưởng đầy tính nhân văn.

Bốn câu thơ cuối đoạn, giọng thơ vang lên say đắm, ngọt ngào. Từ cụ thể, thơ được nâng lên tầm khái quát, tính chính luận kết hợp một cách hài hòa với chất trữ tình đằm thắm:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”

Ruộng đồng gò bãi… là hình ảnh của quê hương đất nước. Những tên núi, tên sông, tên làng, tên bản, tên ruộng đồng, tên gò bãi… bất cứ ở đâu trên đất nước Việt Nam thân yêu đều mang theo “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. Hình tượng đất nước cũng là điệu tâm hồn, phong cách, ước mơ hoài bão của ông cha ta, tổ tiên ta bốn nghìn năm lịch sử dựng nước. “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” là một câu thơ rất hay, rất đẹp ca ngợi tâm hồn Việt Nam, nền văn hóa Việt Nam. Chữ “một” được điệp lại 3 lần, chữ “ta” được láy lại 2 lần, kết hợp từ “ôi” cảm thán đã tạo nên những vần thơ du dương về nhạc điệu, nồng nàn, say đắm, tự hào về cảm xúc. Vừa đĩnh đạc hào hùng, vừa thiết tha lắng đọng. Vẻ đẹp nhân văn chan hòa trên những dòng thơ tráng lệ.

Tầm vóc của Đất Nước và dân tộc được hiện diện một cách sâu sắc rộng lớn không chỉ trên bình diện địa lí “mênh mông” mà còn ở dòng chảy của thời gian và lịch sử bốn nghìn năm “đằng đẵng”. Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm trong bài “Đất Nước”. Câu thơ mở rộng đậm đặc chất văn xuôi. Yếu tố chính luận và chất chữ tình, chất cảm xúc hoà quyện, làm cho chất thơ dào dạt, ý tưởng sâu sắc, mới mẻ. Đất nước hùng vĩ, nhân dân anh hùng, cần cù, hiếu học, ân nghĩa thủy chung… được nhà thơ cảm nhận với tất cả lòng yêu mến tự hào. Chất liệu văn hóa dân gian được tác giả vận dụng sáng tạo.

Qua hình tượng Đất Nước mà nhà thơ ca ngợi tâm hồn Nhân Dân, khẳng định bản lĩnh nòi giống và dáng đứng Việt Nam. Thiên nhiên Đất Nước đã được Nhân Dân sáng tạo nên. Nhân Dân là chủ nhân của Đất Nước. Bài thơ đích thực khơi gợi hồn người trở nên trong sáng, phong phú và cao thượng. Đoạn thơ như một tiếng nói tâm tình “dịu ngọt”, nhà thơ như đang đối thoại cùng ta về Đất Nước và Nhân dân. Đọc lại đoạn thơ, lòng mỗi chúng ta bâng khuâng, xúc động nghĩ về hai tiếng Việt Nam thân thương, ta cảm thấy hãnh diện và lớn lên cùng Đất Nước.

Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm

Số 3: Tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước

Điều giản dị mà Nguyễn Khoa Điềm khám phá, đưa vào thơ là sự sáng tạo của nhà thơ. Thế mới biết thơ ca không chỉ phản ánh hiện thực, thi vị hóa hiện thực mà còn chắp cánh cho con người đi lên, bay bổng vươn tới tương lai.

Là một trí thức tham gia kháng chiến, trưởng thành trong phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Huế, Nguyễn Khoa Điềm còn là nhà thơ có nhiều đóng góp cho nền thơ ca Việt Nam. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thiên về chính luận kết hợp với trữ tình. Những bài bài thơ của tác giả đều thể hiện khát vọng chiến đấu, một niềm tin cháy bỏng vào đất nước và nhân dân. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” đã chi phối cách nhìn, cách nghĩ của anh. Đó cũng chính là một khám phá mới làm sâu sắc thêm ý niệm về đất nước của thơ thời chống Mĩ.

Trước hết, Đất Nước theo Nguyễn Khoa Điềm là những gì gần gũi, gắn bó với mỗi con người, đất nước là những gì ngày xửa ngày xưa “mẹ thường hay kể”, mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trứng trăm con, “Đất Nước, bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”, “là nơi ta hò hẹn”, “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”… chất suy tưởng của nhà thơ đậm màu sắc dân gian dẫn ta đi về cội nguồn: ta là con Rồng cháu Tiên, cái quá khứ thần thoại và tương lai như hòa quyện với nhau tăng cảm xúc trữ tình bay bổng:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi.

Đất nước có trong những cái “Ngày xửa ngày xưa …mẹ thường hay kể”. Đất nước trường tồn trong chiều dài lịch sử và hóa thân vào mỗi con người:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất Nước vẹn tròn to lớn

Thật là một suy tưởng đúng đắn và đầy sáng tạo. Xưa nay chúng ta thường quan niệm đất nước là của chung, là những cái xoay quanh ta, đã mấy ai coi đất nước có trong mỗi con người. Hơn nữa nếu “hai đứa cầm tay, Đất Nước vẹn tròn to lớn”. Một quan niệm về đất nước như thế thật gần gũi, thân thiết. Cách nhìn mới mẻ ấy của nhà thơ giúp cho chúng ta thấy mình như một bộ phận, dù rất nhỏ bé trong cơ thể đất nước là ta lo cho trước hết bản thân mình, là góp phần cho đất nước muôn đời, lo cho con cháu chúng ta mai sau.

Đất nước của nhân dân nên nhân dân gắng công giữ gìn như là giữ cho chính máu thịt của mình. Lịch sử đã ghi nhận điều đó cho nên “những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. Chủ nhân của đất nước này, lịch sử vẻ vang của đất nước này là công lao đóng góp của nhân dân. Thế hệ trước, thế hệ sau, kẻ ngã xuống, người đứng lên đã tạo nên vẻ đẹp của đất nước, và như vậy, núi sông này tồn tại, đất nước này vươn tới, nhất định phải là công lao của nhân dân.

Điều giản dị mà Nguyễn Khoa Điềm khám phá, đưa vào thơ là sự sáng tạo của nhà thơ. Thế mới biết thơ ca không chỉ phản ánh hiện thực, thi vị hóa hiện thực mà còn chấp cánh cho con người đi lên, bay bổng vươn tới tương lai.

Số 4: Phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước

Đất nước là một chủ đề được quan tâm hàng đầu đối với lịch sử văn học nước ta. Mỗi thời đại có một cách hiểu, cách quan niệm riêng về đất nước. Thời trung đại người ta thường quan niệm đất nước gắn liền với công lao của các triều đại, do các triều đại kế tiếp nhau gây dựng lên. Còn ở thời hiện đại, khi người ta nhìn thấy rõ sức mạnh to lớn của nhân dân, người ta mới thấy rằng đất nước là của nhân dân. Điều này tất nhiên càng được các nhà văn Việt Nam ý thức sâu sắc hơn ai hết khi dân tộc ta tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại chống Mỹ cứu nước. Tư tưởng xuyên suốt chương thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chính là tư tưởng đất nước của nhân dân.

Thành công đầu tiên khi thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân là Nguyễn Khoa Điềm đã lựa chọn cho mình chất liệu văn hóa rất phù hợp đó là chất liệu văn hóa dân gian. Vẫn biết rằng chất liệu thuộc hình thức nghệ thuật của một bài thơ mà nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ còn trái tim là nghệ sĩ. Tuy nhiên việc thể hiện tiếng nói của trái tim là rất quan trọng. Văn hóa dân gian trong bài thơ là những câu tục ngữ ca dao, những làn điệu dân ca, những câu hò sông nước, những câu chuyện cổ tích, những phong tục tập quán mà Nguyễn Khoa Điềm đã gói gọn trong câu thơ: “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.

Nguyễn Khoa Điềm đi tìm đất nước ở cái ngày xửa ngày xưa trong câu chuyện cổ tích. Vì vậy nhà thơ mở đầu khúc ca đất nước bằng những câu thơ:

“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể

Đất nước có từ ngày đó”

Trở về với cái “ngày xửa ngày xưa” ấy, nhà thơ đã phát hiện ra hai nguyên tố gốc, nguyên tố cơ bản làm ra đất nước đó là “đất” và “nước”. Trong quá trình hình thành thực thể đất nước cũng như phát triển đất nước “đất” và “nước” là hai tế bào đầu tiên. Nguyễn Khoa Điềm biến hóa, nhân đôi, sinh sôi nảy nở để trở thành cơ thể đất nước hoàn chỉnh. Tất cả những điều đó làm toát lên vẻ đẹp của nền văn minh lúa nước lâu đời. Cái hay của Nguyễn Khoa Điềm ở đây là ông không bê y nguyên câu tục ngữ ca dao nào thành thơ của mình mà dường như văn hóa dân gian thấm sâu vào tâm hồn ông ngay từ tấm bé qua câu hát điệu ru của bà của mẹ để bây giờ khi viết về đất nước, ông đã chưng cất nó, chắt lọc nó, xử lí nó qua lăng kính tâm hồn của mình. Thế là mỗi câu thơ dưới ngòi bút Nguyễn Khoa Điềm phảng phất theo làn điệu dân ca, phỏng theo những điệu hát ca dao, phỏng theo câu truyện cổ tích.

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm”

Dùng thuyết âm dương, nhà thơ đã nhập đất vào với nước để tìm ra khái niệm đầu tiên:

Đất nước là nơi ta hò hẹn

Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ

Với cách cắt nghĩa, khám phá để lí giải, tác giả khẳng định làm ra đất nước này đó chính là sự hò hẹn của đôi ta. Đôi ta ở đây chính là anh và em, là sự hóa thân của nhân dân. Nói cách khác nhân dân là người làm ra đất nước.

Văn hóa dân gian là sản phẩm tinh thần của nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm đã mượn sản phẩm tinh thần của nhân dân để viết về tư tưởng đất nước của nhân dân, như vậy bài thơ Đất Nước từ nội dung đến hình thức nghệ thuật đều thấm đẫm tư tưởng đất nước của nhân dân. Và cứ như thế, không mạnh mẽ gân guốc, tác giả thủ thỉ thì thầm với người đọc để khẳng định rằng đất nước này trong bốn nghìn năm qua không ai khác ngoài nhân dân bằng những câu thơ:

“Khi hai đứa cầm tay

Đất nước vẹn tròn to lớn”.

Đất nước này có phát triển, có vẹn tròn to lớn nhờ có chúng ta cầm tay mọi người, nhờ có tinh thần đoàn kết của nhân dân. Tinh thần đoàn kết ấy tạo ra sức mạnh cho đất nước, giúp đất nước phát triển to lớn.

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.

Vẫn biết rằng một đất nước là sự cộng gộp của biết bao ngọn núi, con sông, ruộng đồng, gò bãi… Ở đâu cũng có tên đất, tên làng, tên núi, tên sông… Một mảnh đất chừng nào thiếu đi tên gọi, chừng ấy nó thiếu đi sự thiêng liêng của con người. Nhưng đặt tên gọi không tùy tiện bởi đằng sau tên gọi là một huyền thoại, đằng sau huyền thoại là một cuộc đời. Chính cuộc đời ấy, con người ấy ngã xuống bảo vệ đất nước này, làm nên đất đai của xứ sở.

Hòn Vọng Phu ngàn năm còn đó như minh chứng cho lòng thủy chung, son sắt ngàn đời của người phụ nữ Việt Nam bởi hai chữ Vọng Phu là chờ chồng. Đất nước ta đã phải trải qua ba mươi lăm năm của hai cuộc chiến tranh trường kì gian khổ, biết bao nhiêu người con trai ra trận, người con gái trở về nuôi cái cùng con. Đây chính là tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam. Nội dung cũng là hình ảnh người học trò nghèo đã “góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên”. Họ còn là người yêu quê hương, thổi hồn mình vào con cóc, con gà “cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Đó là những người ta nhớ mặt đặt tên: “ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm” nhưng thử hỏi đất nước này có biết bao nhiêu con người ngã xuống vì ngày mai độc lập, ngã xuống để bảo vệ đất nước mà ta không nhớ mặt đặt tên:

“Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra đất nước”

Như đã nói là người chiến sĩ làm thơ, gót chân của Nguyễn Khoa Điềm đã in hằn trên mọi nẻo của Tổ quốc thân yêu. Đi đến đâu, nhìn vào lĩnh vực nào, khía cạnh nào, phương diện nào ông cũng đều chia sẻ tất cả là do nhân dân làm ra.

Từ một tiền đề vững chắc, tác giả đã triển khai đất nước ở chiều dài thời gian lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước:

“Em ơi em

Người con gái trở về nuôi cái cùng con”

Trong suốt bốn nghìn năm ấy, người Việt Nam cứ truyền ngọn lửa yêu nước từ lớp người này qua lớp người khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Lớp lớp người Việt Nam ra đánh trận để viết lên trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Trang sử ấy được viết lên bằng máu, bằng mồ hôi, bằng nước mắt, bằng cuộc đời của biết bao con người. Nhận định về vấn đề này, Engels đã nói: “không có máu và nước mắt của nhân dân, dân tộc ấy không thể có lịch sử”.

Đặt bài thơ Đất nước trong bối cảnh ngày hôm nay, khi nền văn học Việt Nam đang hội nhập với nền văn học thế giới. Mỗi người Việt Nam yêu nước cần phải bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Và thế là Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa khẳng định những thành công vốn có của bài thơ này, xứng đáng trở thành hành trang tinh thần của mỗi chúng ta.

Vẫn biết rằng trường ca là một thể thơ dài, khó thuộc, khó nhớ và người viết trường ca dễ bị sa vào lối liệt kê, kể lể. Trích đoạn “Đất Nước” nói riêng, trường ca “Mặt đường khát vọng” nói chung tuy không tránh khỏi tùy vết này nhưng với tất cả những gì Nguyễn Khoa Điềm đã mang lại cho bài thơ Đất Nước với tư tưởng đất nước của nhân dân, “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm xứng đáng là những vần thơ của năm tháng không thể nào quên.

Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm

Số 5: Cảm nhận tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước

Nguyễn Khoa Điềm sinh ra trong gia đình trí thức, có truyền thống yêu nước và cách mạng. Thừa hưởng truyền thống gia đình và vốn tri thức văn hóa sâu rộng của bản thân, thơ Nguyễn Khoa Điềm là kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người. “Đất nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại anh hùng, nhưng với tôi là của những con người vô danh, của nhân dân” (Nguyễn Khoa Điềm) Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm là tiếng ca sôi nổi, nhiệt tình cất lên từ trái tim tuổi trẻ. Đoạn trích “Đất Nước” được xây dựng theo phương thức luận đề, được thể hiện qua chất liệu văn hóa dân gian quen thuộc. Chính điều này đã tạo nên hiệu quả thẩm mĩ đặc biệt cho đoạn thơ, đồng thời thể hiện sinh động tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”.

Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chi phối cái nhìn lịch sử của nhà thơ. Nhân dân là người sáng tạo ra đất nước, chiến đấu bảo vệ đất nước và điểm tô cho đất nước. Từ phương diện lịch sử nhà thơ nhận thức sâu sắc: chính nhân dân là người đã lao động để tạo dựng sự sống, chiến đấu để bảo vệ đất nước và họ cũng là người đã giữ gìn, lưu truyền các truyền thống của dân tộc. Nhà thơ thôi thúc người đọc nhìn vào lịch sử tồn tại của đất nước qua giọng điệu tâm tình với nhân vật “em”:

Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn nghìn năm Đất Nước

Số từ “bốn nghìn năm” đã lưu ý người đọc tìm về với lịch sử dân tộc bằng niềm tự hào sâu sắc. Nhìn xa vào 4000 năm đất nước, ta nhận ra vai trò quan trọng của người bình dân trong quá trình giữ nước. Cách nói phiếm chỉ về thời gian “năm tháng nào” và điệp từ “người người lớp lớp” khẳng định, ghi nhận công lao của hàng triệu người dân trong quá trình lao động xây dựng và chiến đấu bảo vệ đất nước ở mọi thời kì bằng lòng biết ơn sâu nặng.

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc, người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

Nghệ thuật liệt kê và phép điệp “con trai, con gái” đã khẳng định chính những người dân bình dị đã làm nên đất nước bằng phẩm chất cao đẹp: cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu, yêu nước nồng nàn. Lịch sử bốn nghìn năm của dân tộc ghi dấu sự hi sinh thầm lặng của nhân dân trong “bốn nghìn lớp người”:

Nhiều người đã trở thành anh hùng

Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ

Nhưng em biết không

Có biết bao người con gái con trai

Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Nghệ thuật đối lập giữa những câu thơ “Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ” >< “Không ai nhớ mặt đặt tên” đã khẳng định, tôn vinh những con người vô danh, thầm lặng hi sinh cho đất nước. Những câu thơ ngắn, nhịp điệu dồn dập và câu hỏi tu từ “Nhưng em biết không?”, phép điệp “nhiều, anh hùng” thể hiện lòng tự hào, biết ơn sâu sắc của nhà thơ với người anh hùng vô danh đã đóng góp, hi sinh cho đất nước. Cặp tính từ chọn lọc “giản dị và bình tâm” và phép đối “sống và chết” đã khái quát bức họa về người anh hùng nhân dân. Họ sống giản dị, chiến đấu và hi sinh cho đất nước một bình thản. Họ hi sinh mà không cần để lại tên tuổi cho lịch sử, họ chiến đấu vì một lẽ sống bình dị mà cao cả: bảo vệ đất nước. Câu thơ ngắn, dồn nén cảm xúc, chứa đựng sự biết ơn chân thành của Nguyễn Khoa Điềm trước sự cống hiến thầm lặng nhưng lớn lao của nhân dân.

Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã đem lại cho Nguyễn Khoa Điềm cái nhìn mới mẻ về dòng chảy lịch sử dân tộc, để từ đó thấy được vai trò quan trọng của những người dân bình thường trong quá trình đấu tranh, gìn giữ đất nước. Nhân dân đã bảo lưu, nuôi dưỡng giá trị vật chất, tinh thần của dân tộc. Những con người giản dị của đất nước đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa vật chất và tinh thần để tạo ra sự sống cho đất nước trong quá trình lao động nhọc nhằn:

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đặp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái

Đại từ “họ” điệp nhiều lần ở đầu mỗi câu thơ đã làm nổi bật vai trò quan trọng của nhân dân trong quá trình lao động xây dựng sự sống cho đất nước. Lửa và lúa là hai yếu tố quan trọng nhất, “gìn giữ ngọn lửa và giống lúa chính là gìn giữ sự sống còn của cộng đồng”. (Nguyễn Khoa Điềm). Từ quan điểm đó, nhà thơ đã liệt kê để khẳng định chính nhân dân đã tạo dựng, giữ gìn, lưu truyền mọi giá trị văn hóa vật chất, từ những cái nhỏ bé, giản đơn nhưng vô cùng quan trọng. Hình ảnh “truyền giọng điệu mình cho con mình tập nói”, “gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân” nói lên vai trò của những người bình dân trong quá trình bảo lưu các giá trị văn hóa tinh thần của đất nước. Đó cũng là khát vọng giữ gìn bản sắc dân tộc của cha ông. Các động từ “giữ, chuyền, truyền, gánh” dựng lên hình ảnh các thế hệ người dân nối tiếp nhau duy trì cuộc sống, lưu truyền các giá trị truyền thống của dân tộc. Họ không quản khó nhọc, bỏ bao công sức “đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”. Câu thơ nhắc nhở như lời tri ân chân thành của thế hệ hôm nay khi thừa hưởng những thành quả do các thế hệ đi trước tạo nên.

Những người dân bình dị, hiền hòa đã chiến đấu để bảo vệ đất nước và giữ gìn, phát triển truyền thống yêu nước của dân tộc:

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại

Câu điều kiện “có… thì…” được điệp hai lần cùng với phép đối “ngoại xâm”, “nội thù” và liệt kê các động từ “chống, vùng lên, đánh bại” đã khẳng định tinh thần sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đất nước của nhân dân. Câu thơ là niềm tự hào của tác giả về truyền thống yêu nước. Bằng những công việc giản dị, hoạt động bình thường trong cuộc sống, từ những hành động dũng cảm khi đất nước lâm nguy, từng thế hệ người dân đã bảo lưu, vun đắp, làm nên tiến trình lịch sử của dân tộc. Đoạn thơ thể hiện rõ nét, sinh động tư tưởng “Đất nước của nhân dân”.

Từ phương diện văn hóa Nguyễn Khoa Điềm đã giúp ta nhận thức sâu sắc tư tưởng Đất Nước của Nhân dân qua lối sống, tâm hồn và tính cách của con người Việt Nam. Nhà thơ tiếp tục khái quát và khẳng định tư tưởng cốt lõi: nhân dân là những người đã tạo dựng truyền thống văn hóa của dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã viết hoa và điệp danh từ “Nhân dân” nhằm ngợi ca, tôn vinh vai trò quan trọng của nhân dân

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

Đất Nước của nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại

Tác giả trở về với ngọn nguồn phong phú của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao để khẳng định truyền thống văn hóa của đất nước được hình thành từ những vẻ đẹp tinh thần của nhân dân:

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù không sợ dài lâu

Bốn câu thơ được lấy từ ý của ba câu ca dao, khái quát ba phương diện quan trọng nhất trong đời sống tinh thần của dân tộc. Đó là tình cảm, lao động và chiến đấu. Yêu say đắm, thủy chung, coi trọng tình nghĩa hơn vật chất và tinh thần bất khuất, nền bỉ chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo về cuộc sống yên bình cho đất nước. Vận dụng một cách sáng tạo ca dao, Nguyễn Khoa Điềm cho ta thấy có sự đồng điệu trong tâm hồn của cha ông từ ngàn xưa và thế hệ trẻ hôm nay.

Thán từ “Ôi”, câu hỏi tu từ và hình ảnh “về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát” đã nhấn mạnh đặc điểm riêng về địa lí, văn hóa của đất nước ta:

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Đất nước ta mang dấu ấn sâu sắc của nền văn minh sông nước, đất nước của những câu hò, điệu lí, lời ca. Câu hát trên dòng sông gắn liền với các công việc lao động “chèo đò, kéo thuyền, vượt thác” gợi lên tinh thần lạc quan, hăng say lao động của những con người bình dị.

Người đến hát khi chèo đò, lái thuyền, vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi

Và chính họ, với những bài ca lao động của mình, đã “gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”, tạo nên vẻ đẹp phong phú, kì diệu cho những dòng sông đất nước, góp phần điểm tô, hình thành vẻ đẹp văn hóa của đất nước. Nhìn từ phương diện văn hóa, với vốn tri thức sâu rộng, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh chính nhân dân là chủ thể sáng tạo bản sắc văn hóa của đất nước. Đoạn thơ tô đậm tư tưởng đất nước của nhân dân, một tư tưởng mang tính chân lí được tác giả đúc kết từ kiến thức sách vở và kinh nghiệm cuộc sống.

Thể thơ tự do được sử dụng sáng tạo, nhịp điệu biến đổi linh hoạt, các phép điệp, được sử dụng hiệu quả đã tạo nên giá trị thẩm mĩ cho đoạn thơ. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng hình ảnh và từ ngữ chọn lọc, giản dị, tinh tế, giúp người đọc nhận thức rõ chính nhân dân đã tạo dựng đất nước, tạo dựng sự sống, giữ gìn truyền thống, văn hóa dân tộc.

Đoạn thơ là tình cảm yêu mến, tự hào của Nguyễn Khoa Điềm về vai trò của nhân dân trong quá hình thành xây, điểm tô vẻ đẹp của đất nước. Đó là kết tinh của những cảm xúc mãnh liệt và chiêm nghiệm sâu sắc về đất nước, về vai trò của người, là tiếng lòng chân thành của thế hệ trẻ hướng tới cội nguồn dân tộc, tới truyền thống văn hóa, lịch sử mà nhân dân là người sáng tạo, bảo tồn và truyền lại cho con cháu mai sau. Đóng góp riêng của đoạn trích là ở sự nhấn mạnh tư tưởng Đất Nước của nhân dân” bằng hình thức biểu đạt giàu suy tư, qua giọng thơ trữ tình chính trị sâu lắng, thiết tha.

Số 6: Phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân

Nếu nhà thơ Phạm Tiến Duật trẻ trung sôi nổi, Nguyễn Duy sắc sảo hóm hỉnh, Xuân Quỳnh đằm thắm yêu thương thì Nguyễn Khoa Điềm lại góp vào một giọng thơ tâm tình trầm tĩnh, lắng sâu, một phong cách thơ trữ tình chính luận. Tiêu biểu cho giọng thơ ấy là bài thơ Đất Nước trích trường ca mặt đường khát vọng. Không những thế qua bài thơ ấy tác giả còn nêu rõ cội nguồn của đát nước, tư tưởng đất nước của nhân dân.

Thơ ca Việt Nam từ cổ chí kim đã tìm đến đề tài đất nước như một quy luât muôn thuở để bày tỏ lòng nòng nàn yêu nước của mình. Đinh nghĩa đất nước đã có từ rất lâu trong lịch sử từ cao dao dân ca đến nam quốc sơn ha cùng bình cáo đại ngô. Nếu như trước đây định nghĩa về đất nước gắn liền với biên cương, bờ cõi, lãnh thổ, gắn với những triều đại lịch sử thì sau này Nguyễn Đình Thi viết:

“ Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

Chế Lan Viên viết:

“ Hỡi sông Hồng, tiếng hát bốn ngàn năm

Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng?”

Còn Nguyễn Khoa Điềm lại chọn cho mình một cách định nghĩa đất nước rất đôi giản dị, gần gũi, bình thường. Có thể nói đất nước cảu Nguyễn Khoa Điềm ở muôn mặt đời thường.

Chín câu thơ đầu mở ra một suy tư của nhà thơ về cội nguồn đất nước:

“ Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

Đất nước có từ ‘ ngày xủa ngày xưa” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết tròng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó…”

Giọng điệu thủ thỉ trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên một không khí trầm lắng ngược dòng thời gian trở về với cội nguồn sâu sa của đất nước. Đất nước có từ những câu chuyện của mẹ, những câu chuyện cổ tích ấy bắt đầu bằng những cái ngày xửa ngày xưa. Đất nước hiện lên với phong tục tập quán của nhân dân. Đó là miếng trầu ngày nào bà ăn, miếng trầu làm đầu câu chuyện. Miếng trầu ấy là trầu trong sự tích trầu cau, là miếng trầu giao duyên của những chàng trai cô gái. Có thể nói miếng trầu bà ăn đã có bốn nghìn năm tuổi. Đó là truyền thống đánh giặc của ông cha ta với sự tích ông gióng ngày nào nhổ tre bên đường để đánh tan giặc Ân. Cây tre ấy cứ thế mà đi vào lịch sử cũng như văn học của người Việt ta. Tre anh hùng giữ nước, tre lao động, tre kiên cường. Đất nước cứ thế hình thành một cách tự nhiên như vậy. không những thế đát nước tồn tại trong chính những thói quen tên goi, tập tục của nhân dân ta. Đó là những thói quen tóc bới sau đầu của mẹ, hình ảnh của người phụ nữ Việt nam với búi tóc dày dặn sau đầu thể hiện sự đảm đang, cần mẫn. Đất nước hiện lên trong hình ảnh của hạt gạo một nắng hai sương. Tình cảm cha mẹ được ví như gừng cay muối mặn. từ những cái kèo, cái cột mà làm nên đất nước.

Như vậy có thể thấy đất nước của nhà thơ không phải là sự tiếp nối của những triều đại, cũng không phải bằng sự truyền ngôi của các vị vua mà đất nước hiện lên từ những gì thân quen nhất. đó là phong tục là con người Việt ta, trong những hình ảnh thấp thoáng một bóng hình đất nước, tuy nhỏ bé nhưng tinh thần lại vượt lên trên tất cả mọi hoàn cảnh khó khăn. Có thể nói đây chính là điểm mới về cách nhìn đất nước chỉ có ở Nguyễn Khoa Điềm.

Tiếp theo nhà thơ đưa ra định nghĩa về đất nước rất giản dị mà lại độc đáo vô cùng. Nếu như ai đó định nghĩa đất nước ta cong cong hình chữ S, đất nước là tia chớp, đất nước thon thả giọt đàn bầu thì Nguyễn Khoa Điềm định nghĩa đất nước lại rất lạ. cái lạ của nhà thơ chính là nhà thơ đi vào triết tự từ “ đất” và “nước” rồi lại hợp lại để làm rõ định nghĩa về đất nước. Từ đó đất nước hiện lên vừa riêng tư cụ thể gần gũi lại vừa cao cả thiêng liêng mà lớn lao. Nhà thơ đi từ không gian đến thời gian và đến bề dày lịch sử để nói lên định nghĩa của mình.

Trước tiên là không gian về đất nước. không gian ấy mở ra không hào nhoáng, sang trọng, kì vĩ mà hiện lên rất đỗi thân thuộc với mỗi chúng ta. Những hình ảnh rất đỗi mộc mạc giản dị, mọi thứ như trở về với thuở ban sơ:

“ Đất là anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất nước là nơi ta hò hẹn

Đất nước là nơi em đánh rơi trong nỗi nhớ thầm

Đất là nơi “ con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “ con cá ngư ông móng nước biển khơi””.

Không gian mở ra trong sự triết tự đất là nơi người con trai đến trường còn nước là nơi cô gái hằng ngày vẫn tắm. có thể nói đất nước hiện lên trong tình yêu của đôi trai gái. Đất nước là nơi hò hẹn của tình yêu nam nữ tuổi đôi mươi, đó là một tình yêu có đất nước chứng giám. Đất nước còn hiện lên trong không gian riêng tư, không gian trong tinh thần của chàng trai cô gái. Đó là không gian của nỗi nhớ. Câu thơ khiến chúng ta nhớ đến bài ca dao tình nghĩa ngày nào, những hình ảnh thi liệu của nhà thơ thật đậm chất ca dao, cổ xưa. Từ đó đất nước cũng hiên lên thật mộc mạc giản dị, thi vị mà nên thơ. Không gian đó còn là không gian sống của nhân dân ta. Không gian sinh sống đất và nước, đó là nới con chim phượng hoàng và con cá ngư ông ngày nào. Toàn cảnh đất nước, không gian hiện lên không phải những tòa lâu đài nguy nga tráng lệ, không phải những vị vua mà chính là không gian sống của nhân dân.

Đất nước không chỉ hiện lên trong không gian mà còn cả thời gian nữa:

“ thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Đất là nơi Chim về

Nước là nươi Rồng ở

Lạc Long Quân Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

…..

Đất nước vẹn tròn to lớn”

Đất nước hiện lên trên khoảng thời gian từ quá khứ, hiện tại, đến tương lai. Quá khứ hiện lên đầy thiêng liêng với truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ. Truyền thuyết ấy hay chính là nguồn gốc giống nòi nhân dân ta. Hai người sinh ra dân tộc ta và cho đến bây giờ những ai đã mất đi và những ai còn sống sẽ giữ gìn gánh vác, dậy dỗ con cái mai sau. Hiện tại với tình yêu của đôi trai gái và dân tộc. Tương lai là những đứa con sẽ mang đất nước mình phát triển đi xa đến những ngày tháng mờ mộng. Bởi vì trong anh và em đều có một phần đất nước, vì đất nước là máu thịt của ta. Và đặc biệt phải biết hóa thân cho dáng hình sứ xở

Đó là côi nguồn của đất nước, tiếp đó nhà thơ bắt tay vào làm rõ tư tưởng đất nước của nhân dân của mình. Nếu như đất nước xưa thời phong kiến là của vua chúa chứ không phải của dân thì ở đây đất nước là của nhân dân. Chính nhân dân đã làm nên đất nước:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn trống mái

Gót ngựa của Thánh Giong đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình xây đất tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, bà Đên, Bà Điểm

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống cha ông

Ôi Đất Nước bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”

Trải dài trên hình đất nước chữ S xinh xắn là hàng loạt các địa danh nổi tiếng của đất nước ta trải dài từ bắc chí nam. Ai đã làm nên những địa danh ấy. đó chính là nhân dân. Những người vợ nhớ chồng góp nên núi Vọng Phu đẹp như thế, cặp vợ chồng góp hòn trống mái, những con rồng, con voi, đến Thánh Giong…. Mỗi địa danh đều gắn với một huyền thoại huyền tích ngày xưa, những con người không tên tuổi đã làm nên những huyền thoại làm nên vẻ đẹp của cả một đất nước bốn ngàn năm văn hiến. vẻ đẹp đất nước hay cũng chính là vẻ đẹp tâm hồn con người Việt. đó là vẻ đẹp của người vợ chung thủy nhớ thương chồng, nhớ đến mức, ngóng nhiều đến mức hóa đá. Đó còn là người anh hùng năm nào đã đuổi giặc ra khỏi bờ cõi hay là những người học trò nghèo thể hiện sự ham học cần cù của nhân dân ta. Thêm nữa là những người dân nào đã làm nên tên Ông Đốc, Ông Trang, bà Đen, Bà Điểm… nhà thơ đã nhìn không gian đất nước bằng những danh lam và tâm hồn con người Việt. điểm mới của nhà thơ đó là không nhắc lại sự trù phú tốt đẹp của thiên nhiên mà chú ý đến nhiều tên gọi giản dị. như vậy tác giả không nhìn đất nước bằng dáng vẻ bề ngoài mà đi khám phá sâu hơn ở lớp trầm tích bên trong để thấy được sự hóa thân của nhân dân trong từng thắng cảnh. Để bây giờ đi tới đâu cũng thấy bóng hình của ông cha ta.

Không chỉ đào sâu về mặt không gian nhà thơ còn đi vào khai thác chiều sâu lịch sử:

“Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bồn nghìn năm đất nước

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con trai, con gái bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

……

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra đất nước”

Thói quen của chúng ta là nhắc đến lịch sử với những người anh hùng tên tuổi như Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi…còn Nguyễn Khoa Điềm lại khác. Dường như ông muốn kể nhiều hơn về những người anh hùng vô danh. Bằng giọng điệu thủ thỉ của lời con trai nói với người con gái đất nước hiện lên với những chiến công mà những người vô danh ấy được hiện lên một cách chân thật, chân tình. Những người nông dân ấy cũng giống như em và anh, người đi biên ải xa xôi đánh giặc, người con lại là hậu phương vững chắc cho người ra trận. thế nhưng những người con trai con gái ấy chết đi mà không ai nhớ mặt đặt tên, không được liệt vào danh sách những người có công với đất nước. Tuy vậy họ chính là người làm nên đất nước, họ sống giản dị và ra đi một cách bình tâm.

Không những thế họ còn để lại một những phương thức canh tác truyền thống rất đáng khen ngợi mà cho đến ngày nay nhân dân ta vãn gìn giữ nét truyền thống đó:

“ Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ tuyền lửa từ mỗi nhà từ hòn than qua con cúi

…….

Để Đất Nước này Đất Nước Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao huyền thoại”

Họ để lai những truyền thống và kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp cũng như sinh hoạt hằng ngày. Có thể nói họ là những người nông dân hiền lành thật thà chất phác, ngày bình họ làm ăn tăng gia sản xuất trên những cánh đồng, thời chiến họ ra chiến trường để bạo vệ nền hòa bình. Chính họ đã làm nên đất nước cả thời bình và thời chiến. Và để rồi đất nước mãi mãi là của nhân dân!. Điểm mới của nhà thơ ở đây là nhắc đến những con người vô danh chứ không nhắc đến những người anh hùng.

Nhà thơ không dừng lại ở đó mà tiếp tục khám phá những nét văn hóa của dân tộc ta qua những câu thơ cuối bài:

“ dạy anh biết “ yêu em từ thuở trong nôi”

Biết quý công cầm vàng những ngày lăn lội

Biết trồng tre chờ ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

Qua những câu thơ ta thấy nhà thơ đã trích ra những câu nói có trong ca dao. Đó phải chăng là nét đẹp văn hóa của dân tộc ta. “ yêu em từ thuở trong nôi” là nét đẹp thủy chung tình nghĩa, quý công cầm vàng thể hiện quý công sức lao động của mình, trồng tre thành gậy để trả thù mà không sợ dài lâu thể hiện nét đẹp ý chí chiến đấu bất khuất. nét đặc biệt ở đây chính là nhà thơ đã khéo sử dụng câu ca dao vào thơ mình vừa mang nét truyền thống lại vừa mang nét hiện đại. ông két thúc bài thơ bằng hình ảnh dòng sông với câu hỏi bắt nước từ đâu cũng như chúng ta cội nguồn ở đâu. Một bức ảnh dòng sông muôn màu đẹp đẽ khép lại như sự tôn vinh vẻ đẹp của đất nước.

Tóm lại nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho chúng ta một đất nước tươi đẹp mà rất đỗi bình dị gần gũi. Đất nước chẳng đâu xa mà nó ở ngay chính tỏng không gian và thời gian, văn hóa chúng ta. Chính những người nhân dân vô danh đã làm nên đất nước cho đến tận ngày nay. Với giọng điệu tâm tình như lời của mẹ chàng trai nói với một cô gái hình ảnh đất nước cú thế đi vào tâm trí người đọc như một bức thư thủ thỉ yêu thương về cội nguồn đất nước. đặc biệt phải kể đến tư tưởng rất mới mẻ của nhà thơ đó là tư tưởng đất nước của nhân dân.

Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm

Số 7: Tư tưởng đất nước của nhân dân

Nền văn học Việt Nam đã ghi danh tên tuổi của bao nhà văn, nhà thơ, trong đó không thể không nhắc đến tác giả Nguyễn Khoa Điềm cùng bản Trường ca Mặt đường khát vọng. Nổi bật trong bản trường ca là văn bản Đất nước. Ở đây, tác giả đã khẳng định tư tưởng đất nước là của nhân dân:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

….………………………………………

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”

Nguyễn Khoa Điềm thật khéo léo và tinh tế khi đã vận dụng sáng tạo thành công chất liệu dân gian vào bài thơ của mình để tạo nét riêng biệt không thể nhầm lẫn. Đó là sự tích hòn Vọng Phu nói về tình cảm thủy chung, son sắt chờ chồng đến hóa đá của người phụ nữ. Đó là tình hòn Trống Mái gắn với truyền thuyết tình cảm vợ chồng chung thủy. Dù ở bất cứ nơi nào trên đất nước, bờ cõi này thì tình cảm yêu thương, gắn bó vợ chồng vẫn là những tình cảm vô cùng tốt đẹp xứng đáng được tôn vinh.

Không chỉ có tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng, Nguyễn Khoa Điềm còn tôn vinh cả nền lịch sử với lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Đó là vị anh hùng Thánh Gióng nhỏ tuổi nhưng khi có giặc anh dũng ra trận đánh đuổi giặc Ân lấy lại độc lập cho nước nhà. Đó là mảnh đất Tổ thờ vua Hùng vô cùng linh thiêng với sự quây quần của đàn voi chín mươi chín con. Tất cả những câu truyện, những sự tích, truyền thuyết trên đều rất thân thuộc với mỗi thế hệ con dân trên Đất nước này, trở thành niềm tự hào vô bờ bến của chúng ta.

Chúng ta có thể tự hào rằng Đất nước này là đất nước của những con người hiếu học. Biết bao tấm gương nghèo vượt khó vươn kên trở thành nhân tài cho đất nước, đánh dấu công lao của mình bằng những núi Bút, non Nghiên. Dù họ là những người nổi tiếng hay chỉ là những con người vô danh thì họ cũng đáng để chúng ta biết ơn, học tập và noi theo.

Đất nước còn được hình thành từ những điều hết sức nhỏ bé: những quả núi hình con cóc, con gà quây quần cũng giúp cho Hạ Long trở thành di sản thế giới. Những ngọn núi khác cũng được đặt theo tên của các vị anh hùng để con cháu mai sau không quên ơn họ và tôn vinh những giá trị quý báu mà họ đã gây dựng cho nước nhà. Những ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước. Ở trên đất nước này đâu đâu cũng mang dáng dấp, những kỉ niệm của thế hệ ông cha. Hành trình hơn bốn nghìn năm lịch sử vẫn sẽ tiếp tục mãi mãi và cũng sẽ có nhiều hơn những kỉ niệm, những giai thoại được ghi vào sử sách. Tuy nhiên, không vì thế mà lối sống cha ông đi vào dĩ vãng, nó mãi là những tiếng âm vang, là niềm tự hào của con cháu sau này.

Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung vẫn để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc và giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp trường tồn với thời gian và giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó.

Số 8: Tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước

Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn người đọc bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức vì đất nước, con người Việt Nam. “Đất Nước” trích trong chương 5 trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm góp phần làm phong phú hơn, tươi mới hơn tư tưởng ấy bằng tiếng nói riêng và cách thể hiện độc đáo. Tư tưởng chủ đạo của “Đất Nước” đó là: Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.

Đất nước – một đề tài lớn, một hình tượng trữ tình rất đẹp trong thơ ca Việt Nam, nhưng ở mỗi giai đoạn văn học, mỗi thời kì lịch sử, mỗi tác giả, tác phẩm thì hình tượng ấy lại mang những tư tưởng riêng, lấp lánh màu sắc thẩm mĩ riêng. Ở thời đại gắn với tư tưởng “trung quân ái quốc” vì quan niệm đất nước gắn liền với công lao của đế vương, của các triều đại:

“Nam quốc sơn hà nam đế cư”

(Lý Thường Kiệt)

hay

“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”

(Nguyễn Trãi)

Thơ văn yêu nước những năm đầu thế kỉ XX tư tưởng này có một bước tiến mới qua tiếng nói của người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu: “Dân là dân nước, nước là nước dân” nhưng dẫu sao vẫn mang dấu ấn của tư tưởng tư sản.

Đến thơ ca Việt Nam thời kì 1945-1975 thì tư tưởng đất nước nhân dân được thế hệ các nhà thơ chiến sĩ nhìn nhận một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn trong mối quan hệ riêng – chung, tôi – ta ở đó có sự hòa quyện và tỏa sáng của tình yêu đất nước và tình yêu đôi lứa. Đất nước của nhân dân đã được các nhà thơ thể hiện đặc sắc và thành công như:

“Ôm đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng”

(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)

hay

“Và cứ thế nhân dân thường ít nói

Như mẹ tôi lặng lẽ giữa đời

Và như thế nhân dân cao vòi vọi

Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời”

(Thanh Thảo)

Và tư tưởng này được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện một cách sâu sắc thấm thía trong “Đất Nước”, trích trường ca “Mặt đường khát vọng”.

Đất nước được nhà thơ nhìn nhận và thể hiện qua bề rộng không gian địa lí. (lấy kiến thức đoạn “Đất là nơi anh đến trường….cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ” và ” những người vợ nhớ chồng….Bà Đen, Bà Điểm”)

Nhà thơ suy tư về “Đất Nước” qua độ rộng của không gian địa lí để khẳng định đất nước của nhân dân. Theo cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm “Đất nước” là không gian vô cùng gần gũi thân thương, là một cõi đầy thơ mộng, ngọt ngào gắn với bao kỉ niệm của tình yêu mỗi chúng ta:

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Đất nước là không gian sinh tồn của cộng đồng người Việt qua các thế hệ được tạo lập từ thuở sơ khai với truyền thuyết:

“Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục suy tư về Đất Nước qua bề rộng lãnh thổ:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Những người dân nào đã góp nên tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”

Đất nước trở thành sự sống máu thịt vô cùng thiêng liêng đối với mỗi người tuy chỉ có một phần nhưng đó là linh hồn là sự sống của Đất Nước. Cho nên xây dựng bảo vệ và hi sinh vì Đất Nước là vai trò trách nhiệm cao cả của chúng ta bởi Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân. Tác giả đã có cái nhìn thật mới mẻ về vẻ đẹp của Đất Nước, Tổ Quốc gắn với những con người bình dị vô danh.

Đất nước được thể hiện và cảm nhận trong chiều dài lịch sử (tư liệu từ ” Và ở đâu trên khắp ruộng đồng… cho người sau trồng cây hái trái)

Đoạn trích có cái nhìn rất sâu và rất xa về bốn nghìn năm Đất Nước nhưng đó không phải là thời gian lịch sử xác định mà là thứ tác giả ảo diệu mơ hồ “ngày xửa, ngày xưa” gắn với sự trường tồn của Đất Nước, sức sống mãnh liệt của nhân dân. Nhà thơ khẳng định lại các triều đại như Nguyễn Trãi đã từng viết ” Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập…” và cũng không nhắc những tên tuổi lừng danh trong sử sách như Chế Lan Viên:

“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc

Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng…”

mà nghiêng về bày tỏ niềm tự hào lòng biết ơn trân trọng đến lớp lớp những người anh hùng vô danh:

“Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

Những người vô danh ấy đã làm nên giá trị vật chất và giá trị tinh thần truyền lại cho con cháu mai sau:

“Họ giữ và truyền cho ra hạt lúa ta chồng

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”

Từ “họ” đứng ở đầu dòng thơ được điệp đi điệp lại liên tục có tác dụng ca ngợi vai trò to lớn của “họ” trong việc “giữ và truyền” cho con cháu muôn đời những giá trị vật chất và tinh thần. “Họ” mang một tên chung đó là “nhân dân”. Những từ “giữ”, “truyền” xuất hiện với mật độ dày đặc thể hiện sự tiến hóa của lịch sử giống như một cuộc lao động lớn, một cuộc chạy tiếp sức của nhân dân, nhờ có họ “giữ” và “truyền” mà con cháu được thừa hưởng giá trị vật chất và tinh thần. “Hạt lúa” biểu tượng cho giá trị vật chất, cho nền văn minh lúa nước, “ngọn lửa” không chỉ biểu tượng giá trị vật chất mà nó còn biểu tượng cho ngọn lửa của truyền thống cách mạng, ngọn lửa của văn minh, ngọn lửa của sự ấm áp, tin yêu. “Giọng nói” là tiếng nói của nòi giống, của dân tộc, của biểu tượng cho giá trị tinh thần ngàn đời. Quan trọng hơn nhân dân còn là người mở mang bờ cõi, viết tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc, làm nên những thành quả cho con cháu mai sau. Lịch sử của đất nước được viết bằng máu của những người không tên, không tuổi để rồi:

“Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”

Nói về lịch sử mấy nghìn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng những sử liệu như những nhà thơ khác, cũng không xây dựng những hình ảnh kì vĩ để tụng ca, chiêm ngưỡng mà dùng cách nói giản dị tự nhiên đậm màu sắc dân gian. Đất nước hiện lên từ những cái “ngày xửa ngày xưa….”, trong những câu chuyện cổ tích mẹ kể có ông Bụt, bà Tiên, cô Tấm thảo hiền, có sự tích trầu cau, Thánh Gióng, … Ở đó đất nước gần gũi bình dị mà thiêng liêng với phong tục ăn trầu của bà, tập quán búi tóc sau đầu của mẹ, tình nghĩa của cha, sự vật hàng ngày cái kèo, cái cột,…Như vậy lịch sử đất nước dựng lại trong từng câu chuyện cổ xa xưa, gắn với cuộc sống, số phận của nhân dân.

Những phát hiện sâu sắc và mới mẻ về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện ở nguồn mạch phong phú của văn hóa dân tộc, văn học dân gian. Tác giả đã sử dụng và sáng tạo các yếu tố văn hóa dân tộc. Nhưng đất nước có từ thời xa xưa mà không hề xa lạ, lại vô cùng gần gũi, thân thiết như câu chuyện mẹ kể, miếng trầu bà ăn… Cái tài tình, tinh tế của Nguyễn Khoa Điềm là lấy ý, lấy hình ảnh của thần thoại cổ tích và câu ca xưa để tạo nên những biểu tượng phong phú, mới lạ, làm tăng thêm nhận thức tình yêu cũng như vẻ đẹp của đất nước, nhân dân trong những giá trị văn hóa, tinh thần vĩnh hằng, bất tận của nhân dân.

Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước của nhân dân là sự hội tụ và kết tinh với bao công sức và khát vọng của nhân dân. Đồng thời nhân dân là người làm ra đất nước cho nên khi viết về đất nước, nhà thơ đưa ta trở về cội nguồn của các giá trị văn hóa đân tộc, tìm thấy những nét nổi bật của tâm hồn, tính cách Việt Nam. Tiêu biểu nhất là tinh thần, là truyền thống thủy chung say đắm trong hạnh phúc tình yêu.

“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”

Rồi biết quý trọng tình nghĩa, coi trọng đạo nghĩa con người

“Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”

Nhưng cũng thật quyết liệt với kẻ thù để có được hạnh phúc bền lâu:

“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu”

Đoạn trích khép lại tư tưởng đất nước nhân dân nhưng lại ngời lên trăm dáng, trăm màu của dòng sông văn hóa, đậm đà hương sắc dân gian, linh hồn Việt.

“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về đất nước mình còn bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xanh”

Tư tưởng đất nước trong chương thơ được thể hiện qua hình thức thơ trữ tình chính luận độc đáo. Ở đó thơ tự do phóng túng, thoải mái, tạo nên lối tư duy hiện đại và tính triết luận của tác phẩm nhằm trả lời cho câu hỏi ” Đất nước ta có từ bao giờ?”, “Đất nước là gì?”, “Đất nước của ai?”… Kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và suy tưởng, giữa yếu tố chính luận và sắc màu trữ tình. Giọng thơ thủ thỉ tâm tình như lời trò chuyện của “anh” với “em” tạo nên âm vang ngân nga, sâu lắng, thiết tha và trang trọng về đất nước nhân dân. Tác giả cũng vận dụng phong phú, sáng tạo các yếu tố văn hóa dân tộc: phong tục tập quán, huyền thoại, huyền sử, lấy ý hình ảnh của ca dao, tục ngữ, thành ngữ…tạo nên những liên tưởng mới mẻ và rất đẹp về đất nước. “Đất nước” là một tác phẩm nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điềm mà ở trong đó là một thế giới nghệ thuật rất riêng: Đất nước bình dị gần gũi mà cũng vô cùng sâu xa, thiêng liêng lại bay bổng, lãng mạn và lấp lánh màu sắc ca dao, cổ tích.

Nguyễn Khoa Điềm đã góp phần làm phong phú hơn, sâu sắc hơn tư tưởng đất nước nhân dân của thơ ca thời chống Mĩ, đem đến cho người đọc nhận thức sâu sắc về đất nước của nhân dân. “Đất nước” – một giai điệu nhỏ bé trong bản hợp ca về đất nước những năm 1945-1975 nhưng tác phẩm ấy vẫn âm vang một nhịp điệu riêng khó nhầm lẫn nhờ tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Khoa Điềm: “Đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại…”. Đất nước sẽ còn được nhắc đến như một bài ca không bao giờ quên.

Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm

Số 9: Phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước

“Đất ngoại ô” (1972), “Mặt đường khát vọng” (1974) của Nguyễn Khoa Điềm cho thấy một hồn thơ giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện những tâm tư của người thanh niên trí thức trước những vấn đề trọng đại của dân tộc ta thời chống Mĩ.

Đoạn thơ “Đất Nước” là chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Trước Nguyễn Khoa Điềm, đề tài quê hương đất nước đã được nói rất hay, rất đằm thắm trong những bài thơ nổi tiếng như “Bên kia sông Đuống (Hoàng Cầm), “Đất nước” (Nguyễn Đình Thi), “Quê hương”(Giang Nam),… “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca – sự nhận thức về nguồn gốc sâu xa của Đất Nước, vế trí tuệ, tâm hồn và ý chí của Nhân Dân đã tạo dựng nên một “Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại” – Có thể nói tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân” đã được thể hiện một cách sâu sắc và độc đáo trong đoạn thơ “Đất Nước” này.

Đoạn thơ dài 110 câu thơ tự do, đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian. Ta có cảm nhận: tục ngữ ca dao, dân ca, truyền thuyết, cổ tích,… đã hóa thân trong những vần thơ “Đất Nước”. Từ con người đến cảnh vật, từ các chi tiết lấy từ nhịp sống cần lao, dân dã như “gừng cay, muối mặn”, như “cái kèo cột thành tên”, “miếng trầu”, “hạt gạo”,… đến chuyện “yêu nhau và sinh con đẻ cái”, chuyện “chèo đò, kéo thuyền vượt thác”… bình dị thế thôi nhưng mở ra một không gian nghệ thuật vô cùng thân thuộc, làm dộị lên trong lòng ta niềm tự hào về một Đất Nước “Vốn xưng nền văn hiến đã lâu” (Nguyễn Trãi). Chất liệu văn hóa dân gian ấy đã được nhà thơ sử dụng như một thủ pháp nghê thuật tạo nên tính độc đáo và vẻ đẹp thẩm mĩ, đồng thời qua hệ thống hình tượng và cảm hứng trữ tình diễn tả một cách hào hứng và phóng khoáng tư tưởng chủ đạo “Đất Nước của Nhân Dân” đem đến cho người đọc bao tự hào xúc động.

Nếu như bài thơ “Đất nước” của Nguyên Đình Thi là một giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm là một giọng thơ bồi hồi, sâu lắng,.., thì trong đoạn thơ này, Nguyễn Khoa Điểm đã thể hiện những xúc cảm suy tưởng về Đất Nước dưới dạng một lối trò chuyện tâm tình.

Phần đầu khúc ca, tác giả nói về lịch sử đất nước – một đất nước hình thành từ “những ngày xửa ngày xưa” … qua bốn nghìn năm “đằng đẵng”. Không kể lại những sự lịch sử oai hùng, những chiến công oanh liệt, những anh hùng lừng danh mà “anh và em đều nhớ” Nguyễn Khoa Điềm đã triển khai cảm hứng về Đất Nước bàng những cái bình dị, bình thường rất gần gũi và thân thương với mọi gia đình Việt Nam. Có tiếng nói của mẹ, miếng trầu của bà, có sự tích “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”…Có thuần phong mĩ tục, có tình nghĩa mẹ cha, có mồ hôi làm ra bông lúa hạt gạo, có ngôn ngữ nhân dân, lời ăn tiếng nói do nhân dân sáng tạo ra đặt tên cho những vật quanh mình…

… ” Đất Nước bắt đầu với miếng trầu hây giờ bà ăn,

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên,

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó…”.

Đoạn thơ trên gợi nhớ đến truyền thuyết “Thánh Gióng”, truyện cổ tích “Trầu Cau”, phong tục búi tóc của người Âu Lạc, gợi nhớ đến những bài dân ca về tình vợ chồng, về công việc nhà nông. Thơ tuy chỉ gợi, chỉ vẽ ra một vài nét thoáng nhẹ, mơ hồ, xa xôi nhưng đậm đà ý vị.

Đất Nước bình dị và đáng yêu, cu thể và gần gũi với “em” và “anh” với mỗi chàng trai, cô gái. “Đất là nơi anh đến trường – Nước là em tắm”; là cây đa giếng nước, sân đình, là bến đò “nơi ta hò hẹn”, là nơi “em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”; là khúc dân ca vời vợi đã thấm vào máu, vào hồn của mỗi con người Việt Nam từ thuở còn nằm trong nôi:

“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”,

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”…

Đất Nước thiêng liêng và tự hào biết mấy. Cha Rồng mẹ Tiên đã sáng tạo ra Đất Nước này. Lời thơ thầm thì nói vể tình non nước sâu nặng. Nó dẫn hồn ta trở về cội nguồn qua huyền thoại diệu kì:

“… Đất là nơi Chim về,

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”…

Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” được nói đến một cách cực kì sâu đậm khi nhà thơ ngợi ca giọt mồ hôi và xương máu của nhân dân. Đất Nước trường tồn qua “thời gian dài đằng đẵng” và trải rộng trên một “không gian mênh mông”. Chính Nhân dân đã đổ mồ hôi và xương máu để xây dựng và bảo vệ Đất Nước. Một dân tộc cần cù và dũng cảm. Lớp lớp người biết làm ăn giỏi và sống trong tư thế hiên ngang. Câu chuyện lứa đôi không nói về tình yêu mà lại nói về nghĩa tình non nước:

“… Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn nghìn năm Đất Nước

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái,con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái con

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

Nhiều người đã trở thành anh hùng…”.

Suốt hàng ngàn năm lịch sử, chính Nhân dân là những người sáng tạo nên Đất Nước này: “Không ai nhớ mà đặt tên – Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Hạt lúa do bàn tay dân ta trồng; lấy hòn than, con cúi để giữ lửa; truyền cho con cháu tiếng nói ông cha; đắp đập be bờ”… và để làm ra cây trái. Họ “đã làm” và “đã giữ” , “họ truyền”, “họ đắp đập be bờ”…và “bốn nghìn lớp người” đã làm nên tất cả:

“… Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng,

Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng chuyến di dân.

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái…”.

Ngôn ngữ thơ (giữ và truyền, gánh, đắp đập be bờ) được nhấn đi nhấn lại để tô đậm truyền thống cần cù lao động của Nhân dân – chủ nhân của Đất Nước.

“Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta” (Hồ Chí Minh). “Nước chúng ta – Nước những người chưa bao giờ khuất” (Nguyễn Đình Thi); “Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa” (Huy Cận); “Tuốt gươm không chịu sống quỳ” (Tố Hữu). Nguyên Khoa Điềm cũng có một lối nói độc đáo tư tưởng ấy:

“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại”.

Tư tưởng “Đất Nước và Nhân dân” là sự ngợi ca mồ hồi và xương máu của nhân dân. “Không có mồ hôi và máu thì các dân tộc không thể có lịch sử” (Ăngghen). Chính vì thế mà nhà thơ trẻ đã viết:

“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.

Hai câu thơ mà bốn lần nhắc lại từ “Đất Nước” hai lần láy lại từ “Nhân dân”, biểu lộ biết bao tình thương mến!

Đất nước ta vô cùng tráng lệ với núi cao, sông dài, biển rộng, với những cánh đồng thẳng cánh cò bay. Những tên núi, tên sông đã soi bóng vào thơ ca dân tộc. “Bạch Đằng giang phú”của Trương Hán Siêu, “Dục Thúy Sơn”, “Côn Sơn ca”, của Ức Trai, “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan, “Đêm trang trên sông Trà” của Cao Bá Quát, v.v… Giang sơn gấm vóc biết mấy tự hào! “Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi!” (Tố Hữu). Nguyễn Khoa Điềm cũng nói về núi, về sông của Đất Nước, nhưng anh không nói về “địa linh nhân kiệt”, “quan hà hiểm trở”, “một cảnh chiều tà”… mà có một lối nói riêng. Mỗi một địa danh, mỗi một thắng cảnh như một nét khắc, nét tạc vào cõi đất trời vẻ đẹp tâm hồn với những đức tính quý báu của nhân dân ta như tình yêu chung thủy của lứa đồi, sức mạnh quật khởi, ý chí tự lập tự cường, đức tính hiếu học, bàn tay cán cù, khéo léo, tấm lòng hồn hậu, bao dung…:

… “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu,

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên”.

Có những tên đất, tên làng vời vợi nghìn trùng gợi lên trong lòng người đọc hôm nay nhớ về ông cha đã từng “mang gươm đi mở cõi”, lấn biển, khai hoang, đoạn kình, bộ hổ, bắt sấu, đào kênh. Đoạn thơ như một đài tưởng niệm về cống đức của Nhân dân – những anh hùng vô danh đã góp máu và mồ hôi làm nên Đất Nước:

“Những người dân nào đỡ góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”.

Cảnh núi sông như hội tụ lấp lánh qua những vần thơ đẹp cho ta nhiều rung cảm. Tiếp đó, nhà thơ đi tới một nhận thức khái quát: hồn sông núi cũng là điệu tâm hồn của Nhân dân:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha.

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.

Cấu trúc câu thơ biến hóa như một phức điêu đa thanh và đa âm, làm cho cảm xúc thơ dồn nén, giọng thơ thiết tha bồi hồi.

“Đất Nước của Nhân dân” không chỉ trường tồn trên chiều “đằng đẵng” của lịch sử, trải ra trên chiều rộng “mênh mông” của không gian địa lí, mà còn ở tầm sâu của tâm hồn, ở tầm cao của ý chí giống nòi. Một dân tộc yêu ca hát, cuộc đời hòa quyện trong ca dao dân ca. Một nhân dân nghĩa tình trong nếp sống “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”; biết sống thủy chung sắt son trong tình yêu, “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, biết trung hiếu vẹn toàn:

“Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.

“Mồng mười tháng ba” ngày giỗ Tổ Hùng Vương, cháu con tự bốn phương trời tụ hội về Phong Châu, một nén hương trầm tỏa khói, một cử chỉ “cúi đầu” thành kính, biết ơn tiên tổ. Trở về cội nguồn là một nét rất đẹp của tâm hồn Việt Nam.

Trên mọi chặng đường lịch sử hàng ngàn năm, nhân dân ta “người người lớp lớp” ngẩng cao đầu đi tới, dũng cảm và hiên ngang, kiên cường và bất khuất để bảo vệ Đất Nước, giữ vững cơ đồ Việt Nam:

“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy,

Đi trả thù mà không sự dài lâu”.

Kết thúc đoạn thơ là tiếng hát ngân vang trên những dòng sông quê hương. Những con sông “trăm màu”, và “trăm dáng” cuồn cuộn xuôi dòng… là hình ảnh của Đất Nước thân yêu. Tiếng hát của những người “chèo đò, kéo thuyền vượt thác” là nhịp sống lao động, lạc quan và yêu đời của nhân dân ta trên con đường đi tới ngày mai…

Giọng thơ ngọt ngào âm vang đem đến cho chúng ta niềm tin yêu tự hào về sự trường tồn của Đất Nước muôn quý nghìn yêu:

“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về đến Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”.

Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm còn là “lời tự hát”. Anh hát về tình yêu đôi ta, hát về Nhân dân, về non sông Đất Nước. Anh hát về quá khứ “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông”. Anh hát về một ngày mai với nhiều “mơ mộng”. Chính Nhân dân – người làm ra Đất Nước đã cho anh niềm tin thiêng liêng ấy:

“Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang Đất Nước đì xa,

Đến những tháng ngày mơ mộng”.

Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” qua đoạn thơ này đã chi phối cách nhìn, cách cảm và cách nghĩ của nhà thơ trẻ Nguyễn Khoa Điềm trong những năm chiến tranh chống Mĩ vô cùng ác liệt. Tư tưởng này đã được diễn tả bằng một hồn thơ đậm đà màu sắc dân gian, nó đã làm phong phú thêm cho ý niệm về Đất Nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại.

Cảnh sắc núi sông gắn liền với tâm hồn dân tộc, khí phách của giống nòi. Cái bình dị tồn tại quanh ta hòa quyện với cái cao cả thiêng liêng cho thấy vẻ đẹp vĩnh hằng của Đất Nước của nền văn hóa Việt Nam và sự trường tồn của dân tộc.

Bài thơ tuy có chỗ còn dàn trải, nhưng ý tuởng đẹp, cảm hứng và ngôn ngừ thơ độc đáo. Nó đã khơi dậy tình yêu nước, niềm tự hào dân tộc, trách nhiệm và khát vọng công dân đối với Đất Nước trong mỗi chúng ta:

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết háa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời”.

Số 10: Cảm nhận tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước

Trong bản hợp xướng của thơ ca chống Mỹ, nổi lên những âm vang trầm hùng, sâu lắng thiết tha về đất nước. Đất nước hiện lên qua màu xanh Tre Việt Nam của Nguyễn Duy, trong dòng người cuồn cuộn trên Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh, Những người đi tới biển của Thanh Thảo. Đất nước đó cũng rung lên mạnh mẽ khi tuổi trẻ không yên những tà áo trắng đã xuống đường trong Mặt đường khát vọng (1974) của Nguyễn Khoa Điềm. Trong bản trường ca chín chương sôi sục nhiệt huyết của tuổi trẻ trước vận mệnh của dân tộc, ông đã dành hẳn một chương (V) để nói về đất nước:

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại

Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân đã thấm nhuần trong cả chương thơ về Đất Nước. Điều mà chúng ta dễ nhận ra trước tiên là tác giả đã sử dụng rộng rãi các chất liệu văn hoá dân gian. Nghĩa là văn hoá của nhân dân từ ca dao tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến cuộc sống dân dã hàng ngày: miếng trầu, hạt gạo, hòn than, cái kèo, cái cột. Các chất liệu ấy đã tạo ra được một thế giới nghệ thuật hết sức quen thuộc gần gũi mà sâu xa, bay bổng của văn hoá dân gian Việt Nam bền vững và độc đáo. Đây không chỉ là sự vận dụng sáng tạo truyền thống văn hoá dân gian, mà chính là thấm nhuần quan niệm về Đất Nước của Nhân dân, là sự thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi ấy trong cảm hứng và sáng tạo hình ảnh thơ của tác giả:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa… mẹ thường hay kể

Bằng giọng tâm tình như lời kể truyện cổ tích, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm xúc và suy tưởng của mình về đất nước. Cảm hứng có vẻ phóng túng, tự do như một thứ tuỳ bút bằng thơ, nhưng thực ra nó vẫn có một hệ thống lập luận khá chặt chẽ rõ ràng. Tác giả đã tập trung thể hiện đất nước trên các bình diện chủ yếu đó là, Đất Nước trong chiều dài thời gian lịch sử (quá khứ xa xưa cho đến hiện tại tương lai); trong chiều rộng không gian lãnh thổ, địa lý. Và cuối cùng là trong bề dày văn hoá, tâm hồn cốt cách. Ba phương diện ấy được thể hiện trong sự gắn bó thống nhất. Nhiều khi một chi tiết đưa ra cùng nói về mấy cả phương diện ấy của đất nước. Nhưng ở bất cứ phương diện nào thì quan niệm Đất Nước của Nhân dân cũng là tư tưởng cốt lõi, là sợi chỉ đỏ xâu chuỗi mọi cảm xúc và suy tưởng cụ thể và chính nhờ đó, mà tác giả đã có những phát hiện mới mẻ, có chiều sâu nhiều khi ở chính những hình ảnh chất liệu quen thuộc.

Nói về lịch sử mấy ngàn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng những sử liệu như nhiều nhà thơ khác. Ông dùng lối kể đậm đà của dân gian:

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Hình ảnh thơ phải chăng đã gợi cho ta về sự tích trầu cau từ đời Hùng Vương dựng nước xa xưa, về truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân đã đi vào lịch sử? Nghĩa là lịch sử đất nước được đọng lại trong từng câu chuyện kể, hiện hình trong miếng trầu bây giờ bà ăn, trong trồng tre mà đánh giặc. Hay nói cách khác đất nước đã nằm sâu trong tiềm thức mỗi người dân, trường tồn trong đời sống tâm hồn nhân dân qua bao thế hệ. Đó cũng chính là Đất Nước của Nhân dân.

Vì vậy khi nghĩ về mấy ngàn năm lịch sử của đất nước, tác giả không điểm lại các triều đại từ Triệu, Đinh, Lí, Trần gây dựng nên nền độc lập (Nguyễn Trãi) và cũng không nhắc lại tên tuổi những anh hùng lừng danh trong sử sách như Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,… mà Nguyễn Khoa Điềm đã nhấn mạnh đến muôn ngàn những con người bình dị vô danh:

Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Nhưng con người vô danh ấy chính là nhân dân vô tận đã tạo dựng và gìn giữ đất nước trải qua mọi thời đại. Họ không chỉ đánh giặc ngoại xâm mà còn là người sáng tạo và truyền lại mọi giá trị vật chất và tinh thần cho các thế hệ nối tiếp nhau:

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh tên làng tên xã trong mỗi chuyến di dân

Cùng với thời gian đằng đẵng là không gian mênh mông được tạo lập từ thuở sơ khai với truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ: Đất là nơi chim về – Nước là nơi rồng ở. Một đất nước đẹp đẽ và thiêng liêng biết bao!

Nhưng đất nước cũng là cái không gian rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày của mỗi người dân: Đất là nơi anh đến trường – Nước là nơi em tắm và đất nước ấy đã chứng kiến những mối tình đầu của biết bao lứa đôi:

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Từ quan niệm Đất Nước của Nhân dân, tác giả đã có những phát hiện sâu sắc và mới mẻ về vẻ đẹp thiên nhiên đất nước gắn liền với con người mà trước hết là những con người bình thường. Và chính những con người bình thường ấy đã làm nên vẻ đẹp muôn đời của thiên nhiên đất nước, một vẻ đẹp không chỉ mang màu sắc gấm vóc của non sông, mà còn là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn, truyền thống dân tộc:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Rồi người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên, cho đến những địa danh thật nôm na bình dị. Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm. Từ đó, tác giả đã đi tới một nhận thức khái quát sâu xa:

Ôi! Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta

Đất nước ấy còn có một bề dày văn hoá, tâm hồn cốt cách Việt Nam. Cũng như hai phương diện trên, bề dày văn hoá không được nói đến qua các danh nhân văn hoá như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Ngô Thì Nhậm… mà được thể hiện trong nguồn mạch phong phú của văn hoá dân gian để nêu lên truyền thống tinh thần và vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại. Trong các kho tàng văn hoá phong phú ấy, tác giả tìm thấy những vẻ đẹp nổi bật của tâm hồn tính cách Việt Nam. Đó là thật say đắm và thuỷ chung trong tình yêu: Yêu nhau từ thuở trong nôi; cha mẹ yêu nhau bằng gừng cay muối mặn; Biết quý trọng tình nghĩa: Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội. Nhưng cũng thật quyết liệt với kẻ thù: Biết trồng tre đợi ngày thành gậy – Đi trả thù không sợ dài lâu. Ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc đã được ông nói lên sâu sắc, thấm thía từ những câu ca dao đẹp – những tiếng lòng của nhân dân trải qua từng thời kỳ lịch sử.

Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là đất nước của Nhân dân của ca dao thần thoại. Những thi liệu dân gian đậm đà chất thơ, được kết hợp với những suy nghĩ giàu chất trí tuệ đã tạo nên nét đặc sắc cho bài thơ. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu thêm cho ý niệm về đất nước của thơ ca chống Mỹ.

Và cứ thế nhân dân thường ít nói

Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời

Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi

Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời

(Những người đi tới biển – Thanh Thảo)

Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm

Tổng kết

Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 10 bài phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 12.

0/5 (0 Reviews)
Chúng tôi tạo ra Top10timkiem.vn nhằm mục đích cung cấp cho người đọc những thông tin, liệt kê một cách chi tiết nhất về mọi lĩnh vực trong cuộc sống.