Tổng hợp các bài mẫu phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong bài Vợ Chồng A Phủ của tác giả Tô Hoài một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tim Kiếm sẽ tổng hợp Top 15 mẫu phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!
Dàn ý phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị
I. Mở bài
– Tô Hoài rất nhạy cảm với cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán của con người các vùng miền, tác phẩm của ông hấp dẫn người đọc bởi vốn hiểu biết sâu sắc.
– Tiêu biểu cho phong cách của Tô Hoài là truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Đặc biệt, hình tượng nhân vật Mị đã trở thành biểu tượng đẹp cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp bức.
II. Thân bài
* Sức sống tiềm tàng là sức sống vốn có của con người nhưng bị hoàn cảnh bên ngoài tác động làm che khuất đi, nhưng luôn thường trực, chờ cơ hội trỗi dậy.
1. Sức sống vốn có của Mị trước khi làm dâu nhà thống lí Pá Tra
– Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra:
+ Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo thổi lá cũng hay như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị
+ Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.
+ Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.
2. Sức sống tiềm tàng của Mị bị khuất lấp trong cảnh làm con dâu gạt nợ
– Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra: bị cúng trình ma nhà thống lí, bị bóc lột sức lao động, không bằng con trâu con ngựa, đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc, bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, …
– Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng vậy dù quay sợi, thái cỏ ngựa, … đều cúi mặt mặt buồn rười rượi, không quan tâm đến thời gian lỗ vuông bằng bàn tay …không biết là sương hay nắng.
– Mị sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, ở lâu trong cái khổMị quen rồi.
3. Sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy
– Khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ, Mị có ý định tự tử bằng lá ngón, không chấp nhận cuộc sống mất tự do.
– Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:
+ Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình, ..) ùa vào tâm trí, đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của Mị.
+ Mị lẩm nhẩm lời bài hát, trong khoảnh khắc tâm hồn trở về với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu hạnh phúc.
+ Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân thấy phơi phới trở lại, Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi, với khát khao tự do, chấm dứt sự tù đày.
+ Khi A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.
– Nhận xét: Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.
– Trong đêm mùa đông, khi A Phủ bị trói:
+ Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.
+ Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, … phải chết.
+ Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ
+ Mị sợ cái chết, sợ nỗi khổ sẽ phải gánh chịu trong nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát vượt ra khỏi địa ngục trần gian.
– Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, tiềm tàng sức sống, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.
III. Kết bài
– Nêu suy nghĩ về hình tượng nhân vật Mị.
– Nghệ thuật: ngôn ngữ đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.
– Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.
Xem thêm:
- Top 20 mẫu phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ chi tiết nhất
- Top 10 mẫu dàn ý phân tích nhân vật Mị chi tiết nhất
- Top 12 mẫu sơ đồ tư duy về nhân vật Mị chi tiết nhất
- Top 10 mẫu tóm tắt nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ chi tiết nhất
- Top 20 mẫu mở bài phân tích nhân vật Mị chi tiết nhất
- Top 20 mẫu kết bài phân tích nhân vật Mị chi tiết nhất
Top 15 mẫu phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị
Số 1: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị
Cuộc đời của Mị được tính từ khi cô về làm dâu nhà thông lí Pá Tra. Thường thì khi người con gái lấy chồng giàu thì sướng, nhàn hạ. Nhưng đây, Mị chỉ lùi lũi một mình, câm lặng. Xưa kia Mị cũng đã có một thời con gái hạnh phúc ( trong đói nghèo). Những đêm tình mùa xuân, con trai đến thổi sáo đứng “chật cả chân vách đầu buồng Mị”. Và Mị đã có một tình yêu, có hiệu gõ vách hẹn hò. Tâm hồn cô gái xinh đẹp và loài hoa ấy luôn mở rộng để đón nhận hương hoa của cuộc đời. Nhưng rồi tất cả đều chấm dứt trong cái đêm Mị bi bắt cóc về nhà thống lí Pá Tra. “Sáng hôm sau, Mị mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lí Pá Tra. Họ nhốt Mị vào buồng. Ngoài vách kia, tiếng nhạc tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa”. Mị bị bắt cóc để rồi trở thành con dâu thông lí là trả cái món nợ hôn nhân từ đời cha mẹ Mị.
Những ngày đầu làm dâu nhà thống lí, Mị thấm thìa nỗi đau một cuộc đời bị cướp đoạt “đêm nào Mị cũng khóc”. Đúng là về làm dâu gạt nợ, Mị bị cha con thống lí đốì xử không khác gì con vật. Suốt ngày Mị chỉ “ngồi quay sợi gai cạnh tảng đá, trước cửa tàu ngựa, gương mặt cô lúc nào cũng cúi xuống, mặt buồn rười rượi”. Cuộc đời cô cột chặt vào những công việc nặng nhọc. Đọc đoạn văn mở đầu của truyện không thể không băn khoăn, khao khát muốn hiểu nguyên nhân xô đẩy Mị vào tinh cảnh mà cô phải chịu.
Trước khi về cửa nhà thống lí Mị đẹp như một bông hoa rừng. Cô là một phụ nữ trẻ đẹp, chăm chỉ công việc, giàu lòng hiếu thảo, tự tin, thông minh…Người con gái ấy là niềm khát khao, ước mơ của bao nhiêu tràng trai “Có biết nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị chưa kịp nếm những trái ngọt của cuộc đời đã phải cay đắng tìm đến nắm lá ngón, mong kết liễu cuộc đời không ra gì. Bởi vì, Mị không muôn chấp nhận một cuộc sống chết mòn héo úa – điều này chứng tỏ con người Mị tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt, muốn thoát khỏi cuộc sống nô lệ. Nhưng vì tình thương cha, lòng hiếu thảo, Mị khó không đành chết nên vứt nắm lá ngón, trở lại nhà thống lí.
Ngày lại ngày qua, nổi khổ cực đã dồn nén dần cái sức sống tiềm tàng trong con người Mị. Mị không nghĩ đến cái chết nữa (ngay cả khi cha cô không còn). Mị tưởng mình cũng chỉ là con trâu, con ngựa nhà thông lí, sống trong nhà thống lí ách áp bức của giai cấp thống trị, thần quyền, sự mê tín đã biến Mị trở thành con người hoàn toàn khi “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Dường như mối giao cảm giữa Mị với cuộc sống bên ngoài chỉ còn thu hẹp của “căn buồng âm u, kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trắng trắng, không biết là sương hay nắng”.
“Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha, bồi hồi”. Tiếng sáo ấy đã khơi dậy sức sống ẩn náu trong Mị tưởng như đã nguội tắt. Mị còn nhớ như in những lời hát tình tứ mà Mị đã nghe, đã hát, đã thổi sáo, thổi kèn lá ngày nào. Hiện tại bây giờ cô đang sống lại cảnh tượng ngày xưa. Cô đâu phải là con người “chết dần chết mòn” về nhân tính như Chí Phèo. Tiếng sáo bây giờ đã thấm vào trái tim Mị, thức tỉnh sự câm lặng bấy lâu. Rồi Mị uống rượu, men rượu hay men cuộc đời đã nâng bỗng tâm hồn Mị lên, tâm hồn Mị đã thoát xác, vượt ra ngoài cái ô cửa “mờ mờ trăng trắng kia”. Khát vọng đi chơi bỗng bùng cháy trong tâm hồn Mị. Khái vọng ấy là cuộc khởi nghĩa nhân tính trong Mị. Bởi vì, từ ngày về làm dâu nhà thông lí “Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi”.
Vậy mà khi tiếng chó sủa xa xa, vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Sau bao nhiêu năm sống trong nhà thống lí, lần đầu tiên tiếng sáo của ai đó đến với Mị như một âm thanh của hiện tại. Rồi sau đó tiếng sáo làm sống lại bao rung động tâm linh của mùa xuân năm nào. Mới đầu tiếng sáo còn lấp ló nơi đầu núi, cuối cùng tiếng sáo đã thực sự hoá thân, nhập thân trong Mị “Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”. Góp phần làm nên cuộc “nổi loạn” nhân tính trong Mị có nhiều yếu tố; yếu tố ngoại lực, yếu tố nội lực. Trong đó, yếu tố quan trọng nhất phải chăng là tiếng sáo mùa xuân. Ngày xuân, không có gì cuốn hút Mị bằng tiếng sáo, tiếng áo đối với Mị mỗi lúc một mãnh liệt. Từ đầu là những âm thanh xa xôi, sau đó tiếng sáo trở thành lời mời gọi giúp Mị lãng quên quá khứ, sống vui vẻ với tương lai. “tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, đám chơi”.
Quá trình hồi sinh của Mị đã không được miêu tả một cách dễ dãi, hời hợt, tâm trạng nhân vật được nhìn nhận từ cái nhìn lưỡng phân. Con người hiện tại dường như đã chết, con người quá khứ đang dần dần từng bước được hồi sinh. Mị như cây hoa ban, hoa Đào Tây bắc trước lúc vào xuân, nhìn bề ngoài thì có vẻ khẳng khiu, khô gầy, mỏng manh như đã chết nhưng bên trong sức sống vẫn âm ỉ, vẫn chờ thời để bừng sáng sắc xuân. Tết đến, Mị rất muốn đi chơi, nhưng A Sử không cho Mị đi, năm nào cũng vậy, A sử toàn đi một mình để Mị ở nhà như người xa lạ. Nhưng giai cấp phong kiến, gia đình nhà thống lí không thể cưỡng ép được Mị lâu, một con người sức sống đang còn cháy rực trong tâm hồn. Lúc này khi “tiếng sáo đang lửng lơ bay ngoài đường” gọi bạn đi chơi mà Mị đã phải ngồi cô độc trong xó cửa. Cô không thể dằn lòng được “Mị vùng dậy khêu đèn sáng, cuốn lại lóc, mặc váy hoa vắt ở vách” toan bước đi, tìm đến nơi đang lửng lơ bay tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha. Nhưng Mị vừa bước đi thì A sử lại kéo cô lại. A Sử không hề đánh đập, chửi rủa mà anh lầm lì như cái bóng từ từ trói cô vào cột nhà.
Và bây giờ Mị mới bật khóc, khóc oan trái cho một kiếp người khao khát sống, muốn yêu mà đang ghì chặt vào một cuộc sống “không bằng con ngựa”. Nhưng từ đây sức sống của một cô gái yêu đời lại trỗi dậy. Trong bóng tối, cô đang mơ màng đi theo tiếng sáo, tiếng sáo ấy đã có lần đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Nhưng rồi quá khứ chưa đi, hiện tại lại về. Giờ đây, Mị đang bị A Sử trói, dường như cô sống mà như đã chết. Đã chết phần hồn lẽ nào giờ đây cô lại để chết cả phần xác, Mị thấy xung quanh mình chỉ là bóng tối, không một tiếng động, cô “vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa”.
Thời gian lại trôi qua, cho đến cái đêm A Phủ bị trói đứng vào cây cọc : trong nhà thống lí vì để hổ bắt mất con bò… A Phủ vì đánh lại con quan nên làng phạt vạ, và trở thành người ở gạt nợ của gia đình thống lí còn Mị làm dâu gạt nợ. A Phủ – Mị có cùng một cảnh ngộ, cùng là người đi ở gạt nợ cho nhà thống lí. A Phủ bị trói mấy đêm rồi nhưng đêm nào cũng vậy. Mị dậy đốt lửa sưởi và thản nhiên như không có gì bên cạnh. Mỗi đêm, đêm nào cũng vậy khi ngọn lửa bùng, Mị nhìn sang biết A Phủ còn sống nhưng Mị không hề nói năng gì. “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Bởi vì tâm hồn Mị đã khép kín và câm lặng rồi. Mặc dù, với ngọn lửa to như thế, hồng như thế cô vẫn cảm thấy lành lạnh, cô đơn. Sự cô đơn ấy cô đã từng nếm thử nhưng bây giờ nó cay và đắng lạ. Khi chỉ biết ngồi một mình bên bếp lửa. Dường như sức sống trong tầm hồn cô đã cạn dần.
Không, ngược lại, sức sống trong cô lâu nay bị dồn nén quá sức bây giờ nó để vỡ tung ra khi “Ngọn lửa vừa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Dòng nước mắt ấy đã làm trỗi dậy trong Mị tinh thương những người cùng cảnh ngộ. Mị chợt nhớ lại cái đêm mình cũng bị trói đứng vào cột nhà như thế kia, cũng “nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được”. Cũng như lần trước, một khi ý thức sống trỗi dậy, thì Mị lại nghĩ đến cái chết, nhưng lần này là một cái chết oan ức, vô lí của một người khác. Vì mê tín, vì đã là người của nhà thống lí, Mị cam chịu chết ở cái nhà này. Còn A Phủ việc gì phải chết, A Phủ phải được sống. Sau ý nghĩ ấy lòng thương người lớn hơn thương thân. Mị đã cam chịu chết thì cô sợ gì mà không cứu A Phủ. “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ cần biết đợi ngày mà rũ xuống ở đây thôi- Người kia việc gì phải chết”.
Rõ ràng, Mị đã suy nghĩ kỹ, đã lường trước những gì sẽ xảy ra. Cô sẵn s àng chịu trói thay cho A Phủ. Nghĩ đến lúc rơi vào tình cảnh ấy Mị cũng không thấy sợ. Ngược lại lúc này cô bình tĩnh, can đảm hơn bao giờ hết. Đến giờ phút nà y thì việc rút dao cắt dây trói cho A Phủ là một việc phải làm tất nhiên có thể xảy ra. Đó là hành động tự bản thân Mị chứ không phải là sự phát triển của tình huống truyện do tác giả sắp đặt. A Phủ đã được giải thoát, lòng thương của Mĩ đã chiến thắng còn Mị vẫn đứng trong bóng tối. vẫn biết rằng Mị không sợ hình phạt của thống lí, không sợ phải chết thay cho A Phủ vì chết đối với Mị là một giải thoát, Mị vốn nghĩ thế. Nhưng thấy A Phủ đã chạy đi rồi, chạy đi đến một cuộc sống tự do, thì Mị bừng tinh hẳn.
Mị không muốn chết nữa mà Mị muốn sống, phải sống “Mị cũng vụt chạy ra” theo A Phủ. Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng giải thoát luôn cho chính mình. Hành động cởi trói cho A Phủ bắt nguồn từ một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong tính cách của Mị, không một uy vũ nào có thể dập tắt nổi. Hành động chạy theo A Phủ là một hành động thật bất ngờ nhưng rất hợp lí. Lần này, thì sức sống mãnh liệt của Mị đã chiến thắng. Mị đúng là con người hơn con người thật. Đêm cuối cùng ở nhà thống lí Pá Tra, đã thành thật xin A Phủ cho đi theo, lời xin ấy cũng chính là ngọn lửa lâu ngày âm ỉ đang được bùng cháy.
Nhân vật Mị đã thu hút được người đọc bằng chính cái sức sống tiềm ẩn ấy . Tô Hoài đã rất thành công khi tạo dựng nhân vật này. Một cô Mị xinh đẹp, tài hoa, yêu đời, ham sống và luôn luôn nghĩ đến cái chết vì không được sống cho ra sống. Một cô Mị câm lặng, khép kín và luôn luôn bùng nổ những hành động chống đối mãnh liệt. Mâu thuẫn đấy mà lại hết sức thống nhất, tự nhiên, hợp lí. Người đọc cảm giác ấy là nhờ cách kể truyện rất sinh động, kết cấu hình tượng chặt chẽ và nhất là nhờ những chi tiết nghệ thuật có tính biểu cảm cao: một lỗ cửa sổ, “mờ mờ trăng trắng” soi rọi cuộc đời của cô con dâu gạt nợ nhà thống lí một tiếng sáo gọi bạn tình đêm xuân bồi hồi, tha thiết như giục giã, như gọi mời những hơi rượu say nồng đêm xuân; những giọt nước mắt trong đêm cuối cùng ở nhà thống lí… ở Mị có sự dửng dưng vô cảm, bén cạnh lòng thương xót xâu xa; có lúc lãng quên tất cả và cũng có lúc trào dâng nỗi nhớ thiết tha bồi hồi. Từ chỗ không thấy sợ Mị bỗng trở thành người hoảng hốt. Tất cả trạng thái đối nghịch ấy của tâm hồn Mị đều được Tô Hoài dẫn dắt, phân tích một cách hợp lí tưởng như không có thể nào khác được.
Đọc Vợ chồng A Phủ ta thấy Mị là bức chân dung tĩnh lặng. Hầu như trong thời gian nhà thống lí Mị chỉ nói có vài ba câu. Nhưng ẩn chứa trong tâm hồn câm lặng ấy là một sức sống mãnh liệt, một khát vọng lớn lao như mạch suối ngầm trong mắt. Tiếp xúc với Vợ chồng A Phủ ta nhớ, ta yêu một cô Mị ở Hồng Ngài càng bị đoạ đầy, đau khổ càng khao khát muốn vươn lên một cuộc sống tốt lành. Một cô Mị tiềm tàng sức sống mãnh liệt để có thể hiểu hơn một cô Mị du kích Phiềng Sa sau này.

Xem thêm:
- Top 15 mẫu phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị chi tiết nhất
- Top 20 mẫu phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân chi tiết nhất
- Top 10 mẫu phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa đông chi tiết nhất
- Top 10 phân tích cảnh Mị cởi trói cho A Phủ chi tiết nhất
- Top 10 mẫu phân tích nhân vật mị trong đêm đông cứu A Phủ chi tiết nhất
Số 2: Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị
Tô Hoài một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Trước cách mạng, các sáng tác của ông nghiêng về mảng truyện loài vật và cuộc sống của những người dân nghèo. Sau cách mạng, các sáng tác của ông vẫn tiếp tục đi khai thác cuộc sống của người dân, song ông đi sâu vào quá trình đổi đời của họ, đi từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ chính là nhân vật tiêu biểu cho quá trình vận động ấy. Quá trình vận động từ khổ đau đến hạnh phúc đó đã cho thấy sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật này.
Vợ chồng A Phủ ra đời khi Tô Hoài cùng đơn vị bộ đội tiến quân giải phóng Tây Bắc, có điều kiện tiếp xúc và tìm hiểu về số phận của người dân nơi đây trong một thời gian dài chính là chất xúc tác giúp ông viết nên tác phẩm này. Truyện này cũng được lấy nguyên mẫu từ cuộc đời của một đôi vợ chồng người Mông, bởi vậy câu chuyện đậm tính chân thực.
Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm, mở đầu là hình ảnh của một cô gái lầm lũi làm việc, công việc với cô như một thói quen, làm không cảm xúc, không ngừng nghỉ từ sáng đến đêm. Để rồi tiếp đó Tô Hoài mới ngược dòng thời gian, tái hiện lại chân dung của Mị trước đây. Mị vốn là một cô gái trẻ trung yêu đời và có tài năng. Vì xinh đẹp và có tài thổi sáo hay nên rất nhiều người con trai thổi sáo và đi theo Mị. Không chỉ vậy, Mị còn là cô gái yêu tự do và yêu lao động. Mối nợ truyền kiếp từ đời cha để lại, dẫn đến nguy cơ cô phải trở thành con dâu gạt nợ, ngay lập tức Mị đã yêu cầu với cha không bán mình đi mà cô sẽ chăm chỉ làm việc để trả nợ dần. Mị hội tụ đầy đủ trong mình những yếu tố được hưởng một cuộc sống yên ấm, hạnh phúc. Nhưng thực tế trái ngang, nhiều bất công cô đã bị A Sử bắt đi và trở thành con dâu gạt nợ. Chính từ giây phút đó cuộc đời cô bước vào chuỗi ngày tăm tối, bi kịch. Mị phải làm việc bất kể ngày đêm, bị bóc lột đến tận xương tủy, công việc chất chồng khiến cô không có giờ phút nghỉ ngơi. Những tưởng rằng cô đã mất hết niềm tin vào cuộc sống khi bị bóc lột về thể xác, tra tấn về mặt tinh thần. Nhưng không, bản chất là một người con gái giàu sức sống, chỉ cần có chất xúc tác, niềm hi vọng ấy sẽ bùng lên mãnh liệt, và nó được Tô Hoài tái hiện đầy đủ qua hai lần: Đêm tình mùa xuân và Đêm đông cứu A Phủ.
Đêm tình mùa xuân là cuộc nổi dậy, là sự nổi loạn đầu tiên của Mị. Có rất nhiều nhân tố khác nhau tác động tới tâm lí cô, khiến cô thực hiện cuộc nổi loạn đầu tiên này. Trước hết là không khí mùa xuân tươi vui, rực rỡ, những chiếc váy mèo đầy màu sắc trải dài trên các triền nương, tiếng trẻ con vui đùa tíu tít ngoài sân. Mùa xuân gắn với sự sống, với tình yêu, với không khí mùa xuân đã phần nào tác động đến tâm lí của Mị. Nhưng không khí mùa xuân thôi chưa đủ, chất xúc tác tiếp theo chính là hơi men của rượu. Mị cũng uống rượu như bao người khác, nhưng không phải để mừng một năm mới đến mà uống ừng ực từng bát một, uống như để quên đi những cay đắng, nhọc nhằn, quên đi những khổ đau cả về thể xác và tinh thần mà mình phải chịu đựng. Rượu là chất xúc tác mạnh mẽ để Mị tiến hành cuộc nổi loạn, chối bỏ thực tại, tìm về với quá khứ. Nhưng quan trọng nhất là sự tác động của tiếng sáo. Tiếng sáo xuất hiện dần dần, tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếng sáo gọi bạn đến đầu làng khiến Mị nhớ về tiếng sáo của mình ngày trước – tiếng sáo gắn với quá khứ đẹp đẽ. Việc thu hẹp khoảng cách của tiếng sáo thực chất là quá trình chuyển hóa từ tiếng của của thiên nhiên, bên ngoài đến tiếng gọi trong tâm hồn Mị. Tiếng sáo là tác nhân quan trọng nhất làm bừng lên sức sống và khát vọng hạnh phúc của Mị trong đêm tình mùa xuân.
Sau khi nghe thấy tiếng sáo Mị chối bỏ thực tại, nhớ về quá khứ đẹp đẽ. Nhưng hiện thực cuộc sống phũ phàng, như một sợi dây vô hình trì níu, khiến cho Mị bất ngờ quay vào buồng, dường như trong cô vẫn chưa sẵn sàng cho cuộc vượt thoát này. Chỉ đến khi nhìn thấy ô cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng Mị mới thực sự thoát khỏi sự trì níu của thực tại. Cô thấy lòng mình phơi phới trở lại, cô muốn đi chơi, muốn được giao tiếp với mọi người. Đồng thời cô cũng mong giá mà có nắm lá ngón lúc này, cô sẽ ăn để chết chứ không thể tiếp tục cuộc sống này nữa. Và đúng lúc ấy, tiếng sáo lại một lần nữa xuất hiện đầy hữu ý, tiếng sáo khiến sự nổi loạn của Mị bật thành hành động: cô muốn đi chơi, lấy mỡ thắp đèn cho sáng và cô lấy váy để chuẩn bị đi chơi. Tất cả những hành động đó đã cho thấy một trái tim khát khao sống mãnh liệt. Tuy nhiên tất cả đã bị chặn đứng bởi hành động độc ác của A Sử, hắn trói đứng Mị vào cột. Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác chứ không thể trói được tâm hồn Mị, tâm hồn cô đã vượt thoát thực tại thành công.
Sau cuộc nổi loạn không thành ở đêm tình mùa xuân, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái tê liệt, tiếp tục cuộc sống “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Nhưng với sự xuất hiện của A Phủ, cùng sự việc A Phủ bị trói đứng chờ chết đã thức tỉnh trong Mị tình yêu thương và khao khao sống. Hằng đêm Mị vẫn ra bếp lửa hong tay, cô chẳng mảy may để ý đến A Phủ, nhưng đêm ấy lại là một đêm rất khác, cô nhìn thấy giọt nước mắt lăn dài trên hốc mắt sâu hoắm. Giọt nước mắt đó đã tác động mạnh mẽ đến cô, để Mị nhớ rằng trước đây mình cũng từng bị trói đứng, cũng từng khóc như vậy nhưng không một ai để ý. Giọt nước mắt ấy cũng dấy lên trong cô lòng thương cảm, xót xa “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết” “người kia việc gì mà phải chết thế”. Cùng với lòng thương cảm là sự căm phẫn, khi Mị đã nhận ra sự độc ác của gia đình thống lí. Mị đã thoát khỏi tình trạng mơ hồ trong việc nhận thức kẻ thù, đây chính là bước đầu tiên nhóm lên trong Mị ý thức phản kháng, vùng lên đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác.
Bằng sự bao dung, vị tha, Mị tự thấy “Ta là phận đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi” chính vì vậy đã đưa Mị đến một quyết định cao cả, Mị lấy dao cởi trói cho A Phủ. Hành động diễn ra nhanh chóng, nhưng lại hết sức logic, hợp lí, bởi đó là hành động của tình yêu thương, sẵn sàng hi sinh cho người khác. Cứu A Phủ xong, Tô Hoài rất tinh tế khi miêu tả Mị đứng lặng trong bóng tối vì những hành động mình vừa thực hiện. Sau cuộc nổi loại này, cô tiếp tục thực hiện cuộc nổi loại thứ hai để tự cứu chính mình: “A Phủ cho tôi đi” “Ở đây thì chết mình” đầy bản lĩnh và chủ động, Mị đã tự cứu lấy chính mình. Tiếng gọi của Mị với A Phủ không đơn thuần chỉ là sự giao tiếp mà còn là tiếng gọi của tự do, tiếng gọi của hạnh phúc. Hai con người khốn khổ ấy đã cùng nhau bỏ trốn để xây dựng một cuộc sống mới, cuộc sống tự do, hạnh phúc.
Những hành động bất ngờ, quyết liệt cho thấy Mị đã cắt đứt sợi dây trói hữu hình đang giam cầm A Phủ để giải cứu cho đồng loại, đồng thời cũng cắt đứt sợi dây vô hình của thần quyền để giải phóng cho chính mình. Nếu như đêm tình mùa xuân gắn với khát vọng hạnh phúc, thì đêm đông cứu A Phủ lại gắn liền với khát vọng tự do trong Mị – một con người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn toàn.
Bằng ngòi bút tinh vi, miêu tả những biến chuyển tâm lí nhân vật đã cho nghệ thuật thuật miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của Tô Hoài. Đồng thời hai lần trỗi dậy đó cũng cho thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Qua đó còn cho thấy nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của Tô Hoài, ông phát hiện, trân trọng vẻ đẹp sức mạnh tiềm tàng, mãnh liệt trong những con người khốn khổ. Đồng thời thể hiện niềm tin, sự lạc quan vào tương lai tươi sáng cho những con người có số phận bất hạnh.
Số 3: Nhân xét sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị
Tô Hoài được biết đến là một trong số những nhà văn thành công nhất khi viết về cuộc sống và con người nơi miền Tây Bắc của Tổ quốc trong những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ mà kiên cường, bất khuất của dân tộc.
Với lối trần thuật sinh động, ngôn ngữ gợi cảm cùng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, những trang viết của Tô Hoài luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc và tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một trong số những tác phẩm đó. Đọc “Vợ chồng A Phủ” người đọc không thể nào quên được hình ảnh nhân vật Mị – một cô gái sức sống tiềm tàng, mãnh liệt.
Như chúng ta đã biết, Mị là một cô gái trẻ đẹp với nhiều phẩm chất đáng quý nhưng cuộc đời của Mị lại luôn gặp phải những đau khổ và bi kịch. Ngay trong phần đầu của tác phẩm, người đọc đã thấy hiện lên hình ảnh một cô Mị xinh đẹp, chăm chỉ và giàu lòng hiếu thảo với cha mẹ. Chắc hẳn, ai cũng nghĩ, người con gái hội tụ nhiều phẩm chất tốt đẹp như Mị sẽ xứng đáng có được cuộc sống ấm êm, vui vẻ và hưởng một hạnh phúc vẹn tròn.
Nhưng, vì món nợ truyền kiếp Mị đã trở thành con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra và cũng kể từ đây, Mị sống kiếp của con trâu con ngựa và với Mị, nhiều lúc cô cảm thấy mình còn không bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lí.
Cũng kể từ đây, Mị đã trở thành công cụ lao động của nhà thống lí, Mị làm việc không biết ngày tháng,quên hết mọi ý niệm về không gian và thời gian. Và để rồi, có lẽ bởi sống quá lâu trong cái khổ, trong sự hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần, Mị dần trở nên chai lì, vô cảm và tê liệt trong sức sống, lúc nào cùng làm việc như một cỗ máy với khuôn mặt “buồn rười rượi”.
Dẫu sống trong cái khổ với đầy rẫy sự áp bức nhưng người đọc vẫn thấy sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị mà không thế lực nào có thể dập tắt nó được. Có thể thấy, sức sống tiềm tàng ấy của Mị trước hơn hết thể hiện ở những phản ứng ngầm của nhân vật. Đã có nhiều lầm trong tác phẩm Mị có ý định ăn lá ngón để tự tử. Hành động ấy của nhân vật xét đến cùng xuất phát từ việc Mị ý thức được thực tại cuộc sống của chính mình và vượt thoát khỏi nó.
Đặc biệt, sức sống tiềm tàng của Mị được thể hiện rõ nét qua diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật trong đêm tình mùa xuân. Bằng ngòi bút trữ tình và giàu chất thơ cùng những am hiểu sâu sắc về Tây Bắc, nhà văn Tô Hoài đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân Tây Bắc với những nét độc đáo nhất, mang đậm bản sắc của núi rừng nơi đây và có lẽ đặc biệt nhất trong số đó chính là âm thanh của tiếng sáo.
Bởi âm thanh của tiếng sáo chứa thật nhiều ý nghĩa, nó không chỉ là nét đặc trưng của mùa xuân Tây Bắc mà còn là biểu tượng cho hạnh phúc, tình yêu, đồng thời nó chính là yếu tố tác động mạnh mẽ nhất đến tâm hồn Mị, đánh thức sức sống trong Mị. Để rồi, trong tâm hồn Mị đã bắt đầu có những dấu hiệu của sự thức tỉnh, “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi”, Mị cảm nhận được những âm thanh trong không gian quanh mình và rồi “Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi sáo”.
Giờ đây, dường như Mị không còn dửng dưng, vô cảm với những gì diễn ra trong cuộc sống của mình nữa. Qua lời bài hát, từng dòng kí ức đang gọi nhau ùa về, sống lại trong Mị. Tâm hồn Mị bắt đầu có dấu hiệu của sự nổi loạn. Mị uống rượu, “uống ừng ực từng bát” như để quên đi những nỗi cay đắng, tủi nhục của mình. Tâm hồn Mị dần hồi sinh và phơi phới trở lại, dần thoát khỏi sự tê liệt về tinh thần.
Mị ý thức về tuổi trẻ và khao khát được sống như ngày xưa “Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi”. Muốn đi chơi nghĩa là Mị muốn hòa mình vào không khí của màu xuân tươi đẹp rực rỡ, là muốn đến với thế giới ngập tràn tình yêu và tự do phía bên ngoài kia, nghĩa là Mị đã thoát khỏi trạng thái tê liệt tâm hồn trong những ngày trước đây. Và đó cũng chính là lúc Mị ý thức được thân phận tủi nhục, cay đắng của chính mình.
Tâm hồn thức tỉnh đó cũng là lúc Mị đối diện với thực tại phũ phàng, nhận ra thân phận buồn tủi chua xót của mình khi Mị và A Phủ không có lòng, không có tình yêu mà vẫn phải ở với nhau – một cuộc sống không có tình yêu và hạnh phúc. Nhưng dù thế nào đi nữa Mị vẫn muốn đi chơi và Mị đã chuẩn bị đi chơi. Mị đã thắp sáng lên ngọn đèn điều đó có nghĩa ý niệm về không gian đã trở lại trong Mị.
Mị thắp đèn cũng chính là thắp sáng bóng tối u uất trong tâm hồn mình. Mị quấn lại tóc, “với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái áo”. A Sử về và trói đứng Mị nhưng dường như Mị đã quên mất việc mình đang bị trói, Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo và chân Mị vẫn vùng bước đi. Giờ đây, A Sử chỉ có thể trói chặt thể xác của Mị còn tâm hồn Mị đã đi theo âm thanh của tiếng sáo, hòa cùng những cuộc vui bởi trong Mị giờ đây sức sống đã trỗi dậy, vượt thoát ra khỏi cả những nỗi đau về thể xác.
Thêm vào đó, sức sống mãnh liệt, tiềm tàng của Mị còn thể hiện rõ nét qua hành động Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ. Lúc đầu, khi thấy A Phủ bị trói đứng, Mị hoàn toàn dửng dưng, vô cảm, “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thôi”. Mị sống cô độc, tuyệt vọng và vô cảm, phải chăng chính cái khổ, cái cực ở nhà thống lí đã khiến tâm hồn Mị trở nên chai sạn. Nhưng rồi khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, tâm hồn Mị đã được đánh thức.
Mị không còn dửng dưng, thản nhiên với A Phủ nữa mà thay vào đó là sự đồng cảm và động lòng trắc ẩn “Trời ơi! Nó bắt trói đứng người ta đến chết”. Giọng văn chuyển từ kể sang biểu cảm đã thể hiện rõ nét niềm cảm thương sâu sắc của Mị với A Phủ và cả với chính mình. Hơn thế nữa, Mị căm phẫn tội ác của cha con nhà thống lí Pá Tra. “Mị thốt lên: Chúng nó thật độc ác”. Nhà văn đã để nhân vật tự thốt lên, trực tiếp bộc lộ sự căm phẫn và thái độ phản kháng của mình.
Trong đầu Mị hiện lên ý định cởi trói cho A Phủ song Mị lại thấy sợ. Nhưng rồi đến cuối cùng, tình thương người, thương mình của Mị đã vượt qua mọi nỗi sợ hãi, thúc đẩy Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ. Mị giục A Phủ chạy trốn và cuối cùng quyết định chạy trốn theo A Phủ. Hành động đó của Mị là hành động bột phát song nó là điều tất yếu bởi lẽ sức sống tiềm tàng đang cứ ngày một lớn dần và trỗi dậy trong Mị.
Tóm lại, với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, chân thực và tinh tế cùng những tình huống đặc sắc, “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật Mị với sức sống tiềm tàng, mãnh liệt. Đồng thời, qua đó đã thể hiện rõ nét tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài.

Số 4: Phân tích sức sống mãnh liệt của nhân vật Mị
Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Việt Nam. Trước Cách mạng, nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện về loài vật như “ O chuột”, “Dế mèn phưu lưu ký”. Sau cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những tác phẩm viết về đề tài miền núi như “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”… Trong tập Truyện Tây Bắc, nổi tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị – người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do.
Mị xuất hiện ngay từ phần mở đầu tác phẩm, gây ám ảnh cho người đọc về một kiếp người héo hắt, tàn tạ “ chỉ biết cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mỵ không hiện lên bằng chân dung mà hiện lên bởi số phận – một số phận đau buồn về kiếp người làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra.
Mị là cô gái trẻ đẹp là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Mị tài hoa với điệu sáo làm say mê biết bao nhiêu chàng trai “ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị yêu lao động “biết cuốc nương làm ngô”. Mị giàu lòng tự trọng và hiếu thảo với cha già. Khi biết tin bố sẽ gạt nợ mình cho nhà thống lý, Mị tha thiết van xin “bố đừng bán con cho nhà giàu”. Đó chính là vẻ đẹp về nhân cách và phẩm giá của người con gái với vẻ đẹp trong ngần thánh thiện như loài hoa ban thơm ngát giữa rừng. Nhưng có ngờ đâu sự hiểm độc của chính sách cho vay nặng lãi của bọn thổ ty phong kiến miền núi như một sợi dây oan nghiệt siết chặt lấy cuộc đời Mị. Đắng cay thay, đêm tình mùa xuân đẹp nhất của đời người con gái đã biến thành một đêm bi kịch, tủi nhục khi A Sử bắt cóc Mị về nhà thống lý. Và một buổi lễ cúng trình ma sáng hôm sau đó đã trói chặt cuộc đời Mị từ đấy.
Lúc đầu mới về “làm dâu” để phản kháng lại cái sự vô lí ấy, Mị đã “hằng mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc”. Khóc là biểu hiện của trạng thái tâm lí bị ức chế, không cam chịu, không chấp nhận cái sự thật nghiệt ngã ấy. Mị cũng đã từng nghĩ đến cái chết khi cầm nắm lá ngón về tự tử trước mặt cha nhưng vì thương cha già Mị không đành chết. Mị ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi tuổi trẻ hạnh phúc của mình để quay về nhà thống lý chấp nhận kiếp sống trâu ngựa. Cái địa ngục trần gian ấy đã giam cầm cuộc đời Mị. Tuổi xuân của Mị bị vùi dập đến héo úa, lụi tàn trong căn buồng chỉ độc một cái cửa sổ nhỏ như lòng bàn tay “trông ra ngoài không biết sương hay là nắng”.
Mị bị nô lệ hóa trở thành công cụ lao động. Nói đúng hơn là bị bóc lột sức lao động một cách tàn tệ trở thành một súc nô trong nhà thống lý. Cuộc sống của Mị bị vùi vào công việc cả đêm lẫn ngày “tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay xe đay, cuối mùa thì đi nương bẻ bắp…”. Không chỉ vậy, Mị còn bị bóng ma thần quyền áp chế làm cho tê liệt về tinh thần, mất hết cả ý thức phản kháng. Nhà văn Tô Hoài đã nhiều lần so sánh Mị với con vật (con ngựa, con trâu, con rùa). Từ đó Mị sống trong vô cảm, tâm hồn bị phong kín bởi sự lặng câm, băng giá “càng ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thử hỏi còn xót xa nào hơn thế nữa không ?
Nhưng bằng cảm quan nhân đạo và tấm lòng yêu thương đồng cảm với số phận con người, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc những thước phim quay chậm về sự bừng lên của một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đang âm ỉ cháy trong con người Mị. Bên ngoài là một cô Mị lầm lũi như cái bóng, như đã chết nhưng bên trong lại ẩn chứa lòng ham sống. Sức sống ấy như hòn than nhỏ đang bị vùi lấp trong cái vẻ ngoài lặng câm vô cảm. Vô tình cơn gió của đêm tình mùa xuân đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy một sức sống, lòng ham sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng đầy bi kịch.
Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ và chắc chắn không thể thiếu được “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường”. Chính những hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị. Đặc biệt qua nghệ thuật trần thuật và miêu tả đặc sắc, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác giá băng.
Chính tiếng sáo đã tác động đến Mị, góp phần thức tỉnh một tâm hồn nguội lạnh. Tiếng sáo như sợi dây vô hình nối mị với quá khứ và hiện tại làm sống dậy trong Mị một kí ức tươi đẹp. Nói đúng hơn nó đánh thức cái tài hoa trong Mị. Mị thổi sáo hay, thổi lá giỏi có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Quá khứ đẹp nhưng đối lập với một hiện tại buồn mênh mang. Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu
Tiếng sáo làm Mị mạnh mẽ hơn, Mị thoát khỏi cái lớp xác vô hồn ấy bằng một hành động “nổi loạn nhân tính”. Mị tìm đến rượu, nhưng không phải để tìm vui mà là để giải sầu“ Mị uống ực từng bát rồi say”. Mị uống như nuốt căm hận vào lòng. Sự bất bình thường ấy đã nói lên tất cả. Sức chịu đựng có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. Rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần đời đã mất của Mị, giờ đây Mị không còn lặng câm nữa mà đã hồi sinh. Mị đang sống về ngày trước và không gì có thể ngăn được niềm vui sướng của Mị “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Còn gì hạnh phúc bằng khi mình tìm lại được chính mình ? Tô Hoài đã thâm nhập vào mê cung tâm trạng của người phụ nữ này và bằng lòng cảm thông yêu thương sâu sắc, nhà văn đã làm người đọc thực sự xúc động trước những biến đổi về tâm lý của Mị.
Con rùa nuôi trong xó cửa ấy đã không còn lùi lũi nữa rồi. Nó đã phá vỡ cái bức tường vô cảm kia để khát khao tìm ra thiên đường mùa xuân của tuổi trẻ, của hạnh phúc. Mị nhận thức được chính mình, đó chính là ý thức về tuổi trẻ. Mị thấy mình còn trẻ “Mị trẻ lắm. Mị hãy còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao khát sống, còn muốn yêu thương. Đúng là một cảm xúc bi kịch: nhận ra mình còn trẻ khi mà tuổi xuân bị tước đoạt rồi và sống trong hoàn cảnh đáng thương này thì đúng là bi kịch. Nhưng dù đó là bi kịch thì Mị vẫn vui sướng vì dù sao Mị vẫn còn là chính mình với trái tim đầy khát vọng.
Nhưng đớn đau thay, cùng với cảm xúc tìm lại được chính mình là một nỗi tủi thân. Tủi thân khi nghĩ về thực tại. Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc. A Sử – kẻ khốn nạn ấy đã giam hãm cuộc đời Mị và dẫu “không có lòng với nhau mà cũng phải ở với nhau”. Cảm xúc ấy như một gáo nước lạnh dội vào mặt, làm tan biến đi tất cả niềm vui sướng mà nãy giờ Mị chắt chiu dành dụm. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như súc nô.
Mị lại tưởng đến nắm lá ngón, Mị ước ao có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra. Muốn chết để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để thoát khỏi bi kịch, điều này dễ thông cảm nhưng hơn hết Tô Hoài đã mang đến cho người đọc sự lột xác của Mị. Muốn chết chính là biểu hiện của sức sống. Khi Mị đã hồi sinh, khó có thể nào chấp nhận được thực tại cay đắng này.
Nhưng không có nắm lá ngón, tâm trạng Mị chợt xoay sang hướng khác. Khi mà tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo gọi, khi mà cả thiên đường hạnh phúc của mùa xuân phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không thể ngồi yên được nữa. Mị phải đứng dậy thôi! Mị hành động trong lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng mãnh liệt. Mị đã thắp lên ngọn đèn trong căn phòng u ám, đặc cóng muộn phiền. Ngọn đèn như xua tan đi tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để đến với thế giới ngoài kia đang dập dìu tiếng sáo. Tô Hoài đã diễn tả thật sâu sắc cái khát vọng cháy bỏng ấy của Mị bằng một đoạn văn ngắn nhưng giàu nỗi cảm thông chia sẻ.
Câu văn ngắn, nhịp gấp thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt của nhân vật “Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Mị hành động thản nhiên, dù Mị biết A Sử đang hiện diện trong căn buồng của Mị. Nhưng Mị không sợ, bóng ma thần quyền đã không thể nào làm gì được Mị nữa rồi. Nhưng đớn đau thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị miền núi đã dập tắt đi cái khát vọng và sự trỗi dậy đó của Mị. A Sử đã nhẫn tâm trói Mị bằng một thúng sợi đay, tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng đầu được nữa.
Nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống bằng tâm hồn. A Sử trói được thể xác của Mị nhưng không thể nào trói được tâm hồn của Mị. Bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng đêm tình của tuổi trẻ. Thể xác Mị nằm đây, giữa bốn bức tường câm lặng nhưng hồn Mị đang “đi theo những cuộc chơi những đám chơi”. Tâm hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, ăm ắp những kỷ niệm đẹp tươi. Có lúc tiếng sáo nhập cả vào hồn Mị làm Mị bừng lên như ngọn lửa gặp cơn gió lớn “Mị vùng bước đi”. Hành động này cho thấy Mị không hề biết mình đang bị trói (hoặc có thể biết bị trói nhưng đã quên vì sức sống của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác). Nhưng rồi “tay chân đau không cựa được” lại đưa Mị về với hiện thực cay đắng “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Nhưng sức sống ấy vẫn âm ỉ cháy dù đau đớn, tủi nhục. Suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh.
Lúc mê thì sống trong “hơi rượu tỏa” cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình. Lúc tỉnh thì “nồng nàn tha thiết nhớ”. Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là chi tiết: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Và Mị đã sợ, sợ chết “Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết”. Sợ chết là biểu hiện của lòng ham sống. Sức sống trong con người khốn khổ ấy đã không lụi tàn mà ngược lại vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm gầm gào trong lòng đại dương tưởng như không gì có thể dập tắt nổi. Nói như nhà văn Lỗ Tấn “Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai”. Chắc chắn đợt sóng ngầm ấy sẽ hứa hẹn trở thành đợt sóng thần của ngày mai. Đó là đêm cởi trói cho A Phủ một năm sau đó.
Cũng là nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi, A Phủ trở thành trâu ngựa trong nhà Pá Tra. Hai số phận nhưng một cảnh ngộ. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu. Vì để hổ bắt mất một con bò, mạng sống của A Phủ bị treo lên giá chết. Án tử đang đợi A Phủ từng phút từng giây. Đó là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Mị thức dậy và sống cùng ngọn lửa. Mị vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn. Lửa cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy sưởi ấm cho nhau. Nhìn thấy A Phủ bị trói đứng như thế, Mị cũng bình thản, bình thản một cách lạ lùng đến nhẫn tâm. Phải chăng “Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi” nên Mị không còn nhận ra nỗi khổ của người khác. Và nếu đúng như vậy thì đớn đau thay Mị đã đánh mất đi lòng nhân ái mà trong bản thân người phụ nữ nào cũng có. Khi và chỉ khi dòng nước mắt của A Phủ “bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”.
Đó là dấu hiệu của sự chết đã xuất hiện trên khuôn mặt của người nô lệ ấy thì trái tim Mị mới bừng tỉnh, lòng thương người trong Mị mới trỗi dậy. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lúc này đây, Mị mới thấm thía được nỗi cùng cực của kiếp người. Thương người, Mị lại thương mình. Mị hình dung lại chuỗi ngày ê chề dài dằng dặc của cuộc đời mình. A Phủ sao mà giống Mị thế, Mị cũng từng bị A Sử trói đứng thế kia, có «nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được». Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà bị trói chết trong căn nhà này. Mị càng căm phẫn càng uất hận “chúng nó thật độc ác”.
Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Nhưng Mị không có quyền bỏ mặc người khác. Lý trí mách bảo Mị rằng phải cứu A Phủ. Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc Mị phải hành động. Nhưng Mị chợt chùn lại. Mị giằng xé dữ dội giữa mạng sống của mình và người đồng cảnh ngộ. Có thể Mị cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ lại phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị nào đâu thấy sợ, bởi giờ đây, lòng thương người đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Mị táo bạo, Mị quyết liệt, Mị nổi loạn.
Chính hành động cắt dứt sợi dây trói đã phần nào cho thấy vẻ đẹp sức sống của Mị. Đó chính là sức sống của cô gái Mèo dám dứng lên đương đầu với lũ ác thú. Dù còn là mang tính tự phát nhưng đó là dấu hiệu dự báo cho thấy được sự bừng tỉnh của những nô lệ đang đi theo tiếng gọi của cách mạng. Có ai ngờ được rằng Mị cắt đứt dây trói cho A Phủ cũng là vô tình cắt đi sợi dây oan nghiệt trói buộc cuộc đời mình. Mị đã làm một việc động trời nhưng đó là tất yếu. Cái giây phút Mị đứng lặng trong bóng tối là Mị sống trong sự ngổn ngang trăm mối. Lòng Mị rối bời với câu hỏi: chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Cuối cùng tiếng gọi của tự do và sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ.
Những bước chân của hai con người khốn khổ ấy băng qua đêm tối như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn họ biết bao nhiêu năm qua. Ta hãy nghe Mị nói sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi!… Ở đây thì chết mất”. Đó là câu nói thể hiện niềm khao khát sống và khát khao tự do đến mãnh liệt. Và tiếng gọi tự do đang vẫy gọi họ phía trước, nơi họ đến là Phiềng Sa vùng đất hứa còn Hồng Ngài hôm nay còn chăng là những ngày buồn đau, tủi nhục.
Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền.
Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn. Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn.
Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu thương đồng cảm sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Qua nhân vật Mị nhà văn đã làm hiện lên vẻ đẹp của một sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ miền núi nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung. Sức sống tiềm tàng ấy giúp nhà văn khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con người Việt Nam và chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Đây chính là cuộc đấu tranh đi lên từ tự phát đến tự giác theo ánh sáng của cách mạng. Đó là giá trị nhân văn ngời sáng của tác phẩm.
Số 5: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị
Vợ chồng A Phủ (1953), Miền Tây (1967), Vừ A Dính (1962)… là những tác phẩm nổi tiếng của Tô Hoài viết về phong tục, cảnh sắc và con người miền Tây của Tổ quốc ta. Tô Hoài đã từng nói: “Tôi coi Việt Bắc, Tây Bắc cũng như một quê hương đề tài của tôi…” (Văn nghệ số 14/10/1995). Tập truyện Tây Bắc là một nét son chói lọi đầu tiên của sự nghiệp văn chương Tô Hoài viết về đề tại miền Tây. Một chuyến đi dài, Tô Hoài theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Ông đã viết thành công tác phẩm “Truyện Tây Bắc”, trong đó có truyện “Vợ chồng A Phủ”. Qua truyện ngắn này, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ và sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến để giành lấy tình yêu, hạnh phúc.
Những trang viết về Mị – một trong hai nhân vật chính của truyện là vô cùng cảm động. Mị tuy bị chà đạp, bị giày xéo trong bể khổ cuộc đời, nhưng cô đã có một sức sống tiềm tàng kì lạ!
Mị là một cô gái trẻ và đẹp, duyên dáng, hiếu thảo, thổi sáo hay, “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Nhà nghèo, năm nào bố Mị cũng phải trả nợ lãi một nương ngô cho thống lí Pá Tra. Bố đã già, Mị thương bố lắm. Cô đã nói với bố: “Con nay đã biết cuốc nương ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Món nợ truyền kiếp mà bố Mị vay của thống lí như một oan trái cuộc đời. Mị đã bị A Sử – con trai thống lí đánh lừa bắt về cúng trình ma. Mị trờ thành con dâu gạt nợ… Đau xót quá! “Chao ôi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, bây giờ người ta bắt bán con trừ nợ. Không thể làm thế nào khác được rồi!”. Tiếng than của bố Mị nói lên một sự thật cay đấng: Mị là con dâu gạt nợ của thống li Pá Tra – điều đó như một định mệnh bi thảm!
Những năm đằng đẳng làm dâu gạt nợ, Mị bị đối xử hết sức tàn tệ, chẳng khác gì một con vật. Phải làm quần quật quanh năm, suốt tháng. Lên núi hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, đi nương bé bắp, lúc hái củi bung ngô, lúc nào Mị cũng phải gài một bó đay trong cánh tay đế tước thành sợi. Mị chẳng khác nào con trâu, con ngựa nhà thống lí. Khổ cực quá chừng: “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”.
Tuổi trẻ, sắc đẹp cũa Mị bị tước đoạt, vùi dập. Cô như một đóa hoa rừng chóng héo tàn, lúc nào cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi’’. Buồng Mị ở như một cái chuồng nhốt thú, kín mít, tối om, chỉ có một lỗ nhỏ bằng bàn tay, nhìn ra ngoài “chí thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Đau khổ quá “Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi!’’. Nỗi ám ảnh ấy thật ghê sợ. Mị như một linh hồn chết.
Cứ tưởng rằng Mị cam chịu số phận. Nhưng cô ta đã hết sức vùng vẫy cố thoát khỏi cái dây oan nghiệt của sô phận. Hàng mấy tháng liền, đêm nào Mị cũng khóc. Mị trốn về nhà, tròng mắt đỏ hoe. Gặp bố “Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở”. Lần đầu tiên, Mị phản kháng lại số phận tủi nhục, hái lá ngón toan ăn để tự tử. Nhưng Mị chết đi, ai sẽ làm nương ngô giả được nợ thống lí, khi bố Mị đã “ốm yếu quá rồi”. Thương bố, Mị “không đành lòng chết”. Mị bưng mật khóc, ném nắm lá ngón xuống đất “đành trở lại nhà thống lí”, cam chịu kiếp ngựa trâu, sống lùi lũi như con rùa trong xó cửa. Biết bao mùa xuân trôi qua! Biết bao nhiêu nước mắt Mị đã chảy xuống. Cũng như bao người đàn bà khác trong nhà thống lí “một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng”. Mị cam chịu số phận: “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi’’… Mị thấy mình chỉ là con trâu, con ngựa “chi biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi!”. Một đời con gái, một kiếp người bị vùi dập đến tê dại như thế thì sự đau khổ đã tột cùng rồi!
Một bất ngờ khác lại đến với người đọc. Lần thứ hai, Mị lại vùng dậy. Ngày Tết đến, Mị đã lén lấy hũ rượu “uống ừng ực từng bát” rồi say, “lịm mặt’’ ngồi xem bọn nhảy đồng, người hát, nhưng “lòng Mị thì đang sống về ngày trước”. Con gái vùng rẻo cao, ai mà chẳng uống rượu? Chắc là Mị đã từng uống rượu, nhưng cách uống rượu “ừng ực từng bát” thì đây là lần đầu tiên. Mị uống cho quên hết mọi đau khổ? Mị uống cho hả giận? Hay Mị mượn bát rượu để thức tỉnh lòng mình sống lại cùng với mùa xuân, với những đêm tình mùa xuân thời con gái? Nếu những năm tháng đã qua, bếp lửa và ngọn lửa đã sưởi ấm lòng Mị, đã làm nguôi đi, vơi đi bao nỗi đau, tủi nhục cuộc đời, thì giờ đây, tiếng sáo, tiếng hát của trai gái Mèo tha thiết gọi bạn tình đã khơi dậy trong lòng Mị bao khao khát:
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi…
Mị đã tự ý thức về mình. Mị thấy lòng phơi phới, vui sướng như thời con gái bước vào những đêm tình mùa xuân. Mị thấy mình “trẻ lắm… vẫn còn trẻ”. Mị thấy mình cô đơn. Mị phải đi chơi. Bao nhiêu cô gái khác đã có chồng vẫn đi chơi . Thật là vô lí, hơn nữa Mị thấy mình với A Sử “không có lòng với nhau nhưng vẫn phải ở với nhau’’. Mị khóc. Mị thương mình đau khổ. Mị ghê tởm thằng A Sử “còn muốn rình bắt mấy người con gái nữa về làm vợ…” Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay! Một sức sống tiềm tàng trong lòng Mị như hòn than hồng âm ỉ cháy.
Bạo lực, Mị cũng chẳng sợ. Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sang, rồi cô quấn lại tóc, với lấy váy hoa, rút thêm cái áo, chuẩn bị đi chơi. Hành động Mị diễn ra trước mắt thằng A Sứ. Như thách thức. Không trả lời khi hắn hỏi: “Mày muốn đi chơi à?”. Sự vùng dậy của Mị lần này lại phải trả giá! Thằng con trai của nhà thống lí vô cùng tàn ác đã trói đứng Mi trong buồng tối bằng một thúng sợi đay và còn quấn cả tóc Mị lên cột, làm cho cô “không cúi không nghiêng được đầu nữa”. Nhưng sức sống vẫn tiềm ẩn trong lòng người con gái Mèo này. Suốt đêm bị trói đứng “dây trói thít lại, đau nhức”, lúc mê lúc tỉnh, Mị “nồng nàn tha thiết nhớ” và cô bồi hồi: “Mị vẫn tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Tâm trí Mị chập chờn “có lúc vùng bước đi”, nhưng bị trói, đi sao được? Nghe tiếng ngựa gãi chân, nhai cỏ “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.
Chúng ta đã từng đọc truyện thơ “Tiễn dặn người yêu” trong đó cô gái Thái bị ép duyên đau khổ than thân: “Ngẫm thân em chỉ bàng thân con bọ ngựa — con chẫu chuộc thôi…”. Nỗi cay đắng của Mị còn gấp trăm gấp nghìn lần thế! Được cởi trói do một sự tình cờ, cô lại phải vào rừng hái lá thuốc, đêm ngồi hầu hạ, xoa thuốc dấu cho A Sử. Đau ê ẩm, mỏi quá, Mị “gục đầu nằm thiếp đi” lại bị tên khốn kiếp “đạp chân vào mặt”. Tô Hoài đã ghi lại một cách cảm động sự vùng dậy lần thứ hai của Mị với bao vùi dập, đau đớn ê chề ! Mị vẫn chưa gục ngã trước số phận!
Lần thứ ba, Mị lại vùng dậy. Hình như số phận của Mị đã gắn liền với số phận của A Phủ như một tiền định. Một bên là con dâu gật nợ, một bên là kẻ phạm tội đánh con quan. Cả hai đều là con trâu, con ngựa của nhà thông lí Pá Tra. Mị đã bị A Sử trói đứng. A Phủ vì tội để hổ bắt mất bò đã bị Pá Tra trói vào cọc bằng một cuộn dây mây, “quấn từ chân lên vai, chỉ còn cổ và đầu hơi lúc lắc được”. Làm sao bắt được con hổ? A Phủ nhất định bị thế mạng. Suốt 3 ngày đêm bị trói “A Phủ chỉ đứng nhắm mắt” Má A Phủ đã xám lại. A Phủ sắp chết! Giữa đêm khuya từ bếp lửa nhìn sang, Mị nhìn những giọt nước lăn bò trên má A Phủ mà xót xa, động lòng: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết…”. Mị căm thù nguyền rủa cha con thống lí: “Chúng nó thật độc ác. Người kia việc gì mà phải chết thế..”. Mị không còn biết sợ hãi nữa. Cô đã dùng dao nhỏ cắt nút dây mây, cởi trói cho A Phủ, cứu thoát A Phủ. Như một lời khích lệ: “Đi ngay!”. Mị đã vùng chạy theo A Phủ. Cô đã nói: “ A Phủ cho tôi di… ở đây thì chết mất!”. Lương tâm thức tỉnh. Mị cứu A Phú và cũng là tự cứu mình. Thật là dữ dội và khủng khiếp. Tình huống truyện tạo nên tính bi kịch của số phận. Bao nhiêu máu và nước mắt, Mị mới giành được tự do. Mị thương người, tự thương minh. Khát vọng về tự do và hạnh phúc, là nguồn sức mạnh vùng dậy của Mị.
Trốn khỏi Hồng Ngài, Mị và A Phủ đi suốt một mùa mưa, vượt qua những triền núi đá tai mèo, họ nên vợ nên chồng khi đến khu du kích Phiềng Sa. Hành động cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ chạy trốn là điểm đỉnh sự vùng dậy của Mị, là sự thể hiện sức sống tiềm tàng của người con gái Mèo trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Khát vọng về tự do, hạnh phúc, về quyền sống của con người đã cho nhân vật Mị nhiều sức mạnh để vùng dậy. Sức sống tiềm tàng cùa Mị đủ khổng định một chân lí: Bạo lực không đè bẹp được khát vọng tự do! Sức sống tiềm tàng của Mị mang tính điển hình sâu sắc, thể hiện một cách cụ thể, chân thực và sống dộng cho sự vùng dậy của người Mèo trên con đường đi tìm hạnh phúc, tự do và họ đã đến với cách mạng và kháng chiến.
Nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài miêu tả và khám phá trong chiều sâu tâm hồn, trong những biến thái “thăng trầm, gấp khúc” của tâm trạng. Miêu tả thành công sức sống tiềm tàng cùa nhân vật Mị, ngòi bút nghệ thuật của Tô Hoài đã làm cho truyện ngắn Vợ chồng A Phủ sáng bừng giá trị nhân đạo. Người đọc mãi mãi thấm thía về cái giá của tình yêu tuổi trẻ và hanh phúc, tự do.
Số 6: Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị
Tô Hoài một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Trước cách mệnh, các sáng tác của ông nghiêng về mảng truyện loài vật và cuộc sống của những người dân nghèo. Sau cách mệnh, các sáng tác của ông vẫn tiếp tục đi khai thác cuộc sống của người dân, song ông đi sâu vào quá trình đổi đời của họ, đi từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ chính là nhân vật tiêu biểu cho quá trình vận động đấy. Quá trình vận động từ khổ đau tới hạnh phúc đó đã cho thấy sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật này.
Vợ chồng A Phủ ra đời lúc Tô Hoài cùng đơn vị quân nhân tiến quân giải phóng Tây Bắc, có điều kiện xúc tiếp và tìm hiểu về số phận của người dân nơi đây trong một thời kì dài chính là chất xúc tác giúp ông viết nên tác phẩm này. Truyện này cũng được lấy nguyên mẫu từ cuộc đời của một vài vợ chồng người Mông, bởi vậy câu chuyện đậm tính chân thực.
Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm, mở đầu là hình ảnh của một cô gái lầm lũi làm việc, công việc với cô như một thói quen, làm ko xúc cảm, ko ngừng nghỉ từ sáng tới đêm. Để rồi tiếp đó Tô Hoài mới ngược dòng thời kì, tái tạo lại chân dung của Mị trước đây. Mị vốn là một cô gái trẻ trung yêu đời và có tài năng. Vì xinh đẹp và có tài thổi sáo hay nên rất nhiều người đàn ông thổi sáo và đi theo Mị. Không chỉ vậy, Mị còn là cô gái yêu tự do và yêu lao động. Mối nợ truyền kiếp từ đời cha để lại, dẫn tới nguy cơ có phải trở thành con dâu gạt nợ, ngay ngay lập tức Mị đã yêu cầu với cha ko bán mình đi nhưng mà cô sẽ siêng năng làm việc để trả nợ dần.
Mị tụ hội đầy đủ trong mình những yếu tố được lợi một cuộc sống yên ấm, hạnh phúc. Nhưng thực tiễn trái ngang, nhiều bất công cô đã bị A Sử bắt đi và trở thành con dâu gạt nợ. Chính từ phút giây đó cuộc đời cô bước vào chuỗi ngày u tối, thảm kịch. Mị phải làm việc bất kể ngày đêm, bị bóc lột tới tận xương tủy, công việc chất chồng khiến cô ko có giờ phút ngơi nghỉ. Những tưởng rằng cô đã mất hết niềm tin vào cuộc sống lúc bị bóc lột về thể xác, tra tấn về mặt ý thức. Nhưng ko, thực chất là một người con gái giàu sức sống, chỉ cần có chất xúc tác, niềm hi vọng đấy sẽ bùng lên mãnh liệt, và nó được Tô Hoài tái tạo đầy đủ qua hai lần: Đêm tình mùa xuân và Đêm đông cứu A Phủ.
Đêm tình mùa xuân là cuộc nổi dậy, là sự nổi loạn trước tiên của Mị. Có rất nhiều yếu tố không giống nhau tác động tới tâm lí cô, khiến cô thực hiện cuộc nổi loạn trước tiên này. Trước hết là ko khí mùa xuân tươi vui, rực rỡ, những chiếc váy mèo đầy màu sắc trải dài trên các triền nương, tiếng trẻ em vui đùa ton tả ngoài sân. Mùa xuân gắn với sự sống, với tình yêu, với ko khí mùa xuân đã phần nào tác động tới tâm lí của Mị.
Nhưng ko khí mùa xuân thôi chưa đủ, chất xúc tác tiếp theo chính là hơi men của rượu. Mị cũng uống rượu như bao người khác, nhưng ko phải để mừng một năm mới tới nhưng mà uống ừng ực từng bát một, uống như để quên đi những đắng cay, nhọc nhằn, quên đi những khổ đau cả về thể xác và ý thức nhưng mà mình phải chịu đựng. Rượu là chất xúc tác mạnh mẽ để Mị thực hiện cuộc nổi loạn, chối bỏ thực tại, tìm về với quá khứ. Nhưng quan trọng nhất là sự tác động của tiếng sáo. Tiếng sáo xuất hiện dần dần, tiếng sáo ngoài đầu núi, tiếng sáo gọi bạn tới đầu làng khiến Mị nhớ về tiếng sáo của mình ngày trước – tiếng sáo gắn với quá khứ đẹp tươi. Việc thu hẹp khoảng cách của tiếng sáo thực chất là quá trình chuyển hóa từ tiếng của của tự nhiên, bên ngoài tới tiếng gọi trong tâm hồn Mị. Tiếng sáo là tác nhân quan trọng nhất làm bừng lên sức sống và khát vọng hạnh phúc của Mị trong đêm tình mùa xuân.
Sau lúc nghe thấy tiếng sáo Mị chối bỏ thực tại, nhớ về quá khứ đẹp tươi. Nhưng hiện thực cuộc sống phũ phàng, như một sợi dây vô hình trì níu, làm cho Mị bất thần quay vào buồng, dường như trong cô vẫn chưa sẵn sàng cho cuộc vượt thoát này. Chỉ tới lúc nhìn thấy ô cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng ko biết là sương hay là nắng Mị mới thực sự thoát khỏi sự trì níu của thực tại. Cô thấy lòng mình phơi phới trở lại, cô muốn đi chơi, muốn được giao tiếp với mọi người.
Đồng thời cô cũng mong giá nhưng mà có nắm lá ngón lúc này, cô sẽ ăn để chết chứ ko thể tiếp tục cuộc sống này nữa. Và đúng lúc đấy, tiếng sáo lại một lần nữa xuất hiện đầy hữu ý, tiếng sáo khiến sự nổi loạn của Mị bật thành hành động: cô muốn đi chơi, lấy mỡ thắp đèn cho sáng và cô lấy váy để sẵn sàng đi chơi. Tất cả những hành động đó đã cho thấy một trái tim khát khao sống mãnh liệt. Tuy nhiên tất cả đã bị ngăn chặn bởi hành động độc ác của A Sử, hắn trói đứng Mị vào cột. Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác chứ ko thể trói được tâm hồn Mị, tâm hồn cô đã vượt thoát thực tại thành công.
Sau cuộc nổi loạn ko thành ở đêm tình mùa xuân, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái tê liệt, tiếp tục cuộc sống “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Nhưng với sự xuất hiện của A Phủ, cùng sự việc A Phủ bị trói đứng chờ chết đã thức tỉnh trong Mị tình mến thương và khát khao sống. Hằng đêm Mị vẫn ra bếp lửa hong tay, cô chẳng mảy may quan tâm tới A Phủ, nhưng đêm đấy lại là một đêm rất khác, cô nhìn thấy giọt nước mắt lăn dài trên hốc mắt sâu hoắm.
Giọt nước mắt đó đã tác động mạnh mẽ tới cô, để Mị nhớ rằng trước đây mình cũng từng bị trói đứng, cũng từng khóc tương tự nhưng ko một người nào quan tâm. Giọt nước mắt đấy cũng dấy lên trong cô lòng thương cảm, xót xa “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta tới chết” “người kia việc gì nhưng mà phải chết thế”. Cùng với lòng thương cảm là sự căm thù, lúc Mị đã trông thấy sự độc ác của gia đình thống lí. Mị đã thoát khỏi tình trạng mơ hồ trong việc nhận thức quân địch, đây chính là bước trước tiên nhóm lên trong Mị ý thức phản kháng, vùng lên đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác.
Bằng sự bao dung, vị tha, Mị tự thấy “Ta là phận phụ nữ, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi” chính vì vậy đã đưa Mị tới một quyết định cao cả, Mị lấy dao cởi trói cho A Phủ. Hành động diễn ra nhanh chóng, nhưng lại hết sức logic, hợp pháp, bởi đó là hành động của tình mến thương, sẵn sàng hi sinh cho người khác. Cứu A Phủ xong, Tô Hoài rất tinh tế lúc mô tả Mị đứng lặng trong bóng tối vì những hành động mình vừa thực hiện. Sau cuộc nổi loại này, cô tiếp tục thực hiện cuộc nổi loại thứ hai để tự cứu chính mình: “A Phủ cho tôi đi” “Ở đây thì chết mình” đầy khả năng và chủ động, Mị đã tự cứu lấy chính mình. Tiếng gọi của Mị với A Phủ ko thuần tuý chỉ là sự giao tiếp nhưng mà còn là tiếng gọi của tự do, tiếng gọi của hạnh phúc. Hai con người khốn khổ đấy đã cùng nhau bỏ trốn để xây dựng một cuộc sống mới, cuộc sống tự do, hạnh phúc.
Những hành động bất thần, quyết liệt cho thấy Mị đã cắt đứt sợi dây trói hữu hình đang giam cầm A Phủ để giải cứu cho đồng loại, đồng thời cũng cắt đứt sợi dây vô hình của thần quyền để giải phóng cho chính mình. Nếu như đêm tình mùa xuân gắn với khát vọng hạnh phúc, thì đêm đông cứu A Phủ lại gắn liền với khát vọng tự do trong Mị – một con người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn toàn.
Bằng ngòi bút tinh xảo, mô tả những lay động tâm lí nhân vật đã cho nghệ thuật thuật mô tả tâm lí nhân vật bậc thầy của Tô Hoài. Đồng thời hai lần trỗi dậy đó cũng cho thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Qua đó còn cho thấy nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của Tô Hoài, ông phát hiện, trân trọng vẻ đẹp sức mạnh tiềm tàng, mãnh liệt trong những con người khốn khổ. Đồng thời trình bày niềm tin, sự sáng sủa vào tương lai tươi sáng cho những con người có số phận xấu số.

Số 7: Nhân xét sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị
Vợ chồng A Phủ là chuyện thành công nhất trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài. Trong truyện này, nhân vật Mị có hồn hơn cả. Mị có hai mặt tưởng như đối lập nhưng thực ra lại rất thống nhất. Mặt thứ nhất là Mị bị chà đạp nặng nề đã sinh ra buồn rầu và dần dần sinh ra cam chịu, mất cả sức sống. Mặt thứ hai là ngay trong tình trạng đó, Mỵ vẫn cựa quậy, vẫn tiềm tàng, tiềm ẩn một sức sống để từ đó bước vươn dậy và cuối cùng phá cũi tháo lồng và tìm lại được lẽ sống cho mình.
Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá-Tra là tấn bi kịch đau đớn nhất trong cuộc đời nàng. A Sử đối với nàng như đối với một người nô lệ. Nhưng vì nàng là người con gái giàu tình thương, có đức hi sinh nên nàng đành cam chịu để trừ nợ cho cha. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu con ngựa. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào công việc cả đêm cả ngày . Quá đau khổ, nàng đã phản kháng bỏ nhà Pá Tra trở về. Nàng định lạy cha rồi ăn lá ngón chết. Nhưng khi nghe cha nói: Mày về lạy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ Không được con ơi!. Mị bưng mặt khóc, ném nắm lá ngón rồi trở về nhà Pá Tra. Vì quá thương cha mà nàng đành cam chịu cuộc sống nô lệ ở nhà thống lí.
Nhưng trong tâm trạng, trong bản chất cuộc sống của Mị tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt. Trong nỗi buồn, trong suy nghĩ, trong ý muốn tự tử của nàng đã biểu lộ tinh thần không muốn cam chịu, không muốn chấp nhận cuộc sống lầm than, tủi cực hiện tại. Sức sống bị đè nén chỉ cần có cơ hội là nó sẽ bộc phát. Những đêm tình mùa xuân đã tới, tâm hồn Mị bị xáo trộn. Nàng đã lắng nghe tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, tha thiết bổi hổi. Mị ngồi nhẩm bài hát của người đang thổi:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu
Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy hồi tưởng lại ngày trước. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Mùa xuân, Mị uống rượu trên bếp và thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác. Sức sống lại dạt dào trong lòng nàng. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi. Tiếng sáo còn rập rờn trong đầu Mị, Mị quấn lại tóc, Mị mặc váy hoa. Ai bảo cô Mị chỉ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa? Dĩ nhiên tuổi xuân của nàng đã bị tàn phá. Sức sống của nàng đã bị đè nén. A Sử trói Mị lại, quấn tóc lên cột. Đóng cửa buồng rồi bỏ đi. Thật là tàn bạo, Mị vẫn đứng im như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi.
Em không yêu, quả pao rơi rồi
Em yêu người nào, em bắt pao nào
Mị vùng vằng bước đi nhưng toàn thân đau nhức không cựa được. Sức sống tiềm tàng trong người Mị bộc phát thật là dữ dội.
Sức sống tiềm ẩn của Mị bộc lộ tột đỉnh trong hành vi nổi loạn giải thoát cho A Phủ và cho chính mình. A Phủ là người ở trừ nợ (vì đánh A Sử nên bị phạt vạ) trong nhà thống lí. A Phủ chăn bò bị hổ ăn mất một con. A Phủ bị trói. Đêm đêm, Mị dậy sưởi lửa thấy mắt A Phủ trừng trừng, biết A Phủ còn sống, Mị vẫn lạnh lùng vì đời Mị khổ quá, Mị chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử thấy Mị ở đây đã đập Mị ngã xuống cửa bếp nhưng trái tim của cô gái giàu yêu thương ấy lại thổn thức. Đêm khuya Mị trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng lên.
Cách miêu tả sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy trong lòng Mị bằng ngọn lửa bập bùng sáng lên thật là hay! Nàng nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã sạm đen lại. Mị nhớ lại đêm A Sử trói Mị, nàng thốt lên trong lòng Trời ơi! Nó bắt trói đứng người ta đến chết! Nó đã trói chết một người đàn bà trong nhà ngày trước cũng ở chỗ này. Nàng nghĩ đêm mai là người kia chết. Người kia việc gì mà phải chết. Rồi nàng vận vào mình, biết đâu A Phủ trốn thoát, bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị cởi trói cho nó. Mị phải trói thay vào đó, Mị phải chết trên cái cọc ấy, Mị không thấy sợ. Đấy chỉ là những tư tưởng nổi loạn trong lòng Mị và từ tư tưởng nổi loạn đến hành động nổi loạn chỉ có một li. Mị đã rón rén bước lại gần A Phủ.
Nàng rút con dao nhỏ cắt lúa cắt nút dây mây trói A Phủ. Mị thì thào: Đi ngay!. Mị cắt sợi dây trói A Phủ cũng chính là nàng đã cắt sợi dây vô hình trói nàng vào gia đình thống lí Pá Tra. Nàng đã chạy theo A Phủ, A Phủ nói: Đi với tôi và hai người lẳng lặng đỡ nhau chạy xuống dốc núi. Hình ảnh đó nói lên sự can đảm liều lĩnh của Mị. Hành động táo bạo này có ý nghĩa quyết định trong cuộc đời Mị. Mị và A Phủ đã nương tựa vào nhau và thành vợ chồng A Phủ để xây dựng cuộc đời mới. Hành động giải thoát của Mị có xen lẫn ý thức tự phát và tự giác. Có lẽ ý thức tự phát mạnh hơn. Đó chính là kết quả biểu lộ tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng, tiềm ẩn của Mị trước đó. Hành động giải phóng và tự giải phóng này của Mị có nguồn gốc từ cái buồn rười rượi, từ cái cách uống ừng ực từng bát rượu và ngay cả ý định muốn tự sát của Mị.
Nguồn gốc sâu xa của hành vi đó là ở tấm lòng giàu tình cảm, giàu lòng thương người của Mị, còn nguyên do trực tiếp là tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân đã thức dậy trong tâm hồn nàng lòng yêu đời, niềm tha thiết với cuộc sống tự do.
Có thể nói sức sống tiềm tàng của Mị là sức hấp dẫn của nhân vật này trong thời gian Mị ở Hồng Ngài. Tô Hoài đã đặt Mị trong mối xung đột xã hội gay gắt, những thế lực tàn bạo của xã hội phong kiến thống trị của người H-mông đã chà đạp lên số phận của nàng, tưởng như nàng không còn con đường nào thoát khỏi sự hủy diệt. Vậy mà chính sức sống tiềm ẩn của nàng đã tự cứu nàng. Tô Hoài đã miêu tả một cách xuất sắc sự vận động nội tâm của nhân vật và dẫn đến hành động phản kháng tháo cũi phá lồng giải thoát. Chính sức sống mãnh liệt của Mị khi gặp ánh sáng cách mạng thì như hạt giống tốt gieo lên mảnh đất phù sa. Mị đã trở thành nhân tố tích cực trong đội du kích Phiềng Sa của A Phủ sau này cũng là điều dễ hiểu.
Số 8: Phân tích sức sống mãnh liệt của nhân vật Mị
Trên cánh đồng văn chương Việt Nam, có nhà văn độc canh bằng một loại thể. Tiêu biểu cho khuynh hướng này phải kể đến nhà văn Kim Lân – nhà văn cả đời đi về với đất, với người, với cuộc sống nông thôn thuần hậu (nói như Nguyên Hồng); lại có nhà văn thâm canh tăng vụ bằng nhiều loại thể. Tiêu biểu ta phải kể đến nhà văn Tô Hoài. Tính đến nay sự nghiệp của Tô Hoài đã già nửa thế kỉ. Ông là tác giả của khoảng trăm đầu sách, hàng nghìn bài báo với nhiều thể loại phong phú và đa dạng. Nhưng nhắc đến Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám, người yêu văn không thể không nhắc tới “Dế mèn phiêu lưu kí”; sau Cách mạng tháng Tám với tập “Truyện Tây Bắc” gồm ba truyện ngắn: “Cứu đất cứu Mường”, “Mường Giơn giải phóng” và “Vợ chồng A Phủ”. Những năm gần đây người ta lại xôn xao nhắc đến ông với “Cát bụi chân ai” và tiểu thuyết “Ba người khác”. Đến nay “Vợ chồng A Phủ” vẫn là cái mốc thách thức của nhà văn Tô Hoài.
Truyện được giải thưởng văn nghệ 1954 – 1955; là một truyện ngắn xuất sắc viết về đề tài miền núi Tây Bắc. Tác phẩm được đưa vào trong chương trình giảng dạy như một kiệt tác của Tô Hoài. Truyện xoay quanh cuộc đời của người con gái Mèo nghèo khổ, xinh đẹp nết na; được Tô Hoài phát hiện và thể hiện với sức sống tiềm tàng bất diệt. Đó là Mị – nhân vật chính trong tác phẩm này. Thông qua sức sống tiềm tàng của Mị, Tô Hoài bộc lộ là một nhà văn nhân đạo, nhân văn, sâu sắc và cao cả. Văn hào Nga Shê-khốp đã từng nói: “Một người nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Tô Hoài là một nhà văn như thế.
Cuộc đời con người là một chuỗi vận động liên hoàn mà chúng ta không thể chia cắt hoặc phân tách. Tuy nhiên cuộc đời ấy lại được hình thành bằng một chuỗi sự kiện và hoàn cảnh. Ở những hoàn cảnh lớn, sự kiện lớn; bản chất của con người được bộc lộ. Ban – dắc đã từng nói “Bản chất của con người thường bị bánh xe của số phận che đậy, còn một khi lao vào bão tố thì bản chất ấy dù tốt hay xấu tự nó bộc lộ”. Khẳng định như vậy bởi lẽ sức sống tiềm tàng là sức sống tiềm ẩn dưới đáy sâu tâm hồn con người. Nó là toàn bộ sức mạnh về thể chất và tinh thần của con người. Ở Mị, nó biểu hiện ra là niềm khao khát, muốn sống cuộc đời hạnh phúc trong tự do. Niềm khao khát ấy cứ âm ỉ cháy dưới đáy sâu tâm hồn Mị như một ngọn lửa chưa bao giờ tắt, như một chồi cây đâm sâu trong lòng đất chờ cơ hội để phát triển. Trong cuộc sống thường nhật, sức sống tiềm tàng còn được thể hiện ở thái độ phản kháng, sự chống lại và luôn vươn lên mọi thế lực bạo tàn; lúc nào cũng muốn lăm le hòng tiêu diệt lại nó.
Câu nói bình thường, nhưng đã làm toát lên bản chất của một con người. Đó là con người có sức sống tiềm tàng bất diệt. Câu nói của Mị hàm chứa sự đánh đổi, đánh tráo: Mị thà ở nhà lao động cực nhọc trên nương rẫy, nhưng được sống một cuộc đời hạnh phúc tự do với ước mơ của một thời con gái còn hơn phải làm con dâu nhà giàu; sống kiếp trâu ngựa nô lệ mất cả quyền làm người. Sự tráo đổi này chỉ có thể có ở những con người mạnh mẽ, tự tin, biết quý trọng danh dự và nhân phẩn của bản thân. Có câu “thân gái như hạt mưa sa”. Làm dâu của nhà giàu là ước mơ của nhiều người phụ nữ. Nhưng với Mị, người con gái giàu lòng tự trọng và có sức sống tiềm tàng, Mị không bao giờ chấp nhận cuộc hôn nhân gả bán này. Điều đó thể hiện rõ ở lời quả quyết của Mị với cha: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”.
Mặc dù Mị không chấp nhận làm dâu nhà thống lí, nhưng cuộc đời Mị không được yên thân. Bởi Mị đang sống trong xã hội tiền quyền và thần quyền. Đây là xã hội thổ ty, lang đạo ở miền núi, tương ứng với xã hội phong kiến ở miền xuôi. Trong xã hội ấy, cạm bẫy người giăng giăng như mắc cửi, thì những người nết na như Mị không thoát được. Mị bị bắt cóc, lừa gạt, về cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra, đợi ngày chết rũ xương ở đây. Biết được điều này, Mị đã khóc ròng rã hàng tháng trời. Sống ở nơi đây cũng đồng nghĩa với cái chết, và Mị đã nghĩ đến cái chết. Là một cô gái nết na, hiếu thảo, Mị không thể nào chết ở nhà thống lí mà không về chào cha lần cuối. Nhưng khi về đến gia đình, Mị mới thấy rõ bi kịch của gia đình mình. Bố Mị nói như van xin: “Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì không lấy ai làm nương ngô giả được nợ người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!”.
Sau khi nghe người cha nói ra những lời đầy nước mắt, Mị đứng trước hoàn cảnh oái oăm, éo le và cay cực: Mị sống thì không muốn, giờ đây Mị chết lại không xong. Mặc dù vậy, ý định tự tử của Mị lại là biểu hiện của sức sống tiềm tàng, biểu hiện của một lòng ham sống. Điều này có gì là nghịch lí hay không? Mới nghe qua tưởng đó là một nghịch lí, nhưng đặt trong hoàn cảnh của Mị, đó lại là sự hợp lí sâu sắc. Bởi lẽ Mị muốn chết như một con người, còn hơn phải sống như một con vật; Mị muốn chết ngay một lần để được làm người còn hơn chết dần, chết mòn, chết khô, chết héo, chết cả về thể xác và tâm hồn. Nếu Mị chết, nghĩa là Mị đã làm theo tiếng gọi của sức sống tiềm tàng, làm theo tiếng gọi của khao khát cá nhân mình; Mị buộc phải chà đạp lên chữ hiếu, phải dày xéo lên tình phụ tử. Là một cô gái nết na, hiếu thảo, Mị không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi đau của cha mình và bi kịch của gia đình. Nghĩa là Mị không bước qua được chữ “hiếu”. Chỉ vì chữ “hiếu”.
Mị đành gạt nước mắt, quăng nắm lá ngón, quay trở về nhà thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài. Cái nhà thống lí ở Hồng Ngài không khác gì hang hùm nọc rắn. Dấn thân vào nhà thống lí Pá Tra là dấn thân vào địa ngục trần gian, vào nơi thiên la địa võng. Ở đó cái ác hiện lên từng ngày, từng giờ và phát triển lên cùng cực. Cái ác lúc nào cũng muốn lăm le hòng tiêu diệt bản tính tốt đẹp của con người. Nhưng không phải vì thế mà người dân vùng cao bị xói mòn tình người, bị cằn cỗi tâm hồn. Ngược lại, trong lòng của cái ác, bản tính tốt đẹp của con người vẫn thăng hoa, nổi loạn. Chữ “hiếu” vẫn ngời sáng. Điều ấy cho thấy: tất của những gì tốt đẹp nhất của cuộc đời này không hề bị tiêu diệt. Cái thiện luôn chiến thắng cái ác!
Vì tình thương cha, Mị vẫn đành chấp nhận vào nhà thống lí. Đọc đến đây, người yêu văn nhớ đến bi kịch mà hơn 200 năm về trước, Thúy Kiều từng phải gánh chịu: bán mình chuộc cha. Điều đáng nói ở đây là sự việc hãi hùng này đến với Mị khi miền Bắc nước ta tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Nhưng có lẽ ánh sáng của cách mạng chưa rọi chiếu đến cuộc sống của những người dân rẻo cao Tây Bắc. Tô Hoài – với tư cách của một anh tuyên truyền viên, thông qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” cũng như sức sống tiềm tàng của Mị, nhà văn đã mang ánh sáng của Đảng đến với cuộc sống của những người dân Tây Bắc để cứu đất, cứu Mường, để Mường Giơn được giải phóng. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thư gửi họa sĩ nhân triển lãnh tranh toàn quốc ở miền Bắc lần thứ nhất năm 1951, có viết: “Văn học nghệ thuật là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Nếu đứng từ góc độ này để cảm nhận thì Tô Hoài thực sự là người chiến sĩ đi đầu trên mặt trận văn chương.
Chấp nhận vào nhà thống lí Pá Tra, nên từ đây Mị đã không khóc nữa, Mị hoàn toàn thay đổi. Mị đành đào sâu chôn chặt mọi ước mơ của một thời con gái với quãng đời thiếu nữ tự do, với hạnh phúc trong mối tình đầu. Cô Mị tự trọng xinh đẹp là thế. Mị sống lầm lũi như con rùa ở trong xó cửa, xó bếp. Mị sống như một cái bóng, cái xác vô hồn giữa địa ngục trần gian. Mị sống chẳng qua chỉ là kéo dài những ngày chưa chết được mà thôi. Những câu văn đầy tính tạo hình, Tô Hoài đã dựng lên những chân dung của Mị với sức sống tàn phai mai một ngay ở những dòng đầu tác phẩm: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước của, cạnh tàu ngực. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
Tất cả những gì tưởng như đã chết rồi trong lòng Mị thì giờ đây lại hồi sinh – hồi sinh một cách chóng vánh khi mùa xuân đến. Có thể nói những trang văn viết về mùa xuân của Tô Hoài là những trang văn tuyệt bút. Ta bắt gặp một cây bút vốn viết văn hiện thực, giờ đây lại có những trang văn vô cùng lãng mạn. Có thể không quá lời khi khẳng định, những trang văn viết về mùa xuân của Tô Hoài là những bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi. “Vợ chồng A Phủ” là minh chứng cho lời nhận định của một nhà phê bình văn học: “Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 có sự kết hợp hài hoà giữa hai nhân tố hiện thực và lãng mạn”. Nhưng điều chúng ta quan tâm là ngòi bút tâm lí của nhà văn Tô Hoài khi lách sâu vào tâm hồn Mị để phát hiện ở Mị có sức sống tiềm tàng bất diệt. Nhà văn tập trung vào những ngõ ngách động cơ, những tâm lí phức tập âm thầm bên trong tâm hồn Mị. Cùng với Nam Cao, Tô Hoài thực sự là một nhà văn hiện thức tâm lí.
Để sức sống của Mị trỗi dậy trong những ngày mùa xuân, đầu tiên nhà văn tập trung miêu tả những đổi thay bên ngoài. Năm ấy mùa xuân đến sớm. Tô Hoài miêu tả những làn gió đem mùa xuân vê trên khắp các bản làng. Tất cả không khí nơi đây đều cuốn vào không khí của ngày hội. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi và cỏ gianh vàng ủng. Trên những bản của người Mèo Đỏ, những nương thuốc phiện đã nở hoa sặc sỡ, rồi những chiếc váy hoa xòe ra trông như những cánh bướm khổng lồ. Mùa xuân – nơi hội tụ sức sống của các bản làng, chất thơ của xứ sở được tập trung vào mỗi đám hội. Ban ngày từng đám thanh niên đến đánh quay, ném pao, tung còn… Tất cả không khí này âm thầm dội vào tâm hồn Mị – một tâm hồn vốn khô cằn; và nó làm cho sức sống của Mị bắt đầu có sự vận động trở lại. Nó chẳng khác nào như những nốt nhạc đầu tiên của bản tình ca thay đổi lớn sắp diễn ra trong lòng người đàn bà đã và đang phải chịu quá nhiều đau khổ.
Kế đó nhà văn tập trung vào để miêu tả tiếng sáo đêm tình của mùa xuân. Nếu ban ngày từng đám thanh niên nô nức đến với đám hội thì cứ tối đến, trong không gian kia là tiếng sáo, tiếng hát; tiếng khèn lá, khèn môi của trai gái gọi bạn tình; réo rắt đi hết quả đồi này sang quả đồi khác. Những tiếng sáo, tiếng hát ấy đánh thức dậy trong lòng Mị những bài hát từ ngày xưa mà kể từ ngày bước chân vào nhà thống lí Pá Tra, Mị đành đào sâu chôn chặt. Mị bổi hổi bồi hồi nhẩm lại bài hát từ ngày xưa. Ngày xưa Mị thổi sáo thật tài, chỉ cần uốn chiếc lá trên môi, cô thổi hay như thổi sáo:
“Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi
Em yêu người nào, em bắt pao nào.”
Hoặc:
“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.”
Điều đáng nói là tiếng sáo, tiếng hát ấy đã mang lại hai tiếng “ngày xưa” trở về với Mị. Nói cách khác, nhờ có tiếng sáo mà thời gian trở về với Mị. Từ ngày bước chân vào nhà thống lí Pá Tra, Mị sống một cuộc sống phi không gian, phi thời gian. Thế giới của Mị là một căn buồng tăm tối, nhìn ra bên ngoài qua ô cửa mờ mờ trăng trắng, không biết ngày hay đêm, sương hay nắng. Khi một người không nhận thức được ngày – đêm, sương – nắng nghĩa là họ không nhận thức được không gian – thời gian. Đó là phương thức tồn tại của một sự sống. Nói cách khác, sức sống của Mị đang tàn phai mai một. Hôm nay nhờ có tiếng sáo mà thời gian đã trở về. Thời gian ấy cho Mị thấy hiện tại là đau khổ, quá khứ ngày xưa mới là hạnh phúc. Thế là lòng Mị chỉ hướng về ngày trước, với những quãng đời thiếu nữ tự do, hạnh phúc trong mối tình đầu. Mị muốn quay trở về với quá khứ, muốn vớt vát quá khứ, muốn kéo dài quá khứ để bù đắp lại những cay đắng trong hiện tại.
Khi Mị đang đứng trước đôi bờ thời gian thì sức sống của Mị lại được tiếp thêm bằng bữa cơm tất niên nhà thống lí Pá Tra. Hình ảnh những người ốp đồng, nhảy múa vui vẻ trong tiếng nhạc sênh tiền càng làm cho lòng Mị trở nên rộn ràng náo nức. Niềm rộn ràng náo nức ấy biến thành một nỗi thúc bách khi những người trong nhà thống lí mặc váy áo mới đi chơi. Niềm rộn ràng náo nức này cũng như nỗi thúc bách kia là gì nếu không phải đó là biểu hiện của sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy trong lòng Mị. Nó trở thành nhiều đòi hỏi bên trong lòng Mị, nó muốn bật ra thành hành động cụ thể bên ngoài.
Hành động đầu tiên là Mị lén lấy hũ rượu rồi uống ực từng bát. Nếu ai đọc “Đồng bạc hoa xòe” của Ma Văn Kháng thì không xa lạ khi gặp hình ảnh người phụ nữ uống rượu. Ở đây, ta quan tâm đến cách thức uống rượu của Mị. Mị uống ực từng bát. Mị uống như để nuốt những tủi hờn cay đắng, quên đi hiện tại khổ đau. Rồi say, Mị “lịm mặt” ngồi đấy, nhìn mọi người nhảy đồng và múa hát. Nhưng lòng Mị không ở thực tại, Mị đang sống về ngày trước. Mị thấy văng vẳng bên tai mình tiếng sáo gọi bạn ở đầu làng. Mị thấy mình còn trẻ đẹp, có nhu cầu đi chơi hội. Mị nghĩ: “Biết bao nhiêu người đàn bà có chồng, họ cũng đi chơi hội; huống hồ Mị với A Sử chẳng có lòng với nhau.” Thế là Mị cũng sửa soạn đi hội. Bước vào căn buồng tăm tối, việc đầu tiên Mị làm là xắn miếng mỡ để vào đĩa đèn, cho đèn sáng hơn. Đây là chi tiết có chiều sâu về nghệ thuật. Bởi trước đây không thiết sống, nên căn buồng của Mị tăm tối, hôi hám, luộm thuộm, ẩm thấp; Mị cũng chẳng bận lòng. Hôm nay thì khác, sức sống tiềm tàng trỗi dậy rất mạnh trong lòng Mị, Mị muốn cuộc đời mình phải sáng sủa hơn; có lẽ đây là bước ngoặt với những đổi thay của Mị.
Viết về khát vọng sống của những người nông dân, các bậc tao nhân thường mượn hình ảnh ngọn đèn. Cuộc đời của người nông dân tăm tối hiện lên trên cánh đồng lúa của ngày xưa. Đó là những bức chân dung thiếu ánh sáng của Đảng chiếu vào, được Ngô Tất Tố viết trong “Tắt đèn”; là ngọn đèn dầu của mẹ con chị Tí cũng bị phân chia thành hai vùng sáng tối trong “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam; là ngọn đèn dầu thắp sáng lên trong túp lều của bà cụ Tứ ngày Tràng nhặt được vợ và đưa vợ về xóm ngụ cư. Còn ở đây là ngọn đèn trong căn buồng của Mị. Mỗi gia đình là một tế bào của xã hội. Trong từng tế bào ấy, có những thành viên biết thắp lên ngọn lửa sống, như Mị trong “Vợ chồng A Phủ”, như Tràng trong “Vợ nhặt”… Đồng nghĩa cả một dân tộc lầm than đang:
“Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
(“Đất nước” – Nguyễn Đình Thi)
Rồi Mị đi tìm một chiếc váy hoa vắt tít ở phía trong vách. Bởi Mị thấy mình con trẻ, đẹp, Mị cũng sắp đi chơi hội. Mị quấn lại tóc. Khi một người đàn bà cuộc đời sống đồng lõa trong bóng tối, sống lầm lũi như con rùa ở xó cửa, xó bếp; bỗng một hôm thấy mình trẻ ra, đẹp hơn, có nhu cầu ăn mặc đẹp; đó là “dấu hiệu của sự tái xuân” (nói như Chu Văn Sơn). Đó là lúc sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy mạnh mẽ nhất. Đúng lúc ấy, A Sử xuất hiện. Lấy làm lạ khi thấy Mị sửa soạn đi hội, hắn hỏi: “Mày muốn đi chơi à?” Ngay lúc ấy, A Sử trói Mị vào cột nhà bằng cả thúng dây đay, từ chân đến đầu, chưa bao giờ Mị thấy đau đớn, nhục nhã như lúc này. Đọc truyện, người yêu văn nhận thấy, sợi đay đã trở thành phương tiện trói buộc Mị vào nhà thống lí Pá Tra bên cạnh tiền quyền và thần quyền. Bởi lúc nào trên tay Mị cũng có đay. Ở trang văn này Mị ngồi giặt đay, trang văn khác Mị lại ngồi xe sợi. Và giờ đây những sợi đay ấy lại trói buộc Mị vào nhà thống lí. Mị thấy mình không bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra; bởi khi mỏi nó còn được đổi tàu, đứng gãi chân, nhai cỏ. Còn Mị giờ đây khóc không thể tự lau nước mắt. Cơ chừng sau lần ấy, sức sống của Mị đã chết hẳn.
Rõ ràng khi đọc tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, đến đây, người yêu văn lại thấy phải chăng, nhà văn Tô Hoài, một nhà văn viết văn ở sau Cách mạng tháng Tám, chẳng nhẽ ông lại để cho nhân vật của mình chết rũ xương ở Hồng Ngài? Cuộc đời của Mị sẽ thế nào nếu như lại đi vào cái bước lặp của văn học hiện thực phê phán trước Cách mạng? Nhưng nhìn lại truyện “Vợ chồng A Phủ”, ta vẫn thấy ở đó còn vài ba trang truyện mà thông thường trong truyện ngắn, nhà văn đẩy kịch tính lên đến cao trào ở phần cuối truyện, rồi cởi trói truyện cũng ở phần cuối tác phẩm, Đọc hết “Vợ chồng A Phủ”, ta lại ngỡ ngàng nhận ra, nhà văn Tô Hoài đã để cho đứa con tinh thần của mình gặp được một người, không ngờ người ấy đã tiếp thêm cho Mị sức mạnh để giải thoát người cùng cảnh ngộ, giải thoát người cùng cảnh ngộ, giải thoát cuộc đời của mình, ấy chính là A Phủ. Do vậy, truyện có nhan đề “Vợ chồng A Phủ”.
Lại nói đến A Phủ, là một đứa trẻ mồ côi cha mẹ, sau một trận đậu mùa, người thân đã không còn. A Phủ là một con người sống bộc trực, thẳng thắn, khỏe mạnh; là người mà Hồng Ngài nhận định: “Có được A Phủ chẳng khác nào có được một con trâu tốt trong nhà.” Nhưng vì sống bộc trực thẳng thắn nên A Phủ đã đánh lại con quan là A Sử, nhân một lần hắn gây lộn trong đám chơi xuân. Vì đánh phải con quan, A Phủ đã bị gia đình nhà thống lí Pá Tra bắt về để xử vả.
Đọc truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, người yêu văn kinh hoàng trước cảnh tượng xử vả A Phủ. Những quan thống lí, thống phán và xéo phải ở đây ngất ngây trong cơn thuốc phiện, vừa đánh, vừa hút. Và kết cục cuộc đời của A Phủ, từ một con người tự do; nay đã trở thành kẻ trâu ngựa, nô lệ cho nhà thống lí Pá Tra với 100 đồng bạc trắng cùng tội trạng “đánh phải con quan”. Người yêu văn nhận thấy, chỉ với 10 đồng bạc mà món nợ nhà Mị đã trở thành món nợ truyện kiếp, cuộc đời của Mị đã bị bắt cúng trình mà ở nơi địa ngục trần gian này; thì với số tiền gấp 10 lần ấy của A Phủ, rõ ràng đời đời kiếp kiếp con cháu A Phủ ở nợ cho nhà thống lí Pá Tra cũng không trả hết được. Cuối cùng, cuộc đời của A Phủ đã trở thành kẻ trâu ngựa, nô lệ cho nhà thống lí Pá Tra.
Về chốn thiên la địa võng này, A Phủ có nhiệm vụ chăn thả bò ngựa, đi chăn bò tót và bẫy nhím. Một lần do mải bẫy nhím nên A Phủ đã để hổ vồ mất một con bò. Nhân sự kiện này, gia đình nhà thống lí Pá Tra đã đánh đập A Phủ, đánh trói A Phủ, bỏ đói hàng tuần lễ giữa những ngày mùa đông đầy sương muối ở vùng cao Tây Bắc.
Đêm nào cũng vậy, Mị vẫn dậy thổi than để hơ tay, Mị vẫn luôn nhìn thấy A Phủ, nhưng cô không động lòng thương nữa. Có lẽ cô đã sống quá lâu trong gia đình nhà thống lí Pá Tra, trong cái địa ngục trần gian ấy, nơi mà việc đánh đập con người nhiều hơn cơm bữa, nên lòng thương người của cô Mị nay đã bị chai sạn, bị chai lì. Hôm nay thì khác, chợt nghe thấy tiếng thở phì phì của A Phủ, Mị lén mắt nhìn sang, bất ngờ thấy một chàng trai to khỏe nhất bản, giờ đã bị hành xác đến tiều tụy: mặt xám lại, má hõm sâu, hai con mắt trũng sâu đầy bóng tối. Điều kị lạ là đúng lúc ấy, hai dòng nước mắt từ hai hố mắt của A Phủ, lặng lẽ bỏ xuống hõm má. Mị cảm thấy không đành lòng. Một niềm thương cảm chợt dâng lên trong lòng Mị. Mị nhớ đến mình ngày trước, cô cũng từng bị trói, bị đánh như thế. Mị thương mình, rồi lại thương người.
Bỗng nhiên từ trong lòng Mị đã xuất hiện một lời độc thoại: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì lại phải chết thế. A Phủ…” Khi một người đàn bà sống lầm lũi trong bóng tối, cam chịu, nhẫn nhục như con rùa ở xó cửa, xó bếp như cái bóng, cái xác vô hồn giữa địa ngục trần gian, sống như để kéo dài những ngày chưa chết được, bỗng một hôm ném ra câu hỏi như vậy trong bóng tối; thì đó là khởi đầu của sự nổi loạn trong tâm hồn. Chưa bao giờ Mị lại liều lĩnh như thế này. Và có lẽ chính hai dòng nước mắt của A Phủ đã chạm vào lòng thương của Mị. Nó khơi dậy một sức sống tiềm tàng ác liệt, trỗi dậy trong lòng Mị. Nghĩ đến cái chết, Mị không sợ nữa. Trong khoảnh khắc, Mị cầm dao cắt dây trói cho A Phủ, cho đến khi vòng dây cuối cùng được cắt đứt, A Phủ khuỵu người xuống rồi bật người đứng dậy, chạy băng băng vào trong bóng tối. Đến lúc này đây, Mị cũng chỉ nghĩ đến việc mình phải cứu A Phủ.
Nhưng nhìn vào cái cọc bỏ không, Mị lại nghĩ tới nguy cơ mình sẽ bị trói thay, trói thế vào đó. Ý định tự cứu mình đến với Mị, Mị không thể chết một cách vô lí như vậy. Mị vọng thanh theo A Phủ: “A Phủ, cho tôi đi.” Đó là câu nói của một lòng ham sống. Và thế là hai con người nô lệ đã giải thoát cho nhau, nương tựa vào nhau để trốn khỏi Hồng Ngài, đến Phiềng Sa. Hành động Mị giải thoát cho A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài, đến Phiềng Sa cho đến nay vẫn là cái mốc thách thức của chính nhà văn Tô Hoài. Chính nhờ hành động này mà “Vợ chồng A Phủ” đã trở thành một tác phẩm bản lề, khép mở 2 thế giới. Nó khép lại cái thế giới tăm tối với những kiếp sống trâu ngựa, nô lệ ở Hồng Ngài; và mở ra một cuộc sống mới, tươi sáng hơn ở phía Phiềng Sa. Ngoài ra, chính hành động này đã gián tiếp khắc phục được cái hạn chế của dòng văn học hiện thực phê phán một thời. Đồng thời, nó còn mở ra hướng đi mới cho văn học thời kì giải phóng.
Chính nhờ chi tiết này mà “Vợ chồng A Phủ” được trao giải thưởng Nhà nước về văn học – nghệ thuật năm 1954 – 1955. Không phải ngẫu nhiên mà sau khi đọc xong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, cũng như sau khi đọc xong tác phẩm này, nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận định: “Tôi nhớ như đã có lần nào tôi gặp chị Dậu trong một đám đông đi phá kho thóc Nhật, địch hậu o ép, chị tải lương và đậy nắp hầm cho cán bộ, bộ đội cơ sở trong những ngày huyện kì khởi nghĩa…” Rõ ràng trong truyện, chị Dâu không hề đi phá kho thóc Nhật. Nhưng chị là tiền thân của sức mạnh, là một con người chưa bao giờ đầu hàng trước hoàn cảnh. Vậy người mà Nguyễn Tuân nhầm tưởng là ai? Nếu không phải là vợ chồng A Phủ,…? Vì khi đến Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã gặp được cán bộ cách mạng là A Châu. Vậy nên chúng ta có thể tin tưởng rằng, những người như Mị và A Phủ mới và sẽ trở thành những người chiến sĩ cách mạng kiên cường. Bởi nói như Tố Hữu:
“Đời cách mạng từ khi tôi mới hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kề cổ, súng kề vai
Là thân sống chỉ còn một nửa.”
Chỉ có những con người chịu nhiều khổ đau trong bóng tối thì mới có thể trở thành những chiến sĩ cách mạng, những con người coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Ta có thể kết luận rằng, “Vợ chồng A Phủ” là một bài ca mô tả quá trình bừng thức, bùng dậy của kiếp sống trâu ngựa, nô lệ và còn là bài ca, ca ngợi tự do, lòng yêu đời mang tính nhân bản của con người. Ngòi bút của Tô Hoài đã đạt đến trình độ nhân văn, sâu sắc, cao cả. Chính hành động Mị cởi trói cho A Phủ đã làm sáng rõ hơn chân lí của cuộc đời mà Nguyễn Khải đã gửi gắm qua truyện ngắn “Mùa lạc”, nghĩa là mùa vui: “Sự sống nảy sinh ở trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ những gian khổ, hi sinh.” Không có con đường cùng, chỉ có ranh giới giữa sự sống và cái chết. Điều cốt yếu là phải chuẩn bị cho mình sức mạnh để vượt qua ranh giới vô hình ấy.
Số 9: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị
Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài tính tới nay đã già nửa thế kỉ. Hơn 60 năm cầm bút ông là tác giả của hàng trăm đầu sách, hàng nghìn bài báo, thể loại phong phú, nhiều chủng loại. Thế nhưng nhắc tới Tô Hoài ta ko thể quên được tác phẩm “Dế mèn phiêu lưu kí”- tác phẩm tiêu biểu trước Cách mệnh tháng 8. Sau Cách mệnh, Tô Hoài lại nổi lên với tập truyện Tây Bắc nhưng mà vong hồn của nó là Vợ chồng A Phủ.
Những năm gần đây người ta lại xôn xao nhớ tới Tô Hoài với tác phẩm “Cát bụi chân người nào… Cho tới nay, “Vợ chồng A Phủ” vẫn là cái mốc thử thách với chính Tô Hoài, truyện đc giải thưởng văn nghệ năm 1954-1955, một tp xuất sắc viết về đề tài miền núi. Truyện xoay quanh cuộc đời của Mị – một cô gái Mèo nghèo khổ, xinh đẹp, nết na được Tô Hoài xây dựng chân thực và sống động với sức sống tiềm tàng bất tử. Thông qua sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, ngòi bút của Tô Hoài đã bộc lộ là 1 ngòi bút nhân văn, nhân đạo thâm thúy và cao cả. Văn hào Nga Sê-khốp đã từng nói: “1 người nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ”. Tô Hoài là 1 nhà văn tương tự.
Như đã nói, Mị là 1 cô gái mèo xinh đẹp, nết na. Một người như Mị lẽ ra phải được sống cuộc đời hạnh phúc, nhưng trái lại, cô đã khổ từ trong trứng nước. Ngày xưa lúc cưới nhau đã ko có tiền, bố mẹ Mị đã phải vay của bố thống lí Pá Tra – tức ông của A Sử 10 đồng tiền trắng, mỗi năm phải trả lãi 1 nương ngô. Cho tới nay bố Mị đã già, mẹ Mị đã chết vậy nhưng mà món nợ đấy vẫn chưa trả được. Thống lí Pá Tra tới gạ bố Mị gả Mị cho A Sử đàn ông hắn làm con dâu gạt nợ. Biết vậy, Mị đã phản ứng lại ngay: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải ở nhà làm nương ngô trả nợ cho người ta. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Đây chỉ là 1 câu nói tầm thường nhưng đã thoát ra cả 1 con người. Đó là con người có sức sống tiềm tàng bất tử. Câu nói của Mị là 1 sự đánh tráo, đánh đổi: Mị thà ở nhà lao động cực nhọc trên nương rẫy để được sống 1 cuộc đời hp trong tự do còn hơn phải làm con dâu của nhà giàu, sống kiếp đời trâu ngựa, nô lệ. Sự đánh tráo, đánh đổi đấy chỉ có thể có được ở những con người mạnh mẽ, tự tin, biết quí trọng danh dự, phẩm giá của chính bản thân mình. Có câu: “Thân gái như hạt mưa sa”, việc người con gái được sa vào cửa nhà giàu, đó là ước mơ, thậm chí còn là sự suy tính của nhiều người phụ nữ. Thế nhưng với Mị, 1 con người có sức sống tiềm tàng bất tử thì Mị ko chấp nhận điều đấy bởi Mị hiểu rõ gia đình nhà Thống lí Pá Tra. Đó là nơi hang hùm nọc rắn, Mị hiểu rõ thực chất của cuộc hôn nhân gả bán này: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Rõ ràng chỉ là 1 câu nói giản đơn nhưng phần nào đã gợi mở cho người đọc thấy được ở Mị có sức sống tiềm tàng bất tử.
Mặc dù Mị phản ứng quyết liệt, Mị ko chấp nhận vào nhà thống lí Pá Tra thế nhưng Mị đang sống trong xã hội tiền quyền và thần quyền. Đó là xã hội phong kiến ở miền xuôi thế nên những người hiền lành nết na như Mị ko thoát được. Mị bị bắt cóc, bị lường gạt về cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra chỉ đợi ngày chết rũ xương ở đó. Biết được điều này “có tới mất tháng trời đêm nào Mị cũng khóc”. Mị ko chấp nhận cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra, ý định tự tử đã tới với Mị. Mị cầm nắm lá ngón trên tay về lạy chào cha để định quyên sinh. Nhưng lúc về tới gia đình, Mị mới nhìn thấy rõ thảm kịch gia đình mình, bố Mị nói như van xin trong làn nước mắt: “Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày nhưng mà chết rồi ko lấy người nào làm nương ngô giả được nợ người ta. Tao thì ốm yếu quá rồi. Ko được, con ơi!”
Sau lúc Mị nghe những lời nói như van xin của cha, cô đứng trước 1 hoàn cảnh oái oăm, oái oăm, cay cực. Mị sống ko muốn, Mị chết ko xong. Tuy nhiên việc Mị đã tới ý định tự tử lại trình bày sức sống tiềm tàng, điều đó phải chăng là nghịch lý?
Mới nghe qua tưởng là nghịch lí nhưng ngẫm nghĩ lại trong hoàn cảnh của Mị đó lại là 1 điều hợp pháp thâm thúy bởi vì Mị muốn chết như 1 con người còn hơn phải sống như 1 con vật. Mị muốn chết ngay 1 lần để được làm người còn hơn phải sống cuộc sống chết dần, chết mòn, chết khô, chết héo, chết cả thể xác lẫn tâm hồn. Thế nhưng nếu tuân theo sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy mạnh mẽ trong lòng thì Mị phải trà đạp lên chữ “hiếu”, Mị ko thể giày xéo lên tình phụ tử. Vì chữ “hiếu” Mị đành vứt nắm lá ngón, gạt nước mắt quay trở lại nhà thống lí. Nhà thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài chả khác nào thiên la địa võng, xả thân vào đó là xả thân vào chỗ chết, vào địa ngục trần gian. Biết được điều này nhưng Mị vẫn chấp nhận vì thương cha. Đọc tới đây ta nhớ tới thảm kịch của Thuý Kiều hơn 200 năm trước “bán mình chuộc cha”. Hôm nay thảm kịch đấy lại đổ dồn lên đôi vai gầy của người con gái Mèo nghèo khổ. Giữa những năm đó, miền Bắc nước ta đang tiến lên Chủ nghĩa xã hội nhưng ánh sáng của Đảng chưa rọi tới cuộc sống của những người vùng cao. Là 1 chiến sĩ trên diễn đàn văn học, nói như Hồ Chí Minh: “Văn học nghệ thuật là 1 mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận đấy”. Tô Hoài thông qua “vợ chồng A Phủ” đem ánh sáng của Đảng rọi lên kiếp đời thổ ti lang tảo ở bản Mèo để “cứu đất cứu Mường”. Diễn ra từ đây Mị sống khác hẳn, Mị ko khóc như trước nữa. “Mị sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, như cái bóng, cái xác vô hồn trong địa ngục trần gian. Mị sống chẳng qua là kéo dài những ngày chưa chết được, điều này đã được Tô Hoài trình bày ngay ở mươi dòng đầu câu chuyện với những câu văn đầy tính tạo hình. Nhà văn đã dựng lên trước mắt chúng ta với sức sống tàn phai, mai một: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra…cô đấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
Phcửa ải nói rằng những trang viết về mùa xuân là những trang tuyệt bút của nhà văn Tô Hoài. Ta bắt gặp ở 1 nhà văn hiện thực lại có những trang văn lãng mạn. “Vợ chồng A Phủ” xứng đáng là 1 minh chứng cho lời nhận định: “Văn học Việt Nam thời đoạn 1945-1975 có sự liên kết hài hoà giữa 2 yếu tố hiện thực và lãng mạn”. Nhưng điều ta quan tâm hơn cả là ngòi bút tâm lí của nhà văn Tô Hoài lúc mô tả sự trỗi dậy sức sống tiềm tàng của Mị. Ông tỏ ra am tường những tâm lí phức tạp, lặng thầm trong tâm hồn người phụ nữ:
Trước hết là sự thay đổi bên ngoài. Năm đấy mùa xuân về sớm hơn mọi năm. Tô Hoài mô tả những làn gió đem mùa xuân về trên khắp các bản làng. Những nương thuốc phiện đã nở hoa sặc sỡ, cả bản Mèo đều cuốn vào ko khí của ngày hội. Trên những bản của người Mèo đó, trai gái đã mang váy áo ra phơi trên những mỏm đá trông sặc sỡ như những cánh bướm. Ban ngày trai gái mặc quần áo mới tới đánh quay, ném pao, tung còn,… Tất cả những hình ảnh này đã dội vào tâm hồn Mị – 1 tâm hồn khô cằn, nó làm cho sức sống của Mị khởi đầu có sự vận động, nó chẳng khác nào những nốt nhạc trước tiên của bản nhạc tình khúc thay đổi lớn sắp diễn ra trong lòng người phụ nữ đã và đang phải chịu quá nhiều thống khổ.
Kế đó là tiếng sáo đêm tình mùa xuân. Trong ko gian tiếng hát, tiếng sáo, tiếng kèn lá, kèn môi của trai bản gọi bạn tình cứ réo rắt nhau đi hết quả đồi này sang quả đồi khác. Nó đánh thức dậy những bài hát lâu nay tiềm tàng sâu trong tâm hồn Mị. Mị ngồi nhẩm lại những bài hát ngày xưa. Ngày xưa, Mị thổi sáo thật tài, chỉ cần uốn lá trên môi, cô thổi lá hay như thổi sáo:
“Anh ném pao
Em ko bắt
Em ko yêu
Quả pao rơi rồi”
Hay: “Mày có đàn ông, con gái rồi
Mày đi làm nương
Tao chưa có đàn ông, con gái
Tao đi tìm người yêu”
Nhưng điều đáng nói hơn cả là chính tiếng sáo đấy đã đánh thức dậy 2 tiếng “ngày xưa” từ trong lòng Mị. Kể từ ngày bước chân vào nhà thống lí Pá Tra, Mị sống cuộc đời phi ko gian, phi thời kì. Thế giới của Mị là 1 căn buồng u tối, nhìn ra bên ngoài qua ô cửa mờ mờ, trăng trắng, ko biết ngày hay đêm, sương hay nắng. Khi 1 người ko nhận thức được ngày, đêm, sương, nắng tức là ko nhận thức được ko gian và thời kì, cũng đồng nghĩa với sức sống của họ đang tàn phai, mai một. Hôm nay thì khác, thời kì đã trở về với Mị, thời kì đấy cho Mị thấy ngày nay quá khổ đau, quá khứ ngày xưa mới là hạnh phúc. Thế là Mị luôn hướng về ngày xưa, hướng về quá khứ, muốn kéo dài quá khứ, muốn vớt vát quá khứ để bù đắp những đắng cay trong ngày nay.
Mùa xuân năm đấy, lúc sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy, nhà văn Tô Hoài rất khôn khéo lúc đưa bất kỳ 1 hình ảnh nào tới với Mị thì hình ảnh đấy đều là chỗ dựa cho sức sống của Mị trỗi dậy. Nhất là bữa cơm tất niên trong gia đình nhà thống lí Pá Tra với hình ảnh của những người ốp đồng nhảy múa vui vẻ trong tiếng nhạc sinh tiền càng làm cho lòng Mị trở thành rộn ràng, nô nức. Niềm rộn ràng, nô nức đấy thực sự là nỗi thúc bách lúc những người trong nhà thống lí mặc váy áo mới đi chơi. Như vậy, sức sống tiềm tàng của Mị đã trỗi dậy, nó trở thành yêu cầu bên trong muốn cất cánh ra bên ngoài. Rồi Mị lén lấy hũ rượu, Mị uống ừng ực từng bát, Mị uống như nuốt những tủi hờn, đắng cay vào trong lồng ngực.
Mị uống như nuốt ngày nay khổ đau để trước mắt Mị giờ đây chỉ còn là quá khứ hạnh phúc. Thế là Mị đang sống lại ngày trước với quãng đời thiếu nữ tự do, với hạnh phúc trong mối tình đầu. Việc làm tiếp theo của Mị lúc cô bước vào căn buồng u tối đấy là Mị xắn 1 miếng mỡ để vào trong đèn cho đèn sáng hơn. Đây ko còn là cụ thể sinh hoạt nữa nhưng mà nó trở thành 1 cụ thể có chiều sâu nghệ thuật bởi trước đây ko thiết sống nên căn buồng của Mị u tối, hôi rình, luộm thuộm, ẩm thấp, dơ bẩn… Mị cũng chẳng bận tâm. Hôm nay thì khác, lòng yêu đời vừa mới trở về với Mị. Mị muốn đời mình phải sáng sủa hơn. Thế nên hành động Mị xắn miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho đèn sáng hơn cũng đồng nghĩa với việc Mị thắp lên ngọn lửa trong lòng mình. Mị thấy mình trẻ đẹp, Mị muốn đi chơi hội như bao người phụ nữ có chồng khác ở Hồng Ngài.
Mị sẵn sàng, sửa soạn đi chơi. Mị tìm cái váy hoa đẹp nhất của mình vắt tít trên vách. Khi 1 người phụ nữ khổ đau sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, như cái bóng, cái xác vô hồn giữa địa ngục trần gian bỗng 1 hôm thấy mình trẻ ra, đẹp hơn, muốn ăn mặc đẹp, đó là tín hiệu trước tiên của sự tái xuân. Đó là lúc sức sống tiềm tàng trỗi dậy mạnh mẽ nhất trong lòng Mị. Thế nhưng sức sống đấy đã bị dập tắt ngay ngay lập tức, A Sử đã vùi dập nó 1 cách phũ phàng, hắn trói Mị bằng một thúng dây đay từ chân lên đầu. Chưa bao giờ Mị lại cảm thấy nhục nhã như thế, sự so sánh đã khởi đầu xuất hiện trong Mị, Mị thấy mình ko bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra, lúc mỏi còn được đổi tàu, còn được gãi chân, nhai cỏ, còn Mị khóc ko tự lau được nước mắt. Cơ chừng sau lúc đấy sức sống tiềm tàng của Mị tắt hẳn.
Cuộc đời của Mị sẽ cứ như thế cho tới chết nếu như Tô Hoài ko để cho Mị gặp đc 1 người. Người đấy đã tiếp cho Mị 1 sức mạnh vô cùng để 1 lần nữa sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy để giải thoát đời mình, giải thoát người cùng tình cảnh, đó là A Phủ. A Phủ bị trói, bị bỏ đói hàng tuần lễ giữa những ngày mùa đông đầy sương muối ở vùng cao. Đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa để hơ tay. Mị vẫn nhìn thấy A Phủ nhưng có nhẽ vạn thọ trong địa ngục trần gian, trong gia đình nhà thống lí nhưng mà việc đánh trói con người còn nhiều hơn cơm bữa nên lòng thương người của cô Mị nết na đã bị chai sạn, chai lì. Vẫn nhìn thấy A Phủ. Mị ko động lòng thương nhưng nay thì khác. Chợt nghe thấy tiếng thở phì phì của A Phủ, Mị bỗng nhiên nhìn sang và giật thột nhận thấy 1 chàng trai to khỏe nhất bản giờ đây đã bị đánh tới tiều tuỵ, mặt xám lại, má hóp sâu, 2 con mắt trũng sâu đầy bóng tối. Và đúng lúc đó, 2 hàng nước mắt từ hai hố mắt lặng lẽ bò xuống hõm má.
Mị cảm thấy ko thể đành lòng, niềm thương cảm chợt dâng lên trong lòng Mị, Mị nhớ tới mình ngày trước cũng bị trói, bị đánh như thế. Thương mình Mị lại thương người, Mị ném ra câu nói như thế này trong bóng tối: “Ta là thân phụ nữ nó đã trình ma nhà nó chỉ đợi ngày chết rũ xương ở đây, người kia việc gì phải chết…A Phủ”. Khi 1 người phụ nữ khổ đau, sống lầm lũi trong bóng tối bỗng 1 hôm ném ra câu hỏi như thế, đó là khởi đầu của sự nổi loạn. Sức sống tiềm tàng đã trỗi dậy thành sức mạnh, sức mạnh đấy đã biến 1 người phụ nữ yếu ớt thành 1 người dũng cảm, biến 1 người nhẫn nhục trở thành 1 người phản kháng. Chưa bao giờ người đọc lại thấy Mị liều lĩnh như thế. Nghĩ tới cái chết Mị cũng ko sợ nữa, ý định cứu A Phủ đã tới với Mị trong khoảnh khắc Mị rút dao cắt dây trói cho A Phủ.
Cho tới vòng dây cuối cùng được cắt đứt, A Phủ quỵ người xuống rồi lại quật người đứng dậy chạy băng băng vào trong bóng tối. Tới lúc này đây, Mị vẫn chỉ nghĩ tới việc cứu A Phủ. Tới lúc A Phủ chạy xuống cái dốc, Mị nhìn lại thấy nguy cơ mình có thể bị chết thay vào đó, ý định tự cứu mình đã tới với Mị, Mị nói: “A Phủ! Cho tôi đi!”. Đây là 1 câu nói của lòng ham sống trong giờ phút nguy cấp để giải thoát đời mình. Thế là 2 người nô lệ giải thoát cho nhau, nương tựa vào nhau, trốn khỏi Hồng Ngài tới Phiềng Sa.
Việc Mị giải thoát cho A Phủ có thể coi như 1 chiếc bản lề khép mở 2 toàn cầu. Nó khép lại toàn cầu u tối với kiếp sống trâu ngựa, nô lệ ở Hồng Ngài, đồng thời nó mở ra toàn cầu mới – toàn cầu tươi sáng ở phía Phiềng Sa. Với hành động này của Mị, nó đã đưa “vợ chồng A Phủ” trở thành tác phẩm bản lề trên diễn đàn văn học Việt Nam. Nó khép lại những hạn chế của 1 dòng văn học hiện thực phê phán 1 thời. Nó mở ra 1 hướng đi mới cho văn học kháng chiến và đây nó trở thành mốc thử thách của chính nhà văn Tô Hoài. Tới Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã gặp được ánh sáng của Đảng, gặp được cán bộ Cách mệnh A Châu. Và 2 người đã tham gia Cách mệnh, chỉ có Cách mệnh mới soi sáng được kiếp người trâu ngựa, nô lệ. Và cũng chỉ có Mị và A Phủ mới là những người cách mệnh trung kiên. Nói như thi sĩ Tố Hữu:
“Đời Cách mệnh từ lúc tôi đã hiểu
Lao vào vô là fải chịu khổ nhiều
Là gươm kề cổ, là súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn 1 nửa
“Vợ chồng A Phủ” mô tả quá trình bừng thức, vùng lên của kiếp sống nô lệ này. Ngòi bút của Tô Hoài đã trình bày là ngòi bút nhân văn, nhân đạo thâm thúy và cao cả. Và “vợ chồng A Phủ” mãi là bài ca ca tụng tự do, lòng yêu đời.

Số 10: Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị
Tô Hoài là một gương mặt tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Tài năng của ông được ghi dấu trong lòng độc giả bởi rất nhiều sáng tác có trị giá. Trong số đó, rực rỡ nhất phải kể tới truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được nhà văn sáng tác trong chuyến đi thực tiễn Tây Bắc năm 1953. Tác phẩm tái tạo cảnh sống bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến, thực dân. Nổi lên trên bối cảnh thối nát của cơ chế xã hội, Tô Hoài tập trung ca tụng tâm hồn, phẩm chất tốt đẹp cùng sức sống mãnh liệt của con người. Có nhẽ, tới với “Vợ chồng A Phủ” ko người nào trong chúng ta có thể quên được một cô Mị, thống khổ, cam chịu nhưng lại tiềm tàng sức sống mãnh liệt quật cường. Mị là nhân vật kết tinh bởi những trị giá ý thức cao đẹp, trị giá nhân đạo thâm thúy nhưng mà Tô Hoài gửi gắm.
Sức sống tiềm tàng, hiểu đơn giản là khát khao chính đáng một cuộc sống có ý nghĩa của một “con người” vốn bị che lấp bởi hoàn cảnh, bởi sự cam chịu nhưng có thể bùng lên mãnh liệt lúc có tác động. Để thấy được sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, trước hết, chúng ta phải hiểu hoàn cảnh nhưng mà nhân vật đang sống. Mị vốn là một cô gái trẻ vừa đẹp người, vừa đẹp nết. Mị cần cù, đảm đang, hiếu thảo, giàu đức hi sinh vị tha, yêu đời và rất mực tài hoa. Một cô gái như thế đáng lẽ phải được lợi một cuộc sống hạnh phúc. Thế nhưng, “hồng nhan bạc phận”, cuộc đời xô đẩy Mị vào hoàn cảnh phải làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Một danh phận bẽ bàng làm sao – làm dâu trừ nợ. Chính vì vậy, tại nhà thống lí, Mị ko khác gì một kẻ tôi đòi, tôi tớ. Mị phải “vùi vào làm việc cả đêm cả ngày” “quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên”.
Mị gần như tê liệt hết về sức sống. Mị “tưởng mình là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm thôi”. thờ ơ với sự chảy trôi của thời gian, trở thành “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Cuộc sống của Mị trở thành vô nghĩa, nhạt nhẽo, tất cả thu lại bằng ô cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay mờ mờ trăng trắng trông ra ko biết là sương hay là nắng. Tất cả những điều đó khiến chúng ta ko thôi liên tưởng Mị giống như cái xác ko hồn, ko quá khứ, ngày nay và tương lai. Điều gì đã biến một thiếu nữ đương độ xuân thì, phơi phới yêu đời trở thành cam chịu, chấp nhận cuộc sống vô nghĩa tương tự? Chính bởi gánh nặng của mấy tầng áp bức cường quyền, thần quyền, những hủ tục phong kiến ở miền núi. Sự mục nát của xã hội thế tất sản sinh ra thế hệ người ko có tiếng nói, dù là tiếng nói vì quyền sống của mình như nhân vật Mị.
Tuy nhiên, nếu câu chuyện chỉ ngừng lại ở việc trình bày sự u mê, mông muội của con người trước hủ tục và cái ác thì có nhẽ “Vợ chồng A Phủ” đã ko gây ấn tượng với độc ví thử vậy. Cái hay của Tô Hoài là ông ko để nhân vật của mình vĩnh viễn chìm trong u tối. Đối với Mị, sức sống vẫn luôn tiềm tàng, chỉ cần một sự đánh thức kịp thời có thể khiến nó trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Khi mới về làm dâu nhà Pá Tra, Mị cũng đã từng phản kháng dù chỉ là sự phản kháng yếu ớt là khóc: “có tới mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”, khóc vì ko muốn chấp nhận hiện thực, vì ko cam lòng. Cũng đã có lúc, Mị nghĩ tới việc kết thúc cuộc đời vô nghĩa, thống khổ bằng cách ăn lá ngón tự tử. Tìm tới cái chết, có thể với Mị chính là một sự giải thoát, bộc lộ cho sự ko cam chịu, sự kháng cự trong vô vọng.
Mị đã từng kháng cự nhưng có thể nói, ý chí đấu tranh ở Mị lúc đấy ko đủ sức vượt qua thói quen xã hội, lòng hiếu thảo hay cường quyền nên nó nhanh chóng vụt tắt. Mặc dù vậy, nó vẫn luôn âm ỉ cháy trong tiềm thức của Mị. Để rồi, đêm tình mùa xuân tới với tiếng sáo, tiếng khèn của trai làng gọi bạn tình, như mồi lửa nhỏ làm bùng lên ngọn lửa khát khao sống, khát khao hạnh phúc trong Mị. Mị cũng uống rượu, “Mị… cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say”. Mùa xuân tới gọi về trong Mị biết bao hồi ức đẹp tươi “Mùa xuân tới, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị thoát khỏi tâm trạng dửng dưng bấy lâu để trở thành con người thức tỉnh, vươn tới những ý nghĩ và khát vọng đẹp đẽ. “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng” làm lòng Mị đang phơi phới sống về những ngày trước. Mị thấy “trong lòng đột nhiên vui sướng… Mị trẻ lắm… Mị muốn đi chơi” Lúc này,ý thức về bản thân trong trỗi dậy. Mị biết mình cần gì, mình muốn gì chứ ko còn là cái xác vô hồn,hờ hững với đời như trước nữa.
Càng nhận thức được bản thân, nhận thức được hoàn cảnh, Mị càng phẫn uất mãnh liệt và thấm thía nỗi tủi nhục của mình. Mị khêu to ngọn đèn cho sáng như thể khêu ngọn lửa của lòng ham sống, của sự khát khao. Sự thôi thúc của trái tim như muốn phá vỡ những xiềng xích tàn bạo trong nhà thống lí Pá Tra, thách thức mọi ràng buộc khắt khe của cường quyền. Lần trước tiên sau bao nhiêu năm sống kiếp con vật, khát khao trở thành hành động: “Mị quấn lại tóc, với tay lấy chiếc váy hoa” chuẩn bị đi chơi ngày Tết. Giữa lúc ngọn lửa của lòng ham sống trong Mị trỗi dậy, bùng lên mãnh liệt thì A Sử, chồng Mị đã xuất hiện vùi dập tất cả, hắn thản nhiên “trói đứng Mị vào cột nhà”. Thế nhưng, lúc người đọc tưởng như lại một lần nữa Mị sẽ đầu hàng số phận thì Mị “như ko đang biết mình đang sợ bị trói… Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”. Sức sống tiềm ẩn trong con người Mị khiến Mị quên hết nỗi đau thể xác, “Mị vùng dậy bước đi”.
Hình như, Mị đã hoàn toàn thức tỉnh. Đặc thù, qua hành động cởi trói cho A Phủ rồi cùng nhau trốn khỏi Hông Ngài thì sức sống tiềm tàng nơi Mị đã bùng phát mạnh mẽ tới độ ngang nhiên tuyên chiến cả thế lực bạo tàn để đòi quyền sống.Mị đã trông thấy A Phủ bị trói đứng một cách thảm khốc từ cách đó mấy hôm nhưng mấy đêm đầu Mị vẫn thản nhiên “thổi lửa hơ tay” . Với Mị, chuyện đánh người, trói nguời ở nhà Pá Tra xảy ra như cơm bữa. Hơn nữa, dù có thương xót, đồng cảm với A Phủ thì Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực. Tới đêm nay, dưới ánh lửa “bập bùng” trông thấy “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen” của A Phủ, Mị càng thương mình, càng thương người. Mị nghĩ “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta tới chết…Chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”.
Mị cũng biết, nếu cởi trói cho A Phủ, “Mị liền phải trói thay vào đấy. Mị chết trên cái cọc đấy”. Nhưng tình thương, niềm đồng cảm giữa những con người cùng cảnh ngộ đã lấn át nỗi sợ và lớn hơn cái chết, nó đã dẫn đến hành động táo bạo: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ. Mặc dù đây là hành động tự phát nhưng là kết quả của một quá trình, nó minh chứng sức sống tiềm tàng, âm ỉ ko ngừng trong con người Mị. Hành động cắt dây trói giải thoát cho A Phủ ghi lại bước ngoặt trong tính cách và cuộc đời Mị. Với hành động này, Mị ko chỉ giải thoát cho A Phủ nhưng mà còn giải thoát cho chính mình. Ý thức được nỗi khổ của kiếp sống tủi nhục, Mị đã tuyên chiến với biết bao thế lực hà khắc của cường quyền, hủ tục, lễ giáo phong kiến (là thân phụ nữ, nó đã bắt về trình ma rồi, chỉ còn biết đợi ngày chết rũ xương ở đây thôi) để đòi quyền con người cho chính mình.
Qua việc mô tả tâm lí nhân vật hết sức tinh tế, Tô Hoài đã thành công cho thấy vẻ đẹp đáng trân trọng của tâm hồn, khát vọng sống mãnh liệt khuất lấp sau những hình hài câm lặng và cam chịu của những người dân nghèo vùng núi, đặc thù là người phụ nữ. Cũng qua đây, nhà văn lên tiếng tố cáo xã hội mục nát dưới sự thống trị của thần quyền, cường quyền đã trà đạp lên quyền sống chính đáng của con người. Đồng thời, với việc khắc họa nhân vật Mị, Tô Hoài một lần nữa bộc bạch thái độ bênh vực, trân trọng, thương xót những kiếp người nhỏ nhỏ trong xã hội phong kiến thực dân. Từ đó, nhà văn kêu gọi con người dũng cảm đấu tranh cho sự sống, cho quyền con người chân chính. Đó có nhẽ là lí do vì sao “Vợ chồng A Phủ” được coi là tác phẩm đầy ý thức nhân đạo thâm thúy và tính nhân văn cao cả!
Số 11: Nhân xét sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị
Có những sở thích nhất thời, song cũng có những sở thích đời đời không thay đổi, có những nỗi đau thoáng qua và cũng có những vết thương hằn sâu theo năm tháng. Nếu giở những trang đời đẫm lệ của Kiều ta sẽ khóc, nếu Chí Phèo chết ta xót thương thì khi đọc Vợ chồng A Phủ ta cũng cho phép tim mình rung lên theo tiếng thổn thức của Mị. Một cô gái trẻ phải chôn vùi cuộc đời thanh xuân trong nhà tên thống lí đến khi trốn khỏi Hồng Ngài, ta vẫn còn thấy được một sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong người con gái Mèo ấy!
Hạt nẩy mầm ra hoa kết trái là một qui luật tự nhiên. Là con gái lớn lên lấy chồng về làm dâu nhà chồng cũng là một tự nhiên và cũng là mơ ước của họ. Thế nhưng, hạnh phúc rất nhiều song nói như người đời, ông trời lại hay ích kỉ, ông chỉ ban cho một số người hạnh phúc còn khổ đau dường như nhân loại ai cũng được hưởng. Em nhớ H.Banzac trong “Miếng da lừa” có viết “Trên đời không có gì trọn vẹn hơn sự bất hạnh” là vậy. Ngay cả hạnh phúc tưởng chừng như tầm thường dễ dàng đó cũng không mỉm cười với Mị, nó quay lưng với cô và mở cho cô trang đời cơ cực: trang đời đẫm đầy nước mắt.
Chân dung Mị hiện lên đầu tác phẩm gần như là tảng đá chai sạn khô lạnh, dường như ngọn lửa tình người đã vĩnh viễn tắt ngấm trong trái tim cô. Cô cứ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Từ ngày bị bắt về làm dâu gạt nợ trong nhà thống lí đến nay, gương mặt Mị chỉ toàn nước mắt. Gia đình Pá Tra nào có xem Mị là một con người, là một thành viên hợp pháp? Một con ở! Thậm chí một con vật. Làm việc cạnh tàu ngựa, buồng ngủ gần tàu ngựa Mị giống như con ngựa nhà thống lí. Ngày nối ngày, Mị chỉ biết “quay tơ hái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, đi cõng nước”. Mị tồn tại đấy song chỉ là cái xác biết đi, linh hồn Mị tắt lịm từ bao giờ rồi. Song, thật sự Mị vẫn chưa chết, con người của Mị ngày xưa vẫn còn sống trong thể xác héo mòn và vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt.
Mị là con của núi rừng sơn cước, dòng suối rừng cây đã nhen nhóm trong cô một vẻ hồn nhiên mộc mạc. Cô sống như chính cô, không giả dối, không tính toán so đo. Mị rất yêu đời. Cô đẹp, cô có tài thổi sáo và đã từng vui chơi như tất cả mọi người. Cô không có con trai khép kín dưới lòng biển sâu mà cô là cánh chim hay hót của núi rừng. Mị đã từng phản đối khi nghe tin Pá Tra đòi bắt cô về làm dâu gạt nợ. Mị bảo với bố “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Mị yêu tự do, Mị yêu cuộc sống Mị muốn là cánh hải âu không sợ biển lớn, sông dài, cô sẵn sàng trả bằng mọi giá để được tự do bên bố, bên gia đình, được yêu, được ca hát.
Mị đã có ý thức hẳn hoi về cuộc sống, thế nhưng sự ngang trái cuộc đời đã chụp lên Mị màu đen tang tóc. Đối với Mị tự do là điều quí nhất. Song, đóa hoa vừa chớm nụ xuân vừa rung rung ngỡ ngàng đón cuộc đời mới – đời thiếu nữ – đã bị người ta ngắt, người ta vò nát, không thương tiếc: Mị bị A Sử bắt. Đau đớn đến tận cùng “có đến hàng mấy tháng đêm nào Mị cũng khóc” và rồi chính sức sống mãnh liệt, chính tình yêu cuộc sống đã đưa Mị đến ý định tự tử: Thà tự hủy diệt thân xác còn hơn sống mà không được tự do, sống theo lí tưởng của mình. Những ngang trái cuộc đời không buông tha Mị, cũng như bể khổ thế gian không cho phép Kiều phải chết, nàng phải sống, sống chịu đọa đày. Và Mị không thể chết vì Mị phải sống để gánh trên vai mối nợ truyền kiếp của cha mẹ.
Cha mẹ cô cả đời khổ cực còn phải sống vì con. Còn cô? Cô đã làm gì chưa? Cô không thể chết phải cam chịu làm tảng đá vô tri, làm kiếp ngựa, kiếp con rùa thui thủi xó cửa nhà giàu. Năm tiếp năm, tháng tiếp tháng, ngày lại nối ngày, Mị cam chịu tất cả! Con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ còn Mị chưa bao giờ được nghỉ ngơi. Ngày giờ chồng lên chừng nào thì sức sống của cô gái ngày xưa bị tiêu hao chừng ấy: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Sự đọa đày đã trói buộc đã biến Mị thành nô lệ gần mất hẳn sức sống Mị quên hẳn việc tử tự của những năm về trước. Đối với Mị lúc này thời gian là vô nghĩa. Mị chỉ biết làm việc mà thôi.
Đáng lo thay khi con người mất dần nhận cảm về thời gian vì như thế con người đó đã chết. Họ họat động chỉ bằng bản năng còn đời sống tâm hồn đã tắt ngấm buồn vui, thời gian trôi qua thật vô nghĩa. Thế lực phong kiến và thế lực thần quyền trong nhà thống lí đã nghiến nát, đã tước đọat được cuộc đời thanh xuân, yêu, sống của Mị. Đọc phần đầu tác phẩm em không khỏi liên tưởng Mị là cô Huệ Chi trong Cửa biển của Nguyên Hồng. Song, công bằng mà nói Huệ Chi hạnh phúc hơn Mị. Nàng chỉ sống như đã chết trong một thời gian ngắn mà thôi – lúc bị ép gả cho tên tướng Nhật và nàng lại diễm phúc hơn Mị gấp bội lần. Nàng được chết, được trở về một thế giới ngát hoa vĩnh hằng với đôi tay rộng mở tình yêu của Mẹ. Còn Mị đau đớn thay khi cô phải kéo lê cuộc đời khổ ải hàng mấy năm. Nhưng rồi Chí Phèo vẫn còn được bát cháo ân tình của Thị Nở đánh thức. Mị cũng thế! Người con gái yêu đời, yêu cuộc sống như thế mà lại phải “chết” dễ dàng thế sao?
Em rất tâm đắc với hai chi tiết: Thứ nhất là tiếng sáo đêm xuân. Tiếng sáo vang dội từ xa, len lỏi vào tâm hồn Mị. Tiếng sáo ngân vang ấy đã mở cửa ngôi nhà tâm hồn từ lâu “im ỉm khóa” của Mị. Mị chợt nhớ – lần đầu tiên qua bao năm nay kí ức chợt ùa về với Mị, Mị nhớ đến ngày trước “Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này Mị uống rượu bên bếp lửa và thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Và lần đầu tiên, lại cũng là lần đầu ý định tự tử lại đến và Mị ước “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay”. Khi con người ta muốn chết, hơn lúc nào hết lúc đó người ta tha thiết yêu cuộc sống và chính vì không được cuộc sống đáp ứng nên họ rơi vào sự thất vọng và tìm đến cái chết.
Sức sống của Mị không bị hủy diệt mà tiềm ẩn và hôm nay như có một luồng gió mới thổi vào nó có dịp trỗi dậy. Mị đang thả hồn theo tiếng sáo như lần theo sợi dây quá khứ để tìm về những ngày xưa hạnh phúc. Và bất giác “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng”. Mị muốn đi chơi, Mị “ngồi xuống giường trông ra cái ô cửa sổ mờ mờ trăng trắng”. Còn ô cửa sổ nhỏ? Ô cửa sổ trong tác phẩm này là một không gian nghệ thuật, nơi ấy Mị nhớ về quá khứ, về thuở con gái. Không gian mờ đục đó hôm nay, Mị mới nhận thức được. Bấy lâu nay Mị nào có quan tâm. Không gian âm u có phải chăng là đời Mị? Một cuộc đời trong màn sương không lối thoát, Mị có phải chăng là con mồi mãi sa vào lưới nhện?
Hôm nay, tiếng sáo luồn qua khung cửa đã làm cho Mị nhớ về quá khứ, một thời son trẻ được tái hiện qua lớp “mờ mờ trăng trắng” ấy. Con người thực tế trong Mị đã sống dậy thay thế cho con người vô thức. Thế mà, mãi mãi bất hạnh cứ không thôi bám riết lấy Mị. Hai lần vươn tay đến hạnh phúc, hai lần sức sống trở về là hai lần A Sử đã lấy đi mất, đã dang tay đẩy Mị trở về số kiếp con rùa, con ngựa. A Sử trói Mị tàn ác như thời trung cổ, nhưng Mị bất chấp tất cả, Mị không sợ, Mị đang sống với hạnh phúc kỉ niệm, đang thả trôi mình theo tiếng sáo. Thế nhưng sự tàn ác luôn không cho Mị hưởng hạnh phúc dầu một thời gian ngắn ngủi thôi. Mị trở về kiếp lùi lũi như con rùa con ngựa. Cuối cùng sức sống ấy đã trỗi dậy hơn lúc nào hết, nó mãnh liệt bội phần.
Lần Mị cởi trói cho A Phủ. Thoạt tiên lúc thấy A Phủ, Mị nhìn. Một cái nhìn hờ hững không xúc động, không lạ lùng. Cảnh nhà này trói người là chuyện thường. Nhưng đến một đêm, như bao đêm nào Mị cũng thức dậy và vẫn “thản nhiên thổi lửa hơ tay”. Ánh lửa “bập bùng sáng lên” chính ánh lửa ấy đã buộc Mị “lé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Và cũng như tiếng sáo, dòng nước mắt đau khổ của một con người đau khổ đã lôi tuột Mị trở về quá khứ khổ đau ngày nào. Nhìn A Phủ đứng đấy như một xác chết, bất giác Mị lại nhớ đến mình “Trông người lại ngẫm đến ta” là vậy, Mị nhớ đến hôm ấy mình cũng đã chịu trói như thế và nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ… không ai biết, ai hay.
Nhìn A Phủ Mị thương mình quá! Sao đời mình lại khổ đến thế! Và từ thương bản thân Mị nghĩ đến người, nghĩ đến người đàn bà đã bị chết trói, nghĩ đến A Phủ là Mị lại căm giận lũ người vô lương. Cái thương, cái căm giận, cái phẫn nộ ấy khác nào như nguồn hơi bơm vào một quả bóng đã căng và căng đến mức phải nổ tung, chính những điều đó đã làm Mị quan tâm đến A Phủ, một con người khổ sở chỉ vì đánh mất một con bò mà phải đem mạng mình đánh đổi. Không! Mị nhủ A Phủ không lí do gì phải chết.
Và Mị đã hành động: “Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại, Mị rút dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi không biết mê hay tỉnh”. Mị hành động không hề tính toán. Thật vậy sau khi cởi trói cho A Phủ “Mị cũng hốt hoảng” Mị hành động chỉ vì thương và ý định trả thù… Mị không muốn một cái chết lại xảy ra, một tội ác nữa lặp lại, dù sao Mị cũng là một con người, Mị có trái tim nhân hậu của một con người. Và hành động đó là sự phản kháng của sức sống ngày xưa.
Có người cho rằng đây là một hành động tự phát vô ý thức. Song theo em vẫn có thể hiểu đây là một hành động xuất phát từ một quá trình vận động tâm lí có ý thức. Có thể xảy ra lắm chứ! Nhưng cái quan trọng ở đây là kết quả một sức sống tiềm tàng, tiềm ẩn của Mị trước đó.
Mị cởi trói cho A Phủ là đã tự tay giật bỏ vòng xiềng xích cho mình. Và hành động tự giải phóng này của Mị có nguồn gốc từ cái buồn “rười rượi” từ cách uống rượu từng bát như uống cay đắng tủi nhục của cuộc đời…Và dĩ nhiên, nó trực tiếp hơn nhờ vào tiếng sáo gọi bạn, tiếng sáo đã làm cho lòng Mị bùng lên một ngọn lửa vốn dĩ đã dập tắp từ lâu.
Giữa màn đêm u tối, Mị lao theo A Phủ, Mị lao vào bóng đêm để xé toạc bóng đêm đến với ánh sáng của tự do và hạnh phúc. Mị chạy theo A Phủ chạy trốn để tìm một vùng đất mới, để sống với hạnh phúc, được làm con người. Mặc dù giữa Mị và A Phủ chưa hề có khái niệm tình yêu, thứ tình yêu trai gái nhưng ở họ có một thứ tình khác: tình người, người cùng đau khổ. Và họ đã biết rằng phải dựa vào nhau để sống. Chỉ có một con đường sống, duy nhất và con người thực của cô gái Mèo ấy đã thắng, cô lao đi quên tất cả, quên thế lực quên sự trả thù của cha con thống lí, quên đi con ma thần quyền chi phối, trói buộc cụôc đời cô.
Đối với cô bây giờ tự do là trên hết. Cô lao đi, đi đến phía trước dù cô chưa định hình rõ nhưng đấy là đường sống. Khác với chị Dậu trong Tắt đèn, chị Dậu lao ra đêm đen, bóng tối như muốn nuốt chửng chị ấy và chị mò mẫm trong vùng tối ấy. Chị không có con đường sáng để đi. Chị lao ra chỉ đơn thuần là tránh nạn, chị lao ra để mà lao ra song không lối thoát: Chị Dậu không thể tự giải phóng nổi mình “Trời tối như mực và như cái tiền đồ của chị”. Còn Mị, Mị lao ra để cùng đi với A Phủ đến một miền đất sống.
Kết thúc đoạn trích là cảnh A Phủ dìu Mị lao xuống dốc. Có lẽ tác phẩm dừng ở đây thì em chắc hẳn người đọc ai cũng sẽ tin chắc rằng A Phủ và Mị sẽ được sống yên lành và hạnh phúc. Bởi lẽ với sức sống mãnh liệt với niềm yêu cuộc sống đến thế thì không thể nào họ (mà đặc biệt là Mị) lại có thể không tìm được cuộc sống đích thực như í muốn. Và không những chỉ có Mị mà bất kì một ai khác đều yêu tin vào cuộc sống thì sớm hay muộn trái ngọt hạnh phúc cũng đến với tay họ, dù hôm nay đang chịu nhiều đau khổ, nhọc nhằn. “Hạnh phúc là một sự đợi chờ” (J.Rútxô).
Số 12: Phân tích sức sống mãnh liệt của nhân vật Mị
Trong thiên truyện Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã rất thành công ở việc miêu tả tâm lí nhân vật. Sự dụng công ấy đã được kết đọng ở quá trình bộc lộ sức sống tiềm tàng của Mị, một thiếu nữ mà vẻ đẹp, tình yêu, niềm khát khao hạnh phúc đều đã bị chế độ phong kiến miền núi vùi dập. Song con người ham sống và sức sống tiềm tàng trong Mị vẫn không chết. Có dịp, con người ấy sẽ thức dậy như một sự tất yếu, thức dậy để giải phóng thân phận mình. Tô Hoài đã miêu tả chân thực và tinh tế diễn biến tâm lí phức tạp đó của Mị từ khi bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí đến lúc cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài. Qua đó, giá trị nhân đạo lớn lao của tác phẩm được khẳng định.
Mở đầu tác phẩm, Mị đã được tác giả giới thiệu như hiện thân của một số kiếp nghiệt ngã, một tâm hồn đau khổ câm lặng: “ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị như một cái bóng, một mảng tối im lìm trong cảnh giàu sang nhà Thống lí Pá Tra. Càng ngày Mị càng không nói, chỉ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Người đàn bà ấy bị cầm tù trong ngục thất tinh thần, nơi lui vào lui ra chỉ là “một căn buồng kín mít chỉ có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay” Đã bao năm rồi, người đàn bà ấy chẳng biết đến mùa xuân, chẳng đi chơi Tết…
Nhà văn có tả hình dáng nhưng không nhằm khắc họa chân dung ngoại hình mà chủ yếu làm nổi bật con người số phận, một số phận nghiệt ngã, cay đắng, tủi cực. Điều đó có sức ám ảnh đối với độc giả, gieo vào lòng người những xót thương. Ách áp chế nặng nề của bọn chúa đất phong kiến miền núi, cả cường quyền và thần quyền đã đè nén một tâm hồn yêu đời, khát sống trở thành một người hoàn toàn tê liệt về ý thức: “sống lâu trong cái khổ Mị cũng đã quen rồi”, “Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, Mị chỉ “cúi mặt, không nghĩ ngợi”, chỉ “nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau”. Mị không còn ý thức được về thời gian, tuổi tác và cuộc sống. Mị sống như một cỗ máy, một thói quen vô thức. Mị vô cảm, không tình yêu, không khát vọng, thậm chí không còn biết đến khổ đau.
Nhưng đâu đó trong cõi sâu tâm hồn người đàn bà câm lặng vì cơ cực, khổ đau ấy vẫn tiềm ẩn một cô Mị ngày xưa, một cô Mị trẻ đẹp như đóa hoa rừng đầy sức sống, một người con gái trẻ trung hiếu thảo. Ngày ấy, tâm hồn yêu đời của Mị gửi vào tiếng sáo “Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Ở Mị, khát vọng tình yêu tự do luôn luôn mãnh liệt. Nếu không bị bắt làm con dâu gạt nợ, khát vọng của Mị sẽ thành hiện thực bởi “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Mị đã từng hồi hộp khi nghe tiếng gõ cửa của người yêu. Mị đã bước theo khát vọng của tình yêu nhưng không ngờ sớm rơi vào cạm bẫy.
Tất cả những phẩm chất trên đây sẽ là tiền đề, là cơ sở cho sự trỗi dậy của Mị sau này. Nhà văn miêu tả những tố chất này ở Mị khiến cho câu chuyện phát triển theo một lô-gic tự nhiên, hợp lí. Chế độ phong kiến nghiệt ngã cùng với tư tưởng thần quyền có thể giết chết mọi ước mơ, khát vọng, làm tê liệt cả ý thức lẫn cảm xúc con người nhưng từ trong sâu thẳm, cái bản chất người vẫn luôn tiềm ẩn và chắc chắn nếu có cơ hội sẽ thức dậy, bùng lên.
Bị bắt về nhà thống lí làm con dâu gạt nợ, Mị định tự tử. Mị tìm đến cái chết chính là cách phản kháng duy nhất của một con người có sức sống tiềm tàng mà không thể làm khác trong hoàn cảnh ấy. “Mấy tháng ròng đêm nào Mị cũng khóc”, Mị trốn về nhà cầm theo một nắm lá ngón. Chính khát vọng được sống một cuộc sống đúng nghĩa đã khiến Mị không muốn chấp nhận cuộc sống bị chà đạp, cuộc sống lầm than, tủi cực, bị đối xử bất công như một con vật. Mị tìm đến cái chết như một hành động tự giải thoát.
Đêm tình mùa xuân là cái đêm đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời Mị. Mị thốt nhiên lại muốn đi chơi và đã sửa soạn để đi chơi. Với một người như Mị, muốn đi chơi có nghĩa là muốn nổi loạn, muốn phá phách, không cam chịu sống “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” nữa.
Tô Hoài đã bộc lộ tài năng nghệ thuật già dặn của mình trong việc lí giải sự chuyển biến tâm lí của Mị vừa như một sự bột phát đột phá vừa như là hệ quả tất yếu của một sức sống tiềm tàng, tiềm ẩn được khơi dậy, bùng lên để quên đi thực tại, sống đúng với bản chất của mình.
Sự thức tỉnh ý thức của Mị trước hết là nhờ ở sự tác động của hoàn cảnh: “những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ, hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ au, đỏ thẫm rồi sang màu tím man mác”. Cảnh vật cùng với những âm thanh rộn rã báo hiệu mùa xuân: “đám trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà” cũng có những tác động nhất định đến tâm lí của Mị. Nếu ngoại cảnh là những chất xúc tác gián tiếp thì rượu là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời, khát sống của Mị trỗi dậy. “Mị đã lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát một”. Mị vừa như uống cho hả giận vừa như uống hận, nuốt hận. Hơi men đã dìu tâm hồn Mị theo tiếng sáo.
Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trò đặc biệt quan trọng. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha, bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi…
Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác”. Với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân, của khát vọng tình yêu, hạnh phúc. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại dụng công miêu tả tiếng sáo nhiều lần đến thế: “Tiếng sáo gọi bạn cứ thiết tha, bồi hồi”, “ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo”, “tai Mị vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”, “mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”, “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”, “trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”… Tô Hoài đã miêu tả tiếng sáo như một dụng ý nghệ thuật để lay tỉnh tâm hồn Mị. Tiếng sáo là biểu tượng của khát vọng tình yêu tự do, đã theo sát diễn biến tâm trạng Mị, là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa tưởng đã nguội tắt. Thoạt tiên, tiếng sáo còn “lấp ló”, “lửng lơ” đầu núi, ngoài đường. Sau đó, tiếng sáo đã thâm nhập vào thế giới nội tâm của Mị và cuối cùng tiếng sáo trở thành lời mời gọi tha thiết để rồi tâm hồn Mị bay theo tiếng sáo. Mị đã vượt khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh lâu nay của mình.
Dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về hạnh phúc ngắn ngủi trong cuộc đời tuổi trẻ của mình và niềm ham sống trở lại “Mị thấy phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. “Mị còn trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi”. Phản ứng đầu tiên của Mị là: “nếu có nắm lá ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết”. Mị đã ý thức được tình cảm đau xót của mình. Mị muốn chết chứ “không buồn nhớ lại nữa” cái ngày xưa đẹp đẽ ấy bởi nhớ lại chỉ thêm đau, “chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Những giọt nước mắt tưởng đã cạn kiệt vì đau khổ đã lại có thể lăn dài. Đau khổ tưởng đã làm Mị tê liệt cả lí trí lẫn tình cảm nhưng từ trong sâu thẳm, tâm hồn Mị không chết, Mị vẫn còn khóc được cho hoài niệm của mình, khóc cho vết thương tưởng đã mãi mãi thành sẹo, thành chai. Từ những sôi sục trong tâm tư đã dẫn Mị tới hành động “lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu”. Đây là hành động của sự thức tỉnh.
Mị muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng bấy lâu chỉ là bóng tối. Mị muốn thắp sáng cho cuộc đời tăm tối của mình. Chí ít, thứ ánh sáng thực này cũng khiến Mị cảm thấy mình không phải là một thứ đồ vật bị bỏ quên, không phải là một con rùa trong xó tối. Hành động này đẩy tới hành động tiếp: Mị “quấn tóc lại, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”, chiếc váy hoa mà có lẽ đã bao nhiêu mùa xuân rồi Mị không biết đến sự tồn tại của nó. Và cứ như một người đàn bà mộng du, Mị quên hẳn sự có mặt của A Sử, quên hẳn mình đang bị trói mà tiếng sáo vẫn dìu tâm hồn Mị “đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào”. Tâm hồn Mị đã thuộc về một thế giới khác, một thế giới lung linh như ngọc bích, lóng lánh như pha lên, một thế giới mà ở đó Mị thổi sáo, Mị hát, Mị yêu và được yêu. Đó là một sức sống tiềm tàng, dữ dội và mãnh liệt.
Sức sống tiềm tàng, mãnh liệt ở Mị được bộc lộ rõ ở hành động “vùng bước đi” giữa lúc cả người bị trói đứng vào cột. Chỉ khi “tay chân đau không cựa được” Mị mới sức tỉnh trở về hiện tại. Tiếng sáo im bặt, thay vào đó là “tiếng chân ngựa đạp vào vách” khiến Mị cay đắng nghĩ “mình không bằng con ngựa”. Trong tác phẩm, rất nhiều lần tác giả nhắc đến cuộn dây trói (trói Mị, trói A Phủ). Đó như là một biểu tượng cho chế độ cường quyền và thần quyền khắc nghiệt. Nhưng ngay cả khi cuộn dây trói thít chặt nhất cũng không thể ngăn con người nghĩ đến cuộc sống, sống với thế giới của tình yêu và khát vọng.
Tô Hoài đã đặt sự hồi sinh của Mị vào tình huống bi kịch: khát vọng mãnh liệt – hiện thực phũ phàng khiến cho sức sống ở Mị càng thêm phần dữ dội. Quá trình hồi sinh của một sức sống tiềm ẩn được nhà văn miêu tả không hề hời hợt, dễ dãi. Nhân vật vượt khỏi sự thờ ơ, nguội lạnh không hề đơn điệu, dễ dàng. Mị sống quá lâu trong cái khổ vì thế sự hồi sinh đến nhanh rất dễ gây cảm giác giả tạo. Đó phải là một quá trình chuyển biến lớn dần và phải có một sự tác động đặc biệt. Sự tác động đó không gì thay được tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân. Một làn sóng cảm xúc đi qua, dù mãnh liệt cũng không thể làm thay đổi cuộc đời Mị. Nhưng những gì mà Tô Hoài viết về cái đêm tình mùa xuân ấy thật vô cùng ý nghĩa. Qua đây, nhà văn muốn phát biểu một tư tưởng: sức sống của con người cho dù bị giẫm đạp, bị trói chặt vẫn không thể chết mà luôn luôn âm ỉ, chỉ cần gặp dịp là bùng lên.
Khi tiếng sáo im bặt, chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách cũng là lúc mọi kí ức tan biến, cuộc đời Mị lại như những đêm đông trên miền núi cao, vừa dài vừa buồn. Trước cảnh A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn vô cảm. “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay”. Có đêm, bị A Sử đánh gục ngay cửa bếp vậy mà đêm sau Mị vẫn trở dậy thổi lửa, hơ tay như thế. Ta cứ tưởng sức sống trong Mị giống như ngọn đèn cạn dầu, chỉ bùng lên để rồi tắt ngấm. Nhưng không, phần trên mới chỉ là phần chuẩn bị cho một bước đột phá. Tâm hồn tê dại của người đàn bà ấy đột ngột bùng lên thật mãnh liệt: cắt dây trói cứu A Phủ và tự giải thoát chính mình. Đây là một hành động táo bạo có ý nghĩa quyết định đối với cuộc đời Mị. Sau hành động này, Mị đã tìm thấy hạnh phúc và sống một cuộc đời đáng sống – trở thành vợ A Phủ và thành viên đội du kích Phiềng Sa.
Hành động của Mị vừa mang tính tự phát vừa có ý thức tự giác. Tự phát bởi sự việc đến nhanh, đột ngột và Mị không kịp tính trước rồi sẽ đi đâu, làm gì, ngay cả việc có chạy theo A Phủ hay không cũng chỉ được Mị quyết định sau khi cắt dây trói, đứng lặng một phút trong bóng tối. Tô Hoài thật tinh tế và bản lĩnh khi sắp xếp chi tiết này bởi nếu không khéo rất có thể có hai khả năng xảy ra: một là Mị trốn chồng vì khổ quá, hai là Mị bỏ chồng theo A Phủ vì A Phủ vốn là người mà bao nhiêu cô gái mơ ước có được. Cả hai khả năng này đều hạ thấp giá trị nhân vật, Mị cắt dây trói cho A Phủ nhưng không hề chạy theo. Chỉ sau một phút định thần, nỗi hoảng sợ đã đẩy bàn chân Mị vùng chạy theo một cách tự nhiên.
Tuy vậy, hành động của Mị chính là kết quả tất yếu của một con người có sức sống tiềm tàng. Hành động này có nguồn gốc từ bản chất một người con gái hiếu thảo, yêu đời, ham sống trong quá khứ, từ cái “buồn rười rượi”, từ cách uống rượu “ừng ực từng bát một” và ngay cả từ ý định tự sát của Mị nữa. trực tiếp hơn cả là những giây phút Mị rạo rực nghe tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân. Sâu xa hơn nữa là vì Mị cảm thấy đau đớn giống như những lần chính Mị bị trói. Mị không nỡ để một con người vô tội phải chết dần trong đau đớn.
Tất cả được khơi dậy đúng lúc: “Mị hé mắt trông sang thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xạm đen lại của A Phủ”. Giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã giúp Mị nhớ lại mình, nhận ra mình, xót xa cho mình. Thương người và thương mình đồng thời nhận ra tất cả sự tàn ác của nhà thống lí, tất cả đã khiến cho hành động của Mị mang tính tất yếu.
Tất nhiên, Mị cũng rất lo lắng, hoảng sợ. Mị sợ mình bị trói thay vào cái cọc ấy, “phải chết trên cái cọc ấy”. Khi đã chạy theo A Phủ, cái ý nghĩ ấy vẫn còn đuổi theo Mị: “ở đây thì chết mất”. Nỗi lo lắng của Mị cũng là một khía cạnh của lòng ham sống, nó đã tiếp thêm cho Mị sức mạnh vùng thoát khỏi số phận mình.
Nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài để lại dấu ấn khó phai mờ trong tâm trí độc giả. Mị là nạn nhân của ách áp chế nặng nề kiểu trung cổ. Nhưng trong Mị luôn tồn tại những mâu thuẫn gay gắt: bên trong người đàn bà cam chịu là một sức sống tiềm ẩn, bên cạnh sự dửng dưng vô cảm có lúc lại thiết tha, bồi hồi, mãnh liệt.
So với chị Dậu (Tắt đèn – Ngô Tất Tố), sức sống của Mị có thể không tiềm tàng, quyết liệt bằng nhưng ở Mị, sức sống ấy một khi trỗi dậy thì có hướng đi rõ rệt. Chị Dậu vùng lên mãnh liệt để rồi đứng bơ vơ trong đêm tối đen như mực, tối như cái tiền đồ của chị. Hành động rút dao của Mị cũng không phải là hành động tự giải thoát bi kịch bằng một bi kịch kiểu Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao) mà là hành động cắt đứt sợi dây mê tín thần quyền và sức mạnh man rợ cường quyền. Hành động của Mị tượng trưng cho sự chiến thắng của tinh thần phản kháng và con đường của Mị cũng như của bao người nghèo khổ đến với cách mạng là con đường tất yếu.
Cả quãng đường dài dằng dặc của Mị ở nhà thống lí Pá Tra có hai đêm đáng nhớ nhất. Đó là “đêm tình mùa xuân” và đêm cắt dây trói cho A Phủ. Hai biến cố đó đã chứng minh được sức sống tiềm tàng trong con người Mị mà không thế lực nào giết chết được. Đó cũng là tình cảm nhân đạo lớn lao của ngòi bút Tô Hoài. Nhà văn đã miêu tả quá trình diễn biến tâm lí và hành động của Mị rất tự nhiên, sinh động, vừa bất ngờ, vừa tất yếu hợp qui luật. “Mị là nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi cách mạng đương đại Việt Nam” (Trần Đình Sử).

Số 13: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị
Nhà văn lớn là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Tấm lòng nhân đạo của nhà văn không chỉ thể hiện ở việc đồng cảm, thương xót cho số phận con người, mà còn ở niềm tin và bút lực của nhà văn khi đi sâu vào những vỉa tầng sâu kín của tâm hồn con người, để khám phá ra chất ngọc trong tâm hồn họ. Tô Hoài với một ngòi bút của một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, đã đào sâu, kiếm tìm và phát hiện ra sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ.
Tô Hoài mở đầu câu chuyện bằng những cảnh quay chậm từ hiện tại để rồi ngược về quá khứ để thấy được thân phận của Mị. Trước khi làm dâu gạt nợ, Mị là một cô gái hầu như tập trung được những vẻ đẹp tiêu biểu của người phụ nữ miền núi: Mị vừa đẹp người, vừa đẹp nết, cần cù, đảm đang, hiếu thảo, giàu đức hi sinh vị tha, ham sống, yêu đời và rất mực tài hoa. Ấy thế nhưng người con gái với vẻ đẹp và sức sống như cánh chim núi rừng Tây Bắc ấy đã bị giam hãm trong chiếc lồng chật hẹp, tù túng nhà thống lí Pá Tra. Mị làm quần quật suốt ngày đêm, thậm chí khi đặt Mị bên tảng đá hay so sánh với con ngựa, Tô Hoài như đã ngầm ám chỉ rằng thân phận của Mị giờ đang bị đối xử không bằng con trâu, con ngựa nhà họ.
Để qua đó, người đọc thấy được thân phận làm dâu đong đầy nước mắt của Mị. “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Nước mắt chính là bước đầu tiên cho sự phản kháng của Mị, nhưng giọt nước mắt ấy thậm chí còn dẫn sự phản kháng, uất nghẹn ấy đi xa hơn khi có lần Mị đã định tự tử bằng lá ngón. Nhưng vì lòng hiếu thảo, thương cha Mị đã từ bỏ. Ta dễ dàng nhận ra dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thần quyền, những hủ tục phong kiến nơi miền núi, Mị gần như tê liệt hết về sức sống, Mị lãnh đạm, thờ ơ với sự chảy trôi của thời gian, sắc màu cuộc sống của Mị trở nên mờ nhạt. Nó được biểu tượng bằng “Một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay”, “lúc nào cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mị trở nên câm lặng như đá, không thiết xanh cùng lá, không thiết nắng cùng gió, con chim núi rừng như đang bị kìm kẹp.
Tưởng như sức sống trong người con gái Tây Bắc ấy đã lụi tàn, thì chính tiếng sáo dìu dặt, du dương ấy đã gọi dậy sức xuân trong lòng Mị, trong đêm tình mùa xuân. Tiếng sáo dẫn dắt tâm hồn Mị, khiến cô như bừng tỉnh, nhập hòa vào hiện tại, mà cũng đang trôi về miền kí ức không gian xưa để tìm lại tâm hồn tươi trẻ của chính mình. Mị cầm bát uống “ực” bát rượu. Hành động ấy chính là sự thay đổi về tâm lí để dẫn dắt cho sự thay đổi về hành động, hay là một tên gọi khác cho sự phản kháng. Mị muốn đi chơi, Mị nhận ra mình vẫn còn trẻ, cũng đồng thời tỉnh thức về nhà tù hiện thực tại nhà thống lí Pá Tra đã chôn vùi tuổi xuân và sức sống trong tâm hồn Mị. Ý thức được giá trị của tuổi trẻ, khát vọng sống, và khát vọng được tự do. Nhưng ngay lập tức, bị A Sử tạt một gáo nước lạnh trước sự hồi sinh ấy. Thế nhưng, Mị bây giờ dẫu bị trói quanh cột nhà, dẫu bị chôn vùi trong bóng tối đầy sợ hãi và cô độc ,thì con chim ấy tiếng ca tha thiết của nó vẫn cất mãi lên tận trời xanh.
Đỉnh điểm của sự trỗi dậy, của sức sống tiềm tàng ở trong Mị là hành động cởi trói cho A Phủ trong đêm đông. Giọt nước mắt lăn dài trên hõm má xám đen lại của A Phủ chính là chất xúc tác thổi bùng lên ngọn lửa đang âm thầm nhen nhóm trong tâm hồn Mị. Mị nhìn thấy giọt nước mắt ấy, trước hết cảm thấy bất bình cho A Phủ.
Bao lâu nay, Mị sống câm lặng như tảng đá trong nhà Pá Tra, nay sự bất bình trỗi dậy, muốn đòi công lí, công bằng cho tha nhân? Suy nghĩ ấy, chẳng phải chính là đang manh nha của quá trình trỗi dậy ư? Tiếp đến, mặc dù trong trái tim và tâm hồn Mị đầy sự sợ hãi, và rợn ngợp về tương lai, nhưng hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ lại quyết liệt và đầy sức mạnh. Mị xin chạy theo A Phủ, hành động đó thể hiện lòng ham sống, khát sống, khát khao tự do của Mị, đó cũng là hành động cắt dây cởi trói cho chính bản thân mình của Mị. Mị quyết liệt vùng lên, khao khát sống âm ỉ từ lâu nay cháy lên như ngọn đuốc, thắp sáng toàn bộ hành trình phía trước của cô.
Tô Hoài đã bằng ngòi bút miêu tả tâm lí tài tình để lách sâu vào trong thế giới nội tâm của nhân vật Mĩ, từ đó, phát hiện ra sức sống trỗi dậy tiềm tàng trong tâm hồn Mị.
Số 14: Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị
Sau cách mạng tháng 8, ngòi bút của Tô Hoài đi sâu khám phá sức sống mạnh mẽ của những người dân tộc thiểu số miền núi. Trong chuyến đi lên vùng núi phía Bắc của mình, ông đã cho ra đời tác phẩm Vợ chồng A Phủ, với nhân vật Mị, mang trong mình sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.
Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị cũng như bao người con gái khác, chịu thương chịu khó, có một sức sống mạnh mẽ. Mặc dù gia đình gánh trên vai món nợ truyền kiếp, nhưng cô sẵn sang nói với cha để minh lao động rồi trả nợ dần; cô trẻ trung, yêu đời, có tiếng sao hay khiến biết bao chàng trai say đắm. Nhưng sau đêm bị A Sử bắt về, “Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa” thì cuộc đời của cô đã sang một trang khác, đầy bi thương và thảm kịch.
Những ngày làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị đã phải chịu bao nỗi đắng cay, tủi cực. Suốt ngày Mị chỉ “ngồi quay sợi gai, cạnh tảng đá, trước cửa tàu ngựa, gương mặt cô lúc nào cũng cúi xuống, mặt buồn rười rượi”. Quanh năm cô quanh quẩn làm việc, chẳng có lấy một giây phút nghỉ ngơi. Nơi ở của cô chẳng khác nào nhà tù, chỉ có một lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng.
Phải chăng sức sống, sự yêu đời của cô trước đây đã bị bào mòn cạn kiệt? Nhưng không qua đêm tình mùa xuân và đêm đông tự giải cứu chính mình, ta biết rằng trong sâu thẳm người con gái kia, niềm yêu cuộc sống vẫn tiềm tàng mạnh mẽ.
Trong những ngày mùa xuân, không khí rộn vang, tưng bừng hơn. Những tảng đá mèo được tô điểm bởi những chiếc váy rực rỡ, tựa như những bông hoa rộ nở; tiếng trẻ em vui đùa càng trở nên vui vẻ, đầy phấn khích. Lòng Mị cũng chợt có những tía sáng nhỏ le lói. Mùa xuân ai cũng uống rượu và Mị cũng vậy. Nhưng cách uống rượu của Mị lại rất khác, cô uống ừng ực từng bát lớn, uống để tiêu tan sầu muộn. Dường như trong mờ hồ Mị bắt đầu sống lại niềm yêu cuộc sống. Rồi bất chợt “ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sau vọng lại tha thiết, bòi hồi”. Tiếng sáo này đã thực sự khơi lại sức sống trong Mị. Nó khiến Mị nhớ lại những ngày trước đây, về những ngày tự do, yêu đời cả mình. Tiếng sáo thấm dần vào tâm trí, trái tim Mị, dần thức tỉnh cô.
Tiếng sao thức tỉnh khao khát được đi chơi, được giao tiếp với mọi người. Từ trước đến nay Mị chưa bao giờ được đi chơi, bởi A Sử cấm. Một cách đầy hữu ý tiếng sáo lại xuất hiện “trong đầu Mị rập rời tiếng sáo” đã thúc đẩy từ suy nghĩ trở thành hành động nổi loạn của Mị. Mị vào buồng sẵn mỡ thắp cho sáng, rồi với tay lấy vát chuẩn bị đi chơi. Để Mị có thể rời xa hiện tại đau thương trở về với quá khứ vui vẻ. Nhưng khi hành động chuẩn bị được tiến hành, Mị bị A Sử bắt gặp, hắn dùng chính tóc cô mà trói đứng lại ở tường. Cô khóc, bởi không ai giúp mình, bởi quá khứ tươi đẹp một lần nữa ùa về trong cô, đánh thức con người tưởng như đã chết trong cô
Sau lần phản kháng đầu tiên, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái sống mòn. Trong lúc này, A Phủ một người cũng có thân phận chuộc nợ như Mị, do làm mất bò mà bị trói đứng ngoài sân. Đêm nào Mị cũng ra sân đốt lửa, nhưng tuyệt nhiên không chú ý đến A Phủ: “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Bởi khi này lòng Mị đã nguội lạnh, tâm can đã câm nín, chính số phận mình Mị đã chẳng còn quan tâm nữa, huống chi số phận người khác.
Nhưng trong lần ấy, dưới sự tác động của giọt nước mắt của A Phủ, Mị đã thay đổi suy nghĩ hoàn toàn: “Ngọn lửa vừa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Giọt nước mắt đó khiến cô bất giác nhớ về mùa xuân trước đây, khi cô bị trói đứng, cô khóc nhưng không ai đến giúp cô cả, cũng không thể lau đi được. Giọt nước mắt của A Phủ đã làm trỗi dậy sức sống của Mị. Trong Mị hình thành tình thương và sự hi sinh: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình mà nhà nó rồi, thì chỉ biết đợi ngày mà rũ xuống ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết”. Mị đã quyết định giải cứu A Phủ. Đây không phải là quyết định bông bột nhất thời mà nó xuất phát từ sự đồng cảm, từ lòng yêu thương con người.
Sau khi giải cứu A Phủ, trong một khoảng khắc Mị cũng vụt chạy theo A Phủ để giải cứu cho chính mình. Hành động cởi trói tư tưởng giải cứu chính mình là hành động tuy bất ngờ nhưng vô cùng hợp lí. Nó cho thấy sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ trong Mị.
Với biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật, Tô Hoài đã đem đến cho bạn đọc chân dung của một người con gái không chỉ đẹp người, đẹp nết mà còn có sức sống tiềm tang mạnh mẽ. Mị là đại diện tiêu biểu cho sức sống của con người, là đại diện cho hành trình đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ khổ đau đến hạnh phúc của những người nông dân dân tộc tiểu số.
Số 15: Nhân xét sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị
Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài (xuất bản năm 1953). Đây là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thông qua số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi trước Cách mạng và phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ. Tô Hoài đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Mị với diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp.
Nhân vật Mị mang đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ vùng cao. Đẹp người, đẹp nết, Mị được nhiều trai bản yêu mến, ước ao. Tuổi thanh xuân hứa hẹn với cô bao điều tốt lành, nhưng chì vì món nợ cha mẹ cô vay của tên thống lí Pá Tra từ ngày cưới, cho đến khi mẹ cô đã chết mà vẫn chưa trả được nên Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà hắn. Mị bị coi như một thứ đồ vật vô tri vô giác để tính ra tiền trừ vào số nợ. Những năm tháng Mị sống với cha con tên thống lí gian ác là chuỗi dài đau thương, khổ ải. Cô bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa.
Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhục, cam chịu. Cô gái xinh đẹp, hồn nhiên, đa cảm thủa nào đường như đã chết, chỉ còn lại người đàn bà lúc nào cũng vậy… cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi… ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa… của nhà thống tí. Mị sống âm thầm, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
Không những bị đọa đày về thể xác, Mị còn bị đè nén, áp bức về tinh thần. Cô chán sống nhưng không được chết, vì Mị chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn còn và người bố già càng thêm đau khổ. Cuộc đời Mị bị trói buộc bằng quyền lực, bằng tập tục mê tín dị đoan lâu đời của người dân miền núi. Mị cho rằng mình đã bị Con ma nhà thống lí nhận mặt: nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Cách đối xử bất công, tàn bạo của cha con thống lí làm cho Mị sống triền miên trong đau khổ. Cô lặng lẽ ra vào như cái bóng, không một người bạn chia sẻ tâm tình. Cô chỉ biết làm bạn với ngọn lửa trong những đêm đông dài và buồn. Thân xác Mị héo úa, tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo… Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp cô xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây phủ cuộc đời. Không có người thông cảm với nỗi khổ của mình, Mị phải tìm đến ngọn lửa và coi nó là bạn… Khổ biết chừng nào!
Tác giả giúp người đọc hình dung rõ hơn về cuộc đời bế tắc của Mị qua hình ảnh căn buồng cô ở kín bưng, tối mò, chỉ thông với bên ngoài bằng lỗ cửa sổ bé như bàn tay. Ở trong nhìn ra không biết là đêm hay ngày, sương hay nắng…
Bao năm qua, bị đày đọa trong nhà thống lí, mọi cảm xúc của Mị hầu như tê liệt. Tinh thần phản kháng cũng vậy. Mị nghĩ rằng mình là con trâu con ngựa của nhà giàu, chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Con trâu, con ngựa đêm còn được nghỉ, còn cô không lúc nào ngớt việc. Trước kia, có lần cô phản kháng dữ dội bằng cách định ăn lá ngón tự tử, giờ đây cô không nghĩ đến cái chết nữa vì đã quá quen với cái khổ rổi. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi trong vô vọng. Với Mị, cuộc sống không còn ý nghĩa.
Đau khổ kéo dài khiến cho lòng Mị tưởng chừng nguội lạnh. Dường như mọi cảm xúc, khát khao dã bị dập tắt từ lâu. Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn sống âm thầm, mãnh liệt. Từ trong sâu thẳm tâm hồn người con gái bị dày đọa kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời, ham sống. Mùa xuân về, Mị lén uống rượu và lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng… Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…
Rõ ràng, bản chất đích thực đã trở lại với Mị. Tất cả mọi giác quan, cảm xúc tưởng như đã lụi tàn vì đau khổ nay đang sống dậy. Mị thấy mình còn trẻ lắm, mà còn trẻ thì phải được hưởng hạnh phúc. Vì thế nên bất chợt Mị muốn đi chơi. Nhưng khát vọng chính đáng đã bị hiện thực phũ phàng vùi dập. A Sử đánh Mị, trói Mị, Mị vẫn thả hồn lâng lâng theo tiếng sáo gọi bạn. Tiếng sáo mùa xuân, tiếng sáo gọi tình yêu khơi lên niềm khao khát hạnh phúc trong lòng Mị. Phản ứng tự phát ban đầu của Mị không thể giải phóng được cuộc đời cô nhưng những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro tàn, có ngày nó sẽ bùng cháy dữ dội khi gặp cơn gió mạnh.
Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, bị đánh, mấy đêm đầu, Mị vẫn thản nhiên thức dậy sưởi lửa. Mị thản nhiên vì chuyện đánh người, trói người xảy ra thường xuyên ở nhà thống lí. Nhưng đêm nay, trông thấy dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ, Mị không cầm lòng được. Mị thương A Phủ cũng bị rơi vào vòng đọa đày, khốn khổ như mình. Cô liên tưởng tới bao kẻ tôi tớ khác trong nhà này đã bị cha con tên thống lí bạo tàn đối xử dã man. Có người chết đói, chết rét sau mấy ngày cùm trói. A Phủ kia cũng sẽ như vậy thôi và đến một ngày nào đó, Mị cũng thế.
Hơn bao giờ hết, ý thức về nỗi khổ, về thân phận trỗi dậy trong lòng Mị. Nếu cứ cúi đầu chấp nhận số phận có nghĩa là chấp nhận cái chết bi thảm. Từ hình ảnh đau thương của A Phủ trước mắt, Mị liên tưởng đến tương lai mù tối, bế tắc của mình. Chính điều đó đã làm sống lại trái tim tưởng chừng đã bị đau khổ làm cho chai đá của Mị. Cô thương người, thương thân. Giọt lệ bất lực và thống khổ của A Phủ như giọt nước cuối cùng làm tràn đầy bình nước, cảm thương số phận A Phủ, một chàng trai dũng cảm, khỏe mạnh sắp bị cướp đi mạng sống, Mị càng thương thân và càng căm thù cha con tên thống lí gấp bội. Cái thương cái ghét bùng lên, lấn át nỗi sợ, dẫn Mị đến hành động táo bạo ngoài ý thức: cắt dây trói cứu A Phủ.
Đây là hành động bộc phát song nó là kết quả tất yếu của cả một quá trình bị dồn nén, bức xúc về mặt tinh thần bây giờ đã đến lúc giải thoát và đó cũng chính là biểu hiện tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng ẩn chứa trong con người Mị bấy lâu nay. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt dứt những dây trối vô hình đã cột chặt cô vào quãng đời tủi nhục. Cô vụt chạy theo A Phủ bởi cô ý thức được nỗi khổ và sự sống còn của mình : ở đây thì chết mất Mị chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của tự do, cô tự giải phóng mình khỏi nanh Vuốt cha con tên thống lí tàn bạo. Từ trong cái địa ngục giam cầm đày ải mình suốt mấy năm qua, từ trong sự bủa vây tàn khốc của cái chết, Mị đã vùng dậy tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời.
Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong hoàn cảnh đau thương, nhà văn Tô Hoài muốn khẳng định không bạo lực đen tối nào có thề vùi dập được sức sống và khao khát tự do của con người ; đồng thời nhấn mạnh rằng, chỉ có sự tự vùng dậy của bản thân theo sự dẫn dắt của cách mạng mới giải phóng được con người ra khỏi kiếp ngựa trâu, nô lệ. Đó chính là giá trị nhân đạo to lớn của tác phẩm.

Tổng kết
Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 15 mẫu phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 12.