Tổng hợp các bài mẫu phân tích Sóng liên hệ Vội vàng một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 5 mẫu phân tích Sóng liên hệ Vội vàng chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!
Dàn ý phân tích Sóng liên hệ Vội vàng
I. Mở bài
– Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh in đậm vẻ đẹp nữ tính, vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ nhiều trắc ẩn, hồn nhiên, chân thành, đằm thắm, da diết trong khát vọng đời thường.
Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967, trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.
– Xuân Diệu – một trong ba đỉnh cao của phong trào Thơ Mới 1932 – 1945. Ông được đánh giá là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới” bởi những cách tân cả về tư tưởng và bút pháp nghệ thuật.
“Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám, được coi là tuyên ngôn sống, tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ.
– Cả 2 đoạn thơ trên đều là đoạn kết của hai tác phẩm, thể hiện những khát vọng mãnh liệt.
II. Thân bài
- Đoạn thơ trong bài Vội vàng của Xuân Diệu:
– Đoạn thơ thể hiện “cái tôi” ham sống, muốn tận hưởng cuộc đời mãnh liệt. Như một tuyên ngôn của lòng mình, nhà thơ tự xác định một thái độ sống gấp, tận hưởng vì cảm nhận cái hữu hạn của cuộc đời (Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm); ý thức chiếm lĩnh, tận hưởng cuộc sống ở mức độ cao nhất (chếnh choáng, đã đầy, no nê ) những gì tươi đẹp nhất (mùi thơm, ánh sáng, thời tươi ).
– Các yếu tố nghệ thuật như điệp từ, điệp cấu trúc câu, động từ mạnh.. góp phần thể hiện cái hối hả, gấp gáp, cuống quýt của tâm trạng, khiến nhịp điệu đoạn thơ sôi nổi, cuồng nhiệt.
- Đoạn thơ trong bài Sóng của Xuân Quỳnh:
– Đoạn thơ thể hiện khát vọng lớn lao, cao cả trong tình yêu: ước mong được tan hòa cái tôi nhỏ bé-con sóng cá thể, thành cái ta chung rộng lớn- “trăm con sóng” giữa biển cả mênh mông. Những câu thơ có tính chất tự nhủ mình gợi cách sống, tình yêu mãnh liệt, hết mình: mong muốn được tan hòa vào tình yêu lớn lao của cuộc đời. Đó là cách để tình yêu trở thành bất tử.
– Thể thơ năm chữ với hình tượng “sóng”vừa ẩn dụ vừa giàu tính thẩm mĩ khiến đoạn thơ sâu sắc, giàu nữ tính.
- So sánh:
– Điểm tương đồng: Hai đoạn thơ đều bộc lộ cảm xúc mãnh liệt, những suy ngẫm trước cuộc đời. Đây là hai đoạn thơ có sự kết hợp giữa cảm xúc-triết lí.
– Điểm khác biệt: không chỉ nằm ở phong cách thơ (Xuân Diệu sôi nổi, mãnh liệt đầy nam tính, xuân Quỳnh thủ thỉ, tâm tình đầy nữ tính) mà còn trong cách “ứng xử” của mỗi nhà thơ: trước sự “chảy trôi” của thời gian, Xuân Diệu chọn cách sống gấp gáp, tận hưởng, Xuân Quỳnh lại thể hiện khát vọng muốn được tan hòa cái riêng vào cái chung để tình yêu trở thành bất tử …
III. Kết bài
Kết luận lại giá trị nội dung và nghệ thuật của hai đoạn thơ trên. Kết luận lại giá trị nội dung và nghệ thuật của hai đoạn thơ trên.
Top 5 mẫu phân tích Sóng liên hệ Vội vàng
Số 1: Phân tích Sóng liên hệ Vội vàng
Qua tiếng hát anh nhận ra người hát.
Qua nét khắc anh nhận ra người thợ bạc”
(“Dagestan của tôi”)
Như những dấu vân tay duy nhất, mỗi người nghệ sĩ đều có cho mình một “vân chữ” độc nhất, không giống bất cứ ai. Vì thế, dẫu cùng dưới một bầu trời, hít một bầu không khí, dẫu chung một đề tài thì cuộc sống dưới con mắt của những người nghệ sĩ cũng không bao giờ là trùng lặp. Có thể thấy điều đó trong cái nhìn về tình yêu qua con mắt của Xuân Quỳnh:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
(“Sóng”)
Vơi Xuân Diệu lại là:
“Tôi muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Thơ ca, với Xuân Quỳnh, gắn liền với sự sống, tình yêu; làm thơ là nữ sĩ được sống với chính mình, sống đủ đầy trọn vẹn là mình. Mỗi bài thơ đều là tiếng nói chân thành nhất của một tâm hồn phụ nữ giàu trắc ẩn, vừa âu lo vừa da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường.
Bài thơ “Sóng” là kết quả của chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền – Thái Bình cuối năm 1967, được đưa vào tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968). “Sóng” với “em”, hai mà như một, một trong hai, song hành cùng nhau để thể hiện sâu sắc nhất cảm xúc của chủ thể trữ tình.
Trong tình yêu, người con gái cũng có lúc âu lo: “Cuộc đời tuy dài thế/ Mây vẫn bay về xa” nhưng cuối cùng vẫn chọn cách tin tưởng:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
“Tan ra”- đó là khát vọng được hóa thân vào sóng để được tồn tại trong không gian rộng lớn của biển cả và cái vĩnh hằng của thời gian. Đó là khát vọng vĩnh viễn hóa tình yêu, dùng tình yêu để nối dài cuộc đời ngắn ngủi của con người.
Khát vọng ấy lại làm ta nhớ tới câu chuyện nàng tiên cá hóa thân làm bọt biển để người mình yêu được hạnh phúc trọn vẹn. Câu hỏi “Làm sao…” như một sự khắc khoải khôn nguôi trong lòng người phụ nữ. Đến hai câu thơ sau, từ con sông buổi nào, người phụ nữ đã tìm được biển lớn của đời mình.
Nhưng phải làm sao để giữa biển lớn tình yêu ấy, em vẫn có thể thấy được con sóng tính yêu của chúng ta? Ước vọng được hóa thân, được níu giữ vĩnh viễn tình yêu tươi đẹp càng trở nên thiết tha. Phải chăng đó là bản tính hi sinh và dâng hiến của người phụ nữ?
Mở đầu bài thơ là sự mạnh mẽ, chủ động tìm đến hạnh phúc, kết thúc lại bằng sự hi sinh, yêu thương vô bờ. Mở đầu bài thơ là khát vọng được làm rõ mình, kết thúc lại bằng khát vọng được hòa mình của người phụ nữ. Mở đầu bài thơ là ước vọng về hạnh phúc đến cuối bài thơ chính là hành động để tạo dựng và gìn giữ hạnh phúc ấy.
Sự song hành hình tượng sóng và em đã khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng, tinh tế vừa chủ động, mãnh liệt, vừa truyền thống vừa hiện đại của một tình yêu chân thành. Đó là một quá trình biến đổi hết sức tự nhiên và cũng đầy can đảm, cao đẹp trong phẩm chất, vẻ đẹp của người phụ nữ.
Từ đó, cũng tạo nên sự khác biệt trong giọng điệu: từ những câu thơ ngắt nhịp nhanh, giọng thơ tự tin, dứt khoát đến những câu thơ nhẹ nhàng, du dương như tiếng đại dương rì rào sóng vỗ, không nghe rõ thanh âm những vang vọng đến mãi về sau.
Với Xuân Quỳnh, thơ là sống, sống là thơ. Nếu nói thơ là chuyện “rút ruột rút gan mình” mà viết, Xuân Quỳnh chính là người như thế. Cứ hết mình sống, hồn nhiên viết, trút trọn vẹn cái tôi của mình vào mỗi thi phẩm, thi tứ, mỗi thi ảnh, thi điều đó là cách thơ Xuân Quỳnh. Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ.
Với Xuân Diệu, lại là:
“Tôi muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Đoạn thơ tám chữ bỗng gây chú ý, độc đáo với câu thơ ba chữ: “Tôi muốn ôm” khiến cho giọng thơ trở nên đanh lại, mạnh mẽ, biểu đạt mong muốn, yêu cầu được thực hiện hành động. Từ cái “tôi” cô đơn mà cũng kiêu hãnh ở dòng trên đã chuyển thành cái “ta”.
Trong cái “ta” vẫn là cái “tôi” kiêu hùng của nhà thơ nhưng còn là biết bao cái “tôi” của mỗi độc giả. Đúng thế. Đừng trước “sự sống mới bắt đầu mơn mởn” nhưng lại nhận thức được “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua”, “Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già” sao khỏi những nuối tiếc, xót xa.
Tuổi trẻ phải là yêu, là sống hết mình để níu giữ thời gian, để tận hưởng sự sống tràn đầy này. Cấu trúc “Ta muốn” cùng với một loạt những động từ mạnh: “ôm, say, thâu, cắn” đã thể hiện được ước muốn, sự tận hưởng trọn vẹn ấy. Giọng thơ nhanh để theo kịp với những ước muốn kia với một loạt các biện pháp liệt kê.
Tưởng như ta càng tận hưởng, càng tiếp nhận ta lại càng cảm thấy được cuộc sống càng tươi đẹp và ý nghĩa hơn. Đến cuối cùng là câu cảm thán: “- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” Lần đầu tiên, xuân hồng lại được hữu hình hóa để có thể “cắn” được. Động từ “cắn” đã thể hiện cao nhất ước muốn được giao hòa với thiên nhiên của Xuân Diệu. Với Xuân Diệu, tất cả không được mơ hồ, phải là cảm giác chân thực.
Bởi thế, Thế Lữ mới viết về ông là “Con người của trần thế. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Trong câu thơ, ông Tây tân kì Xuân Diệu cũng đã vận dụng phép tương giao giữa các giác quan- thủ pháp tiêu biểu của các nhà thơ Tượng trưng Pháp.
Với Xuân Diệu, cuộc sống thực tại mới là tươi đẹp và đáng sống nhất. Ông đón nhận cuộc sống bằng tất cả tình yêu, sự nồng nhiệt nhất. Nhưng nhận ra quy luật nghiệt ngã của thời gian, ông sống tận hưởng hết mình, yêu hết mình. Đó mới chính là Xuân Diệu, luôn thiết tha, rạo rực, băn khoăn.
Đối với tình yêu, cả Xuân Quỳnh và Xuân Diệu luôn chân thành và nồng thắm nhất, có khát vọng được vĩnh viễn hóa tình yêu. Nhưng hướng tới tình yêu đôi lứa, Xuân Quỳnh lựa chọn dâng hiến hết mình, hòa mình để có thể vĩnh hằng tình yêu đẹp ấy.
Đó chính là đức tính hy sinh, là thiên tính nữ trong thơ nữ sĩ, là vẻ đẹp muôn đời của những áng thơ nữ Việt Nam. Còn với tình yêu cuộc sống, Xuân Diệu chọn cách tận hưởng hết mình để vĩnh viễn hóa tuổi trẻ tươi đẹp một đi không trở lại. Đó chính là cách ứng xử của phương Tây dành cho cuộc sống, cho tình yêu. Mỗi cách ứng xử khác nhau với tình yêu, chúng ta lại thêm được những cảm nhận và tình cảm khác nhau.
Đến với mỗi trang viết là một thế giới mở ra, không lặp lại, không giản đơn. Điều đó làm cho văn học dẫu ra đời từ thời của Homere, Kinh thi nhưng sẽ tồn tại với ta đến ngày tận thế, dù là vật không thể mua cũng chẳng thể bán nhưng lại là thứ không thể thiếu trong đời sống con người để ta sống tốt, sống đẹp hơn.

Số 2: So sánh bài thơ Sóng và Vội vàng
Đến với Thơ mới là đến với thế giới cảm xúc muôn chung nghìn bậc, thế giới nghệ thuật muôn hình vạn trạng. Một Thế Lữ “rộng mở”, một Lưu Trọng Lư “mơ màng”, một Nguyễn Bính “quê mùa”, một Hàn Mặc Tử “kì dị”… Họ đều là những cái tên không thể bỏ quên khi nhắc về Thơ mới. Nhưng sẽ mãi mãi là thiếu sót, là chưa đủ nếu không có sự góp mặt của Xuân Diệu.
Xuân Diệu – nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Xuân Diệu – một trong ba đỉnh cao của thơ mới. Những tên gọi đầy trân trọng ấy đã xác lập một chỗ đứng riêng cho Xuân Diệu trong làng thơ, để đến tận hôm nay người đời vẫn không thôi nhắc đến và ngưỡng mộ.
“Hồn thơ Xuân Diệu là nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. Những lời bình phẩm sâu sắc ấy của Hoài Thanh dành cho Xuân Diệu có lẽ đã đủ nói về một hồn thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” – một hồn thơ lúc nào cũng “thiết tha, rạo rực, băn khoăn”.
“Vội vàng” là một thi phẩm gói trọn hết thảy những cung bậc cảm xúc ấy, cũng có thể gọi đó như một bài thơ “rất Xuân Diệu”. “Vội vàng” bắt đầu bằng bốn câu thơ ngũ ngôn tưởng như lệch nhịp so với toàn bài, nói lên một ước muốn lạ thường:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Ngay những câu mở đầu, Xuân Diệu đã bộc bạch thổ lộ lòng mình trực tiếp bằng hai chữ “tôi muốn” đầy chủ động. Ước muốn ấy không phải dời non lấp bể, đắp lũy xây thành, đi “phù địa trục” như những bậc trí chủ thời xưa, mà là một ước muốn tưởng như dị thường: tắt nắng, buộc gió.
Thi sĩ muốn tắt nắng để màu không nhạt, muốn buộc gió để hương đừng bay – những ước muốn đoạt quyền tạo hóa. Vậy là hóa ra chẳng có ước muốn dị kì nào ở đây, điều thi sĩ muốn là níu giữ màu và hương bên đời để những gì tươi đẹp nhất không bị nhạt phai – một mong muốn chính đáng.
Nhịp thơ nhanh, cách điệp câu thơ nhịp nhàng, những câu thơ tựa như khúc dạo đầu đầy hứng khởi của một tâm hồn nồng nàn nhựa sống. Những câu thơ sau lí giải sâu hơn về lí do mà tâm hồn thi sĩ nảy sinh những ước muốn ấy.
Bằng con mắt “xanh non biếc rờn” cùng lòng yêu cuộc sống, bằng “toàn tâm, toàn trí, toàn hồn”, Xuân Diệu đã phát hiện ra cả một thiên đường trên mặt đất với bao màu sắc, âm thanh và ánh sáng:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Bức tranh cuộc sống hiện ra tựa như một bữa tiệc trần gian với chân thức sẵn bày, mời gọi hấp dẫn. Hai chữ “Này đây” được nhắc đến nhiều lần không gợi sự thừa thãi trong câu chữ, mà tô đậm không gian và thời gian thơ, đó là ngay lúc này và ở tại đây.
Nơi đây – nơi cuộc sống trần thế với bao điều hấp dẫn, chính là cái phần ngon nhất mà nhà thơ muốn ôm trọn vào lòng. Nơi có bướm ong dập dìu, yến anh tình tự. Nơi có màu xanh đồng nội, màu lá phất phơ. Nơi có âm thanh của khúc tình si, có ánh sáng của bình minh tựa như hàng mi chớp dịu. Tất cả đều gợi ra một bức tranh thiên nhiên ngồn ngộn sự sống, dạt dào sắc xuân.
Qua lăng kính luyến ái của thi sĩ, mọi thứ đều hiện lên có đôi có lứa, tươi ròng sự sống. Chính Xuân Diệu chứ không phải ai khác, đã “đốt cảnh bồng lai xua ai nấy về hạ giới”, người “xây lầu thơ trên một tấm lòng trần gian”, luôn gắn bó sâu sắc với cuộc đời trần thế.
Không “thoát lên tiên” mơ theo cảnh bồng lai như Thế Lữ, không tìm về chốn thôn quê để ủ mình trong yên bình như Nguyễn Bính, không lẩn trốn vào quá khứ nơi có những “bóng ma sợ soạng” như Chế Lan Viên, trong mắt Xuân Diệu, thế giới đẹp nhất là cuộc sống trần thế, tại đây và ngay lúc này. Chẳng thế mà từng có lần nhà thơ tự bộc bạch:
Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất
Nhưng có lẽ cái đặc sắc và để lại ấn tượng sâu nhất trong mỗi người là câu thơ: “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần” – một câu thơ “hoàn toàn Xuân Diệu”. Thi sĩ đã hữu hình hóa cái vô hình, đã vật chất hóa một khái niệm thời gian bằng vị cảm. Và còn đặc biệt hơn, cái điều thi sĩ cảm được từ tháng giêng lại là một cặp môi gần của phụ nữ – nó vừa quyến rũ, vừa tươi hồng, vừa mời gọi.
Ta chợt ngộ ra, cái đẹp của con người trong mắt nhà văn mới là cái đẹp chuẩn mực. Chính con người mới là trung tâm cho mọi sự so sánh. Rõ ràng ở đây có cả một sự thay đổi lớn về quan niệm thẩm mỹ. Người xưa ví vẻ đẹp người con gái với hoa, núi, nước, mây, ví khí phách người anh hùng như mai, trúc, phượng, điểu.
Còn Xuân Diệu trong cái nhìn của một con người hiện đại lại chỉ luôn mong muốn tôn vinh con người.Chính niềm say mê tha thiết với hương sắc trần thế mà trong thi sĩ đã nảy sinh một xúc cảm khác: Lo sợ thời gian trôi sẽ làm nhạt phai thanh sắc của đời. Bởi thế mà ngay sau những câu thơ tươi vui kia, mạch thơ chuyển ngay sang những điệu thơ trầm lặng, trĩu nặng suy tư:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Xuân Diệu bằng nhãn quan tinh nhạy của mình, đã nhìn thấy cái đương qua ngay trong cái đương tới, cái sẽ già ngay trong cái còn non. Không phải ngẫu nhiên mà thi sĩ có những cảm xúc ấy. Đỗ Lai Thúy đã gọi Xuân Diệu là “Nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian”. Hơn một lần thi sĩ từng giục giã:
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi. Tình non sắp già rồi
Nhưng nghĩ một cách sâu hơn, thì có thể thấy tình yêu cuộc sống và nỗi ám ảnh thời gian của nhà thơ là hoàn toàn biện chứng. Càng yêu cuộc sống bao nhiêu, con người càng tiếc thời gian và tuổi trẻ bấy nhiêu, huống chi là Xuân Diệu – một người có khát khao giao cảm mãnh liệt với cuộc đời.
Với Xuân Diệu cái đẹp nhất trong cuộc đời mỗi người là mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Trôi qua những cái đó, cuộc đời chỉ còn là vô nghĩa. Nỗi ám ảnh và sự hối thúc về thời gian của nhà thơ còn cho ta một nhận thức về nhân sinh: Cuộc đời vô thủy vô chung, dòng đời trôi không đứng đợi, tuổi trẻ chẳng thắm lại lần hai và mùa xuân chẳng bao giờ quay lại. Triết lí ấy lại là một bước tiến vượt bậc trong tư tưởng của nhà thơ.
Người xưa quan niệm thời gian tuần hoàn, lấy sinh mệnh vũ trụ để tính vòng đời, họ tin đời người là kiếp luân hồi, đi rồi sẽ trở lại. Còn Xuân Diệu nhìn thời gian trong sự tuyến tính để có những nhận thức đúng đắn về đời người. Vậy là xét cho cùng, tiếc nuối thời gian âu cũng là một biểu hiện khác của lòng yêu cuộc sống. Và đúng như Hoài Thanh nói: “khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”.
Trước dòng đời ngược xuôi trôi dạt, đôi mắt tinh nhạy của người nghệ sĩ nhìn đâu cũng thấy chia li xa cách:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng buồn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa…
Tháng năm được cảm nhận qua mùi, qua vị. Mùi và vị của nó chính là chia phôi. Câu thơ được chuyển đổi cảm giác, sự tương giao giữa các giác quan khiến cho ta tưởng như người thi sĩ nhìn đâu cũng thấy chia lìa, đi đâu cũng thấy chia phôi. Cả đoạn thơ man mác bâng khuâng, ngậm một nỗi tiếc nuối bùi ngùi.
Tất cả hiện vật, sự vật trên thế gian đều không được vẹn tròn ngày vui. Núi sông thì buông lời than tiễn biệt, gió chim thì đều mang nỗi nợ phải bay đi, phải lìa tổ. Quả thật mọi cuộc vui đều có lúc tàn. Cảm nhận rất rõ được điều ấy, thi sĩ thốt lên trong sự tiếc nuối: “Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa…”, để rồi ngay sau đó là lời giục giã: “Mau đi thôi. Mùa chưa ngả chiều hôm”.
Sau những tiếc nuối ngậm ngùi, nhà thơ bộc lộ một khao khát mãnh liệt – khao khát được giao cảm tận độ với đời, hưởng trọn thanh sắc của thời tươi, khao khát tận hưởng và tận hiến:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Ba chữ “Ta muốn ôm” đứng biệt lập ở giữa đoạn thơ, gợi tư thế chủ động, tâm thế sẵn sàng của một chủ thể đang đứng giữa đất trời, dang rộng vòng tay đón trọn hương đời. Từ xưng “tôi” ở đầu bài thơ, nhà thơ chuyển sang xưng “ta” như nói lên một khát vọng chung cho mọi người – khát vọng hòa nhập.
Từ đó, một loạt cụm từ “ta muốn” xuất hiện trong mỗi dòng thơ – một cách bộc bạch lòng mình trực tiếp của một thi sĩ thơ mới có xúc cảm luôn nồng nàn. Những gì thi sĩ muốn là được giao cảm với thiên nhiên, với sự sống: từ mây, gió, cánh bướm đến tình yêu, cỏ cây, non nước. Mức độ giao cảm cũng dần mãnh liệt hơn: từ ôm, riết, đến say, thâu, và sau cùng là cắn.
Dường như thi sĩ muốn ôm cho hết, say cho tận, thâu cho cùng mọi điều đẹp nhất của cuộc đời, để được hưởng cảm giác “chếnh choáng, đã đầy, no nê”. Câu thơ cuối cùng như một sáng tạo đặc biệt, gợi cảm giác mạnh như một nốt vĩ thanh vút lên ở cuối bài trong một thi phẩm tràn trề cảm xúc cảm giác: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. “Xuân hồng” vừa gợi màu, vừa gợi vị, vừa đập vào thị giác, vừa tác động đến cảm giác.
Một lần nữa thi sĩ hữu hình hóa cái vô hình, coi xuân hồng như phần tươi ngon nhất của cuộc đời, muốn cắn và nuốt trọn nó. Một cái kết mạnh đã cho Xuân Diệu tổng kết triết lý nhân sinh của mình: Vì lẽ cuộc đời trôi đi không đứng đợi mà con người cần sống tận hưởng và tận hiến trong từng giây phút cuộc đời, nhất là khi còn đang ở tuổi trẻ. Đó là triết lý bất diệt với thời gian, mang giá trị nhân sinh cao cả.
Và một lẽ tất nhiên, để làm nên một chỉnh thể nghệ thuật không thể bỏ ngoài các yếu tố về hình thức nghệ thuật. Xuân Diệu “mới” không chỉ ở tư tưởng mà “mới” cả ở cách thể hiện. Thể thơ tự do với sự chuyển mạch, co duỗi linh hoạt theo cung bậc cảm xúc, các phép tương giao ảnh hưởng của thơ tượng trưng cũng sử dụng triệt để. Những câu thơ vắt dòng, từ ngữ táo bạo và hình ảnh tân kì cũng góp phần làm nên một thi phẩm “rất Xuân Diệu”.
Xuân Diệu lại một lần nữa góp vào thi đàn Việt Nam một tuyệt phẩm. Bên cạnh những vần thơ rất hay về tình yêu, còn có những vần thơ nhân sinh sâu sắc. Vội vàng xứng đáng được coi là một tuyệt tác cho mọi thời.
Số 3: So sánh Vội vàng và Sóng
Xuân Diệu và Xuân Quỳnh được làm là hai trong số các nhà thơ nổi bật của thơ ca hiện đại. Nếu Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình thì Xuân Quỳnh được mệnh danh là bà chúa thơ tình yêu. Ở hai hồn thơ này ta bắt gặp hơi thở tình yêu dạt dào và lòng ham sống mạnh mẽ.
Xuân Diệu từ lâu đã được xem là một trong ba đỉnh cao của phong trào Thơ mới giai đoạn năm 1932 – 1945. Ông được đánh già là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới” vì cách sử dụng ngôn từ cũng như cảm hứng thi ca. Khác với những nhà thơ trong cùng giai đoạn thơ của Xuân Diệu không tuân theo cảm hứng dân tộc mà theo cảm hứng lạng mạn. Ông tập trung thể hiện cái tôi cá nhân và lòng ham sống.
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn.
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi.”
Cá tôi mãnh liệt của tác giả được thể hiện rõ ràng qua cụm từ “ta muốn”. Ta là đại từ thể hiện cái tôi cá nhân khẳng định chủ thể khác biệt hoàn toàn với chúng tôi, chúng ta đang thịnh hành. Đoạn thơ được xem là một tuyên ngôn sống của tác giả tự xác định thái độ sống gấp muốn tận hưởng và cảm nhận cái hữu hạn của cuộc đời.
Xuận Diệu muốn ôm từ “sự sống mới bắt đầu mơn mởn” là những thứ nhỏ bé nhất như hạt mầm. Và “riết” những thứ siêu nhiên là “mấy đưa và gió lượn”. Tiếp theo là say trong những “cánh bướm với tình yêu” và “một cái hôn nhiều”. Và tất cả “non nước, cây, cỏ rạng” những thứ trên mặt đất đang tồn tại. Để cho cơ thể chếnh choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng và cho no nê thanh sắc của thời tươi.
Với hàng loạt các động từ mạnh như “ôm”, “riết”. “thâu”, “say”. “chếnh choáng”, “no nê” đủ thấy lòng ham muốn chiếm lĩnh sự sống của tác giả lớn như thế nào. Qua đoạn thơ này cho thấy Xuân Diệu không chỉ muốn sống một cách thông thường mà muốn sống nhanh sống gấp sống làm sao tận hưởng được hết những mật ngọt của sự sống.
Một nhà thơ nữa tiêu biểu cho cảm hứng lãng mạn và lòng ham sống của con người đó là Xuân Quỳnh. Nhà thơ nữ hiếm hoi là gương mặt tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ của Xuân Quỳnh mang đậm vẻ đẹp nữ tính, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu nhạy cảm. Đoạn thơ trích trong tác phẩm “Sóng” dưới đây thể hiện rõ nhất phong cách thơ của bà:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.”
Đối với Xuân Quỳnh thì tình yêu được xem là lẽ sống. Nhưng tình cảm không chỉ hữu hạn trong cái tôi nhỏ bé mà còn được hòa mình vào biển lớn tình yêu của nhân loại. Bà ước mong:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ”
Từ “trăm con sóng nhỏ” này hòa mình vào với “biển lớn tình yêu” đấy là cách biến tình yêu trở thành bất tử. Và tình yêu thương từ đó sẽ lan tỏa đến mọi nơi trên thế giới mang đến cho con người một thế giới bình yên và hòa bình cho nhân loại.
Thông qua việc phân tích hai đoạn thơ trên của hai tác giả Xuân Diệu và Xuân Quỳnh ta thấy cả hai đều bộc lộ cảm xúc mãnh liệt và những suy ngẫm trước cuộc đời rộng lớn. Họ đều thể hiện lòng ham sống mạnh mẽ muốn được hòa mình vào cuộc sống chung của nhân loại.
Nhưng điểm khác biệt là nếu như thì nằm ở cách thể hiện cái tôi cá nhân. Nếu ở Xuân Diệu ta thấy sự mạnh mẽ nam tính thì ở Xuân Quỳnh ta lại thấy sự nhẹ nhàng, nữ tính. Những câu thơ của Xuân Diệu đọc lên cảm nhận được cái tôi mãnh liệt muốn khẳng định ước mướn lòng ham sống của bản thân. Thì những câu thơ của Xuân Quỳnh lại rất nhẹ nhàng đầy thủ thỉ, tâm tình.
Xuân Diệu chọn cách sống gấp gáp để hưởng thụ được hết những hoa thơm trái ngọt trên cuộc đời. Còn Xuân Quỳnh thì lại có ước muốn được hòa mình vào đời sống chung của nhân loại. Từ cái tôi nhỏ bé tiến đến cái ta ngoài biển lớn tình yêu.
Thông qua hai đoạn thơ trên đây chúng ta cảm nhận được lòng ham sống và cái tôi vô cùng lãng mạn của Xuân Diệu và Xuân Quỳnh. Mặc dù, họ sinh ra ở hai thời điểm, hai thế hệ khác nhau nhưng họ đều có chung một cái tôi lãng mạn và lòng tin yêu mãnh liệt đối với cuộc đời.

Số 4: Phân tích Sóng liên hệ Vội vàng
Tình yêu và khát vọng luôn là những “nguyên tố” cần thiết trong cuộc đời mỗi con người. Bởi chỉ khi khao khát yêu và được yêu, khát khao khát sống và trân quý cuộc sống thì đó mới chính làm nên giá trị của cuộc sống. Và có lẽ vì vậy, hơn ai hết, mỗi nhà thơ, những con người thiết tha với cuộc đời và nhạy cảm trước thời cuộc lại càng hiểu rõ hơn điều đó.
Bởi vậy, mà có những vần thơ được viết ra như thay lời muốn nói cho bao kiếp người, bao tình cảm thiết tha và mãnh liệt của con người muốn được thể hiện. “Sóng” và “Vội vàng” là những bài thơ như thế, những bài thơ của khát vọng tình yêu, khát vọng sống và cống hiến.
Cả Xuân Quỳnh và Xuân Diệu đều ý thức rất lớn về sự chảy trôi của thời gian, dù muốn nhưng vẫn không thể ngưng lại sự chảy trôi ấy.
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi quá”
Cuộc đời có dài thật, nhưng thời gian nào có chậm, vẫn lặng lẽ vụt qua rút ngắn cái hữu hạn của đời người. Đó là nỗi lo âu trước thời gian, nỗi ngậm ngùi trước năm tháng cuộc đời, vừa lo sợ, lại vừa luyến tiếc.
“Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Biển kia có rộng và bao la vô tận cũng không thể ngăn cản được mây bay, cả hai vẫn chẳng thể nào gặp gỡ. Và Xuân Diệu cũng thế, cũng lo sợ trước thời gian, cũng vội vàng, cuống quýt:
“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,”
Ông lo sợ trước tuổi trẻ rồi sẽ dần qua đi, sau tất thảy còn lại sự luyến tiếc, ngậm ngùi mà thôi. Thời gian vốn vẫn vậy, cứ chảy dài, mùa xuân vẫn vậy, cứ tuần hoàn, tới rồi đi, để rồi người chợt nhận ra thanh xuân không còn mãi, tuổi tác ngày một lớn thêm và khi xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Càng nhận ra thời gian không chờ đợi ai, càng nhận ra sự ngắn ngủi của cuộc đời của tuổi trẻ. Tác giả lại càng ý thức được việc sống của mình hơn, lại càng khát khao yêu và khát khao sống để không phải hối tiếc cuộc đời, hối tiếc về những năm tháng đã qua. Xuân Quỳnh mang mối tình đằm thắm, chân thành, một mối tình mãnh liệt của một người con gái vốn e dè, ngại ngùng, nhưng vẫn thể hiện được sự dũng cảm trong tình yêu:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Của biển lớn tình yêu
Để ngàn năm vẫn vỗ”
Một con sóng thôi làm sao có thể làm nên đại dương bao la, mà con sóng ấy phải hoà cùng nhịp điệu của biển sóng, của muôn ngàn con sóng mãnh liệt, vỗ bờ đến biển lớn. Sóng được hoà mình du ngoạn giữa đại dương để mãi mãi trường tồn, bất tử, ngàn năm sóng vẫn vỗ, vẫn đến bên bờ.
Cũng như tình yêu của em dành cho anh, không thể giữ cho riêng mình được, phải là tình yêu lớn như biển cả kia, mênh mông như đại dương kia, phải là tình yêu của hai ta, của nhân loại, của người người trên thế gian.
Đó không chỉ là biển của thiên nhiên mà còn là biển của tình yêu, là đại dương của tình yêu và tình yêu ấy mãi mãi trường tồn, bất tử, không hữu hạn như đời người, kiếp người. Một khát khao yêu thật cao đẹp và đầy phi thường. Tình yêu dường như là một khát vọng vĩnh hằng, rất đỗi mãnh liệt, thổn thức trong trái tim mỗi con người, trong trái tim tuổi trẻ.
Và Xuân Diệu cũng như thế, ông càng lo sợ thời gian, càng nhận ra đời người ngắn ngủi, hữu hạn lại càng cuống quýt, hối hả, thúc giục con người sống vội hơn để chạy đua với thời gian, để tận hưởng những tinh túy, tươi đẹp của đất trời. Để tận hưởng hương sắc tuyệt mỹ của cuộc đời. Đó là khát khao được thực hiện những điều kì lạ, những ước muốn lạ lùng để giữ trọn vẹn nhất vẻ đẹp của tạo hóa để nắng không thể tàn và hương hoa chẳng vội mất đi:
Số 5: So sánh bài thơ Sóng và Vội vàng
Ngàn vạn năm rồi kể từ khi tiếng đàn Orpheus vang lên thay cho niềm nhớ nhung vô hạn gửi đến người vợ Euridice của mình. Nỗi nhớ thương ngày ấy lay động cả đỉnh Olympus và ngục sâu thẳm của thế giới Vong Hồn. Sóng đã đi giữa những xúc cảm mãnh liệt tình yêu ấy để thoáng chốc gọi mở cho bản thân mình những xúc cảm giản dị của người phụ nữ thời đại : nỗi lo âu và khát vọng bất tử hóa tình yêu. Để từ đó chính “Sóng” với những triết lý của riêng mình lại gặp “Vội Vàng” của Xuân Diệu khi xưa về triết lý thời gian .
Khánh Ly trong quyển sách duy nhất của mình – Đằng sau những nụ cười- đã tâm sự rất mực chân thành về những người phụ nữ làm nghệ thuật : là ca sĩ hay là thi sĩ. Bà nói rằng bất cứ người phụ nữ nào, dù có kiêu sa với ánh đèn ,tiếng hát hay vinh quang tột bậc với những con chữ , thì sau tất cả , ai cũng giữ cho mình một đóa hoa hồng nhỏ bé trong trái tim.
Đó là những ước vọng đời thường, những khát khao bình dị, những niềm yêu chân . Xuân Quỳnh cũng là người phụ nữ như thế. Chị ngay từ những buổi đầu của thơ ca đã chạm vào thơ ca bằng đôi bàn tay kì diệu của một trái tim hồn hậu yêu thương . Ơ đôi bàn tay ấy có một đóa hoa ngâu vàng đang nở rộ trong tiếng đàn của anh .
Đông đầy nơi ấy là tiếng “À ơi …cái ngủ đang về cùng con.” Nhưng đi giữa tình yêu người ta vẫn thấy thấp thoáng đâu đó một nỗi nhớ, lo sợ và phấp phỏng. “Lời yêu mỏng manh như màu khói? Ai biết tình ai có đổi thay ?” (Hoa cỏ may). Để các dòng thơ của chị lại tạo thành dòng mạch ngầm êm đềm len lỏi trong tâm hồn . Chúng âm ỉ nỗi đau của một người phụ nữ đã từng trải qua mất mát đau thương của cuộc đời.
Nhưng vẫn thường trực đâu đó trong mạch ngầm ấy là một niềm tin mãnh liệt vào tình yêu .Mang trong mình khát vọng tình yêu của Xuân Quỳnh nên “Sóng” đã được chị ưu ái đặt và nở rộ giữa rừng hoa chiến tuyến trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào “ (1967). Tập thơ này chị viết nhiều về đất nước .
Có lẽ vì suốt tập thơ ấy , Xuân Quỳnh chỉ dành duy nhất góc nhỏ này cho tình yêu nên “Sóng “ đã tu hội trong nó tất cả những gì là đặc trưng nhất của thơ chị : vừa hiện đại vừa truyền thống , lúc cuộn xoáy khát khao, lúc dâng trào mãnh liệt , lúc trầm ấm thiết tha, lúc thâm trầm nghĩ ngợi. Sóng ấy trong hai khổ thơ cuối, sau một đoạn đường dài trải nghiệm về tình yêu lại trầm tư trong những nỗi lo âu thường trực , trong những triết lý tình yêu vĩnh hằng.
Trong thơ có một ngưỡng cửa mà bất kì ai cũng phải vượt qua nếu muốn trở thành thi nhân chân chính : sự thành thật. Nhiều người mới bước vào thi đàn thơ ca lại cứ quen lối chau chuốt ngôn từ hay cường điệu tình cảm . Chau chuốt quá hóa sáo mòn , cường điệu lắm thành ra giả tạo. Xuân Quỳnh không thế. Chị xem mình là người phụ nữ bình thường và chị cho phép mình giải bày nỗi niềm lo âu trước sự mong manh của tình yêu vào hình tượng Sóng độc đáo mà không khoa trương :
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa.”
Đứng trước biển , đứng trước sự vô hồn, vô tận của biển cả, sự vô thủy, vô chung của thời gian, con người lại rợn ngợp và đầy nỗi lo. Xuân Quỳnh trước biển lớn lại như Sóng chơi vơi đầy nỗi niềm. Có lẽ thế nên giọng thơ của chị quãng này chùng xuống , lắng đọng đầy chiêm nghiệm. “Cuộc đời” vì vậy cất lên ngay đầu câu như một tiếng thở dài .
Bởi bản thân nó đang gánh trên vai tình yêu , sự sống và niềm tin. Nhưng thời gian vẫn thế , vẫn nhẹ nhàng lả lướt đi trên từng bước nhịp cuộc đời để lại những vấn vương riêng tư thời đại . Người xưa đứng trước sự chảy trôi ấy vẫn giữ cho mình một trái tim an nhiên tự tại để sống trọn một đời để rồi chết đi lại về với đất trời :
“Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao.”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Ta sẽ bỗng có cảm tưởng như thể thời gian vẫn cứ tuần hoàn theo tháng năm như cái bản chất vốn có của nó. Nhịp thơ ấy khi đến với mặt biển rộng của Thơ Mới lại như chuyển dòng vòng giữa những khúc quanh đầy ám ảnh của chia ly mất mát.
Xuân Diệu nhạy cảm nhận ra : “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi ”để rồi tiếng thơ ông vang lên như một cơn lũ cảm xúc,hối hả cuốn theo tất cả sự đắm say trước vẻ đẹp thời gian trong bước nhịp dồn dập của cuộc đời. Xuân Quỳnh giữa thời gian lại như cánh chuồn chuồn bơ vơi tìm cho tình yêu chỗ nương thân trong nắng nôi dông bão của cuộc đời.
Phải chăng thời gian đã thực sự đã bào mòn cái mầm sống le lói của tình yêu để nó trở nên hữu hạn ? Bởi lẽ bi kịch của tình yêu không phải là cái chết hay sự chia ly mà là sự lãnh đạm đi qua đời nhau ? Cặp quan hệ từ chỉ y nhượng bộ “tuy…vẫn”, “dẫu…vẫn…” tiếp nối sau đó đã thể hiện sự trăn trở của con người trước sự hữu hạn ấy của cuộc đời. Vì đời người tuy dài đến cả trăm năm thì theo năm tháng , tất cả rồi sẽ đi qua.
Biển kia cũng vậy. Nó tuy rộng nhưng không phải vô tận nên chẳng thể giữ mây ở lại vĩnh viễn. Vũ trụ thì bao la nhưng con người lại nhỏ bé quá. Đời người thì ngắn ngủi nhưng khát vọng tình yêu của con người lại quá to lớn. Con người trước những nghịch lý ấy lại chỉ là một thân phận phù du ôm mộng tình yêu vĩnh hằng, hạnh phúc muôn đời.
Và vì vậy con người luôn lo lắng, sợ hãi trước sự phôi phai của tình yêu . Mang trong mình những sự sợ sệt cố hữu nên con người càng gan dạ để sẵn sàng vượt qua mọi thử thách của thời gian để vì nhau và cùng nhau tìm kiếm hạnh phúc chân thực. Không gian và thời gian tuy từng trở đi trở lại trong thơ Xuân Quỳnh như một nỗi ám ảnh về tình yêu phai nhạt lại trở về trong “Sóng” như một động lực, một nguồn sức mạnh để hun đúc cho người sự mạnh mẽ để hành động và sống vì tình yêu của mình.
Chính “Sóng” đã đưa tình yêu “Trở về đúng nghĩa trái tim em/ Biết khát khao những điều mơ ước. Biết xúc động qua nhiều nhận thức/ Biết yêu anh và biết được anh yêu.” (Tự Hát). Và cũng để chén rượu thơ của Xuân Quỳnh rót ra trên bề mặt chữ sớm gặp những nỗi lòng tri âm của thế hệ – những người vẫn mang khát vọng yêu thương và sẻ chia.

Tổng kết
Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 5 mẫu phân tích Sóng liên hệ Vội vàng chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 11.