Top 5 mẫu phân tích quan niệm về thời gian trong bài thơ Vội vàng chi tiết nhất

157
Top 5 mẫu phân tích quan niệm về thời gian trong bài thơ Vội vàng chi tiết nhất
Top 5 mẫu phân tích quan niệm về thời gian trong bài thơ Vội vàng chi tiết nhất
4.7/5 - (17 votes)

Tổng hợp các bài mẫu phân tích quan niệm về thời gian trong bài thơ Vội vàng của tác giả Xuân Diệu một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 5 mẫu phân tích quan niệm về thời gian trong bài thơ Vội vàng chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Dàn ý phân tích quan niệm về thời gian trong bài thơ Vội vàng

I. Mở bài

– Giới thiệu khái quát về tác giả Xuân Diệu và bài thơ Vội vàng

– Dẫn dắt, giới thiệu phần thứ 2 của bài thơ.

II. Thân bài

– Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói. Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng của nhà thơ: tương phản đối lập để chỉ ra một đời người chỉ có một tuổi xuân; tuổi trẻ một đi không trở lại.

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất

=> Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: “tới” – “qua”, “non” – “già”, “hết” – “mất”, “rộng” – “chật”, “tuần hoàn” – bất phục hoàn, vô hạn – hữu hạn – để khẳng định một chân lý tuổi xuân một đi không trở lại, phải biết trân quý và giữ gìn.

– Cách nhìn nhận về thời gian cũng rất tinh tế, độc đáo, nhạy cảm. Và mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn chia phôi hoặc tiễn biệt, hờn vì xa cách, sợ vì phai tàn sắp sửa.

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.

– Cũng là gió, là chim… nhưng gió thì thào vì hờn, chim bỗng ngừng hót, ngừng rao vì sợ! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng làm nổi bật nghịch lý giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian:

Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

– Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn, vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…

III. Kết bài

– Khái quát lại vấn đề

Top 5 mẫu phân tích quan niệm về thời gian trong bài thơ Vội vàng

Số 1: Phân tích quan niệm về thời gian trong bài thơ Vội vàng

Thầy giáo Nguyễn Đức Quyền trong cuốn sách “700 bài Phân tích – Bình giảng – Bình luận văn học” cho biết cách đây mấy chục năm, ông có đến thăm Xuân Diệu và hỏi: “Nếu sau này, thơ lãng mạn của anh được đưa vào sách giáo khoa thì anh ưa chọn bài nào?” Thi sĩ Xuân Diệu trả lời ngay: “Bài Vội vàng”. Đã hai mươi năm nay, bài thơ “Vội vàng” đã vinh dự hiện diện trên cuốn sách Văn 11, nhiều câu thơ đã trở thành câu thơ trong trí nhớ của hàng ngàn, hàng vạn chàng trai, cô gái thời áo trắng gần xa:

“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”…

“Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”.

“Vội vàng” là một trong những bài thơ đặc sắc nhất trong tập “Thơ thơ” (1938). Vượt qua dòng chảy thời gian hơn 60 năm rồi, mà những ý tưởng mới mẻ về thời gian, về tuổi xuân, về tình yêu đời, yêu cuộc sống… cùng với một giọng thơ nồng nhiệt, đắm say vẫn lôi cuốn chúng ta một cách kì lạ. Đây là đoạn thơ trích trong phần hai bài “Vội vàng” nói lên sự cảm nhận về thời gian của thi sĩ Xuân Diệu:

Xuân đang tới, nghĩa là xuân đương qua

…………………

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…”.

Hai câu thơ đầu đoạn, với cách ngắt nhịp 3/5, đọc lên ta cảm thấy cái nhún nhảy của mùa xuân, của thời gian:

“Xuân đang tới /nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non /nghĩa là xuân sẽ già ”

Các từ ngữ: “đang tới” với “đương qua”, “còn non” với “sẽ già” tương ứng, đối lập nhau, diễn tả mùa xuân và thời gian vận động không ngừng. Bước đi của mùa xuân, dòng chảy của thời gian là mải miết, vô tận. Trong hiện tại “đang tới” đã có màu li biệt “đương qua”. Chữ “đang” chuyển thành chữ “đương” một cách nói điệu đà, rất thơ.

Trong dáng vẻ “còn non” hôm nay đã báo hiệu một tương lai sẽ già”. Cách cảm nhận của thi sĩ về thời gian và mùa xuân là tinh tế và biểu cảm. Đó là một ý tưởng rất tiến bộ. Cũng chữ “non” và chữ “già” ấy, ông có những cách cảm nhận rất độc đáo bằng một tâm hồn lãng mạn với cặp mắt xanh non:

“Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết

Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt…

(…) Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!

 Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…”

(Giục giã)

Và ông cũng nhìn thấy sự vật phát triển và đổi thay không ngừng. Mùa xuân, thời gian và sự sống thật vô cùng kì diệu:

“Mấy hôm trước còn hoa

Mới thơm đây ngào ngạt

Thoáng như một nghi ngờ

Trái đã liền có thật”.

(Quả sấu non trên cao)

Bảy câu thơ tiếp theo nói lên nghịch lí giữa tuổi trẻ, đời người với thời gian và vũ trụ. Và đó cũng là bi kịch của con người, đời người. Khi “xuân hết”, tuổi trẻ đi qua “nghĩa là tôi cũng mất”. Mất ý vị cuộc đời. Tuổi trẻ đáng yêu biết bao! Mỗi người chỉ có một thời son trẻ. Cũng như thời gian trôi qua, tuổi trẻ một đi không trở lại:

“Mùa xuân tắt nghĩa là tôi cũng mất”.

“Lượng trời cứ chật” mà “lòng tôi rộng”, muốn trường sinh bất tử, muốn trẻ mãi không già. Quy luật của sự sống thật vô cùng nghiệt ngã: “Không cho dài thời trẻ của nhân gian”. “Hảo hoa vô bách nhật – Nhân thụ vô bách tuế” (Nguyễn Du). “Mỗi năm một tuổi như đuổi xuân đi…” (tục ngữ). Một lần nữa thi sĩ lại đặt ngôn ngữ trong thế tương phản giữa “rộng” với “chật”, để nói lên cái nghịch lí củạ đời người. Cũng là một cách cảm nhận thời gian rất thơ:

“Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian”.

Xuân của bốn mùa thì tuần hoàn (xuân khứ, xuân lai, xuân bất tận) nhưng đời người chỉ có một thời thanh xuân. Tuổi trẻ “chẳng hai lần thắm lại”. Vũ trụ đất trời thì vĩnh hằng, vô hạn, trái lại đời người thì hữu hạn. Kiếp nhân sinh nhiều bi kịch. Ai cũng muốn trẻ mãi không già, ai cũng muốn được sống mãi với tuổi xanh, tuổi hoa niên. Tiếng thơ cất lên như một lời than tiếc nuối:

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”.

“Tiếc cả đất trời” vì không được trẻ mãi để tận hưởng mọi cái đẹp của thiên nhiên và cuộc đời. Đó là lòng yêu đời và ham sống, khao khát được sống hết mình với tuổi trẻ:

“Mười chín tuổi, hỡi những nàng má ngọc.

Ríu rít chim, là tuổi ước mơ hoa!

Hỡi chàng trai kiều diễm mãi vui ca,

Mười chín tuổi! chằng hai lần hoa nở!”.

(“Đẹp” – Xuân Diệu)

“Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” cũng như “Mười chín tuổi! chẳng hai lần hoa nở!”, đó là bi kịch của người đời, xưa và nay. Có ham sống và yêu đời mới cảm nhận sâu sắc bi kịch ấy. Vì thế không được vung phí thời gian và tuổi trẻ.

Hai câu thơ cuối dào dạt cảm xúc. Nhà thơ xúc động lắng nghe bước đi của thời gian, tiếng “than thầm tiễn biệt” của sông núi, của cảnh vật. Xuân Diệu rất nhạy cảm với thời gian trôi đi qua, “mùi”, “vị” của năm tháng “chia phôi” trong dòng chảy vô tận. Một cách cảm nhận thời gian rất thơ, rất tinh tế:

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”.

Đoạn thơ trên đây cho thấy vẻ đẹp trong thơ Xuân Diệu: sự trau chuốt về ngôn từ, sự tinh tế trong cảm xúc và biểu hiện. Một quan niệm nhân sinh rất tiến bộ về thời gian, về mùa xuân và tuổi trẻ. Cái tôi cá nhân trữ tình được khẳng định. Ham sống và yêu đời; sống hết mình, sống trong tình yêu – đó là những ý tưởng rất đẹp, vẻ đẹp của một hồn thơ lãng mạn – “Vội vàng” không có nghĩa là sống gấp, như ai đó đã nói.

Bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu
Bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu

Số 2: Cảm nhận về thời gian trong thơ Vội vàng

Xuân Diệu được biết đến với một hồn thơ phóng khoáng, đắm say mãnh liệt với tính yêu, với cuộc đời. Ông cũng được coi là nhà thơ có cảm, thức đặc biệt về thời gian. Dấu ấn cảm thức về thời gian cũng được ông thể hiện rõ qua các sáng tác của mình, đặc biệt là trong bài thơ “Vội vàng”.

Thời gian trong vũ trụ thì muôn đời vẫn thế, chỉ có quan niệm của con người về thời gian là thay đổi. Sự đổi thay do trình độ nhận thức khoa học, ý thức triết học, ý thức thẩm mỹ của mỗi thời mỗi khác.

Trong bải thơ, Xuân Diệu đưa ra quan niệm mới về thời gian: Cách thức trình bày của Xuân Diệu là chống đối, tranh cãi lại quan niệm xưa kia, đồng thời bộc bạch quan niệm của mình bằng một cảm xúc sôi nổi, cuồng nhiệt, nghĩa là bằng một dạng thức triết học đã được thấm nhuần cảm xúc, giọng điệu chính của đoạn thơ là giọng tranh luận, biện bác, nhịp điệu rất sôi nổi, khẩn trương. Đoạn thơ có những câu thơ đẫy mĩ cảm về cảnh sắc thiên nhiên, trong đó chứa đựng những cảm nhận về thời gian.

Quan niệm cũ về thời gian mà Xuân Diệu muốn chống đối là thời gian tuần hoàn, nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng lại quay về điểm xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại. Mà vòng tuần hoàn thì những thời khắc, thời đoạn của nó có ra đi rồi cũng sẽ quay trở về.

Quan niệm xuất phát từ cái nhìn tĩnh, có phần siêu hình lấy sinh mệnh vũ trụ làm thước đo thời gian, Xuân Diệu coi thời gian như một dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở lại. Vì thể một khoảnh khắc một khi đã trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn đậm chất biện chứng về vũ trụ, về thời gian”

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”

Xuân Diệu đã lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian, tức là lấy quỹ thời gian hữu hạn trong sinh mệnh cá thể ra để đo đếm thời gian vũ trụ, thậm chí lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh của con người để làm thước đo cho thời gian:

“Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Nói làm cho rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi

Nên băng khuâng tôi tiếc cả đất trời”

Vì thế, cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy mất mát. Mỗi khoảnh khắc trôi quan là một sự mất mát, đó chính là một phần đời trong sinh mệnh cá thể.

Hai câu thơ thể hiện rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu:

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Khắp sông núi vẫn tham thầm tiễn biệt”

Mỗi khoảnh khắc như một cuộc chia lìa, một mất mát, và dòng thời gian được nhìn như một chuỗi vô tận của mất mát, chia phôi. Và đó đây, khắp sông núi vẫn là lời than thầm tiễn biệt thời gian, mà sâu xa hơn, sự vật tự nhiên đang tiễn biệt cuộc đời của chính nó, những phần đời của sinh mệnh mình đang ra đi không thể nào cưỡng lại được. Nó tạo nên sự trôi chảy không ngừng, tạo nên sự phôi phai, phai tàn trong từng cá thể”

“Cơn gió xinh…

….ngả chiều hôm”

Cách cảm nhận về thời gian như vậy xét cho cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của sự sống, cá thể mỗi khoảng khắc trong đời sống cá thể đều vô cùng quý giá. Nó quý giá chính vì khi mất đi là mất đi vĩnh viễn, quan niệm ấy khiến cho con người biết quý những giây phút của đời mình, và biết làm cho mỗi khoảnh khắc cuộc đời mình tràn đầy ý nghĩa. Có như thế mới là biết sống, và đây mới là cơ sở sâu xa của thái độ sống vội vàng.

Toàn bộ quan niệm về thời gian của Xuân Diệu đã thể hiện sự tích cực rất đáng trân trọng trong tư tưởng của ông. Cảm thức đặc biệt về thời gian của nhà thơ mở ra một cách sống “vội vàng”, nhưng đó là cách sống trọn vẹn cho những gì tươi đẹp nhất.

Số 3: Cảm nhận về thời gian trong bài thơ Vội vàng

Cùng với sự chuyển vần của không gian vũ trụ là sự trôi chảy của thời gian. Thực tế, thời gian tự nhiên, thời gian khách quan muôn đời vẫn thế.

Nhưng quan niệm về thời gian, sự cảm nhận về thời gian thì mỗi thời đại, mỗi cá nhân môi khác. Vậy nên mới có sự không đồng nhất trong quan niệm về thời gian của Xuân Diệu với các thi nhân xưa.

Trong thơ ca cổ điển, nhiều thi nhân từng than thở về sự ngắn ngủi của kiếp người. Họ gọi thời gian là áng phù vân, là bóng cầu qua cửa sổ. Nhưng do xuất phát từ cái nhìn tĩnh, có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo thời gian nên nhiều nhà thơ trung đại quan niệm thời gian là tuần hoàn, vĩnh cửu. Nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng quay lại về điểm xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi. Mà đã là vòng tuần hoàn thì những thời khắc, thời đoạn của nó có ra đi rồi cũng sẽ quay trở về:

Xuân thứ bách hòa lạc

Xuân đáo bạch hoa khai.

(Xuân đi, trăm hoa rụng,

Xuân đến, trăm hoa nở.)

(Cáo tật thị chúng – Mãn Giác Thiền sư)

(..) xuân đi xuân lại lại (Tự tình II • Hồ Xuân Hương) .

Vậy nên nhiều người vẫn đinh ninh người chết chưa hẳn là hư vô mà có thể cùng với cộng đồng và trời đất tuần hoàn:

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

(Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết.

Đêm qua, một cành mai trước sân.)

(Cáo tật thì chúng – Mãn Giác Thiền sư)

Đến Xuân Diệu và các nhà thơ mới, do có sự thức tỉnh của ý thức cá nhân mà quan niệm về thời gian ở họ đã hoàn toàn đổi khác. Xuân Diệu cho rằng thời gian là tuyến tính, như một dòng chảy xuôi chiều, trôi chảy nhanh chóng, một đi không trở lại, mỗi phút trôi qua là mất đi vĩnh viễn:

Cái bay không đợi cái trôi,

Từ tội phút trước, sang tội phút này.

 (Đi thuyền)

Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn động, rất biện chứng về vũ trụ, về thời gian

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non, nghĩa là cuốn sẽ già.

Điệp ngữ nghĩa là thu khít, xếp trùng khoảng cách thời gian đương tới với đương qua, còn non và sẽ già. Nó cắt nghĩa về bước đi nhanh chóng, gấp gáp của thời gian. Khác với người xưa, Xuân Diệu lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian. Tức là lấy cái hữu hạn của đời người ra để đo đếm thời gian trong vũ trụ. Thậm chí ông còn lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất của cuộc đời là tuổi trẻ ra để làm thước đo:

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho hoài thời trẻ của nhân gian,

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,.

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.

Phải vậy chăng mà cảm nhận về thời gian của thi nhân là cảm nhận đầy tính mất mát. Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát, một phần đời trong sinh mệnh cá thể đã mất đi vĩnh viễn, thấm thía hơn, là một phần vô cùng quý giá của tuổi trẻ mình đã mãi mãi trôi đi.

Trong cái nhìn của Xuân Diệu, mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một cuộc chia lìa. Khoảnh khắc nào cũng là một chia lìa, một mất mát:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phối,

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…

Dòng chảy thời gian được nhà thơ nhìn như một chuỗi vô tận của những mất mát, chia phôi, cho nên thời gian thấm đẫm hương vị của chia lìa. Dậy lên đó đây khắp sông núi là những lời than thở tiễn biệt. Đó là lời thở than của vạn vật.

Là không gian đang tiễn biệt thời gian. Là mỗi một sự vật thiên nhiên đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó. Những phần đời của sinh mệnh mình đang ra đi không thể nào cưỡng lại, nó tạo nên sự trôi chảy không ngừng, tạo nên sự phôi pha, phai tàn của từng cá thể:

Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

Cách cảm nhận về thời gian như vậy, xét đến cùng xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của sự sống cá thể, từ sự thức tỉnh sâu sắc về “cái tôi” cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời. Mỗi khoảnh khắc trong đời người đều vô cùng quý giá. Nó quý giá chính vì một khi đã mất đi là mất đi vĩnh viễn.

Quan niệm ấy khiến cho con người biết quý từng giây phút của đời mình, biết nâng niu, trân trọng từng giây từng phút của cuộc đời, nhất là những năm tháng tuổi trẻ.Hãy sống làm sao để mọi khoảnh khắc của đời mình luôn tràn đầy ý nghĩa, thế mới là biết sống. Đây chính là cơ sở sâu xa của thái độ sống “vội vàng”.

Hãy mau lên, vội vàng lên để tận hưởng những giây phút tuổi xuân của mình, tận hưởng những gì mà cuộc đời ban tặng cho mình cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng – Cho no nê thanh sắc của thời tươi. Đó chính là niềm khao khát sống sôi nổi, mãnh liệt của thanh niên, của tuổi trẻ.

Rõ ràng, toàn bộ quan niệm và thái độ ấy đã thể hiện sự tích cực rất đáng trân trọng của tư tưởng Xuân Diệu.

Bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu
Bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu

Số 4: Phân tích quan niệm về thời gian trong bài Vội vàng

Nhắc đến Xuân Diệu là nhắc đến nhà thơ của tình yêu.Trong phong trào thơ mới các tác phẩm của ông chủ yếu viết về tình yêu nồng cháy của con người trước thiên nhiên, trước cuộc sống. Khi nhắc đến thơ Xuân Diệu không thể không kể đến bài thơ “Vội vàng”, nó mang đến một cảnh sắc xuân rạo rực, tươi mới,và cũng mang cả thông điệp về cuộc sống của tác giả.

Ngay mở đầu bài thơ Xuân Diệu đã bộc lộ ham muốn, cái tôi cá nhân thật táo bạo, ngông cuồng:

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất,

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”

Lòng yêu đời, yêu cuộc sống của Xuân Diệu đã biến thành cái ham muốn thật táo bạo muốn “tắt nắng”,”buộc gió”. Trước sự thay đổi của đất trời, của thiên nhiên ông muốn ôm lấy tất cả muốn níu giữ tất cả những gì là đẹp nhất.

Trong cái ngông cuồng,táo bạo đó vẫn hiện lên sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn. Với Xuân Diệu sống là một điều kỳ diệu, sống là để tận hưởng và cũng là cống hiến hết mình cho cuộc sống.

Thế giới trong mắt của Xuân Diệu chính là một bữa tiệc rực rỡ đầy sắc màu. Thiên nhiên hiện lên trong các dòng thơ tràn trề sức sống.Cảnh sắc mùa xuân được miêu tả căng tràn nhựa sống như vẻ đẹp của cô gái đang độ xuân thì Xuân Diệu say đắm với mùa xuân, say trong ánh nắng,say trong rực rỡ của cỏ cây hoa lá,say trong tiếng chim hót:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì;

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si;”

Tác giả yêu thiên nhiên đến tột độ và tìm mọi cách để hưởng thụ thiên nhiên.Vẫn đang đắm chìm trong hạnh phúc trước vẻ đẹp của thiên nhiên tác giả lại thốt lên:

“Tôi sung sướng,nhưng vội vàng một nửa

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”

Tác giả chợt nhận ra mình phải “vội vàng một nửa”. Hoa nở rồi hoa lại tàn,xuân đến rồi xuân lại đi, chim cũng dừng tiếng hót, thời gian sẽ trôi đi và con người không thể níu giữ khoảnh khắc đó,không thể khiến thời gian ngừng lại.Cũng như con người cũng sẽ già nua đi. Hai câu thơ đã thể hiện rất rõ tình yêu với cuộc đời cuồng nhiệt của Xuân Diệu.

“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua.

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.

Con gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,”

Một xúc cảm khác trước thời gian, không gì là mãi mãi,gặp nhau rồi cũng phải chia ly. Mùa xuân của đất trời luôn tuần hoàn năm này qua năm khác, nhưng tuổi trẻ của mỗi người chỉ có một lần trong đời. Vạn vật tuần hoàn nhưng “chẳng còn tôi mãi”. Dường như tác giả quá đa cảm và sự cảm nhận rất tinh tế với vòng quay của thời gian. Những câu thơ chứa đựng cả giọng nói háo hức và nhịp đập của một con tim vồ vập muốn sống hết mình. Con tim ấy của một cái tôi trữ tình từng bộc bạch một cách chân thành.

“Ta muốn ôm.

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Cho chuếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

Ba chữ “Ta muốn ôm” được đặt ở giữa dòng thơ mô phỏng hình ảnh nhân vật trữ tình đang dang rộng vòng tay để ôm tất cả sự sống lúc xuân thì – sự sống giữa thời tươi vào lòng. Đó là chân dung của một cái tôi đầy tham lam, ham hố đang dứng giữa trần gian, cuộc đời, dòng đời để ôm cho hết, riết cho chặt, cho say, cho chếnh choáng, thâu cho đã đầy, cho no nê, cho tới tận cùng những hương sắc của đất trời giữa mùa xuân…

Tất thảy đều vồ vập, khát khao đến cháy bỏng với các mong muốn được giao hòa, giao cảm mãnh liệt với vạn vật, với cuộc đời. Đây quả là một khát khao vô biên, tuyệt đích, rất tiêu biểu cho cảm xúc thơ Xuân Diệu.

Nhà thơ diễn tả thiên nhiên bằng các mĩ từ, lại nhân hóa khiến nó hiện ra như con người có hình hài và mang dang dấp của tuổi xuân. Câu cuối cùng kết thúc cả bài thơ:” Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.” Đây là sự cuồng nhiệt cao độ của trái tim khao khát tình yêu và cuộc sống. Động từ “cắn” khiến câu thơ thật độc đáo,thật táo bạo, diễn tả niềm khao khát giao cảm mãnh liệt của Xuân Diệu mãi mãi là khát vọng, là ham muốn không có giới hạn.

Tên bài thơ “Vội vàng” đã thể hiện đầy đủ triết lý sống của nhà thơ, sống gấp, sống vội. Hãy sống và tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng. Hơn nữa Nhà thơ muốn nhắn nhủ đến người đọc hãy sống hết mình khi đang còn trẻ tuổi, đừng để thời gian trôi đi phí hoài,sống sao cho có ích với xã hội với cuộc đời để khi thời gian đó qua đi rồi chúng ta sẽ không phải ân hận hay nuối tiếc điều gì.

Số 5: Phân tích quan niệm về thời gian trong bài thơ Vội vàng

Đến với Thơ mới là đến với thế giới cảm xúc muôn chung nghìn bậc, thế giới nghệ thuật muôn hình vạn trạng. Một Thế Lữ “rộng mở”, một Lưu Trọng Lư “mơ màng”, một Nguyễn Bính “quê mùa”, một Hàn Mặc Tử “kì dị”… Họ đều là những cái tên không thể bỏ quên khi nhắc về Thơ mới. Nhưng sẽ mãi mãi là thiếu sót, là chưa đủ nếu không có sự góp mặt của Xuân Diệu.

Xuân Diệu – nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Xuân Diệu – một trong ba đỉnh cao của thơ mới. Những tên gọi đầy trân trọng ấy đã xác lập một chỗ đứng riêng cho Xuân Diệu trong làng thơ, để đến tận hôm nay người đời vẫn không thôi nhắc đến và ngưỡng mộ.

“Hồn thơ Xuân Diệu là nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. Những lời bình phẩm sâu sắc ấy của Hoài Thanh dành cho Xuân Diệu có lẽ đã đủ nói về một hồn thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” – một hồn thơ lúc nào cũng “thiết tha, rạo rực, băn khoăn”.

“Vội vàng” là một thi phẩm gói trọn hết thảy những cung bậc cảm xúc ấy, cũng có thể gọi đó như một bài thơ “rất Xuân Diệu”. “Vội vàng” bắt đầu bằng bốn câu thơ ngũ ngôn tưởng như lệch nhịp so với toàn bài, nói lên một ước muốn lạ thường:

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.

Ngay những câu mở đầu, Xuân Diệu đã bộc bạch thổ lộ lòng mình trực tiếp bằng hai chữ “tôi muốn” đầy chủ động. Ước muốn ấy không phải dời non lấp bể, đắp lũy xây thành, đi “phù địa trục” như những bậc trí chủ thời xưa, mà là một ước muốn tưởng như dị thường: tắt nắng, buộc gió.

Thi sĩ muốn tắt nắng để màu không nhạt, muốn buộc gió để hương đừng bay – những ước muốn đoạt quyền tạo hóa. Vậy là hóa ra chẳng có ước muốn dị kì nào ở đây, điều thi sĩ muốn là níu giữ màu và hương bên đời để những gì tươi đẹp nhất không bị nhạt phai – một mong muốn chính đáng. Nhịp thơ nhanh, cách điệp câu thơ nhịp nhàng, những câu thơ tựa như khúc dạo đầu đầy hứng khởi của một tâm hồn nồng nàn nhựa sống. Những câu thơ sau lí giải sâu hơn về lí do mà tâm hồn thi sĩ nảy sinh những ước muốn ấy.

Bằng con mắt “xanh non biếc rờn” cùng lòng yêu cuộc sống, bằng “toàn tâm, toàn trí, toàn hồn”, Xuân Diệu đã phát hiện ra cả một thiên đường trên mặt đất với bao màu sắc, âm thanh và ánh sáng:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc tình si

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Bức tranh cuộc sống hiện ra tựa như một bữa tiệc trần gian với chân thức sẵn bày, mời gọi hấp dẫn. Hai chữ “Này đây” được nhắc đến nhiều lần không gợi sự thừa thãi trong câu chữ, mà tô đậm không gian và thời gian thơ, đó là ngay lúc này và ở tại đây.

Nơi đây – nơi cuộc sống trần thế với bao điều hấp dẫn, chính là cái phần ngon nhất mà nhà thơ muốn ôm trọn vào lòng. Nơi có bướm ong dập dìu, yến anh tình tự. Nơi có màu xanh đồng nội, màu lá phất phơ. Nơi có âm thanh của khúc tình si, có ánh sáng của bình minh tựa như hàng mi chớp dịu. Tất cả đều gợi ra một bức tranh thiên nhiên ngồn ngộn sự sống, dạt dào sắc xuân.

Qua lăng kính luyến ái của thi sĩ, mọi thứ đều hiện lên có đôi có lứa, tươi ròng sự sống. Chính Xuân Diệu chứ không phải ai khác, đã “đốt cảnh bồng lai xua ai nấy về hạ giới”, người “xây lầu thơ trên một tấm lòng trần gian”, luôn gắn bó sâu sắc với cuộc đời trần thế.

Không “thoát lên tiên” mơ theo cảnh bồng lai như Thế Lữ, không tìm về chốn thôn quê để ủ mình trong yên bình như Nguyễn Bính, không lẩn trốn vào quá khứ nơi có những “bóng ma sợ soạng” như Chế Lan Viên, trong mắt Xuân Diệu, thế giới đẹp nhất là cuộc sống trần thế, tại đây và ngay lúc này. Chẳng thế mà từng có lần nhà thơ tự bộc bạch:

Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần

Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất

Nhưng có lẽ cái đặc sắc và để lại ấn tượng sâu nhất trong mỗi người là câu thơ: “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần” – một câu thơ “hoàn toàn Xuân Diệu”. Thi sĩ đã hữu hình hóa cái vô hình, đã vật chất hóa một khái niệm thời gian bằng vị cảm. Và còn đặc biệt hơn, cái điều thi sĩ cảm được từ tháng giêng lại là một cặp môi gần của phụ nữ – nó vừa quyến rũ, vừa tươi hồng, vừa mời gọi.

Ta chợt ngộ ra, cái đẹp của con người trong mắt nhà văn mới là cái đẹp chuẩn mực. Chính con người mới là trung tâm cho mọi sự so sánh. Rõ ràng ở đây có cả một sự thay đổi lớn về quan niệm thẩm mỹ. Người xưa ví vẻ đẹp người con gái với hoa, núi, nước, mây, ví khí phách người anh hùng như mai, trúc, phượng, điểu.

Còn Xuân Diệu trong cái nhìn của một con người hiện đại lại chỉ luôn mong muốn tôn vinh con người.Chính niềm say mê tha thiết với hương sắc trần thế mà trong thi sĩ đã nảy sinh một xúc cảm khác: Lo sợ thời gian trôi sẽ làm nhạt phai thanh sắc của đời. Bởi thế mà ngay sau những câu thơ tươi vui kia, mạch thơ chuyển ngay sang những điệu thơ trầm lặng, trĩu nặng suy tư:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Xuân Diệu bằng nhãn quan tinh nhạy của mình, đã nhìn thấy cái đương qua ngay trong cái đương tới, cái sẽ già ngay trong cái còn non. Không phải ngẫu nhiên mà thi sĩ có những cảm xúc ấy. Đỗ Lai Thúy đã gọi Xuân Diệu là “Nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian”. Hơn một lần thi sĩ từng giục giã:

Mau với chứ, vội vàng lên với chứ

Em, em ơi. Tình non sắp già rồi

Nhưng nghĩ một cách sâu hơn, thì có thể thấy tình yêu cuộc sống và nỗi ám ảnh thời gian của nhà thơ là hoàn toàn biện chứng. Càng yêu cuộc sống bao nhiêu, con người càng tiếc thời gian và tuổi trẻ bấy nhiêu, huống chi là Xuân Diệu – một người có khát khao giao cảm mãnh liệt với cuộc đời.

Với Xuân Diệu cái đẹp nhất trong cuộc đời mỗi người là mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Trôi qua những cái đó, cuộc đời chỉ còn là vô nghĩa. Nỗi ám ảnh và sự hối thúc về thời gian của nhà thơ còn cho ta một nhận thức về nhân sinh: Cuộc đời vô thủy vô chung, dòng đời trôi không đứng đợi, tuổi trẻ chẳng thắm lại lần hai và mùa xuân chẳng bao giờ quay lại. Triết lí ấy lại là một bước tiến vượt bậc trong tư tưởng của nhà thơ.

Người xưa quan niệm thời gian tuần hoàn, lấy sinh mệnh vũ trụ để tính vòng đời, họ tin đời người là kiếp luân hồi, đi rồi sẽ trở lại. Còn Xuân Diệu nhìn thời gian trong sự tuyến tính để có những nhận thức đúng đắn về đời người. Vậy là xét cho cùng, tiếc nuối thời gian âu cũng là một biểu hiện khác của lòng yêu cuộc sống. Và đúng như Hoài Thanh nói: “khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”.

Trước dòng đời ngược xuôi trôi dạt, đôi mắt tinh nhạy của người nghệ sĩ nhìn đâu cũng thấy chia li xa cách:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt

Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng buồn vì nỗi phải bay đi

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa

Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa…

Tháng năm được cảm nhận qua mùi, qua vị. Mùi và vị của nó chính là chia phôi. Câu thơ được chuyển đổi cảm giác, sự tương giao giữa các giác quan khiến cho ta tưởng như người thi sĩ nhìn đâu cũng thấy chia lìa, đi đâu cũng thấy chia phôi. Cả đoạn thơ man mác bâng khuâng, ngậm một nỗi tiếc nuối bùi ngùi.

Tất cả hiện vật, sự vật trên thế gian đều không được vẹn tròn ngày vui. Núi sông thì buông lời than tiễn biệt, gió chim thì đều mang nỗi nợ phải bay đi, phải lìa tổ. Quả thật mọi cuộc vui đều có lúc tàn. Cảm nhận rất rõ được điều ấy, thi sĩ thốt lên trong sự tiếc nuối: “Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa…”, để rồi ngay sau đó là lời giục giã: “Mau đi thôi. Mùa chưa ngả chiều hôm”.

Sau những tiếc nuối ngậm ngùi, nhà thơ bộc lộ một khao khát mãnh liệt – khao khát được giao cảm tận độ với đời, hưởng trọn thanh sắc của thời tươi, khao khát tận hưởng và tận hiến:

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng

Ba chữ “Ta muốn ôm” đứng biệt lập ở giữa đoạn thơ, gợi tư thế chủ động, tâm thế sẵn sàng của một chủ thể đang đứng giữa đất trời, dang rộng vòng tay đón trọn hương đời. Từ xưng “tôi” ở đầu bài thơ, nhà thơ chuyển sang xưng “ta” như nói lên một khát vọng chung cho mọi người – khát vọng hòa nhập.

Từ đó, một loạt cụm từ “ta muốn” xuất hiện trong mỗi dòng thơ – một cách bộc bạch lòng mình trực tiếp của một thi sĩ thơ mới có xúc cảm luôn nồng nàn. Những gì thi sĩ muốn là được giao cảm với thiên nhiên, với sự sống: từ mây, gió, cánh bướm đến tình yêu, cỏ cây, non nước. Mức độ giao cảm cũng dần mãnh liệt hơn: từ ôm, riết, đến say, thâu, và sau cùng là cắn.

Dường như thi sĩ muốn ôm cho hết, say cho tận, thâu cho cùng mọi điều đẹp nhất của cuộc đời, để được hưởng cảm giác “chếnh choáng, đã đầy, no nê”. Câu thơ cuối cùng như một sáng tạo đặc biệt, gợi cảm giác mạnh như một nốt vĩ thanh vút lên ở cuối bài trong một thi phẩm tràn trề cảm xúc cảm giác: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. “Xuân hồng” vừa gợi màu, vừa gợi vị, vừa đập vào thị giác, vừa tác động đến cảm giác.

Một lần nữa thi sĩ hữu hình hóa cái vô hình, coi xuân hồng như phần tươi ngon nhất của cuộc đời, muốn cắn và nuốt trọn nó. Một cái kết mạnh đã cho Xuân Diệu tổng kết triết lý nhân sinh của mình: Vì lẽ cuộc đời trôi đi không đứng đợi mà con người cần sống tận hưởng và tận hiến trong từng giây phút cuộc đời, nhất là khi còn đang ở tuổi trẻ. Đó là triết lý bất diệt với thời gian, mang giá trị nhân sinh cao cả.

Và một lẽ tất nhiên, để làm nên một chỉnh thể nghệ thuật không thể bỏ ngoài các yếu tố về hình thức nghệ thuật. Xuân Diệu “mới” không chỉ ở tư tưởng mà “mới” cả ở cách thể hiện. Thể thơ tự do với sự chuyển mạch, co duỗi linh hoạt theo cung bậc cảm xúc, các phép tương giao ảnh hưởng của thơ tượng trưng cũng sử dụng triệt để. Những câu thơ vắt dòng, từ ngữ táo bạo và hình ảnh tân kì cũng góp phần làm nên một thi phẩm “rất Xuân Diệu”.

Xuân Diệu lại một lần nữa góp vào thi đàn Việt Nam một tuyệt phẩm. Bên cạnh những vần thơ rất hay về tình yêu, còn có những vần thơ nhân sinh sâu sắc. Vội vàng xứng đáng được coi là một tuyệt tác cho mọi thời.

Bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu
Bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu

Tổng kết

Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 5 mẫu phân tích quan niệm về thời gian trong bài thơ Vội vàng chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 11.

0/5 (0 Reviews)
Chúng tôi tạo ra Top10timkiem.vn nhằm mục đích cung cấp cho người đọc những thông tin, liệt kê một cách chi tiết nhất về mọi lĩnh vực trong cuộc sống.