Top 15 mẫu phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo chi tiết nhất

100
Top 15 mẫu phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo chi tiết nhất
Top 15 mẫu phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo chi tiết nhất
4.8/5 - (16 votes)

Tổng hợp các bài mẫu phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo trong tác phẩm Chí Phèo của tác giả Nam Cao một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 15 mẫu phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Dàn ý phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo
  • Đưa ra vấn đề: Khi gặp được Thị Nở cũng là một dấu ấn sâu sắc trong tâm trí của Chí Phèo

II. Thân bài

Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở

Hoàn cảnh gặp gỡ:

  • Không ai đáp lại lời chửi của Chí Phèo nên “hắn” rẽ vào nhà Tự Lãng uống rượu
  • Khi đã hả hê, Chí Phèo lảo đảo ra về
  • Hắn gặp một người đàn bà ngủ quên ở bờ sông gần nhà (Thị Nở)
  • Trong cơn say, Chí Phèo ăn nằm với Thị Nở và ngủ say dưới trăng

⇒ Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã đem đến những biến chuyển tâm lí rõ nét trong Chí Phèo

Quá trình hồi sinh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở

a) Sự thức tỉnh

  • Sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, lần đầu tiên Chí Phèo thực sự “tỉnh”
  • Chợt nhận ra ở trong cái lều ẩm thấp của Chí sẽ thấy “chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”
  • Bâng Khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài
  • Tỉnh để cảm thấy miệng đắng và “lòng mơ hồ buồn”

b) Là niềm vui, hi vọng, ước mơ quay trở về làm người lương thiện của mình

  • Niềm hi vọng của thời trẻ quay trở lại: mong muốn một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải; nuôi lợn, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng
  • Khi thấy bát cháo hành của Thị Nở, Chí Phèo ngạc nhiên và thấy “mắt mình như ươn ướt” ⇒ xúc động vì lần đầu tiên có người chăm sóc
  • Thấy Thị Nở có duyên, cảm thấy vừa vui vừa buồn
  • Hắn muốn làm nũng với Thị, thấy lòng thành trẻ con
  • Chí Phèo thèm lương thiện: Tình yêu của Thị Nở làm hắn nghĩ bản thân có cầu nối để trở về
  • Tình yêu với Thị Nở khiến hắn đủ hi vọng và mong ước có một gia đình: “Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”

III. Kết bài

  • Tóm tắt lại diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
  • Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân về diễn biến đó

Top 15 mẫu phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo

Số 1: Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo

Sinh thời, khi cầm bút, Nam Cao hằng tâm niệm Sáng tạo là yêu cầu sống còn của văn chương, nghệ thuật. Vì thế, hường ngòi bút đến đề tài quen thuộc đó là cuộc sống khốn khổ của người nông dân trước cách mạng tháng 8 nhưng Nam Cao chọn cho mình một lối đi riêng.

Khác với nhân vật trong truyện ngắn của Thạch Lam là được đặt vào trong một khoảnh khắc nhất định, nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao thường là những nhân vật có tính cách điển hình và được đặt trong hoành cảnh điển hình.

Đặc biệt, nhắc đến Nam Cao người ta không thể không nhắc đến Chí Phèo nhân vật bước vào trang văn, ngật ngưỡng với dáng diệu của một kẻ say. Những diễn biến tâ, lí của Chí Phèo khi đón nhận bát cháo hành của Thị Nở đã được Nam Cao diễn tả một cách chân thực, tài tình đến cảm động.

Chí Phèo đang vẩn vơ nghĩ về đời mình thì thị mang đến một nồi cháo hành. Sự quan tâm mộc mạc, giản dị chân tình ấy đã làm tâm hồn Chí đổi thay đến bất ngờ, mạnh mẽ. Lòng Chí trào dâng bao cảm xúc: bâng khuâng, ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vui mừng, xúc động rồi lại nuối tiếc, buồn tẻ, xót xa, lại có cái gì như là ăn năn hối hận nữa.

Chí ngỡ ngàng ngạc nhiên, cảm động đến ứa nước mắt. Vì đây là lần đầu tiên hắn không phải dọa nạt, đâm chém mà vẫn có cái ăn. Lần đầu tiên, hắn được một người đàn bà chăm sóc ân tình. Nhưng Chí không khỏi ngậm ngùi, cay đắng, buồn tủi, xót xa vì mãi đến tận bây giờ hắn mới được nếm mùi cháo.

Cái hạnh phúc giản dị, đơn sơ khiền người ta thấy tội nghiệp sao lại đến với Chí muộn màng đến như vậy. Chí còn hối hận, ăn năn. Hành động của Thị Nở đã làm Chí suy nghĩ nhiều và Chí bông ngộ ra một điều rằng: Chí có thể làm bạn được sao lại gây kẻ thù.

Dù rất hiếm hoi nhưng trên cõi đời vẫn còn có những vòng tay yêu thương, vẫn còn những tấm lòng nhân ái, bao dung. Trong đoạn văn diễn tả sự hồi sinh của Chí Phèo khi đón nhận bát cháo hành của Thị Nở, chi tiết Chí Phèo khóc có lẽ là chi tiết ấn tượng nhất.

Có thể nói, Nam Cao luôn tin vào nước mắt của con người bởi một khi họ khóc có nghĩa là trong người họ vẫn cón chút lương thiện, nó chưa bị hủy hoại hoàn toàn mà vẫn sống âm thầm lặng lẽ. Vậy là chính tình người mộc mạc, giản dị của Thị Nở đã làm hồi sinh tình người trong Chí. Cái lốt quy dữ được lột bỏ, bản chất lương thiện đã hồi sinh trở lại.

Khi tính người trờ về, lòng Chí nảy sinh tình cảm với Thị Nở. Trong khi ăn cháo, Thị Nở nhìn chộm Chí rồi lại toe toét cười. Trông Thị thế mà có duyên, tình yêu làm cho có duyên.

Và chính tình yêu và chỉ có tình yêu mới làm cho cháo hành có hương vị thơm ngon, ngọt ngào chưa từng có. Hắn húp một húp và nhận ra rằng những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo rất ngon. Cháo được nấu bởi tay của Thị Nở mà vẫn thấy ngon.

Chí có tình yêu và chính tình yêu mới làm nên điều đó. Yêu thương, trân trọng Thị Nở bao nhiêu, Chí càng căm ghét con quỷ cái nhà bá kiến bấy nhiêu. Cái con quỷ lẳng lơ, đĩ thõa chỉ lợi dụng Chí chứ chưa bao giờ yêu Chí. Chí cảm thấy nhục chứ không thấy yêu đương gì.

Hương vị ngọt ngào của bát cháo hành, tình yêu thương ngày càng thấm sâu vào tâm hông Chí khiến chí như được lột xác, tái sinh. Chí thay đổi hoàn toàn cả về bộ dạng lẫn tâm tính. Nói chính xác hơn là Chí trở lại với diện mạo và tính cách của một người lương thiện. Chí còn muốn trở lại với cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Chí đặt tất cả niềm tin hi vọng vào Thị Nở.

Hơn thế nữa, Chí đã có hành động vô cùng táo bạo và lãng mạn: Chí tỏ tình và cầu hôn Thị Nở. Dĩ nhiên cách tỏ tình của Chí Phèo rất mộc mạc và chất phác. Được Thị Nở ưng thuận, Chí vô cùng sung sướng hạnh phúc. Từ đây, Chí sẽ có một tổ ấm gia đình, từ đây, Chí trở lại được làm người lương thiện. Đó là khát khao lớn nhất của Chí.

Như vậy, không chỉ dừng lại ở việc tả cái bề ngoài của xã hội, của cuộc sống con người, Nam Cao đã đi sâu vào nội tâm nhân vật. Với những trang văn sống động mà chân thực, Nam Cao đã đưa chủ nghĩa hiện thực Việt Nam lên đến trình độ mới, hội nhập với quốc tế: từ chủ nghĩa tả chân lên đến chủ nghĩa hiện thực tâm lí.

Không chỉ bộc lộ cảm quan hiện thực sâu sắc, đoạn văn còn thấm đượm tình cảm sâu sắc, cao đẹp, tiến bộ của Nam Cao. Có thể nói, đoạn văn diễn tả nội tâm của nhân vật Chí Phèo khí đón nhận bát cháo hành của Thị Nở là đoạn văn hay và để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc nhất.

Ở đó, ta có thể thấy rằng dù con người có bị tha hóa và bị đẩy xuống vũng bùn đen đến đâu thì thẳm sâu trong tâm hồn họ, vẫn có một mầm non lương thiện đang sống âm thầm, lặng lẽ. Nuôi dưỡng mầm cây non đó, Nam Cao đã dìu dắt Chí trở về với cõi thiện. Vậy là bằng ngòi bút chứa chan tình yêu thương con người, cũng như Thạch Lam, Nam Cao đã hoàn thành sứ mệnh của một nhà văn chân chính.

Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

Số 2: Phân tích sự hồi sinh của Chí Phèo

Truyện ngắn “Chí Phèo” là một kiệt tác của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại của nhà văn hiện thực và nhân đạo Nam Cao. Qua tác phẩm, tác giả đã vẽ nên một bức tranh thê thảm, đầy bi thương của những kiếp sống lương thiện nhưng đói nghèo đã bị tha hóa cả về thể xác lẫn linh hồn. Tiêu biểu cho những kiếp người đó chính là nhân vật “Chí Phèo” và những bi kịch mà hắn phải chịu đựng, nếm trải trong chặng đường đời của mình.

Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, người đọc dõi theo từng bước chân của Chí từ một người dân lương thiện bình thường cho đến khi trở thành “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại và cuối cùng là cái chết tuy bi thảm nhưng lại là cách giải thoát tốt nhất khỏi những bi kịch mà Chí đang phải chịu đựng.

Người đọc không thể quên hình ảnh của Chí lúc mới ở tù ra với “cái đầu trọc lốc, răng cạo trắng hớn, mặt đen lại”, “cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm trùy trông gớm chết”.

Để rồi từ đó, cuộc đời hắn chìm trong men rượu, trong cơn say hắn đã làm biết bao tội ác, hắn phá vỡ hạnh phúc của biết bao nhiêu gia đình, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người lương thiện.

Những tưởng cuộc đời hắn sẽ trượt dài trong tội lỗi nhưng rồi ở phần cuối của tác phẩm, Chí Phèo đã có ý thức vươn lên khao khát được làm người lương thiện, đỉnh điểm của khát khao đó là hành động xách dao đến nhà bà cô Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện.

Khi nhận ra một sự thật đau khổ đến mức tuyệt vọng là hắn không thể trở lại làm người lương thiện được nữa thì hắn đã giết Bá Kiến – nguyên nhân chính tạo nên mọi bi kịch của cuộc đời Chí và tự kết liễu đời mình để giải thoát khỏi cuộc sống đau khổ hiện tại. Vậy động lực nào đã thúc đẩy Chí hoàn lương? Đó chính là tình thương của Thị Nở và bát cháo hành của Thị.

Bát cháo hành của Thị Nở tuy giản đơn, mộc mạc chỉ có một chút cháo trắng với hành nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự hồi sinh thức tỉnh của Chí. Bát cháo được nấu lên bằng tình yêu thương chân thành, sự cảm thông, thấu hiểu của Thị Nở dành cho Chí, chính vì vậy mà nó có sức lay động mạnh mẽ bản chất lương thiện vốn đã bị vùi sâu trong tâm hồn Chí.

Nếu như trước đây, hắn chỉ biết uống rượu, rạch mặt, ăn vạ, rồi gây nên biết bao nhiêu tội ác thì giờ đây sau khi ăn bát cháo hành của Thị Nở hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với Thị như với mẹ.

Chưa bao giờ ta thấy hắn hiền như lúc này…Khi nhận được bát cháo hành từ tay Thị, Chí rất ngạc nhiên, hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt. Vậy là Chí đã khóc, một con người đã lấy đi biết bao nhiêu nước mắt của người khác vậy mà giờ đây chính hắn lại khóc.

Hắn đã khóc, khóc vì đây là lần thứ nhất hắn được người ta cho, lại được cho bởi tay một người đàn bà. Trước đây, chỉ toàn là đi cướp giật của người khác, hắn thấy “xưa nay có thấy tự nhiên ai cho ai cái gì”.

Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng khuâng, vừa vui vừa buồn và một cái gì nữa giống như là ăn năn, hối lỗi…Và đây cũng là lần đầu tiên Chí biết đến cái duyên của một người, đó là khi Thị Nở múc cháo “nhìn trộm hắn rồi lại cười toe toét. Trông Thị thế mà có duyên”.

Nhìn Thị hắn nghĩ lại quá khứ khi mà hắn phải chăm sóc cho bà ba, phải làm những việc xấu xa hắn thấy nhục hơn là thích. Bát cháo hành của Thị Nở có sức mạnh thật kì diệu, nó đã làm cho một người như Chí phải suy nghĩ: “Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây thù?”.

Đồng thời, bát cháo ấy đã lấy lại sức khỏe cho hắn bởi vì hắn càng ăn mồ hôi lại càng ra nhiều. Và tất nhiên, điều này rất tốt đối với một người bị cảm gió như hắn. Tuy chỉ là bát cháo hành bình thường thôi nhưng nó đã giúp Chí khỏi bệnh, hắn thấy bát cháo mới thơm ngon làm sao, những người suốt đời không ăn cháo hành sẽ không biết rằng cháo hành ăn rất ngon…nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo, tự hỏi để rồi tự mình trả lời. Đó chính là bởi vì đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi tay một người đàn bà.

Sự gặp gỡ với Thị Nở như là một điều kì diệu đối với Chí, hình ảnh của Thị giống như một vị cứu tinh trong cuộc đời u ám, say triền miên với những chuỗi dài bi kịch của Chí Phèo. Điều đặc biệt hơn, đây là tình cảm đáng trân trọng giữa những con người có cảnh ngộ khốn cùng.

Tình yêu thương, sự đồng cảm của Thị Nở cùng bát cháo hành như một liều thuốc đã kéo Chí ra khỏi hàng loạt những bi kịch của cuộc đời, giúp Chí tìm lại được chính bản chất lương thiện của mình vốn từ lâu đã bị vùi lấp trong sâu thẳm tâm hồn Chí, nay bỗng được tái hiện như một tia sáng trong cuộc đời tăm tối của Chí Phèo.

Số 3: Phân tích cảnh hồi sinh của Chí Phèo

Có hạt cát vô tình rơi vào làm xót lòng trai. Tháng năm… năm tháng hạt cát không mang tên, không số phận. Hạt cát lại trở thành hạt ngọc quý giá cho đời. Có những tác phẩm ví như đứa con mang nặng đẻ đau qua chín tháng mười ngày của người mẹ: những nhà văn đầy tâm huyết và trách nhiệm với nghề Nam Cao với thiên chức cao cả đó và thai nghén nên đứa con tinh thần Chí Phèo, bên cạnh những Lão Hạc, Đời thừa, Sống mòn.

Chí Phèo, tên nhân vật được Nam Cao đặt thành tên tác phẩm (sau hai lần đổi tên), xuất hiện xuyên suốt tác phẩm với một tấn bi kịch “bị cự tuyệt quyền làm người”. Nghĩa là từ lúc chào đời Chí đã mang lấy cái bi kịch tội nghiệp của số phận! Nhưng có lẽ những diễn biến trầm trọng và hành động của Chí từ lúc gặp Thị Nở đến khi tự kết liễu cuộc đời là khúc ca ai oán nhất, có thể gọi là bi kịch nhất trong những thứ gọi là bi kịch của Chí.

Và Nam Cao, sự hóa thân hài hòa trong cuộc sống của người nông dân nghèo thời kì 1930-1945 với tấm lòng nhân đạo sâu sắc đã tạo nên giá trị của tác phẩm thông qua ngòi bút đầy tài năng của ông.

“Tài sản” duy nhất của một đứa trẻ bị vứt trong cái lò gạch hoang được người ta cứu vớt trước khi sắp chết chỉ là cái váy đụp “rách như tổ đỉa”. Đó là hình dạng nguyên vẹn của Chí Phèo lúc mới ra đời.

Rồi Chí lớn lên, trở thành anh canh điền, sau mấy lần “thay cha đổi mẹ” mà cũng không phải như thế, Chí có được làm con của ai bao giờ đâu? Anh canh điền chân đất, chăm làm lụng ấy vì sự ghen tuông của Bá Kiến đã bị chế độ nhà tù đế quốc “đào tạo” mất đi lương tính sau ngày trở lại quê hương.

Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Bao nhiêu máu và nước mắt đã đổ xuống vì hắn. Chính Bá Kiến và uy quyền giai cấp thống trị mà hắn là đại diện cùng sức mạnh của đồng tiền đã tha hóa con người của Chí.

Chí mất hẳn nhân hình và nhân tính, hắn chỉ còn có men rượu làm bạn. Ai cũng trách hắn, hắn là kẻ cô đơn, nhất là chính bản thân hắn trong mê hồn trận của mình, hắn đã không cảm nhận được hay đôi khi cảm nhận nhưng không thể thay đổi được mọi việc mọi diễn biến xung quanh vì lúc nào hắn cũng say, rồi la hét, rạch mặt ăn vạ để đòi nợ cho gia đình tên Bá Kiến.

Hắn vẫn đương say, vẫn là “con quỷ dữ” cho đến cái đêm trăng ấy bên bờ sông. Hắn bắt gặp Thị Nở. Ả nằm ngủ ngon lành, bộ dạng “hớ hênh” làm thức tỉnh một cái gì đó trong hắn. Đó không phải là tình yêu, mà chỉ là “bản năng” song cũng chẳng phải bản năng của con người bình thường! Rượu điều khiển hắn chứ hắn không tự chủ được bản thân từ khi nhận năm hào của Bá Kiến nữa rồi.

Sau đêm ấy, hắn bị ốm liệt giường. Mọi sự chắc cũng sẽ diễn ra bình thường, hắn cũng sẽ say, sẽ có một mình trong túp ều ọp ẹp của hắn. Nhưng Thị Nở với một chút tình thương trong tâm hồn người phụ nữ đã đến với hắn. Thị mang cho hắn một bát cháo hành. Ôi lạ thật, Chí đã từ ngạc nhiên rồi đến xúc động nghẹn ngào.

Bát cháo là ân huệ từ trước đến nay hắn được nhận từ sự quan tâm, chăm sóc của một con người. Mắt hắn rưng rưng, đây là một sự thay đổi đầu tiên trong hắn, tự bao giờ có thấy hắn khóc bao giờ? “Ai chưa ăn cháo hành không biết là cháo rất ngon”. Phải chăng đời đã dành cho hắn chút ân tình? Và điều gì đã diễn ra ở con người ấy?

Hắn đã dần bỏ rượu, cứ nghe mùi rượu là hắn ớn, những phút yêu đương với Thị Nở chiếm hết thời gian của hắn. Hắn tưởng Thị Nở đã chấp nhận hắn thì mọi người ắt sẽ chấp nhận được hắn thôi.

Nhưng cánh cửa Thị Nở mở cho hắn về với cuộc đời vội khép lại. “Con mụ” dở hơi ấy vì “nhận ra mình còn một bà cô” nên đã “dừng yêu” về nhà hỏi cô. Bà cô là đại diện cho những hà khắc, những định kiến của xã hội cùng với tâm tính của một bà già còn “ở vậy” đã ngăn cấm cháu đến với Chí, một thằng suốt đời chỉ biết rạch mặt ăn vạ.

Chí Phèo nào biết mọi việc diễn ra theo chiều hướng xấu. Buổi sáng chờ Thị Nở đối với hắn thật là dài, và hắn thấy “Chao ôi! Buồn”. Mọi vật mà hằng ngày vì say mèm hắn quên để ý nên thứ gì cũng thấy mới mẻ. Hắn muốn uống rượu nhưng để có thời gian mà yêu, nên thôi. Diễn biến tâm trạng của hắn thật là khó diễn đạt.

Có lẽ nào con người của ý chí, của lương tri đã sống lại trong hắn? Sự vật chung quanh bừng sáng, âm thanh mái chèo khuấy nước nghe là lạ. “Chao ôi! Buồn”, có gì đâu mà chẳng buồn đối với hắn. Hắn chợt nhớ… những ước mơ thời tuổi trẻ một mái gia đình nghèo thôi chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, có chút ít vốn thì nuôi mấy con lợn trong nhà.

Anh canh điền của tuổi đôi mươi chợt hiện về trong Chí. Chí khao khát được trở lại với cuộc sống, trở lại với cộng đồng và trong ý nghĩ của Chí thì Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối đưa hắn trở về với đồng loại.

Bao dự định tốt đẹp mà hắn với Thị Nở sẽ làm như mạch suy tưởng của anh Chí với khát vọng sống ngày xưa. Chí chờ Thị và thời gian như bỡn cợt hắn. Và rồi Thị đến, Thị đem đến cho hắn, nếu lần trước là bát hành nóng, thì hôm nay là gáo nước lạnh tạt vào mặt. Mọi sự bất ngờ quá. Hắn cứ tưởng Thị đùa nên lấy làm thú vị.

Rồi hắn ngạc nhiên! Và hắn hiểu. Hiểu cái xô của Thị. Lần thứ hai Chí khóc. Không thể mô tả bản mặt của Chí lúc này, hắn rất đáng thương. Nam Cao cũng chỉ có thể nhìn nhận đấy là bản mặt của một con vật lạ khác mặt con quỷ trước đó.

Chí uống mọi lúc để có can đảm làm việc gì đó như đi đòi nợ, rạch mặt ăn vạ, hắn chỉ việc uống cho thật say. Quái, sao càng uống càng tỉnh, “những thằng điên và những thằng say không bao giờ làm những việc mà trước đó hắn định làm”. Chí Phèo định đến nhà để “giết chết con mụ khọm già”. Hắn nghĩ tại bà cô của Thị Nở. Hắn xách dao đi trong trạng thái không say cũng không tỉnh nhưng không phải đến nhà bà cô Thị Nở mà lối ấy đến nhà Bá Kiến.

Khi không còn gì, dường như lúc ấy người ta lại còn rất nhiều. Chí còn gì đâu, nhân hình đã mất, nhân cách cũng không còn, Thị Nở là điểm tựa là niềm ao ước duy nhất của Chí để đưa Chí trở về với cuộc sống của cộng đồng. Nhưng Thị Nở đã khép mất cánh cửa hi vọng của đời Chí. Chỉ còn mối thù ai đã xô Chí đến con đường này, tiến không được, lùi cũng không xong. Có lẽ mọi sự đã hết nhưng Chí phải làm cho xong một việc. Đòi lương thiện cho mình.

Lần thứ ba, Chí đến nhà Bá Kiến, kẻ mà ngày mới ra tù về làng Chí định sẽ đến đòi nợ. Lần này Chí không đến lấy mấy hào bố thí, không đòi đi tù mà đòi cái thiêng liêng, cao cả nhất của con người mà chính Bá Kiến đã trực tiếp tước mất của Chí.

“Tôi đến để đòi lương thiện”. Câu nói xuất phát từ tận đáy lòng con người đang đi đến mức đường cùng của bi kịch. Chí Phèo đã vung dao giết chết Bá Kiến và Chí tự kết liễu đời mình ngay ở ngưỡng cửa trở về. Câu hỏi nhức nhối đến đau thương sau cùng của Chí “Ai cho tao lương thiện” và những lần Chí hét “Thì đây… này” chính là câu trả lời của bản thân Chí.

Bằng cảm nhận, người đọc thấy cái lôgic tất yếu lời nói và hành động của Chí Phèo ở cuối tác phẩm là rất tự nhiên, rất phù hợp. Dĩ nhiên dù có những nghiệt ngã và bất ngờ – cái nghiệt ngã cái tự nhiên, cái lạ như quy luật cuộc sống!

Thế nhưng, thử đọc lại và suy ngẫm, ta khó cắt nghĩa được thậm chí ta thấy đối ngược với ý niệm ban đầu: Tại sao Chí Phèo lại có thể nói như một nhà hiền triết? Tại sao con người bản chất nông dân ưa nôm na mách qué và đã có một quá trình bị rượu u mê lại có thể đường hoàng dõng dạc và nói mạch lạc, minh triết đến sâu thẳm cái ước mong vô vọng của mình?

Thực ra, cái dõng dạc cái vênh mặt kiêu ngạo, cái lắc đầu khi đứng trước Bá Kiến lần này là “thừa kế” những lần say đến đòi tiền nhà Đội Tảo, những lần chủ động hung hăng đến gây tai họa cho dân Vũ Đại. Nhưng có lẽ cái hành động rất linh hoạt này, Chí đã “học” từ Bá Kiến bởi hàng ngày hắn lá mặt lá trái với con quỷ nham hiểm này. Còn lời nói? Cái từ “lương thiện” chẳng đã vang lên như điệp khúc khi Chí gần Thị Nở?

Khi Chí khao khát, hắn thèm lương thiện (…) Họ sẽ nhận ra hắn vào (…) những người lương thiện. Mơ ước đôi lứa với Thị Nở, cái “lương thiện” trở thành một bào thai của hi vọng đang cựa quậy… Nhưng khi đối mặt với Bá Kiến cái tiếng ấy được “Cụ Bá” nhắc lại như nói với thằng say một điều mà hắn phải tỉnh.

Ô tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ!

Khát khao cháy bỏng của Chí với cụ Bá lại chỉ là một việc vớ vẩn không đáng lưu tâm “Ồ tưởng gì” cái việc lấy lương thiện cũng dễ như cái việc uống rượu đòi nợ và ăn vạ. Dù hiểu đời đến mức lọc lõi Bá Kiến cũng không thể hiểu ước mơ của Chí nó quan hệ tới sinh tử.

Thế giới quỷ có bao giờ hiểu thế giới – dù là đời thường nhất của người? Do đó lời “cụ Bá” muốn “tri kỉ” với thằng quỷ mà mình vắt nặn nên trở thành lời nhạo báng với anh Chí vừa rời lốt quỷ: Chí Phèo nói và day dứt nhiều tới lương thiện có lẽ là vậy.

Lời nói của Chí Phèo phản ánh một thực tế trần trụi đến thô bỉ: “Định kiến” người đời đã không thể cho Chí qua một cái con sào ngáng đường, mà điều này không khó lắm, bởi chỉ mình Thị Nở, Thị cũng có khả năng mở chốt nâng sào. Chí giận sôi sùng sục trong lời chất vấn mà kết án với Bá Kiến. Thực ra, Chí đang nói những ấm ức mà Thị Nở vừa “Trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô”.

Vậy là ngôn ngữ, giọng điệu thái độ có lẽ rất lạ của Chí đã có những yếu tố hiện thực tiềm năng trong quá khứ. Nó bất ngờ và vẫn tự nhiên là vì thế. Nhưng có lẽ tài năng của Nam Cao ở đây là ông đã mô tả một cách tuyệt vời những “vùng biên” tâm trạng rất vi tế thậm chí mơ hồ của con người, đâu là lời và hành động của Chí Phèo say? Đâu là anh Chí tỉnh? Thật khó rạch ròi. Cách phân tích là nên đọc lại và thêm một lần nữa khâm phục Nam Cao.

Vậy là Chí không còn con đường lựa chọn nào khác, xã hội đã không thừa nhận. Thị Nở cũng đã bỏ hắn, mà trở lại với cuộc sống lưu manh tha hóa, thì Chí không thể nhân tính hắn mất, nhưng phút cuối cùng nó lại trở lại với anh Chí.

Chí Phèo ngoắc ngoải trên vũng máu, đây là hình ảnh mang sức tố cáo lớn. Nó tố cáo chế độ phong kiến, tố cáo nhà tù thực dân với sự nhơ bẩn của đồng tiền đã xô đẩy, tha hóa một con người.

Giá trị nhân đạo của một tác phẩm qua ngòi bút của Nam Cao vừa đau đớn vừa như một nhát dao lạnh ông để lại cho thời đại cùng lên án một chế độ, về một cách cư xử khi nhìn người ta sung sướng thì ghen tuông vùi dập. Đó là hoàn cảnh với bao nhiêu sự cay độc, tàn ác đã chà đạp lên số phận con người.

Chí Phèo và tuổi thơ đã là một bi kịch xót xa ngậm ngùi nhưng Chí Phèo với bi kịch dằng xé trong tâm hồn và những hành động đã bị ép vào con đường cùng thì càng khiến người đọc đau ran vùng cay đắng, nhức nhối một niềm thương cảm hơn. Chí chỉ mơ ước một cuộc đời bình dị, một người vợ cũng bình thường trong xã hội.

Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao xây dựng Thị Nở xấu đến nỗi ma chê quỷ hờn, có lẽ ông đã dụng ý của kì công khắc họa một nhân vật xấu nhất trong văn học Việt Nam xuất phát từ thành tâm đem đến cho Chí một người phụ nữ thích hợp. Khác với mô-típ xây dựng nhân vật của những nhà văn đi trước hoặc cùng thời, nhân vật xấu người đẹp nết hay ngược lại, đó đã là một khía cạnh thể hiện sự nhân đạo của Nam Cao.

Ông nhìn nhận sâu sắc bằng cả trái tim và tâm linh của người viết về cái phần hồn của mỗi người “Với con người phần hồn nặng hơn phần xác” (ý Nguyễn Minh Châu) Chí Phèo và Thị Nở, người thì mất cả nhân hình lẫn nhân tính. Người thì xấu xí lại ương dở “vô tư”.

Nhưng chính Nam Cao đã phát hiện ra phần hồn được đánh thức của họ, xã hội đẩy đưa trong túm bọc thành kiến đã biến chất con người họ chứ như tự tâm hồn họ vẫn khát khao được sống được yêu như những người bình thường.

Hành động quyết liệt cuối cùng của Chí, tìm đến cái chết, có phải là hạn chế của Nam Cao cũng như nhân vật của chị Dậu của Ngô Tất Tố với cái “tiền đồ tối đen như mực”? Đây là điểm nhân đạo lớn của tác giả. Ông không muốn phải đứng về phía xã hội xưng hô với Chí bằng những tiếng “y” hay “hắn”.

Ông không muốn Chí phải trở về với con đường cũ, về với sự cách biệt của xã hội mà muốn con quỷ làng Vũ Đại về với cái anh Chí ngày nào và nếu có chết cũng phải cắt đứt cái đuôi “phèo” rất nặng để thăng hoa thành người. Chí Phèo đã rất tội, ngay từ mở đầu “hắn vừa đi vừa chửi”, đây là sự thèm khát được giao tiếp đến tột độ của nhân vật.

Tác phẩm đóng lại nhưng thực ra trong suy nghĩ của người đọc thì vẫn còn mở. Chị Dậu của Ngô Tất Tố về đâu với cái tiền đồ tối đen như mực? Còn Chí Phèo, cái chết là gì? Phải chăng đỉnh cao của bản cáo trạng tố cáo chế độ phong kiến thực dân là máu của Chí, là nhân mạng? Cái chết như là biểu dương nhân cách, nhân tính. Nó khuyên dụ và cảnh cáo.

Nam Cao ơi! Sao rơi chi nhiều nước mắt? Hẳn tác giả đã khóc như bao lần Nguyên Hồng đã òa khóc cho Huệ Chi: “Nó chết rồi”. Cả tác phẩm Chí Phèo vùi trong cơn say, trong những diễn biến tâm trạng khác nhau còn đối với người đọc, lại là những phút giận và những giờ thương.

Không biết trong cái xã hội đen tối cũ, có bao nhiêu người bị đẩy vào bi kịch cả về tâm trạng lẫn hành động như Chí Phèo. Hỏi Nam Cao? Hỏi xã hội tấm lòng thương cảm của mỗi con người?

Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

Số 4: Cảm nhận sự hồi sinh cảu Chí Phèo

Chí Phèo là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao viết về những người nông dân nghèo. Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao không chỉ lên án hiện thực xã hội đen tối đã đẩy con người vào bước đường tha hóa mà còn thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc khi hướng con người. Nhà văn đã dùng tình thương và tấm lòng cảm thông để phát hiện, bênh vực và trân trọng những phẩm chất tốt đẹp bên trong Chí Phèo- người được coi là “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Ta có thể thấy rất rõ điều này qua những miêu tả của nhà văn Nam Cao về quá trình hồi sinh của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở.

Từ sau khi ra tù, Chí Phèo trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến, hắn triền miên trong những cơn say, trong những lần rạch mặt ăn vạ. Men rượu và những hành động lưu manh của một tay sai đã biến Chí trở thành “con quỷ dữ” trong mắt mọi người. Có lẽ cuộc sống của Chí Phèo sẽ mãi mơ hồ, hắn sẽ mãi sống trong hơi rượu và tội ác nếu không có cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng cũng đẹp đẽ, hạnh phúc nhất với Thị Nở.

Thị Nở là người đàn bà xấu “ma chê quỷ hờn”, nhà lại có mả hủi, tính tình không được sáng suốt, nhanh nhẹn nên bị cả làng hắt hủi, coi thường. Cuộc gặp gỡ tình cờ không chỉ gắn kết giữa hai con người dưới đáy xã hội mà còn đánh thức phần nhân tính đã “ngủ quên”, giúp Chí Phèo hồi sinh sau một chuỗi ngày trượt dài trong tội ác.

Sáng hôm sau, khi Chí Phèo tỉnh dậy từ cơn say thì “trời đã sáng từ lâu”, đây cũng là lần đầu tiên từ khi ra tù mà hắn tỉnh táo. Giây phút tỉnh táo hiếm hoi này khiến Chí nhận thức được thế giới xung quanh, nhận thức được chính mình, gắn thấy “bâng khuâng, mơ hồ buồn”.

Chí nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng của mấy bà đi chợ về”. Đó là những âm thanh của cuộc sống lao động bình dị, những âm thanh ấy ngày nào cũng có, thế nhưng với Chí nó thật đặc biệt bởi đã lâu lắm rồi hắn không nghe thấy, vì hôm nay hắn đã hết say. Cũng chính âm thanh của cuộc sống đã làm Chí nhớ về những ước mơ giản đơn thời trai trẻ “Có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải.

Chúng lại bỏ một con lợn làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Chí từng là một anh canh điền hiền lành, hắn mơ ước có một gia đình nhỏ và sống lương thiện cả đời, thế nhưng chỉ vì sự lăng loàn của bà Ba và sự ghen tuông vô lí của Bá Kiến đã phá vỡ tất cả.

Chí phải đi tù, ra tù lại bị Bá Kiến chi phối để rồi trở thành một tên lưu manh bị cả làng khinh ghét. Trở về thực tại, Chí thấy cuộc đời mình thật đáng buồn, hắn không có gì trong tay “hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”.

Thế nhưng, với Chí tuổi già, đói rét, ốm đau không đáng sợ, điều đáng sợ nhất là sự cô độc. Sau cơn say dài, sau khi tỉnh rượu Chí đã nhận thức được thế giới xung quanh, hiểu được những khát khao và cả những nỗi sợ hãi mơ hồ sâu kín trong lòng mình. Chí đã dần tìm lại những tình cảm, nhận thức, lí chí của một con người, đây là dấu hiệu của sự hồi sinh.

Khi Chí đang đắm chìm trong những suy nghĩ miên man thì Thị Nở vào mang theo một nồi cháo hành nóng hổi. Sự xuất hiện bất ngờ cùng hành động quan tâm đầy ấm áp của Thị Nở khiến Chí xúc động, hắn thấy “mắt hình như ươn ướt”, bởi trong cuộc đời Chí, chưa có người đàn bà nào đối tốt với hắn như vậy “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay đàn bà. Trước hành động chăm sóc ân cần của Thị Nở, Chí thấy “lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với Thị như làm nũng với mẹ…”.

Lúc này hắn cũng hiền lành, lương thiện như bất kì một người nông dân lương thiện nào khác, hắn hiền lành đến khó tin “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt ăn vạ, đâm chém người”. Có thể nói phần lương tri của Chí đã thức tỉnh, Chí đã tìm thấy con người thật của mình.

Nhân tính thức tỉnh, Chí nhận thức thấm thía khát khao cháy bỏng trong lòng mình, hắn muốn trở về cuộc sống lương thiện trước kia, muốn được bắt đầu một cuộc sống mới và thèm được làm hòa với mọi người “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao…”.

Không chỉ khát khao lương thiện, Chí Phèo còn mong muốn có một mái ấm gia đình đúng nghĩa. Hắn trân trọng và khát khao về một hạnh phúc bình dị, đơn sơ “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ”. Không chỉ ấp ủ trong lòng mà Chí đã bộc lộ trực tiếp với Thị Nở, lời bày tỏ “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” đã thể hiện được mong muốn, sự chân thành của Chí.

Qua việc miêu tả quá trình hồi sinh của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở, nhà văn Nam Cao đã thể hiện sâu sắc tình thương, tấm lòng cảm thông với những con người bất hạnh. Nhà văn không chỉ nhìn nhận họ ở diện mạo, hành động bên ngoài mà hướng ngòi bút khám phá phần người bên trong để thấy được những phẩm chất đáng trân trọng. Qua sự hồi sinh của Chí Phèo, Nam Cao muốn khẳng định vẻ đẹp, sức mạnh của sự lương thiện, đó là phần bản chất tự nhiên, tốt đẹp mà không có thế lực tàn bạo nào có thể hủy diệt.

Số 5: Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo

Đọc câu chuyện, người đọc bị ám ảnh mãi về sự thức tỉnh nhân tính của Chí Phèo, về sức mạnh của tình thương yêu con người trong xã hội. Chí Phèo từng là một đứa trẻ bị bỏ rơi. Một anh thả ống lươn một ngàv nhặt được hắn “trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp bên cái lò gạch bỏ không “. Tuổi thơ của hắn qua tay hết người này đến người khác và khi lớn lên thì làm canh điền cho Lí Kiến. Bị Bá Kiến ghen, đẩy vào tù, sau bảy tám năm, nhà tù thực dân đã biến anh canh điền chất phác đã trở thành một thằng lưu manh.

Chí Phèo ra tù, hắn tìm đến nhà Bá Kiến để trả thù. Bản chất của một thằng lưu manh, biến chất thể hiện trong cách chửi rất “bài bản”, ngoa ngoắt: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cùng thể, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời có hề gì trời có của riêng nhà nào?. Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai.

Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng làng Vũ Đại ai cũng tự nhủ: “Chắc nó trừ mình ra! Không ai lên tiếng cả. Tức thật!, Ờ! thế này thì tức thật!. Tức chết đi được mất. Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn… ”.

Từ cái dáng hình đáng sợ: “trông đặc như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những vét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế, trông gớm chết…

Đến cách ăn vạ thật đáng sợ: lấy mảnh chai vỡ mà cào vào mặt, vừa cào vừa lăn lộn. Từ một thằng lưu manh, chế độ phong kiến mà đại diện là Bá Kiến đã hoàn thành nốt quá trình tha hoá để biến Chí thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Cùng với những chuỗi ngày dài chìm trong men say là những ngày hẳn đã phá đi biết bao ngôi nhà, làm chảy máu và nước mắt của biết bao người lương thiện. Hắn làm tất cả những việc đó trong khi say, hắn không nhận thức được rằng mình đang trượt dài xuống vực thẳm và người ta đang lảng tránh hắn như lảng tránh một con vật đáng sợ nào đó.

Cuộc đời Chí tưởng cứ thế diễn ra, tối tăm, mù mịt. Không ai có thể tin hay nghĩ rằng có thể một lần con quỷ dữ ấy lột xác trở lại thành con người. Vậy mà điều kì diệu đã xảy ra, dù ngẳn ngủi, dù bất thường nhưng vẫn là một điều kì diệu vĩ đại, điều kì diệu có thể thay đổi một con người.

Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở không chỉ đơn giản là một cuộc đụng chạm về xác thịt. Đó chỉ là khởi đầu, buổi tối bên bờ sông, dưới ánh trăng rười rượi chỉ làm khơi dậy thứ tình yêu mang tính bản năng con người.

Sự thức tỉnh của nhân vật thực sự bắt đầu vào những giờ phút sau đó. Lần đầu tiên, Chí cảm nhận được âm thanh của cuộc sống “ Mặt trời đã lên cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ chim riu rít bên ngoài đủ biết (….).Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ.

Anh thuyền chài gõ mái chèo đuôi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy.,.”. Và cũng lần đầu tiên, sau những ngày say, hắn biết thế nào là buồn, cái buồn mơ hồ mà lại thật thấm thía. Một người bắt đầu biết suy nghĩ về cuộc sống có nghĩa là cũng đã biết tự chiêm nghiệm về mình. Và Chí Pheo đau đớn khi nhận ra rằng: Hắn là một kẻ trắng tay.

Đứng ở bên kia dốc cuộc đời, hắn biết mình đã già, “Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn“. Chàng canh điền từng ước mơ có một gia đình giản dị, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, giờ đây nhìn thấy trước số phận mình. “đói rét, ốm đau và cô độc”. Rò ràng là đã có một sự chuyển biến lớn trong tâm hồn của Chí.

Sự chuyển biến ấy đánh thức bản năng ham sống, muốn sống của hắn nhưng chưa chỉ ra cho hắn biết phải làm thế nào để có thể được sống lại lần nữa đúng với hai từ con người. Con đường thực sự mở ra vào ngày hôm sau khi Thị Nở mang sang cho Chí Phèo một bát cháo hành.

Không biết một người đàn bà dở người lại có thể nấu cháo hành ngon đến vậy hay vì Chí lần đầu tiên được người ta cho, lần đầu tiên được ăn chào hành nên mới cảm thấy cháo hành ngon mà hương cháo hành cứ ám ảnh Chí mãi không thôi. Bát cháo hành là tình cảm chân thành, thứ tình người lương thiện đầu tiên mà hắn được cho, một cách hoàn toàn tự nguyện. Điều ấy làm Chí xúc động sâu sắc.

Thị Nở xấu đến ma chê quỷ hờn nhưng lại mang một tình người đẹp thánh thiện, thứ tình người trong sáng, chân thành không một chút vụ lợi và tính toán. Tình người ấy, cùng với hương cháo hành đã dẫn dắt tính người quay trở lại trong hình hài của một con quỷ dữ, đánh thức ước mơ thời trai trẻ, đánh thức khát khao lương thiện tưởng chừng như đã lụi tắt từ lâu.

Và quan trọng nữa, nó đánh thức niềm hi vọng ở Chí, khát khao được trở về với cuộc sống của loài người, được họ đón nhận. “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ nhận thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai.

Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Tình thương yêu con người chân thành đã có sức mạnh cảm hoá vĩ đại, không chỉ thế, nó còn mang lại cho con người sự sống và sức sống mới, ngay ở cả những kẻ tưởng chừng là “vô phương cứu chữa” như Chí Phèo. Chí Phèo đã thức tỉnh thực sự.

Tuy rằng cuối cùng, cánh cửa được mở ra bởi tình thương yêu con người, nhưng lại của một người đàn bà dở người, trong một xã hội tăm tối nên đã vội vàng đóng chặt. Nhân tính trở về, Chí không thể tiếp tục cuộc đời của một tên quỷ dữ, nhưng lại cũng không thể trở lại làm người. Bi kịch được đẩy lên đỉnh điểm chỉ còn một cách giải quyết cuối cùng là cái chết. Chí Phèo đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình. Không có tình yêu thương, cuộc sống sẽ chỉ còn là tối tăm và bất hạnh.

Tình thương yêu là hạnh phúc của con người. Tâm hồn con người giống như một vườn cây mà tình yêu thương là những trận mưa tưới mát, làm cho vườn cây tươi tốt, vươn dậy đầy sức sống, dù cho trước đó đã có lúc nó lụi tàn, héo úa.

Đã có biết bao câu chuyện cảm động về sức mạnh của tình yêu thương… Cô bé nọ đưa cho người hàng xóm bất hạnh của mình, khi mẹ bé nói cô ấy đang đau khổ vì đứa con của cô mới qua đời, một chiếc băng gạc.

Ý nghĩ ngây thơ về việc băng bó một vết thương nhưng thực sự lại có thể là chiếc băng gạc băng bó cho vết thương lòng tưởng chừng không bao giờ vơi cạn, tình yêu thương giúp con người ta trở nên mạnh mẽ, vượt lên trên nỗi đau để chiến thắng số phận. Cũng khó khăn như sự thức tỉnh của Chí Phèo, ta nhớ đến câu chuyện về Gia-ve trong “Những người khốn khổ” của V.Huy- gô.

Một kẻ được miêu tả mang bộ mặt và tâm hồn của chó sói, chỉ biết đến pháp luật đến mức trở thành nô lệ của pháp luật cuối cùng lại phải khuất phục trước con người sống trong triết lí tình thương “người với người sống để yêu nhau” của Giăng-van- giăng. Rượt đuổi con mồi của mình đến cùng để Gia-ve nhận ra rằng, cái thứ pháp luật hà khắc mà hắn tôn thờ, phục dịch trong xã hội đó là một mớ lí thuyết khô cứng, mất hết nhân tính.

Chỉ có tình yêu thương con người trong sáng không vụ lợi mới luôn toả sáng. Tình yêu thương không chỉ giúp thay đổi quan niệm mà còn có sức cảm hoá ghê gớm, bẻ gãy tất cả những gì là bóng đêm, là trở ngại để con người sống gần với con người hơn.

Tình yêu thương cũng cần thiết như ánh sáng, như không khí trên Trái Đất này vậy, Con người không thế sống mà không có tình thương yêu. Ý thức được điều đó mỗi chúng ta cần bồi dưỡng cho mình một trái tim nhân hậu, bao dung; bồi dưỡng tình yêu thương dành cho mọi người, để được cho và được nhận. Hãy để tình yêu thương trong sáng và chân thành được bao bọc khắp thế gian và mỗi con người sẽ được sống trong ngập tràn yêu thương.

Số 6: Phân tích sự hồi sinh của Chí Phèo

“Chí Phèo” (1941) là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài nông dân trước Cách mạng. Nó là một truyện ngắn có thể “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán 1930-1945. Tác giả đã xây dựng thành công một nhân vật điển hình, nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa sâu sắc vào loại tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam.

Bi kịch Chí Phèo là bi kịch của một nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, bị cự tuyệt quyền làm người, hay nói một cách khác là số phận bi thảm của một con người muốn được làm người mà không thể được. Nam Cao đã viết về tấn bi kịch của Chí Phèo bằng một bút pháp vô cùng sắc sảo: biến hóa lúc kể, lúc tả, triết lí thì thấm thía, trữ tình thì đau đớn xót xa đầy ám ảnh nghệ thuật, làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỉ nay.

Nam Cao không nói về sưu thuế dã man, không nói về tô tức mà ông coi những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp, có một cái nhìn mới mẻ độc đáo, sâu sắc trong việc thể hiện nỗi đau khổ trăm chiều của người nông dân nghèo bị áp bức bóc lột tàn tệ trong xã hội thực dân phong kiến.

Chí Phèo bất hạnh ngay từ khi sơ sinh “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch bỏ không”. Anh thả ống lương “rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù”, sau đó hắn bị đem bán cho bác phó cối. Chí lớn lên trong cảnh bơ vơ, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một mái lều che thân, không một tấc đất cắm dùi “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến năm 20 tuổi thì Chí Phèo làm canh điền cho lí Kiến.

Có thể nói cái trang đời thơ ấu và thanh niên của Chí Phèo là 20 năm trời đắng cay không chốn nương thân, Bi kịch của anh canh điền này bắt đầu từ chuyện bà Ba ông lí còn trẻ lắm mà “lại cứ hay ốm lửng, bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì đấy”. Chí không phải là gỗ đá, nhưng hắn “thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ”.

Chỉ một chuyện ghen tuông không đâu, Bá Kiến đã ngấm ngầm cấu kết với quan trên bắt Chí giải lên huyện, bỏ tù hắn bảy tám năm trời. Cái nhà tù thực dân đã biến Chí Phèo từ một nông dân lương thiện, hiền lành trở thành một tên lưu manh, một con quỷ dữ trong làng Vũ Đại.

Đi tù “biệt tăm”, bỗng đâu hắn lại “lù lù lần về”. Một Chí Phèo đã hoàn toàn khác hẳn: “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Chí mặc cái quần nái đen, cái áo táy vàng, cái ngực và cái tay chạm trổ rồng, phượng nói một ông tướng cầm chùy… Đó là hình ảnh Chí Phèo lúc ngồi uống rượu với thịt chó ở chợ từ trưa tới xế chiều, cho đến lúc say khướt.

Hắn đã hành động một cách dữ dội: xông thẳng đến nhà Bá Kiến chửi “mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất”, đập cái vỏ chai vào cái cổng, rạch mặt, kêu trời ăn vạ! Chí Phèo đã hành động như một tên đầu bò vồ cùng ngang ngược. Tuy nhiên hắn đã nhận diện ra Bá Kiến là kẻ thù của mình. Nhưng chỉ một bữa rượu, một vài câu mơn trớn, một đồng bạc đãi thêm của cụ Bá đã làm cho “Chí Phèo vô cùng hả hê”.

Hắn mơ hồ về chuyện hắn “còn có họ” với lí Cường nữa đấy! Mấy hôm sau, Chí lại dở trò lưu manh đốt quán mụ bán rượu, lại vác dao đến nhà cụ Bá xin đi ở tù “bẩm quả đi ở tù sướng quá!”. Chỉ sáu ngày sau khi Chí về lại làng, hắn đến nhà Bá Kiến lần thứ hai sinh sự: “Cái mặt thì ngầu lên, hai chân thì lảo đảo, cái môi bầm lại mà run bần bật”. Hắn nghiên răng năm dọa: “… con phải đâm chết vài ba thằng rồi cụ bắt con giải huyện”.

Cụ Bá cười khanh khách, vỗ vai Chí Phèo một cái, hắn như bị thôi miên, rồi vác dao đến nhà đội Tảo đòi nợ cho cụ Bá. Chẳng xảy ra chuyện đổ máu. Chí Phèo vênh vênh cầm năm chục đồng bạc ra về, tự đắc: “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Từ đó Chí Phèo trở thành “đầy tớ chân tay mới” của Bá Kiến. Thế là Chí có nhà, có năm sào vườn ở bãi sông, năm đó hắn hăm bảy, hăm tám tuổi.

Cũng kể từ đấy, Chí mất phương hướng hẳn, hắn trở thành tay sai đắc lực của Bá Kiến. Hắn đã bán mình cho quỷ dữ, và chẳng bao lâu hắn cũng trở thành một con quỷ dữ ghê tởm. Hắn chìm ngập vào vũng bùn tăm tối, tội lỗi. Hắn mất dần ý niệm về thời gian, không biết tuổi tác cuộc đời mình “đã dài bao nhiêu năm rồi”.Năm nối năm, tuổi nối tuổi, “ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi?”.

Bộ mặt Chí Phèo giờ đây như “cái mặt của con vật lạ” với màu “vàng vàng mà muốn xạm màu gio” với bao nhiêu là sẹo “vằn dọc vằn ngang”, vết mảnh chai ăn vạ kêu làng! Cuộc đời hắn chồng chất tội lỗi “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém, người ta giao cho hắn làm”. Hắn đâm thuê chém mướn để kiếm tiền mà uống rượu. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông.

“Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận”. Chí Phèo bị mua chuộc, bị xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi. Muốn giết người, muốn đâm chém và cướp giật cần gan và liều mạng, hắn đã tìm đến rượu. Mất dần nhân tính, hắn trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại : “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiều cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người lương thiện”.

Chí Phèo đã bị cả xã hội ruồng bỏ. Cái thẻ có biên tên tuổi hắn cũng không có; trong sổ làng, người ta vẫn khai hắn vào hạng dân lưu tán, lâu năm không về làng. Tất cả dân làng đều sợ hắn, “tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”. Hắn chửi, ai cũng nghĩ “mặc thây cha nó”, ai cũng chẳng thèm nghe, khác nào “những người say rượu hát”. Hình ảnh Chí Phèo “vừa đi vừa chửi” gây cho người đọc nỗi ám ảnh về bi kịch của một người điên khùng, mất trí đang trải qua nỗi cô đơn tuyệt vọng.

Hắn chửi tuốt, chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn, “tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chỉnh hắn!”. Chí Phèo cứ chửi, “chửi rồi lại nghe”. Hắn bị bao vây bởi một “sự im lặng đáng sợ”. Năm thì mười họa mới “ba con chó dữ với một thằng say rượu!”. Hắn đã hoàn toàn bị xã hội dứt khoát cự tuyệt không được nhìn nhận là người.

Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh một hiện thực khá phổ biến có tính quy luật ở nông thôn nước ta dưới thời Pháp thuộc: nhiều người lao động lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường cùng, đã phản kháng lại, lưu manh, liều mạng để tồn tại. Năm Thọ “đầu bò u bướu” vừa đi mất tăm lại có Binh Chức lần về, Binh Chức chết lại nở ra Chí Phèo. Biết đâu thị Nở lại không để nơi lò gạch cũ một Chí Phèo con trong cái váy đụp nữa?

Bọn hào lí, một mặt bóp nặn dân lành đến tận xương tùy, mặt khác “lại phải ngậm miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn là dân cùng nên liều lĩnh, lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình”.

Chừng nào còn bọn cường hào sâu mọt, độc ác, áp bức bóc lột tàn tệ dân lành, thì chừng đó còn người lao động lương thiện bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, phải kiếm ăn bằng đâm thuê chém mướn, bằng cướp giật. Cái xã hội ấy đã cướp đi của họ cả bộ mặt lẫn linh hồn người, hủy diệt nhân tính và đã cự tuyệt quyền làm người của họ. Nhân vật Chí Phèo đã cho thấy cái quy luật tàn bạo ghê sợ đó trong xã hội cũ.

Đoạn văn Nam Cao kể về chuyện Chí Phèo uống rượu với Tự Lãng là một tình tiết làm rõ thêm bi kịch cô đơn, điên khùng, đau đớn đến cùng cực của một kẻ bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Tự Lãng có “bộ râu lờ phờ”, làm nghề thầy cúng và hoạn lợn. Vợ chết đã bảy, tám năm con gái chửa hoang trốn đi.

Lão cũng cô đơn như Chí Phèo. Như “đôi tri kỉ cuồng” uống rượu dưới trăng. Chúng uống sạch ba chai, “ngả vào nhau mà cười”. Say rượu, lão Tự “bò như cua”. Chí Phèo vật lão ra mà vuốt râu lão. Chí phanh ngực, vừa đi vừa gãi, lần đường tìm về mảnh vườn và cái lều của hắn. Chính trong đêm trăng ấy, Chí đang “bứt rứt quá, ngứa ngáy quá” thì hắn bắt gặp thị Nở đang nằm ngủ “cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ”.

Chí Phèo đã xông tới người đàn bà “xấu ma chê quỷ hờn”. Cuộc làm tình của Chí Phèo lúc đầu chỉ mang tính bản năng sinh vật ở một gã đàn ông say rượu với một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích” mà thôi!

Nhưng thật kì lạ, sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc, chân thành của thị Nở đã đánh thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong kẻ từng rạch mặt ăn vạ và đâm thuê chém mướn này. Chí Phèo bị cảm. Thị Nở đã “quàng tay vào nách hắn” và “hắn đu vào cổ hai người lảo đảo đi về lều”. Bát cháo hành của thị Nở làm cho Chí Phèo gần như thay đổi hẳn.

Lần đầu tiên hắn được nếm mùi cháo: “trời ơi cháo mới thơm làm sao!”. Cũng lần đầu tiên hắn được châm sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Mấy chục năm qua, hắn muốn ăn thì phải dọa, phải cướp, thế mà “lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Và cũng là người đàn bà độc nhất trong làng Vũ Đại nhận biết bản chất lương thiện của Chí Phèo. Thị nhìn Chí Phèo ăn cháo hành rồi thết lên: “Ôi sao mà hắn hiền…”. Chỉ có thị Nở mới cảm nhận được: “hắn cười nghe thật hiền…” mà thôi!.

Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm “gặp gỡ” thị Nở cho thấy Nam Cao là bậc thầy về nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Sự thức tỉnh của linh hồn trong Chí Phèo được tác giả kể lại thật xúc động, nhiều xót thương. Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cá.

Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Lòng hắn buồn “chao ôi là buồn!”. Lương tâm hắn bị lay động. Tiếng vọng của đời thường đã đánh thức linh hồn Chí. Hắn nhớ lại những ngày xưa, một thời từng mơ ước, cái ước mơ bình dị của những người dân cày nghèo khổ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng.

Càng hồi tưởng càng buồn càng lo âu. Ngoài bốn mươi tuổi đầu, Chí cảm thấy “đã tới cái dốc bên kia cuộc đời”, và hắn lo, hắn sợ “đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Chí Phèo vừa húp cháo hành vừa trìu mến nhìn thị Nở, rồi hắn vẩn vơ nghĩ gần nghĩ xa. Lâu nay hắn chỉ đâm chém và cướp giật. “Nếu không con sức mà cướp giật, dạo nạt nữa thì đã sao?”. Thằng lưu manh “chỉ mạnh về liều”. Sẽ có một lúc nào đó “không thể nào liều được nữa” thì bấy giờ mới nguy!.

Nam Cao đã cho chúng ta thấy, Chí Phèo vốn là một người lao động cùng khổ lương thiện “cái bản tính của hắn thường bị lấp đi”. Cùng với “tình yêu” sự săn sóc của thị Nở, “trận ốm thay đổi hẳn về sinh lí, cũng thay đổi về tâm lí nữa” của Chí Phèo. Đó là một cái nhìn sâu sắc với tấm lòng xót thương đầy tình người của nhà văn này đối với con người nghèo khổ, lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi.

Linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra. Chí Phèo bỗng thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Hắn khao khát được mọi người “sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Đàn bà cũng như thị Nở “không có men như rượu”, nhưng Chí “say thị lắm!”. “Với một vẻ mặt rất phong tình”, hắn bảo thị Nở: “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”.

Câu nói ấy là một câu nói “tình từ”, đã biểu lộ chân tình cái khao khát muốn được làm người, “thèm lương thiện” và “muốn làm hòa với mọi người” của Chí Phèo. Có nghe hắn chửi, có nhìn thấy hắn rạch mặt, ăn vạ, có mục kích hắn say rượu vác dao đi đâm người… thì ta mới thấy xúc động vô cùng trước những khao khát bình dị ấy của Chí Phèo, của con người đau khổ bất hạnh!… Câu trả lời của thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn.

Như một kẻ chết đuối giữa vực sâu, Chí Phèo “bám” được thị Nở cứ tưởng là được cọc, đâu ngờ chỉ là rễ bèo. Chí Phèo “say thị lắm”, nhưng đến hôm thứ sáu thì Thị nghĩ bụng: ” hãy dừng yêu để hỏi cô Thị đã”. Như ta biết, con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra đã bị đóng sầm lại! Bà cô đã đay nghiến thị Nở, bà thấy cháu bà ” sao mà đĩ thế?”. Bà thấy nhục nhã, bà gào lên “như con ma dại”.

Bà quyết không cho phép cháu bà “đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Chỉ trừ Bá Kiến và thị Nở ra, chứ còn ai nữa dám đi qua mặt Chí, dám đối diện với Chí! Tất cả quen coi hắn là “quỷ dữ” mất rồi. Hôm nay, linh hồn hắn trở về, nhưng không ai nhận ra hắn “muốn làm hòa với mọi người” nhưng ai nhận!

Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần, đau đớn, quằn quại. Hắn “ngẩn người” khi nhìn và nghe Thị nói. Hắn “sửng sốt” đứng lên gọi Thị. Hắn đuổi theo “nắm lấy tay” Thị nhưng bị thị gạt ra, dúi thêm cho một cái ngã “lăn khoèo xuống sân”.

Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn tuyệt vọng. Hắn vớ một hòn gạch toan đập đầu ăn vạ! Hắn phải “đâm chết con đĩ Nở kia”, “đâm chết cái con khọm giá nhà nó”. Hắn lại uống, lại uống… nhưng “càng uống càng tỉnh ra”, tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình: quyền làm người được sống lương thiện đã bị xã hội và đồng loại dứt khoát cự tuvệt.

Rồi “hắn ôm mặt rưng rức” cho đến khi đã say mềm người rồi hắn đi. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng với câu nói lảm nhảm: “Tao phải đâm chết nó”. Chính vào buổi trưa “trời nắng, đường vắng” ấy, Chí Phèo lần thứ ba đến gặp Bá Kiến “không đòi tiền” như mọi khi mà đòi lương thiện, đòi quyền “làm người lương thiện!”.

Câu nói của Chí Phèo: “… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!…” đó là những lời đanh thép vạch mặt, kết án tên cường hào xảo quyệt Bá Kiến, đồng thời là tiếng kêu thương tuyệt vọng của một kiếp người đau khổ! Chí Phèo “văng dao tới” giết Bá Kiến rồi tự sát. Chí đã giết chết con quỷ dữ làng Vũ Đại đã làm hại đời anh.

Chí không muốn sống nữa, vì giờ đây, thức về nhân phẩm đã trở về. Chí không thể sống kiểu lưu manh, không thì làm quỷ dữ, sống như thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết bi thảm, quằn quại trên vũng máu của mình, chết trong tiếng kêu uất hận đau thương, đầy xót xa ám ảnh. Anh ta đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước mặt anh.

Chí Phèo là một hiện tượng lưu manh hóa ở nông thôn mang tính chất điển hình, có ý nghĩa kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đẩy người dân cày nghét vào kiếp sống tối tăm thú vật, cướp đi của họ cả bộ mặt, cả linh hồn người. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: “Ai cho tao lương thiện!” là câu hỏi chứa chất phẫn uất, đau đớn, mãi mãi làm day dứt lòng người.

Làm thế nào để con người được sống cuộc sống lương thiện, bình dị trong cái xã hội tàn bạo ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đà đặt ra câu hỏi lớn ấy. Với cảm quan hiện thực sắc sảo đặc biệt, Nam Cao đã vạch ra mối mâu thuẫn giai cấp gay gắt ở nông thôn và tình trạng tha hóa phổ biến trong cái xã hội vô nhân đạo đó.

Truyện “Chí Phèo” vừa chứa chan tình cảm nhân đạo, vừa mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo, xứng đáng được coi là một kiệt tác.

Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

Số 7: Phân tích cảnh hồi sinh của Chí Phèo

Khi nhận định về các tác phẩm của Nam Cao, Nguyễn Hoành Khung cho rằng: “Trong mảng sáng tác về nông dân của Nam Cao, người đọc thường gặp những nhân vật xấu xí, thô lỗ cục cằn và những chuyện nhục nhã của họ.

Chính vì thế mà một số người tỏ ra hoài nghi giá trị hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nam Cao, có biết đâu rằng, chính với đám nhân vật “có vấn đề” đó mà cái nhìn hiện thực và quan điểm nhân đạo của nhà văn mới thể hiện rõ, đầy đủ nhất”.

Và nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao là một nhân vật “có vấn đề” như thế, nhưng chính những lời văn mà tác giả viết về nhân vật này và những bi kịch mà y phải chịu đựng đã thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm mà Nam Cao muốn gửi gắm qua nhân vật này.

Chí Phèo có một tuổi thơ thật bất hạnh: Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo đã là một đứa con hoang, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ và không biết cha mẹ mình là ai. Chí lớn lên nhờ sự đùm bọc, cưu mang của dân làng. Lớn lên Chí đi ở hết nhà này đến nhà nọ.

Cứ như thế, Chí lớn lên bình yên giữa những người dân nghèo khổ nhưng hiền lành. Chí cũng có ước mơ riêng của mình, đó là có một gia đình nho nhỏ “chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”. Đến năm hai mươi tuổi, Chí trở thành một chàng trai có vẻ đẹp toàn vẹn từ ngoại hình mạnh khỏe cho đến nội tâm hiền lành.

Nhưng rồi Chí đi làm cho nhà Bá Kiến và cũng chỉ vì chuyện ghen tuông vớ vẩn Chí bị đẩy vào tù, sau bảy, tám năm biệt tích trở về làng giờ đây Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi từ ngoại hình cho đến tính cách. Ngoại hình của Chí thật đáng sợ: cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết.

Ngoại hình ấy ẩn chứa một tính cách đã hoàn toàn thay đổi, không còn tính cách “lành như đất” nữa mà giờ đây hắn chuyên đi đập đầu, rạch mặt ăn vạ, hắn lấy rượu để bầu bạn với mình và rồi trong cơn say hắn đến nhà Bá Kiến để trả thù nhưng kết quả của cả hai lần là hắn đã bị Bá Kiến “ru ngủ” bằng rượu, thịt và tiền.

Và rồi từ đó, Chí rơi vào trạng thái mất phương hướng, không biết ai là kẻ thù của cuộc đời mình và lại tiếp tiếp tục rơi vào cái bẫy mà Bá Kiến đã giăng sẵn, hắn vào tù vì Bá Kiến và rồi khi ra tù lại tiếp tục biến mình thành tay sai cho chính kẻ thù của mình, còn gì nhục nhã hơn là điều đó.

Cứ thế, cuộc đời hắn trượt dài trong những bi kịch, hắn không làm gì ngoài việc rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá. Cuộc đời hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”.

Cứ như thế đời hắn trượt dài, nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Cuộc đời hắn đã xem như là bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua. Ngay cả bản thân hắn cũng quên sự có mặt của hắn ở trên đời.

Nhưng rồi người nông dân bị lưu manh hóa ấy cuối cùng cũng đã thức tỉnh. Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá ấy của Chí vẫn còn le lói một ánh sáng của lương tâm, lương thiện chỉ cần có cơ hội thôi là sẽ bừng sáng. Và Nam Cao đã cho Chí một cơ hội để ánh sáng ấy có dịp bừng lên, đó là cho Chí được gặp gỡ với Thị Nở.

Chính cuộc gặp gỡ ấy, sự chăm sóc ân cần của Thị cùng bát cháo hành nóng hổi nghi ngút khói đã làm sống dậy bản chất lương thiện của Chí. Được Thị Nở chăm sóc, Chí Phèo rất ngạc nhiên vì xưa nay nào hắn có thấy ai tự cho ai cái gì, hắn phải dọa nạt hay cướp giật mới có.

Lần đầu tiên khi tỉnh giấc, hắn bâng khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ và cùng với đó là khát vọng được sống một cuộc sống khác, được hòa nhập cùng mọi người, họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện.

Hắn tự đặt ra câu hỏi cho mình: hắn có thể làm bạn được sao lại chỉ gây thù? Thị Nở chính là người mà Chí đặt niềm tin vào, Chí tin Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối giúp Chí trở về với cuộc sống đó.

Nhưng rồi, khát khao sống một cuộc sống lương thiện của hắn vừa mới được nhen nhóm thì đã bị dập tắt. Chiếc cầu nối ấy đã bỏ hắn mà đi chỉ vì lời nói của bà cô: “Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”, bỏ lại Chí với nỗi đau khổ đến tột cùng, hắn đau xót nhận ra rằng sẽ chẳng còn chiếc cầu nào mang hắn về với cuộc sống của những người lương thiện nữa.

Những lời lẽ cuối cùng đã bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm của Chí: “Tao muốn làm người lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!”.

Và cuối cùng, bi kịch đã biến thành thảm kịch. Tột đỉnh của sự khổ đau đã biến thành tột đỉnh của sự căm thù, uất hận. Chí thấy kẻ thù trước mắt cướp đi tình yêu của hắn chính là bà cô Thị Nở nhưng trong sâu thẳm tâm hồn có lẽ hắn vẫn ý thức được ai mới chính là kẻ thù gây nên một chuỗi dài bi kịch của cuộc đời mình.

Hắn xách dao đến nhà bà cô Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Trong sự bế tắc đến tột cùng, Chí đã tự tìm ra lối thoát cho riêng mình, đó là cái chết, chết để kết thúc tất cả bi kịch của cuộc đời Chí.

Nhân vật Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu cho số phận của người nông dân trong xã hội nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng của mình đối với những người có số phận bất hạnh. Ở sâu thẳm trong tâm hồn họ chính là sự khát khao hạnh phúc, được yêu thương và sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Số 8: Cảm nhận sự hồi sinh cảu Chí Phèo

Nhà văn Nam Cao chính là một trong những nhà văn hiện thực tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Ông chuyên viết về đề tài những người trí thức nghèo hoặc những người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa. Tiêu biểu nhất và tác phẩm khẳng định vị trí của ông trong nền văn học nước nhà chính là truyện ngắn Chí Phèo.

Tác phẩm Chí Phèo là tấn bi kịch của người nông dân nghèo trong xã hội thực dân nửa phong kiến trước cách mạng tháng Tám. Nhân vật chính của truyện ngắn chính là Chí Phèo và viết về bi kịch của cuộc đời Chí. Có hai bi kịch nối tiếp nhau trong cuộc đời của Chí đó chính là bi kịch bị tha hóa từ một chàng thanh niên lương thiện trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bi kịch thứ hai chính là bi kịch khi bị từ chối làm người lương thiện, từ chối quyền làm người, quyền được hạnh phúc.

Trước tiên ta xét ở bi kịch thứ nhất của Chí Phèo. Ở phần đầu khi Chí Phèo vốn là một đứa trẻ có tuổi thơ khốn khổ, bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ từ thời còn quấn tã. Sau đó qua tay nhiều người nuôi cuối cùng thì hắn bơ vơ một mình. Năm Chí hai mươi tuổi thì đi làm canh điền cho nhà Lí Kiến.

Vốn Chí là một anh canh điền khỏe mạnh, hiền lành, nhút nhát nhưng chính Lí Kiến đã đẩy hắn vào tù khi tận mắt chứng kiến cảnh Chí bóp đùi cho bà Ba. Trước khi vào tù ta có thể thấy được Chí là người nông dân lương thiện, có ước mơ như bao người khác đó là có một gia đình nhỏ, mình thì cuốc mướn, cày thuê còn vợ dệt vải.

Tuy nhiên chính vì sự sai khiến của bà Ba cùng với cơn ghen của Lí Kiến khiến ước vọng ấy tan biến, đẩy người nông dân hiền lành ấy vào ngục tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào và những năm tháng trong tù đã biến một chàng thanh niên vốn hiền lành, khỏe mạnh trở thành một “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.

Chí từ đây đã bị cướp hết cả nhân hình, nhân tính. Cái vẻ bề ngoài của Chí cũng không giữ được hình hài như xưa mà “cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng, hai mắt gườm gườm…. Cái ngực phanh, đầy nét chạm trổ…”. Không chỉ thay đổi về ngoại hình mà tính cách của Chí cũng khác xưa. Không giữ được sự lương thiện của mình nữa mà thay vào đó là một thằng liều mạng, có thể làm mọi việc như một thằng đầu bò chính cống: rạch mặt ăn vạ, đánh nhau, đâm thuê chém mướn, đập phá…

Khi người đọc tưởng rằng Chí sẽ cứ như vậy mãi và kết liễu cuộc sống trong một lần ẩu đả nào đó hoặc trong một cuộc nhậu. Tuy nhiên bằng trái tim giàu lòng nhân đạo thì Nam Cao đã không làm vậy mà khiến Chí gặp một biến cố trong cuộc đời khiến cho sự lầm đường lạc lối như được thức tỉnh. Đó chính là sự kiện Chí Phèo gặp Thị Nở trong một đêm trăng ở vườn chuối.

Vốn Thị Nở là một người đàn bà quá lứa, lỡ thì và lại còn xấu xí. Thế nhưng khi Chí Phèo ốm một trận thập tử nhất sinh và Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành trên tay khiến cho Chí cảm thấy lương tâm thức tỉnh, có sự biến đổi mạnh mẽ cả về tâm sinh lí. Sự giản dị, chân thành của Thị Nở đã làm sống dậy bản chất lương thiện vốn có của Chí. Trong sáng ấy lần đầu tiên Chí không say từ hôm ra tù, lần đầu hắn thấy mình tỉnh táo và các giác quan hoạt động bình thường như vậy.

Chí lắng nghe được những âm thanh của cuộc sống đời thường mà lâu nay hắn chẳng để ý tới. Đó là tiếng chim hót, tiếng của những người đi chợ, của những người thuyền chài đuổi cá… Tất cả những âm thanh bình dị ấy như tiếng gọi thiết tha của cuộc sống khiến cho Chí có quyết định táo bạo đó chính là muốn trở thành người lương thiện. Bởi Chí khao khát muốn được thực hiện ước mơ trước kia Chí từng mong muốn.

Hiện thực luôn luôn tàn khốc và con đường trở lại làm người lương thiện của Chí Phèo như bị đóng sầm lại trước mắt hắn. Trước tiên là sự phản đối gay gắt của bà cô Thị Nở với hắn. Bà cô giống như định kiến của xã hội bấy giờ, là cách nhìn nhận của cả cái làng Vũ Đại về Chí Phèo và không sao thay đổi được. Chính vì thế anh rơi vào bi kịch thứ hai – Bi kịch bị cự tuyệt làm người lương thiện.

Chí ngẩn người thất vọng rồi sâu sắc nhận ra bi kịch của một con người sinh ra làm người nhưng lại không được làm người. Lúc ấy Chí lại uống rượu, nhưng lần này hắn càng uống, càng tỉnh rồi lại thoang thoảng thấy mùi cháo hành. Chí xách dao đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện và kết cục là Chí đâm chết Bá Kiến rồi tự tử.

Có thể thấy nhân vật Chí Phèo chính là một nhân vật điển hình về người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trong xã hội thực dân phong kiến. Nhà văn Nam Cao đã lên án gay gắt xã hội tàn bạo, phi nhân tính đương thời và bày tỏ sự đồng cảm, xót thương cho sự bế tắc của con người trong xã hội đó.

Số 9: Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo

Không hiểu sao mỗi khi đọc tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao tôi luôn luôn hình dung ra một con đường in bóng hình những bước chân loạng choạng, ngật ngưỡng đầy phẫn uất của một Chí Phèo say – tỉnh. Và trên con đường – hành trình đời – đầy nỗi đau và bi kịch ấy,những giây phút hạnh phúc, những cử chỉ yêu thương mà Chí được hưởng thật hiếm muộn như những giọt nước trên sa mạc mênh mông.

Song dù chỉ là một giọt nước giữa sa mạc đời bao la thì bát cháo hành của thị Nở vẫn làm tròn nhiệm vụ của một nguồn nước mát lành góp phần thức tỉnh tâm hồn Chí sau bao tháng năm đọa đày trong kiếp sống của quỷ dữ. Cùng với những ám ảnh về bi kịch nhân sinh của con người, hương cháo hành trong Chí Phèo mãi còn vương vấn trong lòng người đọc như một biểu tượng của tình cảm nhân đạo sâu sắc.

Hình ảnh “bát cháo hành” mà thị mang cho Chí trong truyện gắn liền với mối tình “đôi lứa xứng đôi” Chí Phèo – thị Nở. Trước khi gặp thị, Chí đã từng là một người nông dân lương thiện,hiền lành như cục đất. Con người ấy dù có tuổi thơ bất hạnh, bị chuyền tay như một món hàng nhưng vẫn giữ trọn những vẻ đẹp tâm hồn cao quý, thiêng liêng của một đời lương thiện, biết phải trái, đúng sai, biết tự trọng.

Nhưng bàn tay của bọn cường hào phong kiến(đại diện là Bá Kiến) và cái nhà tù thực dân không cho con người ấy sống đời lương thiện.Chúng vào hùa với nhau, tước đi của Chí cả nhân hình, nhân tính của người nông dân, để biến anh thành thằng Chí Phèo, biến anh canh điền hiền lành, chăm chỉ thành kẻ lưu manh có mỗi một nghề là rạch mặt ăn vạ.

Sau 7, 8 năm đi khỏi làng Vũ Đại, Chí Phèo hồi hương trong tình cảnh vô sản. Sự hiện hữu của Chí Phèo ở làng Vũ Đại là một con số “không” tròn trĩnh, không nhà không cửa, không bạn bè người thân, không một tấc đất cắm dùi và đặc biệt là không được thừa nhận là một con người. Đó là cái bi kịch đau đớn của kẻ cô đơn đi giữa đồng loại.

Chí chửi mong nhận được sự hồi đáp – dù là sự hồi đáp thấp hèn nhất nhưng cũng không có.Chẳng ai cho Chí chút quan tâm, chẳng ai coi hắn là người. Hắn chửi vào khoảng không bao la của sự vô tình, lạnh lẽo. Hắn chửi thì tai gần miệng đấy, hắn lại nghe. Chỉ còn một thằng say rượu cùng ba con chó dữ. Còn gì thê thảm hơn thân phận đó.

Những dòng Nam Cao miêu tả Chí Phèo ăn cháo hành có thể nói là những dòng văn sâu sắc,xúc động nhất tác phẩm. Nhìn thấy bát cháo hành “Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì…”.

Chí đi từ ngạc nhiên đến xúc động nghẹn ngào. Đây là lần đầu tiên trong đời hắn khóc sau những năm tháng bị đọa đày và cũng là lần thứ nhất trong đời hắn nhận được một thứ người ta cho, cho vô tư, không tính toán. Hắn không phải dọa nạt hay cướp giật mà vẫn có được.

Quan trọng hơn, đây là lần đầu tiên trong đời Chí được một người đàn bà quan tâm, săn sóc, dành tình cảm cho; cũng là lần đầu tiên sau khi ra tù Chí được nhìn nhận như một con người, đối xử theo cách con người dành cho nhau. Và hắn thấy thị có duyên bởi trong mắt kẻ si tình người yêu của mình bao giờ cũng đẹp.

Để rồi sau đó, Chí Phèo tỉnh, tỉnh để suy tư, chiêm nghiệm. Chí thực sự đã tỉnh rượu, đã tỉnh ngộ và ý thức được về cuộc sống sau những tháng năm say triền miên, vô tận, say để không biết có sự hiện hữu của mình trên cõi đời. “Hắn thấy vừa vui, vừa buồn. Và một cái gì nữa giống như là ăn năn”. Chí cảm nhận được tất cả vị thơm ngon của nồi cháo hành: “Trời ơi cháo mới thơm sao! Chỉ khói xông lên mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm.

Hắn húp một húp và nhận ra rằng: Những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành rất ngon…”. Hơi cháo hành, bàn tay chăm sóc và tình cảm của thị Nở đã làm cho Chí tỉnh, tỉnh để mà nhận ra mình, nhận thức về những việc mình đã làm. Hơi cháo làm Chí nhẹ người, chí khỏi ốm để ăn năn, sám hối. Hơn lúc nào, Chí cảm thấu tình cảnh thê thảm, bi đát của mình cho nên hắn vừa vui lại vừa buồn.

Vui vì tình yêu, hạnh phúc, dù muộn nhưng đã đến; buồn vì thân phận, vì cuộc sống quá loài vật của bản thân. Cháo hành rất ngon nhưng “tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo?”. Hắn hỏi rồi hắn tự trả lời: “có ai nấu cho mà ăn đâu? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa! Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Thê thảm quá! Bi kịch quá! Xót xa quá!

Một chút gì như cay đắng nghẹn lòng nữa! Chí nghĩ đến những tháng ngày nhục nhã bị bà ba nhà Bá Kiến – “con quỷ cái” cứ hay gọi hắn đấm lưng, bóp chân “mà lại cứ bắt bóp lên trên, trên nữa”. Hắn thấy nhục chứ sung sướng gì.”Hai mươi tuổi người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt. Người ta không thích những cái người ta khinh…”. Rõ ràng đến đây,

Chí hiện lên là một chân dung con người đầy đủ, vẹn toàn có cả quá khứ, hiện tại, có những suy nghĩ sâu xa, những tâm trạng phong phú, ý thức đầy đủ về bản thân. Người nông dân lương thiện trong Chí đang trở về sau những năm tháng dài bị đày đọa. Nhưng có ai nhận thấy đâu, họa chăng chỉ có thị Nở vì thị thấy Chí rất hiền, “ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người?”

Nam Cao vốn là một nhà văn có cái nhìn đời thấu suốt, tinh tế. Ông không dừng lại ở sự thức tỉnh của Chí Phèo nhờ bát cháo hành mà ông còn đưa người đọc đi xa hơn đến chân trời ước mơ, hy vọng của Chí. Ước mơ quá khứ sống dậy, ước mơ trong hiện tại bùng cháy thiêu đốt tâm can, Chí đã thực sự hồi sinh, là một con người hoàn toàn theo đúng nghĩa.

Mỗi một tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, song chỉnh thể ấy chỉ có được từ sự phối hợp hài hòa các yếu tố nhỏ hơn, thậm chí chỉ là một chi tiết. Một chi tiết nhiều khi mang sức nặng, chứa toàn bộ tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm. Chi tiết bát cháo hành mà nhân vật thị Nở mang cho Chí Phèo trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao thật ấn tượng, mang nhiều ý nghĩa nghệ thuật sâu sắc.

Nó thúc đẩy sự phát triển, tạo bước ngoặt cho câu truyện, đồng thời cũng để khắc họa sắc nét, tinh tế thế giới tâm hồn, diễn biến tâm trạng phong phú, phức tạp của các nhân vật. Từ đó, chi tiết làm bật nổi tính cách và bi kịch của các nhân vật ấy như những hồi chuông gióng giả, vang vọng đầy ám ảnh về con người.

Bát cháo hành của thị Nở có thể không thể toàn vẹn, thơm tho như chính con người nhân vật nhưng nó là bát cháo của tình yêu thương, của tình người ấm áp, của tình cảm nhân đạo sâu sắc và mối quan hoài thường trực mà nhà văn Nam Cao dành cho con người, nhất là những người có số phận bi kịch. Chính cái nhỏ nhoi, bình dị ấy là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên tầm vóc kinh điển cho kiệt tác Chí Phèo.

Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

Số 10: Phân tích sự hồi sinh của Chí Phèo

Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc, mới mẻ, vừa độc đáo. Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, chuyên viết về hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Trong đó, Chí Phèo là 1 kiệt tác trong văn xuôi VN hiện đại của nhà văn Nam Cao viết vào năm 1941. Truyện kể lại cuộc đời của một người dân cùng khổ tên là Chí Phèo.

Chí Phèo là biểu hiện sống động của bi kịch sinh ra là người mà k đc làm người. Câu truyện có nhiều bi kịch, nhưng đặc biệt, trong đó quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch cự tuyệt của Chí Phèo trong tác phẩm là một trong những đọan thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Chí Phèo, nguyên là một đứa con hoang, bị bỏ rơi nơi lò gạch cũ khi vừa mới lọt lòng, vốn là người nông dân hiền lành, lương thiện nhưng đã bị xã hội phong kiến bóc lột, đè nén, áp bức trở thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”. Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù, biến Chí từ một người nông dân hiền lành trở thành một thằng lưu manh và trở thành tay sai đắc lực cho bọn cường hào trong làng.

Chí gần như sống trong vô thức, bị xã hội ruồng bỏ, bị cướp mất quyền làm người, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Và cứ thế Chí Phèo say triền miên. Say để quên đi quyền làm người, say để làm những việc mà người ta giao cho hắn làm, đốt phá, cướp giật, doạ nạt… của bao người dân lương thiện.

Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, thức dậy hãy còn say… Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ có hắn ở đời.

Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó. nhưng bằng tài năng và nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách tự nhiên. Ông đã soi rọi ánh sáng của ty thương vào tận đáy tâm hồn đen tối của con quỷ dữ làng Vũ Đại.

Trong một đêm say, hắn tình cờ gặp Thị Nở – người đàn bà dở hơi xấu xí, và quá lứa lỡ thì. Đêm hôm ấy, họ ăn nằm với nhau, sự chung đụng ngẫu nhiên ấy, mang tính bản năng của người đàn ông trong cơn say. Những phẩm chất của người nông dân lao động tiềm tàng sâu trong con người hắn bất chợt đc khơi dậy.

Chút ty thương mộc mạc, tự nhiên cộng vs sự quan tâm chăm sóc giản dị của Thị Nở đã đánh thức lương tri, đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong con người Chí. Chính nhờ cuộc gặp gỡ đó, đã thức tỉnh phần người trong Chí, giúp Chí cởi bỏ cái vỏ quỉ dữ để sống lại làm người, khao khát hoàn lương, lương thiện.

Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao xứng đáng bậc thầy về phân tích tâm lí nhân vật. Tỉnh rượu, Chí thấy lòng chợt bâng khuâng ”mơ hồ buồn”. Những lần trước, mỗi khi tỉnh rượu, hắn lại uống, vì thế say kế tiếp say. Còn lần này, Chí Phèo tỉnh rượu với trạng thái khác hẳn “người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc; hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu như những người ốm sợ cơm”.

Sau bao năm, lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy, chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe thấy mọi âm thanh của cuộc sống: tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về… Những âm thanh quen thuộc ấy hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay Chí mới cảm nhận và nghe thấy, vì hôm nay Chí đã hết say.

Phải chăng, những âm thanh ấy chính là tiếng gọi náo nức, thiết tha, tiếng gọi thôi thúc của cuộc sống đã vang lên rộn ràng trong tâm hồn vừa được khơi dậy của Chí… Sau đó Chí tỉnh ngộ, nhìn lại cuộc đời mình cả trong qúa khứ, hiện tại và tương lai.

Hơn hết, cái ước mơ bình dị ngày nào ”có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải…” bỗng dưng trở lại với Chí. Chí đã tỉnh rượu và thức tỉnh về tỉnh cảm và nhận thức.

Chí thấy hiện tại của mình thật đáng buồn bởi “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”. Tương lai đối với hắn, còn đáng buồn hơn, hắn còn lo sợ bởi hắn đã trông thấy trước “tuổi già, đói rét và ốm đau” và nhất là “cô độc”.

Sau những tháng ngày sống gần như vô thức, Chí đã tỉnh táo và triền miên trong suy nghĩ và xúc động. Như vậy, với sự trở lại của lí trí và nhận thức về chính mình, cùng những tình cảm, cảm xúc của 1 con người, Chí đang thức tỉnh một cách tòan diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người. Ngòi bút Nam Cao ở đây thật ấm áp, thể hiện từng biểu hiện của sự thức tỉnh ở Chí Phèo. Ông thật sự rất yêu quý những người lao động chân chính.

Vì hoàn cảnh mà họ bị đẩy vào con đường tội lỗi. Nhưng ngay cả khi bị cuộc đời làm biến dạng nhân hình và làm méo mó nhân tính thì Nam Cao vẫn nhìn thấy vẻ đẹp trong sáng luôn tiềm ẩn trong con người họ. Họ chỉ cần găp điều kiện thuận lợi thì phần người sẽ bừng dậy một cách mạnh mẽ.

Đúng lúc ấy thì Thị Nở bưng đến cho Chí Phèo bát cháo hành đang nghi ngút khói. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất. Việc làm này của thị khiến hắn từ ”hết sức ngạc nhiên” đến xúc động ”thấy mắt mình như ươn ướt” bởi vì một lẽ hết sức đơn giản “lần đầu tiên hắn được người ta cho…”, “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay đàn bà”. Hắn còn cảm nhận về hương vị cháo hành, nó thơm và ngon lắm.

Thị Nở còn cảm nhận thấy hắn rất hiền. Dưới ánh sáng của ty, thị Nở bỗng trở thành 1 người đàn bà có duyên, cũng biết lườm yêu, biết e lệ, biết ”ngượng ngùng mà thinh thích khi nghe 2 tiếng ”vợ chồng”.

Bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Trái tim tưởng chừng như chai đá của Chí Phèo đã dần dần sống dậy. Cái phần người trong hắn cũng hồi sinh. Chí đã sống đúng với con người thật của mình, trở lại nguyên hình của anh canh điền ngày xưa.

Hành động chăm sóc đầy tình cảm yêu thương ấy làm tâm trạng Chí đi từ xúc động đến ăn năn, hồi tỉnh. Ty của Thị Nở đã mở đường cho Chí Phèo trở lại làm người: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao..

Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được”. Cùng với mong ước được làm người lương thiện, Chí khao khát hạnh phúc và một mái ấm gia đình. Và hắn nói “Gía cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”. Lúc này nội tâm của Chí đã bừng tỉnh, lương tri của hắn đã trỗi dậy mà thôi thúc tình cảm hắn.

Hắn thật sự muốn ”thế này” đó là muốn được ăn cháo hành, được sống bên cạnh thị Nở, được thị quan tâm, chăm sóc, yêu thương và được làm nũng với thị..  “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” một mái ấm gia đình vui vẻ, hạnh phúc, câu nói này giống như một lời cầu hôn của Chí với thị Nở – một lời cầu hôn rất canh điền, chất phác, giản dị.

Hắn muốn sống như 1 con người đúng nghĩa, khao khát đc trở lại với cuộc sống bình thường, được làm hòa với mọi người. Thị Nở sẽ là cây cầu nối giữa hắn với cuộc đời. Chí Phèo bâng khuâng, háo hức nghĩ tới 1 tương lai tốt đẹp.

Chính tình người của Thị Nở đã thức tỉnh hồi sinh tình người trong Chí Phèo, thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào! Phát hiện và miêu tả quá trình thức tỉnh của Chí Phèo là một thành công nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao. Tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực thể, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo hiện nên ý nghĩa của sự hồi sinh là sự khẳng định sức sống của thiện lương, của lòng lương thiện.

Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt Chí Phèo, rốt cuộc thì ngay chút tình thương yêu của Thị Nở không đủ mạnh để cứu hắn.

Lời nói của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt Chí Phèo làm tắt ngúm ngọn lửa lòng vừa được nhen lên trong Chí. “Ai lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha không mẹ như cái thằng Chí Phèo” đã trở thành định kiến khắc nghiệt lấp mất lối về của Chí.

Cũng như mọi người dân làng Vũ Đại khác, bà đã quen coi Chí là 1 thằng lưu manh, hơn thế nữa là 1 con quỷ dữ. Rồi cả Thị Nở, người đàn bà mà hắn đặt trọn lòng hi vọng đó nghe lời bà cô cũng” dướn cái môi vĩ đại mà ném vào hắn bao lời chửi mắng”. Như thế, Chí Phèo thật sự rơi vào 1 bi kịch tinh thần đau đớn.

Đó chính là bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống lương thiện. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong ước được trở lại cuộc sống lương thiện cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa.

Định kiến xã hội thông qua bà cô thị Nở không cho hắn đặt chân lên nhịp cầu hy vọng. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời.

Chí Phèo 1 lần nữa bị hắt hủi, ruồng bỏ phũ phàng. Chí Phèo lại uống rượu trong nỗi tuyệt vọng, đau đớn tột cùng ”ôm mặt khóc rưng rức”. Chí Phèo uống thật say, nhưng lần này k như mọi lần, càng say thì Chí lại càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình.

Phẫn uất, tuyệt vọng Chí xách dao đi định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến.

Hơn ai hết lúc này Chí thấm thía tội ác của kẻ đã cướp đi quyền làm người của mình rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nỗng nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình.

Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người. Thống thiết thay là tiếng kêu của Chí Phèo cuối tác phẩm: ”Tao muốn làm người lương thiện!… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh vết chai trên mặt này?… Tao không thể làm người lương thiện nữa! Biết không! Chỉ có một cách… biết không!” Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp.

Câu hỏi chất chứa nỗi đau đớn đầy phẫn uất của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Căm thù cao độ và không còn lối thoát. Chí Phèo đã giết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết sự bế tắc của số phận.

Chí đã chết khi cánh cửa cuộc đời đã đóng chặt trước mặt anh không cho anh trở lại. Đó là sự thức tỉnh về quyền sống, không chấp nhận đc cuộc sống của 1 con quỷ dữ nữa, anh muốn hoàn lương mà xã hội đâu cho, bởi cái khát khao mãnh liệt được làm người đã bị dập tắt. Lương thiện có ngay trong mỗi con người là di sản tinh thần của mỗi người.

Tại sao phải đi đòi lương thiện? À, thì ra Chí đã bị cái xã hội vô nhân tính ấy cướp mất. Khốn nạn thay cho Chí, ngay cả cái quyền được làm một con người cũng bị xã hội người ăn thịt người ấy bóp nát. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời tố cáo mãnh liệt cái xã hội vô nhân đạo, xã hội thực dân nửa phong kiến.

Cái chết ấy là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa về cuộc làm người, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi của nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!

Với nhân vật Chí phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách mạng: đó là bi kịch con người sinh ra là người mà không được làm người. Điều này thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy.

Tác phẩm mang ý nghĩa triết lí sâu sắc đc thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo. Tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực, miêu tả tâm lí nhân vật, xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình cộng với cốt truyện với các tình tiết hấp dẫn, biến hóa bất ngờ.

Tác phẩm Chí Phèo thông qua quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật chính, nhà văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Tác phẩm đã lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Qua đó nhà văn đồng cảm với những nỗi khổ đau, bị đày đọa và sự bế tắc của những khát vọng của người nông dân. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật và khao khát thay đổi thực tại để mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Số 11: Phân tích cảnh hồi sinh của Chí Phèo

Nguyễn Minh Châu đã có nhận xét về Nam Cao: “Cả đời cầm bút của Nam Cao ông chỉ đau đáu nhìn vào nhân cách của con người”. Điều này thể hiện rõ trong nhiều tác phẩm của Nam Cao. “Chí Phèo” là một ví dụ điển hình. Qua việc miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Chí Phèo từ lúc gặp Thị Nở đến khi kết liễu cuộc đời trong truyện ngắn cùng tên, tác giả đã thể hiện tài năng, bản lĩnh nghệ thuật của mình, đồng thời cũng bộc lộ rõ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của ông.

Trước khi gặp Thị Nở, cuộc đời Chí Phèo đã trải qua hai chặng đường: làm thuê cuốc mướn và ở tù rồi ra tù. Hắn vác cái mặt “cơng cơng, cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn” về làng, cam lòng làm tay sai cho kẻ thù – Bá Kiến đã gieo rắc tai họa kinh hoàng cho dân làng Vũ Đại. Và rồi vào đêm trăng định mệnh của số phận, hắn đã gặp Thị Nở, mở đầu cho một giai đoạn mới trong cuộc đời Chí. Sau cái đêm ấy thì Chí ngã bệnh.

Hắn chưa bệnh bao giờ. Thế mà giờ đây lại yếu đến thế. Buổi sớm mai thức dậy, tâm trạng của Chí được miêu tả thật tài tình qua ngòi bút của Nam Cao. Mở đầu là “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” và rồi “tiếng của anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, rồi những người đàn bà đi chợ Nam Định.

– Vải hôm nay bán mấy?

– Kém ba xu dì ạ.

Tất cả những cái đó đột nhiên vang vang trong lòng Chí. Tất cả rất quen mà với hắn, chợt trở nên mới, nên lạ. Vì hôm qua, hôm kia, cả bao hôm trước nữa. Chí có nghe những tiếng ấy bao giờ đâu khi đang chìm trong những cơn say bất tận của cuộc đời.

Giờ đây, tỉnh lại, tiếng cuộc đời, tiếng con người đang lăn náo nức, cứ dội vang mãi trong lòng Chí. Phải rồi! Tiếng của cuộc đời lương thiện đang vang lên trong anh. Con quỷ dữ sau cơn ốm bệnh dường như đã lấy lại được một phần con người, một phần hiền lành lương thiện của anh Chí hôm nào

Chí lắng nghe tất cả, thế rồi bỗng thấy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”, lát nữa lại buồn: “Buồn thay cho đời”. Một cảm giác lạ đang len lỏi trong lòng Chí Phèo. Tiếp sau nỗi buồn là nỗi lo sợ, sợ đói, rét, cô độc, “Cô độc ư?” Cái này còn đáng sợ hơn cái đói và cái rét.

Chí đã dần nhận ra thảm cảnh của đời mình: bơ vơ, lạc lõng không ai thân thích, không ai nương tựa. Trong nỗi sợ ấy, Chí cũng đang hình dung lại hình như ngày xưa hắn cũng có một ước mơ: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, lại có một con lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng”.

Một ước mơ nhỏ nhoi thôi tầm thường lắm nhưng rất con người. Trước đây thì còn là một anh Chí “hiền như cục đất”, biết “nhục chớ yêu thương gì” khi bị bà Ba bắt lên bóp chân, ước mơ ấy hiện hữu trong anh. Trải qua những tháng ngày tăm tối, u mê, ước mơ đã tắt lịm hẳn, nhường chỗ cho cái ác, cái thú tính lên cao.

Giờ đây, sau cơn say khi một phần “người” đã trỗi dậy, ước mơ ấy đã lại trỗi dậy theo, tha thiết, cồn cào. Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo được Nam Cao khắc họa thật đậm nét. Buồn, lo sợ, ước mơ. Đó là những nét tính cách rất người, đặc biệt là ước mơ rất đời thường ấy.

Trong lúc Chí Phèo đang ngổn ngang trong bao tâm sự, nỗi niềm thì chất xúc tác đưa hắn trở lại làm người xuất hiện. Đó là Thị Nở. Thị đến mang cho hắn bát cháo hành giải cảm. Và chính liều thuốc giải độc này góp phần thức tỉnh con người bấy lâu bị chìm lấp trong Chí Phèo.

Phải nói rằng Nam Cao đã rất dụng công khi miêu tả hành động Chí ăn cháo. Đầu tiên là hắn “ngạc nhiên” vì trước đây hắn chỉ toàn cướp “chứ có xin của ai hay ai cho bao giờ” lần này thì lại được “một người đàn bà cho ngạc nhiên”, rồi cảm động, “hắn thấy mắt mình như ươn ướt”.

Và rồi Chí đã đón nhận bát cháo từ tay Thị Nở như một báu vật. Hắn chưa vội vã ăn mà ngửi đã, sau đó mới “húp một húp” – cách thức hành động này của Chí Phèo đâu còn là ăn nữa mà là thưởng thức và tận hưởng, thưởng thức và tận hưởng hương vị của cuộc đời và của tình người. Sau đó, lần đầu tiên ta thấy Chí Phèo triết lí: “Những con người chưa bao giờ ăn cháo hành không biết cháo rất ngon”. Ngon cũng là phải vì Chí có được ăn bao giờ đâu “mà có ai nấu cháo Chí ăn”.

Chính vì thế, Chí Phèo đã rất trân trọng vật báu này. Bát cháo hành nồng đượm hương vị tình đời, tình người xuất hiện giữa mênh mông bao nhiêu là rượu trong cuộc đời Chí Phèo. Cũng như Thị Nở vậy, tình yêu giữa Thị xuất hiện như ánh chớp lóe lên giữa cuộc đời dầy đặc những số không to tướng của Chí Phèo; không cha mẹ, không gia đình, không quá khứ, không hiện tại, không tương lai.

Nếu như đêm trăng ấy như một ý kiến đã nhận xét, Thị chỉ khơi dậy bản năng sinh vật trong con người Chí thì hôm nay, với bát cháo hành, Thị đã cứu rỗi tâm hồn Chí bằng tình yêu của mình. Ăn xong cháo, Chí thấy “thèm làm hòa với mọi người biết bao”, “thèm làm người lương thiện” biết bao, và Chí nhận ra rằng Thị chính là cái cầu nối nối hắn, giúp hắn quay trở lại với xã hội bằng phẳng của những con người lương thiện.

Thị Nở vừa là người tình, lại vừa như người mẹ soi đường cho hắn, vì thế hắn đã muôn “làm nũng với Thị như mẹ” đấy thôi. Và thế là hai con người khốn khổ khốn nạn đã kết hợp lại với nhau trong cái khát vọng hạnh phúc, và muốn làm người lương thiện, bình thường.

Khác với Tràng trong Vợ Nhặt của Kim Lân, khi có được hạnh phúc, Tràng cảm thấy “nên người” hơn, còn Chí, người ta đã tước đoạt ngay hạnh phúc của anh. Sau những ngày yêu thương hạnh phúc. Nghe lời bà cô.

Thị Nở đã bỏ rơi Chí không thương tiếc. Cái ao ước được “yêu khi tỉnh” sau những tháng ngày “ăn trong khi say, ngủ trong khi say” của Chí đã bị định kiến xã hội ngăn cản. Đau đớn thay Chí Phèo, và anh lại tìm về với rượu. Thế nhưng “hơi rượu không sặc sụa mà thoang thoảng thấy hơi cháo hành” anh càng uống lại “càng tỉnh ra”, “tỉnh ra! Chao ôi, buồn” Chí đã nhận ra cái bi kịch cự tuyệt quyền sống quyền làm người của mình.

Thế là anh vác dao đến nhà “con đĩ Nở, giết hết nó và cả con khọm già nhà nó” Thế nhưng, lí trí lại dẫn anh sang nhà Bá Kiến. Những câu đối đáp của anh và Bá Kiến xốn xang lòng ta đến lạ: “Tao không có đến đây để xin năm hào. Tao muốn làm người lương thiện!” “Ai cho tao lương thiện”, “tao không làm người lương thiện nữa được rồi!”.

Và Chí đã đâm Bá Kiến rồi tự tử. Bá Kiến chết vì đã đoán lầm Chí Phèo, đó không là một tên say nữa mà đó là một con người khát khao quyền sống, khao khát lương thiện.

Ai bảo Chí Phèo say khi đến nhà Bá Kiến? Say ấy chỉ say phần “con” để tỉnh thức phần “người”, mà chiến đấu với chính mình giành lương thiện. Chí Phèo gục ngã trước ngưỡng cửa cuộc đời nhưng khát khao sống ấy còn cháy mãi.

Có nhiều ý kiến nhận xét cách viết của Nam Cao là sắc, lạnh, tỉnh táo và đóng cũi tình cảm. Thế nhưng ta thấy ngòi bút của ông tràn đầy tính nhân đạo, không nhân đạo sao nhà văn lại thấy được những mơ ước, khao khát rất đời thường, lại đắm sâu trong tâm hồn của những con người đã bị tha hóa, biến dạng về cả nhân tính lẫn nhân hình.

Những trang văn Nam Cao viết mô tả lúc Chí Phèo vừa tỉnh dậy mới thấm đẫm tấm lòng thương người của ông biết bao! Và cả bát cháo hành mà Nam Cao đã dụng công miêu tả nữa.

Nó xuất hiện bất chợt giữa cuộc đời Chí Phèo, mang lại cho anh chút hương vị của lòng người để lắng lại trong anh cái phần “con” độc ác, xấu xa, đồng thời thổi bùng lên ngọn lửa khát khao lương thiện làm người. Trong những con người bị tha hóa đến cùng cực như Chí Phèo. Nam Cao vẫn thấy ở đó một khát khao mãnh liệt. Chính vì vậy ông đã để cho nhân vật của mình “vác dao đi đòi lương thiện”.

Còn một nét nhân đạo nữa đó là Nam Cao đã để cho nhân vật của mình được chết. Ông biết Chí Phèo sống không thể trở thành anh bộ đội cụ Hồ tự cứu lấy đời mình, cũng không để anh sống tù tội để rồi nhà tù thực dân phong kiến gắn thêm cho anh cặp sừng, cái đuôi, để anh thành con quỷ ác hơn, dữ hơn cái anh đã từng làm ở làng cũ Vũ Đại.

Cuộc hôn phôi giữa “con quỷ dữ của làng Vũ Đại – Chí Phèo và một con vật gì rất tởm” – Thị Nở cũng là một cách nhìn hết sức nhân đạo của Nam Cao. Nhân đạo ở chỗ ông đã thấy cái mơ ước, khát khao được hạnh phúc của những con người cùng khổ.

Chí Phèo sống khổ mà chết vật vã cũng khổ. Qua bi kịch đó nhà văn tố cáo một xã hội đã đày đọa, tha hóa, bần cùng hóa con người, đẩy họ vào chỗ biến dạng cả nhân tình lẫn nhân hình. Nam Cao viết nhiều đến cái “đói” nhưng riết nóng nhất trong văn của ông là cái “đói người” trong sự giành giật của phần “con” và ông lớn tiếng đòi quyền sống cho phần “người” ấy.

Đọc xong truyện mà câu hỏi “Ai cho tao lương thiện” của Chí Phèo ám ảnh ta mãi. Quả thật với tấm lòng nhân đạo sâu sắc và tài năng của mình. Nam Cao miêu tả những vết thương trong nhân cách con người. Nhưng ông xoáy sâu mà tìm cách chạy chữa cho nó.

Với những trang văn và những bi kịch điển hình như Chí Phèo, Nam Cao đã lớn tiếng đòi tự do, hạnh phúc cho con người, cũng như lời gọi: Hãy cứu lấy, bảo vệ cho nhân cách con người! Với đề tài đã khai thác tối đa như đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao với lưỡi xẻng ngôn từ và tài năng của mình, vẫn có thể “tìm tòi”, “khơi được những nguồn chưa ai khơi”, lật lên nhiều mảng khổ đau và mảng đẹp mới, trong tính cách, trong bản chất của người nông dân Việt Nam ở thời điểm đêm trước của cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại.

Số 12: Cảm nhận sự hồi sinh cảu Chí Phèo

Nam Cao sáng tác từ trước năm 1940, nhưng chỉ sau khi truyện ngắn Chí Phèo ra đời, ông mới được biết đến như một cây bút hiện thực xuất sắc. Cũng từ khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang viết của Nam Cao, nhân vật này đã để lại dấu ấn khó quên và nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi trong lòng người đọc.

Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là truyện ngắn Chí Phèo đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ.

Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.

Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương.

Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì.

Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được.

Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí.

Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.

Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng.

Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.

Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại.

Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay đồ tể.

Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa: Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng.

Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Tất cả dân làng Vũ Đại quay lưng với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt thú dữ của hắn, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.

Sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.

Đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn vẫn le lói ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người.

Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời…

Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Rút cục, chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại.

Những lúc tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã hồi sinh Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn.

Lần đầu tiên trong đời, hắn sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.

Nhưng cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng, Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng.

Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn thực sự muốn làm người nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.

Để giành lại sự sống cho tâm hồn, Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối củng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay. Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?

Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người.

Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.

Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

Số 13: Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo

Nam Cao là nhà văn tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam ở cả hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám.Ông là một nhà văn có quan điểm nghệ thuật tiến bộ,có tấm lòng đôn hậu,chan chứa tình thương, gắn bó sâu nặng với quê hương và những người nông dân nghèo khổ. Đặc biệt, đến với truyện ngắn “Chí Phèo”, một trong những truyện ngắn viết về đề tài người nông dân nghèo trước CMT8 của Nam Cao, chúng ta không thể không cảm động trước quá trình hồi sinh của Chí Phèo – một người đã tưởng đã là quỷ dữ của làng Vũ Đại ..

Chí Phèo sinh ra không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà không cửa, không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề được biết đến một bàn tay chăm sóc của phụ nữ nếu không gặp thị Nở… Hắn ra đời trong một cái lò gạch cũ bỏ hoang, trong chiếc váy đụp; tuổi thơ của hắn bơ vơ “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến.

Sau một thời gian dài hoàn toàn bị tha hóa, Chí Phèo sống triền miên trong những cơn say, không ý thức được hành động và cuộc sống của chính mình.Cho đến khi Chí Phèo gặp Thị Nở, Chí đã thật sự được hồi sinh.Có thể nói, đây là giai đoạn quan trọng nhất trong cuộc đời của Chí với những thời khắc bừng sáng ngắn ngủi và hạnh phúc, để rồi sau đó tắt ngấm ngay.Chí lại rơi vào bế tắc và thảm kịch đã xảy ra: đâm chết Bá Kiến rồi tự sát.

Sau một tối say rượu, Chí đã tình cờ gặp Thị Nở.Họ ăn nằm với nhau.Thế rồi nửa đêm, Chí đau bụng, nôn mửa. Sự xuất hiện của nhân vật thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu “ma chê quỷ hờn” ấy lại là nguồn ánh sáng đã rọi vào chốn tối tăm của Chí Phèo, thức tỉnh, gọi dậy bản tính người của Chí Phèo, thắp sáng một trái tim qua bao tháng ngày bị hắt hủi.

Bắt đầu là tỉnh rượu : Sáng hôm sau, Chí tỉnh dậy khi “trời đã sáng lâu”.Kể từ khi mãn hạn tù trở về, đây là lần đầu tiên “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” đã hết say, hoàn toàn tỉnh táo. Chí thấy lòng “bâng khuâng, mơ hồ buồn”.

Lần đầu tiên, Chí nghe thấy bản nhạc rộn ràng của cuộc sống lao động : đó là tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá; tiếng trò chuyện của những người đàn bà đi buôn vải về…Những âm thanh ấy hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay Chí mới cảm và nghe được, vì hôm nay Chí đã hết say.Phải chăng, những âm thanh ấy là tiếng gọi thiết tha của cuộc sống Chí đã tỉnh rượu và thức tỉnh về tình cảm và nhận thức.

Sau đó là tỉnh ngộ : Khi tỉnh táo, Chí đã “ngộ” – nhận thức , nhìn lại cuộc đời mình cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai :

Đầu tiên là hắn “nao nao buồn” nhớ về một thời hắn đã từng mơ ước “có một gia đình nho nhỏ…”.Đấy là quá khứ, còn hiện tại? Chí thấy hiện tại của mình thật đáng buồn bởi “ hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”,và cơ thể thì đã “hư hỏng nhiều”.

Tương lai đối với hăn, còn đáng buồn hơn, không chỉ buồn mà còn lo sợ , bởi hắn đã “trông thấy trước “ quá nhiều điều bất hạnh : “tuổi già, đói rét và ốm đau”, nhất là “cô độc”.Sau những tháng ngày sống gần như vô thức,Chí đã tỉnh táo và suy nghĩ về cuộc đời mình.

Như vậy , với sự trở lại của khả năng nhận thức ngoại giới và nhận thức chính mình ( lý trí), cùng những tình cảm , cảm xúc rất con người, Chí đang thức tỉnh một cách tòan diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người.

Hành động chăm sóc đầy tình cảm yêu thương ấy của thị đã khiến Chí “ăn năn”,”.Hắn thấy “lòng thành trẻ con” và “muốn làm nũng với thị như với mẹ”.Lúc này, hắn hiền lành đến khó tin “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt ăn vạ và đâm chém người?”. Cái “bản tính ngày của hắn, ngày thường bị lấp đi” đã trỗi dậy mạnh mẽ.Chí đã đã sống đúng với con người thật của mình, trở lại nguyên hình của anh canh điền ngày xưa.

Chí mong muốn được trở lại làm người , làm một người dân hiền lành, lương thiện ở làng Vũ Đại “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện , hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!…Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”.

Cùng với mong ước cháy bỏng được làm người lương thiện, Chí khao khát hạnh phúc và một mái ấm gia đình. “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”- “cứ thế này” là thế nào? Đó là cứ được ăn cháo hành, được sống bên cạnh thị Nở, được thị quan tâm, chăm sóc, yêu thương và được làm nũng với thị…được như thế thì “thích nhỉ”- tức là sung sướng, hạnh phúc nào bằng.

“Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” – tức là về sống chung một nhà, hình thành một mái ấm gia đình vui vẻ, hạnh phúc.Câu nói này giống như một lời cầu hôn của Chí với thị Nở – một lời cầu hôn “rất canh điền”, chất phác, giản dị.

Có thể nói đoạn văn viết về quá trình hồi sinh của Chí Phèo trong tác phẩm là một trong những đoạn văn thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn….và giá trị nhân đạo của tác phẩm: Nhà văn miêu tả số phận bất hạnh và cảm thông sâu sắc với bi kịch của người nông dân. Đồng thời ông còn khẳng định sức sống bất diệt của thiên lương.

Lương thiện, khát khao hạnh phúc là bản tính tự nhiên, tốt đẹp và mạnh mẽ của con người. Không thế lực bào tàn nào có thể hủy diệt. Từ đó, nhà văn kêu gọi mọi người hãy luôn tin vào con người, tin vào bản chất tốt đẹp của mỗi người và cùng nhau xây đắp phần Người trong mỗi con người để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

Số 14: Phân tích sự hồi sinh của Chí Phèo

Truyện ngắn “Chí Phèo” là một thành công lớn của Nam Cao. Đọc xong tác phẩm dường như hình ảnh Chí Phèo luôn để lại những sự ám ảnh nhất định trong lòng bạn đọc. Tác phẩm nói về cuộc đòi của nhân vật Chí Phèo, và có lẽ quá trình hồi sinh của nhân vật luôn luôn là một điều mà bạn đọc hướng tới.

Chí Phèo được biết đến là nhân vật từng là một đứa trẻ bị bỏ rơi. Sau đó một anh thả ống lươn một ngày nhặt được hắn “trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp bên cái lò gạch bỏ không“.

Có thể nói tuổi thơ của hắn qua tay hết người này đến người khác và khi Chí Phèo lớn lên thì làm canh điền cho Lí Kiến. Chí Phèo đã bị Bá Kiến ghen, đẩy vào tù, sau bảy tám năm, nhà tù thực dân dã man kia đã biến anh canh điền chất phác trở thành một thằng lưu manh.

Khi Chí Phèo ra tù, hắn tìm đến nhà Bá Kiến để trả thù. Dường như bản chất của một thằng lưu manh, biến chất thể hiện trong cách chửi rất “bài bản”, thật là ngoa ngoắt: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời có hề gì trời có của riêng nhà nào…”.

Từ cái dáng hình nom thật đáng sợ: “trông đặc như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Người đọc sao có thể quên được các hình ảnh “hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những vét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế, trông gớm chết”…

Cho đến cách ăn vạ thật đáng sợ là cách mà hắn lấy mảnh chai vỡ mà cào vào mặt, vừa cào vừa lăn lộn. Từ một thằng đã lưu manh, chế độ phong kiến mà đại diện ở đây chính là Bá Kiến đã hoàn thành nốt quá trình tha hoá để biến Chí thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Và cùng với những chuỗi ngày dài chìm trong men say của hơi rượu là những ngày hắn đã phá đi biết bao ngôi nhà hạnh phúc bình dị, làm chảy máu và nước mắt của biết bao người lương thiện.

Dường như hắn đã làm tất cả những việc đó trong khi say, hắn cũng không nhận thức được rằng mình đã và đang trượt dài xuống vực thẳm và người ta đang lảng tránh hắn như lảng tránh một con vật đáng sợ nào đó. Có thể nói cuộc đời Chí tưởng cứ thế diễn ra, tối tăm, mù mịt.

Không ai có thể tin hay nghĩ rằng có thể một lần nữa con quỷ dữ ấy lột xác trở lại thành con người. Vậy mà dường như điều kì diệu đó đã xảy ra, dù ngắn ngủi, dù bất thường nhưng vẫn là một điều kì diệu vĩ đại, điều kì diệu cũng có thể thay đổi một con người.

Trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi giữa Chí Phèo và Thị Nở không chỉ đơn giản là một cuộc đụng chạm về xác thịt. Đó đơn giản chỉ là khởi đầu, buổi tối bên bờ sông, dưới ánh trăng sáng kia như chỉ làm khơi dậy thứ tình yêu mang tính bản năng con người.

Có thể nói chính sự thức tỉnh của nhân vật thực sự bắt đầu vào những giờ phút sau đó. Và lần đầu tiên, Chí như đã cảm nhận được âm thanh của cuộc sống “Mặt trời đã lên cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài đủ biết… Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ”.

Ta như đều biết rằng những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy…”. Và dường như đây cũng lần đầu tiên, sau những ngày say triền miên kia, hắn biết thế nào là buồn và đó là cái buồn mơ hồ mà lại thật thấm thía.

Và ở đây một người bắt đầu biết suy nghĩ về cuộc sống có nghĩa là cũng đã biết tự chiêm nghiệm về chính bản thân mình. Và Chí Phèo dường như thật đau đớn khi nhận ra rằng hắn chính là một kẻ trắng tay không hơn không kém. Khi mà đã đứng ở bên kia dốc cuộc đời, hắn biết mình đã già, “Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn“.

Chàng canh điền hiền lành chất phác ngày nào cũng đã từng ước mơ có một gia đình giản dị, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, giờ đây nhìn thấy trước số phận mình. Chí Phèo “đói rét, ốm đau và cô độc” và chi tiết này rõ ràng là trong Chí Phèo đã có một sự chuyển biến lớn trong tâm hồn của hắn.

Có thể nói sự chuyển biến ấy đánh thức bản năng ham sống, muốn sống của hắn nhưng chưa chỉ ra cho hắn biết rằng phải làm thế nào để có thể được sống lại lần nữa đúng với hai từ con người. Và con đường thực sự đã mở ra vào ngày hôm sau khi Thị Nở đã mang sang cho Chí Phèo một bát cháo hành.

Một người đàn bà dở người như Thị Nở lại có thể nấu cháo hành ngon đến vậy hay đó là bởi vì Chí lần đầu tiên được người ta cho, và cũng là lần đầu tiên được ăn chào hành nên mới cảm thấy cháo hành ngon mà dường như hương cháo hành cứ ám ảnh Chí mãi không thôi. Có thể khẳng định rằng bát cháo hành là tình cảm chân thành, thứ tình người lương thiện đầu tiên mà hắn được cho, một cách hoàn toàn tự nguyện.

Điều ấy dường như đã làm Chí xúc động sâu sắc. Thị Nở cho dù là người có xấu đến ma chê quỷ hờn nhưng ở Thị lại mang một tình người đẹp thánh thiện, thứ tình người trong sáng, một sự chân thành không một chút vụ lợi và tính toán.

Có thể thấy được tình người ấy, cùng với hương cháo hành như cũng đã dẫn dắt tính người quay trở lại trong hình hài của một con quỷ dữ, như đã đánh thức ước mơ thời trai trẻ, đánh thức khát khao lương thiện tưởng chừng như đã lụi tắt trong Chí Phèo từ lâu.

Và quan trọng hơn nữa là nó như đã đánh thức niềm hi vọng ở Chí, khát khao được trở về với cuộc sống của loài người. Khao khát được họ đón nhận. “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.

Thị Nở cũng có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Và giờ đây họ sẽ nhận thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận Chí Phèo vào cái xã hội bằng phẳng và rất thân thiện của những người lương thiện kia.

Dường như chính tình thương yêu con người chân thành đã có sức mạnh cảm hoá vĩ đại, không chỉ thế, nó như còn mang lại cho con người sự sống và sức sống mới, và ngay khi ở cả những kẻ tưởng chừng là “vô phương cứu chữa” như Chí Phèo. Chí Phèo lúc này đã thức tỉnh thực sự.

Tuy rằng cho đến cuối cùng, cánh cửa trở về với xã hội loài người đã được mở ra bởi tình thương yêu con người, nhưng đó lại là của một người đàn bà dở người. Và trong một xã hội tăm tối đến ngột ngạt kia đã vội vàng đóng chặt. Và khi nhân tính trở về, Chí lại như không thể tiếp tục cuộc đời của một tên quỷ dữ, nhưng lại cũng không thể trở lại làm người được nữa.

Dường như tấn bi kịch đó đã được đẩy lên đỉnh điểm chỉ còn một cách giải quyết cuối cùng là cái chết. Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến và cũng tự kết liễu đời mình. Khi không có tình yêu thương, cuộc sống sẽ chỉ còn là tối tăm và bất hạnh biết bao nhiêu.

Có thể nói rằng tình thương yêu là hạnh phúc của con người cũng như tâm hồn con người giống như một vườn cây mà ở đó tình yêu thương là những trận mưa tưới mát đã làm cho vườn cây tươi tốt hơn, và như đã vươn dậy đầy sức sống, dù cho trước đó đã có lúc nó lụi tàn, héo úa. Và ta cũng đã thấy có biết bao câu chuyện cảm động về sức mạnh của tình yêu thương… Tình yêu thương giúp con người ta chiến thắng được số phận.

Và trong cơn khó khăn như sự thức tỉnh của Chí Phèo. Và chỉ khi có tình yêu thương con người trong sáng không vụ lợi mới luôn toả sáng. Tình yêu thương không chỉ giúp thay đổi quan niệm mà còn có sức cảm hoá ghê gớm, bẻ gãy tất cả những gì là bóng đêm, là trở ngại để con người sống gần với con người hơn.

Tình yêu thương ở đời cũng cần thiết như ánh sáng, như không khí trên Trái Đất này vậy. Dường như con người không thể sống mà không có tình thương yêu. Ý thức được điều đó thì trong mỗi chúng ta cần bồi dưỡng cho mình một trái tim nhân hậu, bao dung.

Và phải bồi dưỡng tình yêu thương dành cho mọi người, để được cho và được nhận. Hãy để tình yêu thương trong sáng và chân thành được bao bọc khắp thế gian và mỗi con người sẽ được sống trong ngập tràn yêu thương.

Nhân vật Chí Phèo là một trong những nhân vật hiện lên có sức ám ảnh nhất, đặc biệt là quá trình từ một anh nông dân hiền lành cho đến khi bị cực tuyệt quyền làm người sẽ còn lay động, còn để lại cho người đọc biết bao nghĩ suy. Qua đó nói lên khả năng bậc thầy trong việc miêu tả phân tích tâm lý nhân vật của Nam Cao.

Số 15: Phân tích cảnh hồi sinh của Chí Phèo

Số phận khổn khổ của người nông dân là đề tài quen thuộc của văn học hiện thực (1930-1945). Là một cây bút sáng tạo là yêu cầu sống còn của văn chương, Nam Cao có những tìm tòi, đổi mới đáng trân trọng. Không dừng lại ở nỗi khổ sưu cao thuế nặng như các tác phẩm cùng thời Tắt đèn, Bước đường cùng, Nam Cao đi sâu vào hiện tượng người nông dân bị ta hóa, bị cự tuyệt quyền làm người.

Đồng thời, Nam Cao phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của người nông dân bị tha hóa. Những sáng tạo của Nam Cao được kết tinh từ nhân vật Chí Phèo. Đặc biệt là trong những trang văn diễn tả tâm trạng Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở.

Có thể nói, dấu mốc quan trọng nhất tạo nên bước ngoặt quyết định trong cuộc đời Chí Phèo đó là cuộc gặp gỡ với Thị Nở. Trước khi gặp Thị Nở, từ cố nông luong thiện, Chí bị đẩy xuống và nhấn chìm trong vũng bùn tha hóa. Sau khi gặp Thị, Chí đã vực dậy rũ bùn tha hóa, thức tỉnh hoàn lươn.

Vậy Thị Nở là ai? Là người như thế nào mà lại có tác động lớn lao đến cuộc đời Chí Phèo như vậy? Theo ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở là người xấu ma chê quỷ hờn, ngẩn ngơ như người đần trong truyện cổ tích. Lại sinh ra trong gia đình nghèo truyền kiếp, có mả hủi. thị chẳng khác gì con vật lạ. Nhưng Thị lại là người duy nhất trong làng Vũ Đại vô tình, vô cảm ấy đã tự nguyện kết thân yêu thương Chí chân thành.

Dĩ nhiên, không phải ngay từ khi gặp Thị, tâm hồn Chí đã thức tỉnh, cái lốt quỷ dữ được lột bỏ. Là một nhà văn am tường sâu sắc tâm lí nhân vật, Nam Cao đã khám phá, miêu tả, phân tích diễn biến nội tâm của Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở một các chân thực, sống động và đầy xúc cảm.

Ban đầu, cuộc chung chạm với Thị Nở chỉ đánh thức bản năng gã đàn ông cho Chí Phèo. Nhưng sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và lòng yêu thương mộc mạc mà chân thành của người đàn bà khốn khổ ấy đã làm bản chất lương thiện trong con người Chí thức dậy. Tâm hồn Chí Phèo dần thức tỉnh rồi hối sinh mãnh liệt.

Nhưng ngay sau đó, Chí Phèo lại lâm vào bi kịch đau đớn nhất của cuộc đời mình, là bi kịch từ chối, cự tuyệt quyền làm người. Sau đêm ái ân với Thị Nở, Chí Phèo tỉnh dậy muộn, hết say và hoàn toàn tỉnh táo.

Sau bao nhiêu năm sống trong u mê dằng dặc, lần đầu tiên những cảnh vật, âm thanh của cuộc sống bỗng dội vào tâm hồn Chí tạo nên những vang động sâu xa. Chí thấy nắng rực rỡ, tiếng chim hót vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng anh thuyền chèo đuổi cá. Lòng chí bâng khuẩng, mơ hồ buồn.

Tỉnh rượi rồi Chí tỉnh ngộ, từ chỗ tê liệt ý thức, Chí bỗng ngộ ra bao điều về đời mình. Chí đã có cái nhìn chính xác về cuộc đời dằng dặc của mình từ quá khứ, hiện tại, tương lai. Nghĩ về những ngày xa xôi, Chí nao nao buồn. Hình như có một thời, Chí ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng quốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải Nhưng ước mơ nhỏ bé giản dị ấy đã tuột khỏi tay Chí từ lúc nào, về phương trời xa xăm nào.

Ngẫm về hiện tại, Chí thấy buồn thay cho đời. Chí đã già, đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời mà vẫn cô độc, trắng tay. Chí không nhà, không cửa, không vợ, không con. Đời chí đâu chỉ là con số 0 tròn trĩnh mà còn là con số âm khủng khiếp, đời Chí chồng chất biết bao nhiêu là tội ác.

Tương lai phía trước còn đáng buồn hơn. Chỉ có tuổi già đói rét, ốm đau và cô độc. Và chí sợ nhất là sự cô độc, mà sợ cô độc nghĩa là Chí thèm khát tình người. Thèm khát tình người đồng nghĩa với việc là tính người đang trở lại trong Chí.

Có thể nói Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí sau đêm gặp gỡ với Thị Nở là một đoạn tuyệt bút đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của ngòi bút Nam Cao. Không chỉ dừng lại ở đó, những diễn biến tâm trạng vô cùng phức tạp tinh vi của Chí Phèo đã được nhà văn diễn tả chân thực, chính xác, tài tình đến cảm động. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm được bộc lộ sâu sắc mới mẻ và lớn lao.

Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

Tổng kết

Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 15 mẫu phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 11.

0/5 (0 Reviews)
Chúng tôi tạo ra Top10timkiem.vn nhằm mục đích cung cấp cho người đọc những thông tin, liệt kê một cách chi tiết nhất về mọi lĩnh vực trong cuộc sống.