Top 10 mẫu phân tích nhân vật người vợ nhặt chi tiết nhất

190
Top 10 mẫu phân tích nhân vật người vợ nhặt chi tiết nhất
4.8/5 - (14 votes)

Tổng hợp các bài mẫu phân tích nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt của tác giả Kim Lân một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 10 mẫu phân tích nhân vật người vợ nhặt chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Xem thêm:

Dàn ý phân tích nhân vật người vợ nhặt

I. Mở bài

Giới thiệu khái quát về hai nhân vật trong hai tác phẩm:

+ Kim Lân là nhà văn chuyên viết về nông thôn và cuộc sống người dân quê, có sở trường về truyện ngắn. Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc , viết về tình huống “nhặt vợ” độc đáo, qua đó thể hiện niềm tin mãnh liệt vào phẩm chất tốt đẹp của những con người bình dị trong nạn đói thê thảm.

+ Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thời chống Mỹ, cũng là cây bút tiên phong thời đổi mới. Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc ở thời kì sau, viết về lần giáp mặt của một nghệ sĩ với cuộc sống đầy nghịch lí của một gia đình hàng chài, qua đó thể hiện lòng xót thương, nỗi lo âu đối với con người và những trăn trở về trách nhiệm của người nghệ sĩ.

II. Thân bài

1. Làm rõ đối tượng thứ nhất: Nhân vật người vợ nhặt:

– Giới thiệu chung: Tuy không miêu tả thật nhiều nhưng nhân vật người vợ nhặt vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc họa sống động, theo lối đối lập giữa bề ngoài và bên trong, ban đầu và về sau.

– Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu:

+ Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng là một lòng ham sống mãnh liệt. (dẫn chứng)

+ Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng, lại là một người hiểu biết, ý tứ.(dẫn chứng)

+ Bên trong vẻ chao chát, cong cớn, chỏng lỏn lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan. (dẫn chứng)

2. Làm rõ đối tượng thứ hai: Nhân vật người đàn bà hàng chài

– Giới thiệu chung: Là nhân vật chính, có vai trò quan trọng với việc thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc họa sắc nét, theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất.

– Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu.

+ Bên trong ngoại hình xấu xí, thô kệch là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng, giàu đức hi sinh. (dẫn chứng)

+ Phía sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục vẫn là một người có khát vọng hạnh phúc, can đảm, cứng cỏi. (dẫn chứng)

+ Phía sau vẻ quê mùa, thất học lại là một người phụ nữ thấu hiểu, sâu sắc lẽ đời. (dẫn chứng)

3. So sánh: Nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật:

– Tương đồng: Cả hai nhân vật đều là những thân phận bé nhỏ, nạn nhân của hoàn cảnh. Những vẻ đẹp đáng trân trọng của họ đều bị đời sống cơ cực lam lũ làm khuất lấp. Cả hai đều khắc họa bằng những chi tiết chân thực…

– Khác biệt: Vẻ đẹp được thể hiện ở nhân vật người vợ nhặt chủ yếu là phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh, trong nạn đói thê thảm. Vẻ đẹp được khắc sâu ở nhân vật người đàn bà hàng chài là những phẩm chất của một người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính, trong tình trạng bạo lực gia đình…

4. Lí giải sự khác biệt:

+ Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển, biến đổi từ thấp đến cao (cảm hứng lãng mạn), trong khi đó người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại (cảm hứng thế sự – đời tư trong khuynh hướng nhận thức lại)

+ Sự khác biệt giữa con người giai cấp (Vợ nhặt) với quan niệm con người đa dạng phúc tạp (Chiếc thuyền ngoài xa) đã tạo ra sự khác biệt này.

III. Kết bài

– Khái quát những nét giống và khác nhau tiêu biểu và nêu những cảm nghĩ của bản thân.

Top 10 mẫu phân tích nhân vật người vợ nhặt

Số 1: Phân tích nhân vật người vợ nhặt

Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Ông là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Thế giới nghệ thuật của ông chủ yếu tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lý của những người dân nghèo bởi họ rất gần gũi với sinh hoạt của ông. Vợ nhặt là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân. Đến với truyện ngắn này, người đọc sẽ rất ấn tượng với nhân vật người vợ nhặt.

Vợ nhặt được rút ra từ tập truyện Con chó xấu xí của Kim Lân. Tác phẩm có một cái tên thật độc đáo. Nhan đề của truyện vừa cho ta thấy sự rẻ rúng và số phận đau thương của người phụ nữ vừa phần nào hé mở giá trị tư tưởng của tác phẩm. Tên tác phẩm cho ta hiểu vấn đề được đề cập ở đây có liên quan trực tiếp đến một nhân vật phụ nữ trong truyện. Như vậy, nhân vật người vợ nhặt nằm trong hệ thống quen thuộc có tính phổ biến trong văn học từ xưa đến nay. Đã có rất nhiều nhà thơ, nhà văn quan tâm phản ánh chân thực số phận đau khổ và khẳng định phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Người “vợ nhặt” trong tác phẩm là một trong những nhân vật chính. Viết về người phụ nữ này, Kim Lân đã tìm được lối đi riêng cho mình. Ông phản ánh số phận bất hạnh của người phụ nữ trong nạn đói khủng khiếp và phát hiện ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ này như lòng ham muốn sống mãnh liệt, hiền hậu, đúng mực và niềm lạc quan, tin tưởng.

Trước tiên, “vợ nhặt” có một số phận bất hạnh. Văn học từ xưa đến nay rất quan tâm phản ánh chân thực nỗi bất hạnh của người phụ nữ như ca dao than thân. Truyện Kiều, Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm, Mợ Du…  Kim Lân cũng vậy, qua truyện ngắn này nhà văn cho người đọc thấy số phận bất hạnh đau thương của người phụ nữ. Nếu trước kia đẩy người phụ nữ vào số phận hẩm hiu, cực khổ là các tầng lớp thống trị đen tối, những thần quyền lễ giáo cổ hủ, đồng tiền… thì ở truyện ngắn Vợ nhặt ta thấy số phận người phụ nữ được đặt tương quan với nạn đói ghê gớm gắn liền với một sự kiện lịch sử của dân tộc. Hơn hai triệu người bị chết đói năm 1945. Số phận bất hạnh của người phụ nữ này được thể hiện qua ngoại hình, hành động, tâm lý. Vợ Tràng là một nhân vật đặc biệt: nhân vật này không có tên gọi, mà nhà văn gọi chị là “người đàn bà”, “thị” hoặc “người con dâu”. Đây là cách gọi khiến cho tính khái quát càng rộng: thời bấy giờ không chỉ có một mà có muôn vàn người đàn bà rơi vào cảnh ngộ đáng thương như thế.

Không ai biết gốc tích của người vợ nhặt, chỉ biết chị “ngồi vêu ra ở cửa kho, nhặt hạt rơi hạt vãi, hay ai có công việc gì thì họi làm”. Điều đó chứng tỏ thị không có công văn việc làm và đang đứng trước thảm họa đói. Ngoại hình của người vợ nhặt được Kim Lân miêu tả bằng những chi tiết tỉ mỉ: “cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Khi tác giả quay ngược thời gian trở lại lần gặp thứ hai của thị với Tràng, người đọc thấy thị giống như bao kẻ đói khát. “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy xọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Với ngoại hình trông rất tiều tụy, chị là hiện thân của những con người bần cùng, đói khát, tha phương cầu thực “tối đâu là nhà, ngã đâu là giường” (Nguyễn Khải). Với những chi tiêu miêu tả ngoại hình, Kim Lân cho người đọc thấy người phụ nữ này đã phải chịu đói nhiều ngày. Sự đói khát cùng đường làm chị mất đi những nét nữ tính.

Bên cạnh ngoại hình, số phận bất hạnh của người vợ nhặt còn được thể hiện qua tâm lý, hành động của nhân vật này khi gặp Tràng. Ở tình huống gặp gỡ với Tràng, tâm lý của chị hiện lên rất chân thực. Đó là tâm lý của người phụ nữ đang bị đói khát. Lần đầu giữa lúc đang nhàn rỗi nghe câu hò buông ra của Tràng và những lời trêu ghẹo của bạn bè, thị đã “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Một người đàn ông không quen biết rồi thị đùa bỡn với anh “liếc mắt cười tít”. Chuyện đùa chỉ có vậy, hình ảnh người đàn bà này không để lại dấu ấn sâu sắc gì với Tràng.

Đến lần thứ hai, nhân vật xuất hiện bằng ngôn ngữ và cử chỉ được cá tính hóa rõ nét, chị sưng xỉa trách móc: “Điêu! Người thế mà điêu” làm Tràng không hiểu. Những lời thoại tiếp chứng tỏ người phụ nữ đã cố lái những chuyện không đâu vào mục đích thiết thân của mình là được ăn. Sự đói khát cùng đường đã biến chị trở thành kẻ táo tợn, trơ trẽn không cần giữ danh dự. Chị đã biến lời nói đùa thành thật. Khi được Tràng mời ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị lập tức sáng lên”. Đây đúng là phản xạ của của một người đói, cái đói đang cào cấu ruột gan “Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật”. “thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”.

Trong văn học trước đó ta đã gặp những trang viết về cảnh cơ cực khốn cùng của con người vì đói: một bà lão nông dân đói lâu ngày tìm đến ăn một bữa nhưng lại bị chết (Một bữa no), một người cha vì miếng ăn và mất hết tình phụ tử “Trẻ con không được ăn thịt chó), một người vì đói mà ăn vụng vợ mấy miếng bánh… Nhưng trong Vợ nhặt, cái đói đã thử thách nhân cách của người phụ nữ ghê ghớm. Nạn đói như một cơn lũ khủng khiếp cuốn phăng đi bao sinh mệnh. Giữa dòng lũ đó thì tiếng nói mãnh liệt nhất là tiếng nói của bản năng, lòng mãnh liệt ham muốn, vì đói quá người phụ nữ ấy đã đẩy lùi sĩ diện không do dự ngập ngừng trong hành động của mình.

Chị đã biến câu hò thành lời hứa, biến rủ rê vu vơ thành lời cầu hôn chính thức, biến tất cả đùa thành thật. Chị theo người đàn ông lạ về nhà mà không hề biết gia cảnh, tính tình của người ấy. Tất cả những hành động này đều vì đói khát, cùng cực. Tràng đã nhặt được vợ một cách thật dễ dàng. Tình huống này khiến người đọc suy nghĩ về về giá trị con người, đặc biệt là giá trị của người phụ nữ. Qua đó ta thấy, cái đói đã xô đẩy con người vào cảnh cùng đường tuyệt lộ. Cái đói đã tước đoạt nhân cách của người phụ nữ, làm cho giá trị của họ trở nên rè mạt. Người vợ nhặt là hiện thân cho số phận bất hạnh của người phụ nữ trong nạn đói đó.

Bị cái đói, cái khát đe dọa thủ tiêu, tha hóa nhưng trong người phụ nữ ấy vẫn ánh lên những phẩm chất đẹp đẽ. Ở hai lần gặp gỡ người phụ nữ đã dai dẳng bám theo câu hò và chuyện đùa trở thành thật. Khi được ăn thật chị biết đùa sau bữa ăn cho nhẹ nhàng “Hà, ngon! Về chị ấy thụt tiền thì bỏ bố”. Điều đó chứng tỏ chị chấp nhận ăn để thỏa mãn nhu cầu thiết thực cho bản thân nhưng vẫn còn vương vấn một chút sĩ diện, một chút e ngại cho cả Tràng vì giữa lúc đói kém này mà Tràng lại bị hao hụt tiền cho người khác. Chị không phải có bản tính xấu muốn lợi dụng người khác. Do vậy mà người đọc thấy thương chứ không khinh bỉ nhân vật.

Kim Lân đã miêu tả nhân vật bằng những chi tiết rất tỉ mỉ và ông sử dụng những từ ngữ, những kiểu câu đối thoại của nhân vật rất phù hợp tới tâm lý, trình độ của họ. Qua đó, người đọc hiểu người đàn bà này cong cớn, trơ trẽn nhưng không lẳng lơ. Sự cong cớn, trơ trẽn là sản phẩm của cái đói chứ thị không có bản tính xấu và ác. Vì thế, gặp bàn tay đón đỡ của Tràng và bà cụ Tứ, vẻ đẹp đầy nữ tính của thị đã sáng dần lên. Trên con đường về nhà Tràng, người vợ trách chồng đã bỏ ra hai hào mua dầu: “hoang nó vừa chứ”, lời trách thể hiện trách nhiệm với gia đình, ý thức thu vén cuộc sống. Chị đúng là một người vợ thực sự. Cùng Tràng trên đường về nhà “thị sắp cái thúng con đầu hơi cúi… có vẻ rón rén, e thẹn”. Nét e thẹn đó là bản tính rất nữ tính của con người. Như vậy, qua một vài chi tiết miêu tả ta thấy tâm tính của người phụ nữ này đang dần dần trở lại.

Vẻ đẹp tâm hồn của người vợ nhặt được bộc lộ sâu sắc nhất khi chị ở nhà Tràng. Lúc về đến nhà Tràng, chứng kiến cảnh “cái nhà vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những núi cỏ dại”; Trong nhà “niêu bát xống áo vừa bừa bộn cả trên giường, dưới đất”, “cái lồng ngực lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài”. Thị đã ý tứ che giấu không cho Tràng viết phản ứng của mình. Đó là thái độ chấp nhận, dường như chị nghĩ rằng mình không nên đòi hỏi điều gì. Khi vào đến trong nhà, chị “ngồi mớm ở mép giường”. Đây là tư thế e thẹn, ngượng ngùng, rụt rè, lo âu của người con gái lần đầu bước chân về nhà chồng. Chi tiết này chứng tỏ nhà văn rất tinh tế. Tinh tế hơn nữa khi ông diễn tả cử chỉ “hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Nét mặt này chứa đựng bao ngổn ngang suy nghĩ, e ngại xót xa, tủi cực cho số phận của mình. Nhưng chị không khóc, chị đã cố giữ để những giọt nước mắt khỏi tuôn trào.

Điều đó chứng tỏ thị sống rất sâu sắc. Trước đó chị liều lĩnh theo Tràng để tránh được cái đói, để được sống. Bây giờ chị biết vươn lên hoàn cảnh để thực hiện khát vọng sống. Đặc biệt là buổi sáng hôm sau thị đã thực sự trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà, thị thức dậy sớm lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ khiến Tràng cũng nhận ra sự thay đổi kỳ lạ của thị “trông thị hôm nay khác hẳn”. Rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát,chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoại tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Cử chỉ ngồi với mẹ chồng rất lễ phép ngoan ngoãn.

Có vẻ đến đây thiên tính nữ trong con người thị được bộc lộ rõ nét “Không hẳn người phụ nữ nào trong hoàn cảnh ấy cũng cư cử được như chị ta”. Khi thị hỏi bà cụ Tứ tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khẻ thở dài rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện “trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không chịu đóng thuế nữa đâu, người ta còn phá kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có dịp làm như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả Tràng.

Trong bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, chị cũng như bà cụ Tứ và Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn ứ trong cổ họng. Bữa ăn đầu tiên của một nàng dâu mới đặt chân về nhà chống như vậy quả rất đáng tủi. Nhưng mẹ chồng đã có công dấu, chị điềm nhiên và lặng lẽ ăn. Chị cũng như hai mẹ con Tràng đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn đau hơn. Kim Lân như muốn khẳng định “người phụ nữ dù rơi vào hoàn cảnh nào vẫn mang thiên tính nữ. Và rất tự nhiên họ khao khát một cuộc sống gia đình và vun vén cho mái ấm ấy”. Đó là điều rất đáng trân trọng, đáng ca ngợi.

Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ vợ nhặt rất thành công. Tác giả chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lý của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Nhân vật người vợ nhặt nắm giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm nổi vật chủ đề tư tưởng của tác phẩm đồng thời có vai trò quyết định trong việc hình thành nên tình huống truyện. Qua nhân vật này người đọc cũng thấu hiểu được tài năng cũng như tấm lòng của nhà văn. Người vợ nhặt – một nhân vật vô danh nhưng không vô nghĩa.

Thông qua tâm lý của nhân vật người vợ nhặt diễn ra trong một tình huống đặc biệt, chủ đề của truyện ngắn được thể hiện một cách sâu sắc và cảm động: người lao động trong xã hội cũ cực khổ vô vùng, suốt đời không thoát khỏi đói nghèo, tuy vậy rất giàu tình yêu thương, họ khao khát một mái ấm gia đình. Và không có gì có thể cướp được ở họ niềm tin vào sức sống và tương lai. Chủ đề của tác phẩm vừa có ý nghĩa tố cáo xã hội, vừa có giá trị nhân bản sâu sắc.

Bài Vợ nhặt của Kim Lân
Bài Vợ nhặt của Kim Lân

Số 2: Phân tích người vợ nhặt

Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó. Đó là nhân vật người vợ.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, người chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong làng đi chợi, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vấn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Tác phẩm như đã tái hiện lên khung cảnh lúc đó, ở một xóm nghèo nhỏ, người dân sống cực khổ quanh năm , lại thêm cảnh chèn ép bắt đóng thuế… nhọc nhằn sao kể xiết.

Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút cho diễn biến xoay quanh nhân vật người vợ trong tác phẩm. Từ “nhặt” mang lại cho đọc giả cái cảm giác rẻ rúng, bèo bọt của phận làm nữ nhi, gợi lên niềm xót thương cho số phận con người. “ Vợ nhặt” nghe quá đỗi chân thực và vẽ lên hình ảnh người phụ nữ có một cuộc sống khó khăn, chẳng được hưởng hạnh phúc tròn vẹn khi ngay cả một đám cưới nhỏ cũng không có hay chính xác hơn là một mâm cơm ngon cũng chỉ như giấc mộng hão huyền ngày cô về làm dâu nhà người ta.

Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mùng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Bởi cuộc sống quá khó khăn, đói kém con người ta trở nên càng mệt mỏi , chán nản, từ già trẻ, gái trai đều đem sự khắc khổ của đời mà ghim vào những nếp nhăn , nếp chân chim, và làn da rám nắng , thân thể gầy gò quắt queo. . Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái ao nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”. Và bỗng một hôm hắn dắt về một người đàn bà lạ hoắc không một ai trong xóm nhỏ quen biết.

Dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám ảnh “ thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén,e thẹn” . Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.Tưởng chừng Thị là một người phụ nữ táo bạo vô duyên nhưng thực chất cũng vô cùng e lệ và suy nghĩ như một người phụ nữ. Cắp thúng con theo Tràng về, nàng dâu mới cũng bẽn lẽn theo sau, khi bị trêu chọc cũng e thẹn như bao nàng dâu mới khác. Về đến nhà, khi được Tràng mời ngồi thị chỉ ngồi mớm ở giường, tay vân vê và bộ mặt lộ rõ vẽ đầy lo lắng. Chắc có lẽ thị nghĩ về cuộc sống mới của hai vợ chồng, rồi cuộc đời của thị sẽ đi đến đâu

Buổi đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu hiu, ảm đảm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Không còn gì thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như vậy. Mọi thứ dường như bị cái đói, cài nghèo đè nén đếm chìm nghỉm. Bằng ngòi bút tả thực sinh động, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc nhiều chua xót, đắng cay cho những phận nghèo long đong, lận đận. Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người đàn bà đi bên cạnh Tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có lẽ là vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Khi mới gặp Tràng,Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn.

Nghe anh chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà xưng xỉa nói: Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống ăn như chết đói. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà khen ngon.Phải chăng đấy là tính cách cốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình.

Thị làm tất cả chỉ để có được miếng ăn.Người đàn bà khi đi cùng Tràng về nhà đã bắt đầu không còn chua ngoa, đanh đá nữa mà trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm vợ. Người đàn bà làm vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy hai con người đến với nhau, không phải tình yêu nhưng là tình thương. Một tình thương có lẽ còn vượt lên trên cả tình yêu. Vì thương mà đến với nhau trong cái thời buổi mà chính bản thân Tràng còn chưa lo đủ ấm no cho mái nhà tranh rách nát của hắn cùng với mẹ già. Còn người đàn bà kia, đơn thuần chẳng ham vinh hoa phú quý, chấp nhận lao lực, vất vả cùng Tràng. Hẳn người đọc sẽ cảm thông và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.

Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự chuyển đổi trong tâm tinh thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…” Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiển lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình.

Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết. Thế nhưng vì thương con , lại một chữ “thương” mà bỏ qua tất cả để người mẹ chấp nhận cuộc sống vất vả, khổ cực có thêm một miệng ăn và bà cũng thương cả hai con người trẻ tuổi trước mặt mình: “Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là con dâu trong nhà rồi” .

Có hai tình huống xảy ra mà khiến độc giả có lẽ không cầm được nước mắt, đó là khi nhà ăn bữa cơm đầu tiên đón nhận thành viên mới và lúc bà mẹ già bưng nồi ‘‘chè khoán’’ nghi ngút khói ra đặt cạnh mâm cơm. Trong cái thời nạn đói , người chết như rạ ấy thì một bữa cơm đúng nghĩa quả thực rất khó để có trong một gia đình như của Tráng. Bữa cơm bao gồm “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà ăn đều rất ngon lành’’. Thật sự là nghèo khó đến bần cùng cạn kiệt. Ngượi vợ vẫn ăn mà không một câu than phiền. Xuất thân của thị cũng có hơn gì ai. Thị cũng nghèo khó, gầy gò và vì tình thương mà đến làm vợ , làm con dâu nhà người ta. Thị cũng là một người vô cùng đảm đang và tháo vát.

Khi về nhà Tràng, buổi sáng sớm tinh mơ, thị đã dậy sớm để cùng bà dọn dẹp và sửa sang lại căn nhà vườn tược. Dường như thị muốn vun vén cuộc sống của gia đình và bắt đầu môt cuộc sống mới. Thị cũng rất vui tính và hòa nhập nhanh với cuộc sống mới. trong bữa ăn, thị kể nhiều câu chuyện, có cả câu chuyện cướp kho thóc nhật, từ đó dấy lên bao niềm khát khao hi vọng tự do của những người dân nghèo khó. Một bữa cơm đón dâu nghèo nàn đến đáng thương. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu dầu tiên.

Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà Tứ có thể mang lại cho con. Và có lẽ trong thâm tâm người ‘‘vợ nhặt’’ cảm thấy xúc động thêm thương xót cho những con người trong gia đình này. Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói do khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.

Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ vợ nhặt rất thành công. Tác giả chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Nhân vật vợ nhặt nắm giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm đồng thời có vai trò quyết định trong việc hình thành nên tình huống truyện.

Bài Vợ nhặt của Kim Lân
Bài Vợ nhặt của Kim Lân

Số 3: Cảm nhận về nhân vật người vợ nhặt

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân viết lên bằng cái ám ảnh rùng rợn của nạn đói đầu năm 1945 trong tâm trí của tác giả cũng là trong tâm trí của người dân miền Bắc. Nạn đói thê thảm bao trùm khắp không gian và biến một người đàn bà thành cô “vợ nhặt”. Có thể nói nhân vật người vợ nhặt là một trong những nhân vật độc đáo nhất trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, ẩn chứa nhiều quan niệm nghệ thuật và triết lý sống sâu sắc.

Nhân vật người vợ nhặt hiện lên trong nạn đói vô cùng thê thảm, thị bị cái đói dồn tới bước khó khăn có lúc như mất đi vẻ đẹp dịu dàng nữ tính vốn có. Người vợ nhặt không có tên. Thị nghèo khổ tới mức không có một cái tên riêng cho mình. Cái đói, cái nghèo còn tước đoạt cả vẻ đẹp hình thể, làm cho chị ta tiều tụy cả về hình dáng: “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, “cái bụng gầy lép”, “bộ quần áo rách như tổ đỉa”. Thị “ton ton” chạy theo Tràng đẩy xe, liếc mắt cười tình. Thị “sưng sỉa” đòi ăn. Thị “chao chát”, “chỏng lỏn”, “đon đả”: “Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì!”… Vì miếng ăn nhất thời mà chị sẵn sàng theo không một người đàn ông xa lạ. Vài câu nói tầm phơ tầm phào và bốn bát bánh đúc mà thị trở thành vợ “nhặt về” của anh phu Tràng – một kẻ ế, nghèo, ngơ ngẩn. “Cô dâu” – thị về nhà chồng mà không tài sản, không nhan sắc.

Cái đói khiến thị thành vật vô giá trị. Về phương diện này người vợ nhặt còn không bằng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài. Mị tuy bị áp bức tới vô cảm, chẳng bằng thân trâu ngựa nhưng ít ra còn xinh đẹp và tài hoa. Còn thị, ngay cả cái phần ưu ái thường dành riêng cho phụ nữ thì tạo hóa cũng từ chối cho người đàn bà này. Cuộc sống đã đói khổ khiến thị mất đi cái duyên con gái, vừa nghe được ăn thì đã “ton ton chạy lại đẩy xe bò” cho Tràng. Rồi lại còn “chạy tới xưng xỉa đòi ăn”, đến khi được ăn thì “cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” và “hai con mắt trũng hoáy sáng lên”. Thị gần như mất hết lòng tự trọng, chẳng có nét gì là của người phụ nữ nông thôn.

Thế nhưng bản chất của chị không phải là người đanh đá, nanh ác, cơ hội. Thực chất là do hoàn cảnh khiến cho thị thành như vậy. Cho nên cho đến khi được hạnh phúc gia đình, thị bỗng trở về bản chất lương thiện chu đáo vốn có của người phụ nữ Việt Nam. Từ khi trở thành “cô dâu”, thị e thẹn, ngượng ngùng thật đáng yêu khi về nhà chồng. Sau đêm tân hôn, thị gần như trở thành người khác.

Thị biết lo toan, vun vén cho hạnh phúc gia đình. Thị cùng bà cụ Tứ dọn sân vườn, nhổ cỏ, đem mấy bộ quần áo ra hong, cái ang khô cũng đầy ắp nước… mang lại hơi thở mới cho căn nhà. Bữa cơm ngày đói tuy đơn sơ, miếng cháo cám đắng ngắt nhưng chính thị là người khơi dậy khát vọng sống của mọi người khi nhắc tới cảnh Việt Minh phá kho thóc Nhật cứu đói. Chi tiết này đã hé mở con đường giải thoát cuộc đời cho con người và khao khát một tương lai tươi sáng ở nhân vật người vợ nhặt.

Như vậy, thông qua hình tượng nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân đã phản ánh tình trạng thê thảm và niềm thương cảm sâu sắc với số phận con người lao động nghèo khổ trong nạn đói 1945. Hình ảnh người vợ nhặt là hiện thân cho bản chất tốt đẹp của con người, cho khát vọng hạnh phúc gia đình và hiện thân của khát vọng sống.

Số 4: Phân tích hình tượng người vợ nhặt

Trong tác phẩm Vợ nhặt người vợ không thực sự được khai thác nhiều. Nhưng với nhân vật này, Kim Lân cũng gửi đến những thông điệp đầy ý nghĩa và nhân văn, thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả.

Người vợ nhặt được xây dựng là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, túng quẫn. Thị không có bất cứ gia sản gì, ngay cả cái tên cũng không có, thị chỉ được gọi một cách chung chung và đầy rẻ rúng là vợ nhặt. Thị không có nhà cửa, hai lần gặp Tràng chỉ thấy thị vất vưởng nơi đầu đường, xó chợ. Thị không có họ hàng, không có nghề nghiệp.

Trong hoàn cảnh toàn dân Việt Nam đang phải oằn mình chống lại nạn đói, thị không có bất cứ một chỗ dựa nào, thị sống trong sự dồn đuổi của cái chết, hàng ngày, hàng giờ, cái đói đã biến thị trở nên xanh xao, hốc hác, gò má cao, không còn chút sự sống.

Chính hoàn cảnh bị đẩy đến bước đường cùng, đã khiến cho thị đánh mất lòng tự trọng của bản thân. Nỗi ám ảnh về cái đói, cái chết không chỉ vắt kiệt sự sống của người đàn bà nghèo mà còn xói mòn nhân cách, nhân phẩm của thị, nó được thể hiện rõ qua hai lần gặp gỡ với Tràng. Lần thứ nhất, gặp Tràng vốn là người không quen biết, chỉ vì một câu hò vu vơ, Thị đang ton ton chạy ra, híp mắt cười tình, rồi đẩy xe bò cho Tràng. Mãnh lực của miếng ăn quá lớn, khiến thị đánh mất sự e dè, thẹn thùng vốn có.

Lần thứ hai gặp lại sự trơ trẽn, vô duyên đã đánh mất cả lòng tự trọng. Sau lần gặp gỡ đầu, không có bất cứ một lời hẹn ước nào, nhưng khi gặp lại Tràng, thi sầm sập chạy đến, đứng trước mặt mà nói: “Điêu! Điêu. Người thế mà điêu”. Và chỉ đến khi nhận được lời mời cho đi ăn, thì thị không còn chút ý tứ, ngồi xuống cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc.

Những câu văn ngắn diễn tả hành động ăn uống thô tục, lỗ mãng của thị. Nỗi ám ảnh của cái đói đã khiến thị trở nên táo bạo, liều lĩnh. Nhân cách, lòng tự trọng là đáng quý nhất với con người đã bị bán rẻ vì miếng ăn. Đó là hiện thực đau xót mà không chỉ cô vợ nhặt mới vậy, mà rất nhiều người dân Việt Nam đã rơi vào tình cảnh này.

Và liều lĩnh nhất là chỉ một câu nói đùa của Tràng, cô đã theo anh về làm vợ. Trong hoàn cảnh không còn đâu để bấu víu, thì dù có là vợ nhặt cô cũng chấp nhận để thoát khỏi sự truy đuổi của thần chết.

Cũng như nhân vật Tràng, sau khi lập gia đình, người vợ nhặt đã có sự thay đổi vô cùng lớn. Đầu tiên là sự thay đổi tâm lí, tính cách, trên đường về nhà, trước sự để ý của những người dân, thị cắp cái thúng con, e dè, ngại ngùng đi cạnh Tràng. Những biểu hiện ở dáng điệu đó cho thấy sự xấu hổ, ngượng ngùng trong tâm lí của thị.

Đó cũng là biểu hiện đầu tiên đánh dấu sự trở lại của nữ tính, sự trơ trẽn, chỏng lỏn đã không còn. Trong lòng cô vợ nhặt còn dấy lên niềm lo lắng cho tương lai. Về đến nhà, nhìn thấy ngôi nhà xiêu vẹo, đầy những cỏ dại vây xung quanh, cái ngực lép của thị nhô lên, nén một tiếng thở dài. Vào đến nhà, cô ngồi ghé ở mép giường, tay ôm chặt cái thúng.

Trước mặt mẹ chồng, cô lễ phép chào hỏi, tay mân mê tà áo đã rách bợt đi. Những hành động, cử chỉ của thị thể hiện một tâm lí dễ hiểu đó là sự e thẹn khi lần đầu tiền đối diện với mẹ chồng. Song cũng bộc lộ phần nào sự lễ phép, dịu dàng trong cách giao tiếp với người lớn tuổi. Những biểu hiện này một lần nữa cho thấy, cái chỏng lỏn chỉ là sản phẩm của sự xô đẩy của hoàn cảnh, còn trong thẳm sâu bản chất thì vẫn là tâm hồn đầy nữ tính.

Sự thay đổi rõ nhất trong tính cách chính là buổi sáng đầu tiên sau khi thị lấy chồng. Qua cái nhìn của nhân vật Tràng, thị hôm nay đã khắc hẳn, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn chao chát, chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài tỉnh.

Những thay đổi trong cảm nhận của Tràng xuất phát từ những việc làm hết sức giản dị mà ý nghĩa mà cô vợ nhặt đã làm: dậy sớm, cùng mẹ dọn dẹp, quét tước nhà cửa,… Thị đã đem đến màu sắc tươi sáng vào căn nhà lạnh lẽo, u ám của Tràng. Tất cả những hành động đó cho thấy sự đảm đang, tháo vát của cô cùng cho thấy thị thực sự yêu thương, trân trọng tổ ấm gia đình, và có khát vọng mãnh liệt vào hạnh phúc gia đình.

Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lân đặt vào tình huống hết sức độc đáo, từ đó nhân vật bộc lộ tâm trạng, cách hành xử của bản thân. Nhân vật được tập trung khắc họa ở cử chỉ, hành động qua đó làm bật lên vẻ đẹp của người vợ nhật.

Bằng ngòi bút tin yêu và trân trọng, Kim Lân đã dựng lên một chân dung bất hủ của văn học. Người vợ nhặt chính là nạn nhân tiêu biểu nhất của nạn đói năm 1945, nạn đói đã làm nhòe mờ nhân cách, lòng tự trọng của nhân vật. Nhưng ẩn sâu trong con người ấy vẫn là một người phụ nữ đầy dịu dàng, nữ tính, biết vun vén và có khao khát hạnh phúc mãnh liệt, đồng thời cũng là người có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.

Bài Vợ nhặt của Kim Lân
Bài Vợ nhặt của Kim Lân

Số 5: Phân tích hình ảnh người vợ nhặt

Kim Lân là một nhà văn có nhiều trang viết gắn liền với cuộc sống của những người nông dân Bắc bộ Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm viết về con người và mảnh đất này như: “Làng”, “Vợ nhặt”, “Con chó xấu xí”. Tác phẩm “Vợ nhặt” được trích từ tập truyện “Con chó xấu xí” là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp năm 1945 vừa là bài ca ca ngợi về vẻ đẹp tình người và khát vọng sống, niềm tin vào tương lai của người lao động nghèo. Dường như nạn đói định mệnh ấy đã làm cho con người ta quên đi cả danh dự, họ bất chấp để được sống, thậm chí chuyện hạnh phúc cả đời cũng tặc lưỡi cho qua. Nhân vật Thị là một điển hình trong số những nạn nhân xấu số của nạn đói đó.

Tác phẩm “Vợ nhặt” được viết ngay sau Cách mạng với tên gọi “Xóm ngụ cư”. Nhưng do thất lạc bản thảo nên sau khi hòa bình lập lại, tác giả đã viết lại thành “Vợ nhặt”. Tác phẩm có nhiều nhân vật nhưng nhân vật người “vợ nhặt” là nhân vật mang lại nhiều thương cảm nhất cho người đọc. Nhân vật này được xây dựng dựa trên sự đối lập giữa hình thức bên ngoài và phẩm chất bên trong, giữa trước và sau khi về làm vợ Tràng.

Trước hết, hình ảnh người vợ nhặt hiện lên là một “người phụ nữ nghèo, cùng đường và liều lĩnh”. Vì đói mà sẵn sàng bất chấp cả thể diện để có được miếng ăn để sống được qua ngày. Ẩn sau cái vẻ ngoài bất cần ấy Thị là một người đầy “nữ tính và giàu khát vọng”. Điều này đã góp phần tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ và lòng ham sống, khát vọng sống vươn lên hướng đến ánh sáng ngày mai. Tất cả những điều này đã mang đến cho người đọc cái nhìn đúng đắn về người vợ nhặt nạn nhân của nạn đói năm 1945.

Đi suốt chiều dài của tác phẩm đúng là người vợ nhặt là “người phụ nữ nghèo, cùng đường và liều lĩnh”. Thị là một trong số vô vàn các nạn nhân của nạn đói năm Đinh Dậu. Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt của anh Tràng chẳng biết từ đâu xuất hiện, không có cái tên để gọi, không có nguồn gốc sinh thành, không quê hương bản xứ, mọi thứ về Thị chỉ là một con số không tròn trĩnh. Không phải là nhà văn không thể đặt cho Thị một cái tên mà bởi vì Thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “Thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Nhưng chính nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc, đã làm nên tiếng vang cho truyện ngắn Vợ Nhặt.

Thị bị cơn bão nạn đói thổi cho phiêu dạt đến miền đất này, cuộc sống lê la tháng ngày không biết đến ngày mai nếu như không có cái lần anh Tràng “hò một câu chơi cho đỡ nhọc” ấy. Thị xuất hiện với ngoại hình không xinh đẹp, hấp dẫn. Chân dung của Thị được gợi tả với “những nét không dễ nhìn”. Đó là người phụ nữ gầy vêu vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Phải chăng, sức tàn phá của nạn đói đã khiến Thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng tội nghiệp hơn nữa, nó đã làm cho người phụ nữ ấy trở nên thê thảm hơn bao giờ hết. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của Thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Vì đói mà Thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói đã xui khiến Thị quên đi ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Được cho ăn, Thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Với Thị lúc đó miếng ăn để duy trì cuộc sống còn cao hơn nhân cách, nếu như chết thì nhân cách có cũng chẳng để làm gì .

Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại có một lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng là vì để được sống chứ không phải là loại đàn bà con gái lẳng lơ. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thị không trả lời mà lặng lẽ theo Tràng về, Thị đã gián tiếp đồng ý, một sự đồng ý không hề có sự băn khoăn hay phân vân gì cả, dường như chuyện dựng vợ gả chồng trở nên dễ dàng và rẻ rúng hơn bao giờ hết. Cái giá của người phụ nữ ít nhất cũng là “Ba trăm một mụ đàn bà/ Mua về mà trải chiếu hoa cho ngồi”. Ở đây, Thị đã “đại hạ giá” xuống còn bốn bát bánh đúc, hai hào dầu, một thúng con.

Thị nào có biết Tràng là ai, tốt xấu như thế nào, quê quán, gốc tích ra sao? Chỉ một câu hò bâng quơ và mấy bát bánh đúc là Thị đã theo về làm vợ anh Tràng. Phải chăng Thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo Tràng của Thị xuất phát từ lòng khao khát được sống. Khi đã cận kề cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, Thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Tinh thần lạc quan yêu sự sống của Thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: “Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.

Trên đường về nhà chồng, trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin “chân nọ bước díu cả vào chân kia cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”. Đấy là nữ tính cũng là hình ảnh của một người phụ nữ giàu lòng tự trọng. Thực ra, cái đói đã đẩy đưa Thị phải theo Tràng. Cơn bão tố cuộc đời đã xô đẩy thân phận cùng cực ấy ngã vào đôi vai người đàn ông thô kệch. Nhưng biết đâu đấy lại là cái may mắn của Thị. Bởi cũng biết đâu, nếu không có câu bông đùa ấy của Tràng, ít bữa nữa thôi, Thị có khi lại trở thành thây ma giữa nạn đói khủng khiếp này.

Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả nét tâm lý, tính cách của Thị. Nhà văn như lọt vào trong nỗi thẳm sâu tâm tư tình cảm ấy của người phụ nữ năm đói. Ông như nhìn thấy cả nỗi tủi nhục của kiếp người, thấy cả trong bước chân liêu xiêu, bước díu vào nhau kia là cả tủi hờn, xấu hổ. Cả tiếng thở dài não nuột kia cũng đáng để ông xót xa và mến yêu. Ấy là lúc Thị về đến nhà Tràng, nhìn thấy “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, Thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà Thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách.

Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của Thị về gia cảnh nhà chồng đó phải chăng là Thị đã ý thức được phận trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của Thị thật đáng quý biết bao. Hay chính Kim Lân đã thổi vào tâm hồn Thị niềm lạc quan ấy để Thị vững lòng cho một cuộc sống ngày mai. Quả thật là Thị không tìm thấy ở Tràng một chút gì gọi là nương tựa về vật chất nhưng Tràng chính là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất cho Thị vào lúc này. Cuộc sống này xét về tình nghĩa như thế cũng đáng để sống lắm chứ.

Đến lúc này người đọc chợt nhận ra, bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, Thị lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan và cũng giàu lòng tự trọng. Vào trong nhà, Thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường. Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Thị thể hiện mình là một nàng dâu hiếu thảo, lễ phép với mẹ chồng..

Sáng hôm sau, Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, sắp xếp lại nhà cửa, ngôi nhà của bà cụ Tứ giờ đây như được hồi sinh.. Đến đây, người đọc dễ nhận thấy: bao nhiêu vẻ “chỏng lỏn”, “sưng sỉa” của Thị trước kia không còn nữa. Dường như Thị đã lột xác trở nên nữ tính hơn. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đủ đầy sự thay đổi tuyệt vời ấy “Tràng nom Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Lúc này Tràng cảm thấy vợ mình đã thật sự thay đổi. Chính sức mạnh của tình yêu đã cảm hóa và làm thay đổi con người Thị.

Trong bữa cơm đầu đón nàng dâu: Dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng Thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã làm cho không khí gia đình ấm cúng, thân thương hơn bao giờ hết. Thị chính là ngọn gió mát lành thổi vào cuộc sống của gia đình Tràng, thổi vào cả tâm hồn người đàn ông phu xe cục mịch, thổi cả vào khuôn mặt “bủng beo u ám” của bà cụ Tứ để hôm nay trông bà “rạng rỡ hẳn lên”. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, Thị nói với mẹ chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Sự hiểu biết này của Thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn. Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là Người truyền tin cách mạng.

Có thể nói, người vợ nhặt được miêu tả ít, song đó lại là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm. Thiếu Thị, Tràng vẫn chỉ là Tràng của ngày xưa; bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực. Chính Thị đã thổi một luồng sinh khí, một luồng gió mới vào cuộc sống tối tăm, nghèo khổ của Tràng, làm ngời sáng lên niềm tin vào cuộc sống. Viết về sự đổi thay trong tâm tính của Thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở đây. Chính vì thế, cả hai ý kiến nêu trên ta thấy đều đúng, xác đáng. Thị nghèo khổ, cùng đường, liều lĩnh nhưng đáng thương hơn là đáng giận bởi đằng sau cái cùng đường liều lĩnh ấy là phẩm chất ham sống, giàu lòng tự trọng và khát vọng vượt lên thảm cảnh nạn đói để được sống cho một ánh sáng ngày mai.

Tóm lại, người vợ nhặt là một sáng tạo của Kim Lân. Thông qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người ta dù sống trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai và không bao giờ mất đi niềm tin vào sự sống. Thông qua hình ảnh nhân vật Thị nhà văn như phanh phui, lột trần bộ mặt thối nát của bọn thực dân và bọn cường quyền lộng hành, chính vì tội ác của chúng mà làm thân phận con người chỉ đáng vài bát bánh đúc, chính chúng là thủ phạm hủy hoại tương lai của biết bao con người. Chính Thị là một hình tượng mà nhà văn Kim Lân đã dựng lên để nói với nhân dân và bè lũ độc ác kia rằng người phụ nữ Việt Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung không bao giờ từ bỏ sự sống ở bất cứ hoàn cảnh nào.

Số 6: Cảm nhận người vợ nhặt

Nhà giáo Trần Đồng Minh từng nói ra nhận xét rất tinh tế: “Nhà văn dùng Vợ nhặt để làm cái đòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện Vợ nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng”. Và phải chăng “những tia sáng ấm lòng” ấy hẳn là tình yêu thương, nói lên sức sống mãnh liệt của các nhân vật bị đẩy tới đường cùng tuyệt lộ buộc phải đối mặt với cái chết nhưng lại biết cách tỏa sáng rực rỡ để nâng tầm giá trị của con người. Bằng óc quan sát tinh tế nhạy và tấm lòng đồng cảm sâu sắc với số phận con người, Kim Lân đã thực sự làm độc giả xúc động khi xây dựng thành công hình tượng nhân vật Thị và qua đó thể hiện rất rõ số phận của người phụ nữ trong tác phẩm. Nhân vật Vợ Nhặt được tác giả Kim Lân lấy chính hiện thực xã hội của nạn đói khủng khiếp năm 1945 làm chủ đề và tác phẩm cũng đã lột tả được sâu sắc thực trạng ấy một cách chi tiết, sống động cương trực và đầy giá trị.

Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí và sau khi xuất bản đã gây một tiếng vang lớn đối với mọi độc giả đặt biệt là những tình tiết éo le, nhưng cũng đầy cảm động của câu chuyện. Ở đó đã hiện rõ lên hiện thực của xã hội khi mà người ta sẵn sàng bỏ qua nhân phẩm, tư cách của chính bản thân mình chỉ vì miếng ăn vì cái đói hành hạ. Và nổi bật đó chắc hẳn là nhân vật Thị – người Vợ Nhặt vô cùng đặc biệt. Nhưng ở đó là ý nghĩa và giá trị mà tác giả muốn gửi gắm đến người.

Dưới ngòi bút của nhà văn Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh bần hàn, không tên không tuổi cũng không quê hương và không quá khứ. Không hẳn là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi phiêu dạt trong nạn đói. Từ đầu đến cuối tác phẩm nói là nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Những nhân vật này đã để lại rất nhiều cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.

Thị xuất hiện vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người phiêu dạt trong cái nạn đói khủng khiếp đó :

Lần đầu thị xuất trong câu truyện hiện là hình ảnh: ngồi lộm cộm trong đám con gái chờ nhặt hạt cơm hạt gạo rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh. Khi vô tình nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, Thị ngây thơ “lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng hiện hữu trong đầu là được ăn nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.

Lần thứ hai cô thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ nữ gầy vêu vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật hẳn với “hai con mắt trũng hoáy”. Hẳn là cái đói đã khiến thị trông đã nhếch nhác, tội nghiệp lại càng xấu xí, tội nghiệp nhiều hơn nữa. Cái đói không chỉ tàn phá dung nhan của thị mà còn tàn phá cả tính cách và nhân phẩm. Vì đói mà khiến thị trở nên “chao chát” và “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị trở nên “cong cớn”, “sưng sỉa” khi tiếp xúc nói chuyện với người khác. Cái đói khiến thị quên đi cả cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của một người con gái. Thị cứ vậy mà đòi ăn. Được người cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị đã đặt nhân cách của mình vào hết trong ăn.

Khi anh Tràng lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thì người đàn bà kia lại trở im lặng (mà thường tâm lý im lặng là đồng ý). Thị đã đồng ý mà không hề do dự cũng chẳng hề phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt hay xấu như thế nào? gốc tích ra làm sao? Thị chẳng hề hay nào biết. Chỉ vỏn vẹn mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng là do cái đau đớn hành hạ của cái đói ?

Thị dễ dàng và hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo Tràng của thị cũng xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát mong cầu được sống. Thị bất chấp tất cả để được ăn thị muốn được tồn tại. Thị chấp nhận theo không Tràng mà chẳng hề đắn đo.

Đó là ý thức của con người để mong bám lấy sự sống.Khi cận kề bên cái chết, người đàn bà ấy đã không hề buông xuôi sự sống. Ngược lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm khốc của nạn đói để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sự sống của thị chính là một phẩm chất rất cực quỳ đáng quý. Nói như nhà văn Kim Lân: “Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.

Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị bộc sự thay đổi rõ nét. Nếu như anh cu Tràng sung sướng và tự mãn, cái mặt của Tràng cứ vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại bỗng nhiên cảm thấy xấu hổ. Trước những cái nhìn “săm soi”, trước những lời nói bông đùa, chòng ghẹo của những người dân ngụ cư khiến Thị ngượng nghịu trở nên thiếu tự tin “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”.

Khi về đến nhà chồng, Thị nhìn thấy“ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị đã “nén một tiếng thở dài”. Đó hẳn là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng và cũng là tiếng thở dài cho sự chấp nhận.

Nào thị ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho mai này, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh cũng nghèo khó của nhà chồng. Đó phải chắc hẳn là thị đã ý thức được trách của mình đối với công việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý chân tình biết bao. Khi bước vào trong nhà, thị trở nên e thẹn và dè dặt “ngồi mớm” mới vào mép giường (“Ngồi mớm” – thế ngồi bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị bỗng nhiên ý tứ, cung kính và lễ phép chào bà cụ Tứ . Đó chính là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng. Khi nhìn Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết là “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”. Sau cái đêm tân hôn, người phụ nữ ấy bỗng nhiên có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách. Thị dậy rất sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén cho nhà cửa. Sự thay đổi ấy khiến người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua thị là người chua ngoa, đanh đá và chỏng lỏn bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu.

Hiểu hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi nhanh chóng tuyệt vời ấy: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.

Câu văn này đã ghi lại cảm xúc bất ngờ chân thật của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã có sức cảm hóa mạnh mẽ với thị. Trong bữa cơm đầu tiên của thị tại gia đình chồng, dù rằng bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được sống hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng trông thị vẫn vui vẻ và bằng lòng. Thị đã đem luồng sinh khí sự tươi mới về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Khi nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng rằng : “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Sự hiểu biết này của thị như đã giúp cho Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh đã lựa chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ to lắm”. Qua đó, ta thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng giống là Người truyền tin cách mạng.

Viết về sự đổi thay mạnh mẽ trong tâm lý của thị, nhà văn Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ người dân lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn đã thể hiện ở đây. Khi xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí đã được miêu tả chân thực và tinh tế; ngôn ngữ trở nên mộc mạc, giản dị và phù hợp với tính cách nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn lôi cuốn kịch tính…

Tóm tắt lại, người “vợ nhặt” là một sáng tạo độc đáo của Kim Lân. Thông qua nhân vật thị này, nhà văn đã thể hiện được một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người Việt Nam nói chung và Người Phụ nữ Việt Nam nói riêng dù sống trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai với niềm tin vào sự sống.

“Cái đẹp cứu vớt con người” (Đôx-tôi-ep-ki). Đúng vậy, “vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ nét sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng rực rỡ của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn sức mạnh giúp Kim Lân hoàn thành xuất sắc tác phẩm. Ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới mẻ về lòng người và tình người. Khi đọc xong thiên truyện, để lại dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là vẻ đẹp của con người mà ở đây là người nhân vật Thị. Dù là một trong hàng triệu nạn nhân của nạn đói nhưng ở Thị vẫn có đầy đủ những phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam. Đó hơn cả là sự chân trọng niềm tôn vinh của chính tác giả.

Bài Vợ nhặt của Kim Lân
Bài Vợ nhặt của Kim Lân

Số 7: Phân tích nhân vật người vợ nhặt

Nhắc đến Kim Lân chúng ta có thể nghĩ ngay đến tác phẩm ”Vợ nhặt”, một trong những tác phẩm xuất sắc, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Nổi bật trong đó không thể không nhắc đến nhân vật Thị trong câu chuyện. Tác giả đã khắc họa một cách chân thực, cụ thể nhân vật qua tính cách, chân dung, hoàn cảnh, để rồi từ đó nói lên triết lý cuộc sống mà tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm.

Ngay từ nhan đề cũng đã khiến người đọc cảm thấy đặc biệt. Đi sâu vào câu chuyện, có thể cảm nhận nhân vật Thị là một nhân vật có số phận vô cùng thương cảm. Thị xuất hiện là một người nghèo, không ai thân thích, đến cái tên cũng không có, gọi bằng Thị rất suồng sã, dân dã, đói khát, rách tả tơi, chỉ nghe vài lời nói đùa mà chấp nhận theo không một người, mình chưa biết tính cách họ ra sao, gia cảnh như thế nào?

Không đắn đo suy nghĩ mà quyết định nhanh chóng chỉ vì hoàn cảnh đói quá. Cái đói đã khiến cho Thị chao chát, chỏng lỏn, thô tục, cong cớn, nói lời ngọt ngào, tình tứ với người đàn ông mình gặp lần đầu tiên (lời xưng hô thân mật: “nhà tôi ơi, đằng ấy nhỉ”).

Thậm chí còn liếc mắt cười tít, chỉ vì cái đói, vì sự tồn tại mà Thị trở nên xưng xỉa: “điêu, người thế mà điêu” thậm chí đòi ăn: “có ăn gì thì ăn chả ăn giầu” và “cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” đúng là vì đói mà con người ta không còn ý thức về danh dự, không còn ý thức về hành động, về sự e thẹn, chỉ cốt làm sao khỏi đói, thoát chết.

Họ trở nên trơ trẽn, liều lĩnh, thậm chí bóp méo cả nhân cách. Hoàn cảnh của Thị giống như người chết đuối giữa dòng đang chới với giữa sự sống và cái chết, họ sẽ bấu víu vào bất cứ cái gì, hi vọng có thể sống sót nhưng với Thị là chết đuối mà vớ phải “cọc mục”.

Vì khao khát được sống, vì muốn thoát khỏi lưỡi hái tử thần mà thậm chí người ta sẵn sàng chấp nhận làm vợ theo, vợ nhặt. Cưới chồng là việc trọng đại của một đời người, với nghi lễ sang trọng, vợ là bổn phận thiêng liêng của người con gái khi lấy chồng, nhưng với Thị chẳng có người mai mối, chẳng đám hỏi, treo cưới gì cả, tự nhiên theo không về nhà chồng chỉ qua lời nói đùa tầm phào mà người nói vẫn tưởng là nói đùa thôi nhưng Thị vẫn theo về thật.

Câu chuyện tưởng như là bịa, hơn nữa cũng không có gì gọi là lãng mạn như những câu chuyện tình ta vẫn thường gặp. Đúng là cười ra nước mắt gợi ra cho người đọc sự xót xa, ngậm ngùi trước số phận bị rẻ rúng, bèo bọt của những người nông dân nghèo giữa nạn đói thê thảm, đúng là sự khốn cùng của hoàn cảnh.

Sáng hôm sau tỉnh dậy, Thị thay đổi hẳn từ vẻ ngoài cho đến cách cư xử, ăn nói, hành động: “Tràng nom Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.

Qua đây, nhà văn muốn khẳng định con người thay đổi do hoàn cảnh, hoàn cảnh làm thay đổi tính cách con người như lời nhà văn Nam Cao đã từng nói trong truyện ngắn “Sao lại thế này”: “Giữa một người đàn bà tốt và một người đàn bà xấu khoảng cách chỉ bằng sợi tóc”.

Ở đây Thị vì đói, vì khao khát được sống mà trở nên đanh đá, chua ngoa, trơ trẽn, khi có điểm tựa, có mái ấm gia đình, Thị trở về đúng với bản chất tốt đẹp vốn có của Thị. Sự thay đổi ở Thị, đồng thời thể hiện tấm lòng cảm thông của nhà văn đối với nhân vật. Đây là tư tưởng nhân đạo cao cả.

Số 8: Phân tích người vợ nhặt

Trong nền văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn những năm trước cách mạng và những năm đầu sau cách mạng tháng tám, Kim Lân là một trong những cái tên nổi bật nhất khi viết về đề tài người nông dân trong xã hội cũ. Dù có số lượng tác phẩm hạn chế, thế nhưng hầu như tác phẩm nào của Kim Lân cũng hay và có nhiều giá trị, là cơ sở xếp nhà văn vào một trong 9 tác giả tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại.

Điểm sáng và đáng lưu ý nhất trong các tác phẩm của Kim Lân ấy là giọng văn nhẹ nhàng, tình cảm, các tác phẩm của ông chủ yếu tập trung làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của người, hướng đến một lối thoát nhân văn cho những kiếp người lầm than khốn khổ, chứ không tập trung tái hiện hiện thực khắc nghiệt đau thương của xã hội cũ. Vợ nhặt là một trong số những tác phẩm nổi tiếng và xuất sắc nhất của Kim Lân, đặt trong bối cảnh đất nước những ngày đau thương nhất – nạn đói năm 1945. Nhân vật vợ Tràng là một trong những kiếp người khốn khổ tột cùng, cái đói đã khiến thị tàn tạ, xơ xác, để nên xấu xí trong mắt người đời, thế nhưng khi tìm hiểu sâu về nhân vật này ta mới phát hiện ra ở thị cũng có những phẩm chất tốt đẹp, đáng quý.

Nhân vật thị là một người đàn bà không tên, không tuổi, không quê quán, gốc gác, không gia đình, và cũng chẳng ai biết thị từ đâu đến, cả cuộc đời trước khi gặp Tràng của thị dường như chẳng có gì để nhắc người ta nhớ đến. Cái hoàn cảnh khốn khổ của thị, chính là hoàn cảnh chung của rất nhiều người nông dân trong nạn đói năm 1945, tại cái thời điểm mà kiếp người rẻ rúng như cọng rơm cọng rác nhặt ngoài đường. Không chỉ nghèo khó, không lai lịch, tên tuổi mà trên người thị còn mang đủ những bất hạnh của một người đàn bà, thị không có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm cho cái nhan sắc xấu xí ấy thêm phần thảm hại, người ta bắt gặp thị trong bộ ““áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm “gầy xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, rồi “cái ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”. Bấy nhiêu những nét vẽ ấy cũng đủ để thấy bản thân thị cũng đang bước dần những bước cuối đến cái nghĩa địa của cuộc đời như nhiều số phận khốn khổ khác trong nạn đói kinh hoàng.

Đã không có một ngoại hình hấp dẫn, nhưng cách nói năng, hành động của thị cũng khiến người ta mang nhiều phản cảm. Khi nghe anh Tràng hò mấy câu đùa cho khuây khỏa, nghe thấy có cái ăn thị đã cong cớn, mỉa mai, rồi cũng chẳng biết ngại ngần thị sấn tới tranh đẩy xe với Tràng, “liếc mắt, cười tít”. Tuy nhiên sau bữa đẩy xe phụ, mà không được cái ăn, khi gặp lại Tràng thị đã sưng sỉa, chỉ thẳng vào mặt Tràng mà mắng “Điêu, người thế mà điêu”. Khi nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu dáng đon đả, đổi hẳn thái độ. Và rồi thị cúi đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc không thèm chuyện trò gì, ăn xong thì lấy đôi đũa quệt ngang miệng, thở “hà”. Quả thực trước giờ chưa từng thấy người đàn bà nào trước mặt một người đàn ông lạ mới gặp hai lần mà có thể thoải mái, thậm chí đến mức vô duyên, trơ trẽn, hành động táo bạo và bất chấp vì miếng ăn như thị.

Nạn đói nó khiến cho tâm hồn và nhân cách con người trở nên rẻ rúng, thiểu não quá. Nhưng đến khi xét kỹ lại, nhìn lại những hành động của nhân vật thị một cách nhân văn hơn, ta mới nhận ra rằng, thực tế khi đứng trước cái chết, cái đói, và đứng trước viễn cảnh hàng triệu người đang chết như ngả rạ trước mặt khó ai có thể bình tĩnh và cư xử một cách bình thường nổi. Ai mà không sợ chết, thị cũng sợ chết, và ngay lúc này đây khi gặp Tràng khi phải đối diện với lưỡi hái của tử thần mà lại bắt được cọng rơm cứu mạng, thì những khao khát được sống sót của thị bùng cháy. Thị bất chấp tất cả để có được miếng ăn, vứt bỏ hết liêm sỉ, nhân cách chỉ vì được sống, quyết không buông bỏ cuộc sống dễ dàng. Không chỉ có khao khát sống mãnh liệt mà bản thân thị còn có những khao khát được hạnh phúc, được có một mái ấm, một tấm chồng để nương tựa những lúc khó khăn như này.

Thành thử ra chỉ với một câu nói nửa đùa nửa thật “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”, mà thị đã không ngần ngại nhận lời, trở thành người vợ mặt dày, mày dạn theo không Tràng. Đối với thị bây giờ cỗ bàn, đám rước đám hỏi chẳng còn quan trọng, miễn sao là có được một chỗ trú chân, một gia đình và qua được cái đói thì mọi chuyện đều có thể cho qua hết. Thế là thị đã nên vợ nên chồng với Tràng bằng những niềm hy vọng mới mẻ, thị mong rằng cái người trước mắt đã có thể sảng khoái mà đãi mình 4 bát bánh đúc, thì hẳn sau chung sống hắn cũng sẽ tử tế với mình, được nhiêu đó cũng đủ mãn nguyện rồi. Như vậy bên cạnh ý nghĩa nhân văn trong sự kiện thị theo không Tràng, thì Kim Lân cũng phản ánh một hiện thực đau xót của xã hội lúc bấy giờ: giá trị con người dường như đã xuống đến mức âm, thậm chí còn không bằng cọng rơm cọng rác, để đến nỗi những người làng trông thấy Tràng dẫn vợ về họ còn cho đó là “của nợ”.

Những tưởng thị trời sinh đã đanh đá, chỏng lỏn và sưng sỉa nhưng khi nhìn thấy dáng vẻ của thị sau khi làm vợ Tràng ta mới nhận ra rằng, sự vô duyên, ghê gớm của thị chỉ là một cái vỏ bọc bảo vệ thị trong nạn đói, thực tế rằng thị cũng là một người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp được giấu kín sau dáng vẻ tàn tạ, khốn khổ kia. Trên đường trở về nhà với Tràng, thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng che nửa đi khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi bước về nhà chồng. Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người làng, thị thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo không, thành thử ra thị càng trở nên bối rối “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả chân kia”, nom đến thương vô cùng. Khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm, không có bàn tay người đàn bà săn sóc, không khỏi khiến thị thất vọng, buồn lòng, bởi có lẽ thị đã hy vọng về một ngôi hà tươm tất, đủ đầy hơn, để cuộc đời thị từ đây bớt khổ sở.

Nhưng cảnh trước mắt kém quá xa so với những gì thị tưởng tượng, tuy nhiên thị không vì thất vọng mà phàn nàn với Tràng, thị bỗng trở thành một người đàn bà nhẫn nhịn và tế nhị “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, rồi nén một tiếng thở dài”. Thị đã cất hết cái thất vọng, buồn bã của mình vào lòng, không để Tràng biết, quyết tâm cùng người chồng mới cưới xây dựng gia đình, phấn đấu vượt qua cái nghèo cái khó. Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ, khi tưởng cụ không nghe thấy thị đã chào thêm lần nữa, dáng điệu khép nép, ngại ngùng, thực sự thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác hẳn với dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.

Sau đêm tân hôn, thị lột xác trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo vát, gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân hong, gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm,… Không khí gia đình trở nên hòa hợp vui vẻ và có nhiều hy vọng hơn cả. Đặc biệt khi đối diện với nồi cháo cám đắng ghét, nghẹn bứ nơi cổ họng của bà cụ Tứ, “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và vào miệng”, không nói năng hay tỏ thái độ gì. Cách cư xử tế nhị ấy của thị, đã bộc lộ một nét tính cách khác của thị ấy là sự thấu hiểu và cảm thông cho người mẹ già thương con, thị hiểu rằng vì nghèo quá không có gì đãi con nhân ngày tân hôn thế nên bà cụ tội nghiệp mới cố kiếm một nồi cháo cám.

Và trong không khí gia đình vui vẻ ấy, thị không muốn phá hỏng nó, khiến cho bà cụ trở nên bối rối. Cuối cùng cảnh thị kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá kho thóc của Nhật đã bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người đàn bà bà này không cam chịu cuộc đời đói kém, và có lẽ trong một mai thị sẽ cùng chồng là Tràng đi phá kho thóc, theo cách mạng để giải phóng cuộc đời, tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.

Nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân là nhân vật đại diện cho hàng triệu kiếp người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Tuy nhiên sống trong cảnh khốn khổ cùng đường nhưng thị vẫn giữ cho mình được những vẻ đẹp tâm hồn quý giá, tiêu biểu nhất ấy là niềm khao khát được sống, khao khát hạnh phúc, niềm hy vọng vào một tương lai mới tốt đẹp hơn. Bộc lộ rõ nét tư tưởng nhân văn, nhân đạo mà tác giả muốn truyền tải trong tác phẩm của mình.

Bài Vợ nhặt của Kim Lân
Bài Vợ nhặt của Kim Lân

Số 9: Cảm nhận về nhân vật người vợ nhặt

Trước khi phân tích nhân vật người vợ nhặt, chúng ta cùng giới thiệu khái quát qua về nhà văn Kim Lân. Tác giả sinh năm 1920 và mất năm 2007. Ông tên thật là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh ra Phù Lưu, Tân Hồng, Từ Sơn, Bắc Ninh. Thủa thiếu thời, gia đình ông rất khó khăn nên ông chỉ được đi học hết Tiểu học rồi đi làm mưu sinh.

Từ năm 1941, nhà văn Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn. Những tác phẩm đầu tiên được đăng trên các báo như Trung Bắc Chủ nhật và Tiểu Thuyết thứ Bảy. Trước Cách mạng tháng 8, những sáng tác của ông xoay quanh cuộc sống ở miền nông thôn Việt Nam, cùng cuộc sống lam lũ của họ thời kỳ đó. Đặc biệt, những tác phẩm gắn bó với tên tuổi của ông như “Làng”, “Vợ nhặt”.

Sau Cách mạng tháng Tám, nhà văn Kim Lân tiếp tục viết văn và làm báo. Lúc này, ông vẫn viết về truyện ngắn về chủ đề làng quê Việt Nam, một thế mạnh của ông. Một số tác phẩm tiêu biểu của nhà văn được biết đến lúc này như “Nên vợ nên chồng” (1955) hay tập truyện ngắn “Con chó xấu xí” (1962).

Đặc biệt, ngoài sáng tác truyện ngắn, tác giả Kim Lân còn tham gia đóng kịch và đóng phim. Khán giả nhớ đến ông qua một số vai diễn ấn tượng như lão Hạc trong phim “Làng Vũ Đại ngày ấy”, cụ lang Tâm trong phim “Hà Nội 12 ngày đêm”, Lý Cựu trong phim “Chị Dậu”…

Tác phẩm Vợ nhặt là một trong số những truyện ngắn thể hiện phong cách sáng tác độc đáo của tác giả Kim Lân. Nội dung câu chuyện xoay quanh nhân vật Tràng, bà cụ Tứ và người vợ nhặt. Trong đó, hình tượng người vợ nhặt chỉ xuất hiện thoáng qua nhưng lại đóng vai trò khá quan trọng để làm nên thành công của tác phẩm này.

Qua giới thiệu của nhà văn Kim Lân, độc giả có thể thấy người vợ nhặt xuất hiện trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt. Đó là vào nạn đói năm 1945. Lịch sử ghi lại thì đây là nạn đói lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, khiến hơn 2 triệu người dân bị chế. Bởi thế, lai lịch người vợ nhặt không rõ ràng. Không có gia đình, cũng chẳng có quê hương. Tình cảnh của người phụ nữ này cũng giống như những người dân khác thời đó, phải đi tha phương cầu thực. Người ta chỉ biết “Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa”. Không ai biết thị ta từ đâu tới, và đến tận cả tên cũng không có nốt. Người ta chỉ tạm gọi cho người phụ nữ đấy là “vợ nhặt”. Qua cách gọi này có thể thấy, số phận bèo bọt, rẻ rúng của con người trong cảnh nghèo đói. Thường muốn có vợ, chàng trải phải thông qua rất nhiều thủ tục cưới xin, phải mất rất nhiều tiền của. Thế nhưng đây chỉ, nhân vật Tràng chỉ cần ra đường “nhặt” về là đã có ngay một người vợ bằng xương bằng thịt.

Phân tích nhân vật người vợ nhặt, độc giả có thể thấy tác giả Kim Lân miêu tả ngoại hình của người vợ thật rách rưới và nghèo khổ đến cùng cực, đến không thể nghèo được hơn nữa: “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”.

Hình ảnh người vợ nhặt hiện ra thật hồn nhiên trong lần thứ nhất khi nghe câu hò vui của Tràng. Lúc đó, thị chẳng nghĩ ngợi gì liền lon ton, vui vẻ chạy ra giúp Tràng đẩy xe bò, rồi lại liếc mắt, cười tít với Tràng. Đó chính là sự vô tư, hồn nhiên vốn có của những người lao động nghèo.

Đến lần thứ hai, thị hiện ra với những nét vẽ rõ rệt hơn. Đó là khi được Tràng mời ăn trâu để trả ơn, thị liền sưng sỉa, thẳng thừng mắng Tràng. Thị muốn có được thứ giá trị hơn. Thế nên khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị không ngần ngại mà ngay lập tực mắt sáng lên, ngồi sà xuống “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”. Thông thường, người phụ nữ sẽ nhã nhặn, từ tốn trong ăn uống. Nhưng dường như lúc này cái đói đã che mờ mắt của thị, khiến thị chẳng thiết tha gì việc giữ gìn ý tứ. Thị cứ ăn thỏa mãn cái dạ dày của mình cái đã.

Nhất là khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ cùng về”, thì người vợ nhặt đã vội vàng theo về thật mà không ngần ngại. Điều này càng nhấn mạnh đến cái đói cái khổ đến cùng cực của người dân lúc bấy giờ. Vì hoàn cảnh không thể làm khác được nên thị đành theo Tràng về như một cơ hội để bám víu lấy sự sống dù mong manh. Quả thực, qua lai lịch, qua chân dung của người vợ nhặt, độc giả thấy rõ hơn cái đói nghèo khổ cực không chỉ làm biến dạng về ngoại hình của con người, mà còn cả nhân cách. Mặc dù thấy chua xót với cách hành xử hơi thô tục, hơi mất giá của người vợ nhặt nhưng đọc giả vẫn rất cảm thông sâu sắc với thị bởi hoàn cảnh đã cùng quẫn đã xô đẩy. “Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”.

Phân tích nhân vật người vợ nhặt, độc giả thấy thị là một phụ nữ có khát vọng sống mãnh liệt. Qua việc quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết Tràng là ai, hoàn cảnh ra sao. Thị chấp nhận làm vợ mà không cần phải có lễ vật, hay một cuộc đưa rước. Bởi thị hy vọng rằng, việc được làm vợ ai đó lúc này có nghĩa là thị không bị đói, không phải sống cảnh lang thang nay đây mai đó, đầu đường xó chợ. Khi về tớ nhà Tràng, thấy được hoàn cảnh nghèo khổ của Tràng, mặc dù thị phải “nén tiếng thở dài”, dấu sự thất vọng nhưng thị vẫn cố gắng chịu đựng để có cơ hội sống sót.

Qua miêu tả của nhà văn Kim Lân, độc giả có thể thấy thị dù là một người phụ nữ thô vụng, rách rưới nhưng lại hết sức nết na và ý tứ. Trên đường về nhà Tràng, thị cũng e thẹn, rón rén, che nón, đầu hơi cúi xuống đi theo sau Tràng. Lúc này, thị cũng cảm thấy ngại ngùng, tủi hổ cho thân phận vợ nhặt của mình. “Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”.

Lúc vừa về đến nhà, mặc dù Tràng đon đả mời thị ngồi nhưng người vợ nhặt giữ phép tắc, ý tứ, chỉ dám ngồi mớm ở mép giường. Thị không suồng sã, vồ vập như lúc ở chợ, mà hai tay ôm khư khư cái thúng, bộc lộ hiểu biết rằng mình vẫn chưa được chính thức là gì trong cái gia đình ấy. Rồi khi gặp mẹ chồng, là mẹ Tràng thì thị không chỉ lí nhí cúi đầu chào hỏi mà còn thể hiện sự ngượng ngịu, lúng túng. “ Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”. “Người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. “ Hắn toan quay lại bảo thị cởi áo đi nằm, nhưng thấy thị ngồi bần thần dưới chân giường tự nhiên hắn lại không dám. Hắn lẳng lặng ngồi xuống cái ghế bên cạnh, cả hai cùng sượng sùng chả biết nói gì”.

Đặc biệt, vẻ đẹp trong nhân phẩm của người vợ nhặt được khắc họa rõ nét vào sáng hôm sau. Khi thị dậy sớm, dọn dẹp, quét tước nhà cửa. Thị không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà thực sự đã trở thành một người vợ đảm đang, hiền hậu, đúng mực, biết sống có trước có sau, sống có trách nhiệm với gia đình. “Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót sạch…. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”.

Không những thế, lúc ăn cháo cám, mới nhìn vào bát cháo lỏng bỏng nước, “mắt Thị tối lại”. Nhưng rồi thị điềm nhiên, không ngần ngại cho vào miệng. Điều này cho thấy, thị rất biết điều. Thị hiểu nếu mình bộc lộ sự khó chịu, mẹ chồng sẽ buồn. Vì thế, rất đắng và chát trong miệng nhưng thị vẫn ăn một cách ngon lành, để làm cho không khí gia đình vui vẻ, không khó chịu, buồn khổ.

Không những thế, thị còn là một con người có khát vọng sống và có niềm tin vào tương lai. Thị hồ hởi kể chuyện Việt Minh đi phá kho thóc trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang để giúp người dân. Điều này dường như đã thắp lên ngọn lửa hy vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.

Qua đây, tác giả Kim Lân dường như muốn gửi gắm thông điệp rằng, cái đói, cái nghèo có thể lấy đi phẩm giá của con người trong một phút giây nào đó nhưng mãi mãi không thể cướp đi tâm hồn tử tế của con người.

Số 10: Phân tích hình tượng người vợ nhặt

Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân ta càng hiểu sâu sắc và thấm thía hơn chân lý đó. Ta không khỏi xót xa, ngậm ngùi thương cho hoàn cảnh éo le, mừng vui cho niềm tin của con người vào tương lai mới mà còn rưng rức trước tình cảm yêu thương của hơi ấm gia đình.Vậy điều đó thể hiện như thế nào qua hình ảnh nhân vật Thị?

Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân được viết trên nền cái đói của năm 1945. Chân dung nhân vật Tràng được Kim Lân miêu tả có ngoại hình thô kệch, xấu xí với công việc làm thuê ngật ngưỡng bước ra trong đói nghèo ấy. Thị, cô gái kém duyên đang vật lộn với cái đói. Hai người họ gặp nhau vỏn vẹn có hai lần rồi thành đôi chỉ bằng bát bánh đúc với vài câu bông đùa. Tràng dẫn Thị về trong cái nắng chiều chạng vạng trước sự bất ngờ của tất cả người dân xóm ngụ cư.

Bà cụ Tứ- mẹ Tràng nhìn nàng dâu mới mà lo cho con liệu có đùm bọc nhau trong cảnh nghèo, lại mừng vui hạnh phúc vì khó khăn hay đói khổ cũng không ngăn đôi lứa nên duyên. Họ cùng nhau vun vén cửa nhà, san sẻ từng bữa ăn. Trong hạnh phúc ấy, câu chuyện khép lại với hình ảnh nhân dân phá kho thóc Nhật và lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong óc Tràng.

Thị là nhân vật mang đầy đủ những nét tiêu biểu của người lao động nghèo trong nạn đói khủng khiếp. Dưới ngòi bút của Kim Lân, chân dung Thị hiện lên như một con ma đói, áo quần luộm thuộm, gương mặt lấm lem với “cái ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, không có nổi cái tên mà vỏn vẹn chữ “Thị”.

Cô gái đói đến độ phải nhặt đồ rơi vãi, nghe ba câu hò mà vội chạy đến đẩy xe bò. Thị gặp Tràng nhưng không ăn trầu mà ăn bánh đúc rồi quẹt đũa ngang miệng “chà ngon”. Ta chỉ thấy chân dung Thị chao chát, chỏng lỏn. Vậy nhưng qua ngòi bút đầy tài năng của tác giả, người vợ anh Tràng hiện lên có cong cớn, rất cong cớn nhưng không nanh nọc và tính cách ấy phải chăng do dốt nát, đói nghèo, tăm tối chứ tuyệt nhiên không sinh ra từ cái ác, cái xấu.

Nhân vật Thị hiện lên chua xót hơn khi cuộc hôn nhân cả đời người cũng chỉ bắt đầu bằng vài ba câu tầm phào của Tràng mà khiến người đàn bà quên hết sĩ diện, nết na, đức hạnh để xà xuống ăn hết bát bánh đúc, theo Tràng về làm vợ mà không dò hết ngọn ngành nguồn sông. Chính cái đói đã khiến thân phận con người bọt bèo, rẻ mạt đến vậy.

Khi gặp Tràng thì đanh đá, chỏng lỏn nhưng khi về làm dâu, Thị lại là người vợ đảm đang, con dâu hiếu thảo. Thị theo Tràng về như đến một chốn có thể nương tựa trong cái đói đang rình rập. Trên con đường về nhà Tràng, cô Thị đanh đá bỗng trở nên dịu dàng, e dè, ngượng ngập. Đôi mắt tư lự khi bỡ ngỡ đặt chân đến ngôi nhà mới, dáng điệu khép nép ngồi và câu chào lúng túng…tất cả làm cho Thị có cảm giác của một nàng dâu mới.

Từ khi làm vợ, Thị đảm đang và dịu dàng hơn cả, cô cùng mẹ sửa sang cửa nhà, dọn dẹp vườn tược và vui vẻ trong bữa ăn loãng thếch, đắng chát. Thị kể về câu chuyện những người cướp kho thóc Nhật với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới. Chính nó làm lóe lên ánh sáng tia hy vọng về tương lai mới, mở ra con đường đấu tranh đi đến Cách mạng.

Rõ ràng, Thị dần dần nhận được đủ đầy cảm xúc từ chữ “tình”, có ý thức về bổn phận và trách nhiệm của mình. Quả đúng, dù trong túng đói tột cùng thì tình cảm vẫn quý hơn manh áo bởi nó khiến con người được sống là chính mình, được nên người.

Truyện ngắn Vợ nhặt là lời kết tội đanh thép đối với thực dân Pháp và phát-xít Nhật cùng bọn phong kiến tay sai đã đẩy con người vào thảm cảnh chết đói khủng khiếp, mạng người như cỏ rác. Không chỉ vậy, Vợ nhặt còn mang ý nghĩa nhân bản sâu xa rằng dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết, con người vẫn yêu thương, trân trọng, đùm bọc lẫn nhau, vẫn khát khao hạnh phúc, muốn sống như một con người, sống nên người.

Nam Cao từng nói “Một người đàn bà thật xấu khi yêu cũng lườm”, nó quả đúng với nhân vật Thị trong Vợ nhặt. Tôi nghĩ, đó là cái lườm yêu của cô Thị không chỉ thật xấu mà còn thật rách và còn thật đói. Nhưng có lẽ khi đong đưa con mắt, Tràng và Thị, họ đã quên đi cuộc sống ở cõi trần đang mấp mé bờ vực cõi âm, cõi âm như hòa với cõi trần, để chỉ còn nhớ đến sự thương yêu. Thật trân trọng và cảm phục biết bao trước những giản dị của hạnh phúc của đời thường!

Bài Vợ nhặt của Kim Lân
Bài Vợ nhặt của Kim Lân

Tổng kết

Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 10 mẫu phân tích nhân vật người vợ nhặt chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 12.

0/5 (0 Reviews)
Chúng tôi tạo ra Top10timkiem.vn nhằm mục đích cung cấp cho người đọc những thông tin, liệt kê một cách chi tiết nhất về mọi lĩnh vực trong cuộc sống.