Top 20 mẫu phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài chi tiết nhất

166
Top 20 mẫu phân tích người đàn bà hàng chài chi tiết nhất
Top 20 mẫu phân tích người đàn bà hàng chài chi tiết nhất
4.7/5 - (18 votes)

Tổng hợp các bài mẫu phân tích người đàn bà hàng chài trong bài Chiếc thuyền ngoài xa của tác giả Nguyễn Minh Châu một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 20 mẫu phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Dàn ý phân tích người đàn bà hàng chài

I. Mở bài

Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nội dung cần phân tích – nhân vật người đàn bà hàng chài.

II. Thân bài

a) Phân tích xuất thân và tên tuổi người đàn bà hàng chài:

-Tên tuổi:

  • Không có tên tuổi, chỉ gọi phiếm chỉ “người đàn bà hàng chài”, “mụ”.
  • Vô danh, đại diện cho những người phụ nữ vùng biển khác
  • Là hiện thân của những mảnh đời phụ nữ cơ cực

-Ngoại hình:

  • Trạc tuổi 40, ngoại hình xấu xí, thô kệch: thân hình cao lớn, mặt rỗ
  • Hiện lên trong sự lam lũ, nghèo khổ, khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt.
  • Dáng vẻ của một người phụ nữ nhà quê, mặc cảm, tự ti “dáng vẻ lúng túng”, rụt rè khi gặp Phùng và Đẩu.

b) Phân tích số phận của người đàn bà hàng chài:

-Số phận bất hạnh và khổ đau:

  • Nhà khá giả nhưng vì xấu xí và rỗ mặt nên phải lấy một anh chàng hàng chài.
  • Quanh năm phải làm lụng, lam lũ trên biển nhưng vẫn đói nghèo.
  • Bị chồng đánh đập dã man “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng không thể phản kháng.

c) Phân tích vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà hàng chài:

-Vẻ đẹp của người phụ nữ từng trải, sâu sắc, thấu hiểu sự đời:

  • Thông cảm cho sự vũ phu của người chồng, do hoàn cảnh ép buộc.
  • Hiểu được một con thuyền lênh đênh trên biển cần bàn tay của người đàn ông.
  • Hiểu được suy nghĩ của Phùng và Đẩu.

-Vẻ đẹp của người phụ nữ nhân hậu và tình mẫu tử thiêng liêng:

  • Bị chồng đánh nhưng không phản kháng, trách cứ chồng mà nhận hết trách nhiệm và tội lỗi về mình.
  • Chị chấp nhận những trận đòn roi vì muốn giải tỏa những áp lực cho chồng.

-Chị có tấm lòng yêu thương con sâu sắc:

  • Không bỏ chồng vì cần người đàn ông chèo chống, lo cho con cái.
  • Không muốn con chứng kiến cảnh bạo lực, xin chồng đưa lên bờ đánh.
  • Khi bị con chứng kiến cảnh bị đánh, mụ khóc, đau khổ, xấu hổ.
  • Không muốn con làm chuyện dại dột với bố nên gửi con lên bờ.
  • Khi thấy con cái ăn no, chị hạnh phúc vô cùng.

III. Kết bài

Đánh giá khái quát về nhân vật vừa phân tích – người đàn bà hàng chài và nêu cảm nghĩ về nhân vật này.

Top 20 mẫu phân tích người đàn bà hàng chài

Số 1: Phân tích người đàn bà hàng chài

Trên giao lộ của hành trình tìm kiếm và khám phá những góc khuất đẹp nhất trong tâm hồn con người, chúng ta có thể bắt gặp nhiều người nghệ sĩ với những phong cách hoàn toàn khác nhau. Mỗi người trong họ đã điểm tô một màu sắc riêng vào nền văn học Việt Nam, để rồi tạo nên những giá trị vĩnh hằng được gửi gắm vào từng tuyến nhân vật. Trong đó, Nguyễn Minh Châu đã khai thác được những nghịch lý trong cuộc sống của một người đàn bà làng chài khắc khổ trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”. Thông qua đó, người đọc dường như nhìn thấy được những vẻ đẹp được cất giấu dưới vẻ ngoài thô kệch, dưới cuộc sống cùng cực của những người đàn bà vùng biển nói riêng và người phụ nữ Việt nói chung.

Trong một chuyến đi sáng tác của người nhiếp ảnh tại vùng đất biển, Phùng đã có những cái nhìn nhiều chiều về cuộc sống, về những góc khuất mà thường ta vẫn hay bỏ lỡ. Hình ảnh người đàn bà làng chài hiện lên trước mắt anh, khiến anh vừa khó hiểu, vừa tức giận, vừa băn khoăn, lại vừa đau xót. Đó phải chăng là một biểu tượng của cuộc sống cực nhọc, lại chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ xưa và nay.

Người đàn bà làng chài được tác giả xây dựng với một hình ảnh nhọc nhằn, lam lũ. Nguyễn Minh Châu không gọi với một cái tên cụ thể nào, mà chỉ dùng cách gọi phiếm định “mụ” và “người đàn bà hàng chài” khi nhắc đến nhân vật. Có lẽ, việc không đặt tên mang một dụng ý nghệ thuật sâu sắc. Phải chăng, tác giả đang nhấn mạnh một sự thật đau thương rằng, đây nào phải câu chuyện riêng của một ai, mà đây chính là số phận chung của rất nhiều người đàn bà, họ rất cần được chia sẻ, được cảm thông và được yêu thương.

Đó là một “người đàn bà trạc ngoài 40”, người đàn bà ấy “cao lớn với những nét thô kệch”, trên khuôn mặt rỗ ấy hằn lên sự “mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Có lẽ, gánh nặng của cuộc sống mưu sinh trên biển cả đã cướp đi mọi thứ của người đàn bà ấy, cướp đi cả sinh lực, niềm vui và sức sống vốn có của chị. Hình ảnh này khiến ta cảm nhận được cuộc sống của chị hẳn đầy nhọc nhằn và khổ sở. Với những chi tiết “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng” càng gợi nên sự chua xót trong mảnh đời khốn cùng.

Sự khốn khổ ấy còn được thể hiện qua dáng vẻ sợ sệt, lúng túng của chị. Phải chăng, đó chính là dáng vẻ của một người luôn tự ti, luôn coi sự có mặt của mình là một điều dư thừa, phi lý. Và chính sự mặc cảm ấy đã khiến người đàn bà luôn “rón rén”, “thu người lại” để giảm thiểu đi sự phiền phức, vướng víu mà mình mang đến cho mọi người xung quanh.

Cùng với hành trình tìm kiếm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, ta như nhìn thấy những vẻ đẹp bên trong của người đàn bà mang ngoại hình thô kệch ấy. Đôi mắt của chị là hằn cả sự cam chịu, nhẫn nhục. Đôi mắt ấy cũng đầy thương xót, đầy ai oán nhưng lại đẹp đẽ, tươi sáng lạ lùng khi nghĩ về những đứa con của mình.

Không chỉ dừng lại ở việc khai thác cuộc đời của người đàn bà qua vẻ ngoài, Nguyễn Minh Châu đã dùng ngòi bút thấm đẫm tinh thần nhân đạo để khám phá những góc khuất hiện thực về số phận bất hạnh của người đàn bà. Càng theo dõi câu chuyện, tâm hồn cao đẹp, giàu đức hi sinh được cất giấu sau vẻ ngoài khắc khổ của người đàn bà càng trở nên sáng đẹp lạ thường.

Trước sự bạo lực của người chồng, chị vẫn nhẫn nhịn, câm lặng, không một lời oán than. Sự cam chịu ấy vẫn được lặp lại khi chị đến hầu tòa. Hình ảnh của chị như trở thành một nỗi ám ảnh khó thể phai trong lòng người đọc. Cuộc sống của chị nặng nề, thê lương đến nhường nào mới có thể dạy được sự câm lặng khi hiện tại?

Người đàn bà ấy không chỉ bị hành hạ về thể xác, không chỉ bị hút cạn sinh lực sau những đêm thức trắng kéo lưới, không chỉ chịu sự đau đớn từ những trận đòn tàn bạo của người chồng mà còn bị giày vò đến tả tơi về tinh thần. Chị ta luôn sống trong sự lo sợ, rằng con của mình sẽ bị tổn thương khi chứng kiến nỗi đau mà mẹ nó đang gánh phải, và chúng liệu có bị hủy hoại khi phải nhìn mãi cảnh đời trái ngang? Một người mẹ vừa khóc vừa vái lạy con để nó “đừng phạm phải một tội ác trái luân thường đạo lí” như khắc sâu vào tâm khảm của mỗi người.

Nỗi đau của người phụ nữ ấy nào chỉ như thế. Chị còn phải đối diện với những gánh nặng của cuộc sống, đó là gánh nặng cơm áo gạo tiền, gánh nặng của cuộc sống nghèo túng. Sự nghèo túng ấy chẳng hề buông tha chị, nó bám lấy và quẩn quanh trong cuộc sống bất hạnh của chị. Trước 1975, cả nhà chị luôn phải ăn xương rồng luộc chấm muối mỗi khi biển động. Sau khi cách mạng về, những tưởng mọi thứ sẽ ổn hơn. Ấy thế mà, cuộc sống đỡ đói khổ hơn chút, nhưng nỗi lo cơm áo gạo tiền nào có nguôi ngoai?

Đi đến tận cùng của đau đớn và tìm thấy một con đường giải thoát, nhưng chị vẫn lặng lẽ và cam chịu đau khổ. Chị vái lạy quan tòa cũng  như vái lạy con trai không làm điều dại dột với bố đã lột tả sự nhẫn nại và đức hi sinh cao quý của mình. Điều gì đã khiến người phụ nữ ấy luôn sống như thế trong suốt những năm qua? Đó là sự hèn nhát đã ăn mòn và làm biến mất đi bản năng phản kháng của chị, hay chính đức hi sinh và tình thương của một người mẹ đã cho chị nghị lực sống trong nghịch cảnh đến tận hôm nay?

Người đàn bà ấy thổ lộ những tâm tình về cuộc sống, về chồng, về con vừa khiến ta thương xót, lại thêm phần khâm phục. Chị ta yêu chồng, cảm thông cho chồng dẫu cho bản thân luôn chị chính chồng ngược đãi. Chị ta thương con vô điều kiện, để rồi vì tình mẫu tử thiêng liêng mà ôm mọi oán hờn vào lòng, không đòi hỏi bất cứ điều gì.

Ta như ứa nước mắt trước niềm vui sống, động lực nhỏ nhoi của người đàn bà khắc khổ này. Chị chỉ cần nhìn đàn con ăn no là chị đã mãn nguyện và hạnh phúc rồi. Sức mạnh tồn tại và nhẫn nhịn cho đến tận hôm nay của chị chính là những đứa con. Chị sẵn sàng chịu đựng mọi thứ vì miếng cơm manh áo, vì cho con một cuộc sống đủ đầy. Cuộc đời chị dẫu lắm đau thương, lắm nước mắt, nhưng chị nguyện nhận hết vì chồng con. Để rồi, ta như nhận thấy đằng sau con người thô kệch mang số phận đau khổ ấy là một phẩm chất cao đẹp, trân quý nhường nào.

Không phải ngẫu nhiên mà tác giả gọi chị là “người đàn bà”, bởi lẽ đây nào phải người đàn bà duy nhất, mà là cuộc sống chung mà nhiều người đàn bà đang gặp phải. Nguyễn Minh Châu chính là người đã vẽ nên bức tranh hiện thực về số phận của người phụ nữ vùng biển, để rồi khiến ta phải suy ngẫm mãi về sau. Cảm nhận về hình ảnh người đàn bà làng chài chính là cái nhìn triết lý, đa chiều trong cuộc sống của tác giả. Và có lẽ, tấm lưng bạc phếch, ướt sũng như chính cuộc đời tăm tối của người đàn bà sẽ còn ám ảnh rất nhiều độc giả, cả khi đã gấp lại trang sách.

Bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
Bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Số 2: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài

Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều các tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Như lời đánh giá của nhà văn Nguyễn Khải “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. Ông đã để cho lớp người đi sau một tác phẩm rất đặc sắc mang tên “Chiếc thuyền ngoài xa” với nguồn cảm hứng vô tận và những bài học từ cuộc sống. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của ông chính là người đàn bà hàng chài đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ, trăn trở về những câu chuyện đời.

Sau những bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ, lộng lẫy mà đôi mắt của nhà nhiếp ảnh Phùng đã được dịp bắt gặp nhân dịp chuyến đi công tác ở vùng biển. Thế nhưng, phía sau những ánh sáng chói lòa, lung linh ấy là những góc khuất mà con người bỏ lỡ. Hình ảnh của người đàn bà hiện lên hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Đó là một người đàn bà trạc ngoài bốn mươi tuổi, tác giả cũng chẳng biết tên tuổi mà đặt một ngôi “mụ”, “người đàn bà hàng chài” như để ám chỉ nơi đây, có biết bao nhiêu người phụ nữ cũng có chung hoàn cảnh như mụ.

Sau vài nét gợi tả, hình ảnh của người đàn bà với “một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Chắc hẳn, những vết rỗ khuôn mặt mụ đều từ gánh nặng của công việc, của nắng mưa gió bão miền biển hẳn lên trên khuôn mặt ấy.

Một người lao động lam lũ, chịu thương chịu khó nhưng cái nghèo vẫn bủa vây lấy gia đình của mụ. Sự nghèo khổ ấy còn hiện lên trên “tấm áo bạc phếch có miếng vá, bửa thân dưới ướt sũng”. Từ cách hành xử, đi đứng đến “tìm đến một góc tường để ngồi” càng làm cho mụ trở nên đáng thương đến tội nghiệp. Một con người dám vượt qua phong ba bão táp trên vùng đại dương mênh mông, nhưng lại trở nên tự ti, mặc cảm khi đối diện với con người.

Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả đã lột tả thật sâu sắc, chân thật cả những tính cách con người mụ. Một người đàn bà, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu điển hình trong xã hội Việt Nam. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm thân yếu ớt của người đàn bà ấy, đến một người đàn ông như Phùng cũng chẳng thể nhẫn nhịn nổi.

Vậy nhưng, người đàn bà ấy vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, mắng nhiếc. Đôi mắt của chị hắt lên một con đường tối đen không tìm thấy ánh sáng nào trong cuộc đời chị. Có lẽ, mụ đã quá quen và chấp nhận cuộc đời của mụ sẽ phải chịu đựng cảnh “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.

Những đau đớn về thể xác của chị chẳng thể nào sánh với những nỗi đau đớn, giày vò về tinh thần khi chị lo lắng cho con cái sẽ bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đau đớn ấy. Thằng con trai của chị thương mẹ, lăm lăm con dao trong tay nhưng người mẹ ấy đã “chấp tay vái mấy đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái thường đạo lí”.

Tuy nghèo, tuy khổ nhưng chị vẫn biết đạo lí trong đời, chị không muốn con của chị phải đi theo những vết xe đổ nghèo hèn mà cuộc đời bố mẹ nó đang phải trải qua. Lòng chị cũng đau đớn, buồn tủi vô cùng khi cái nghèo đẩy cả gia đình chị vào cái vòng quẩn quanh nghèo đói. Những ngày tháng ăn xương rồng luộc chấm muối, bữa đói bữa no vẫn luôn hiện hữu, thường trực trên chiếc thuyền chật chội, mục nát của gia đình chị.

Tưởng chừng với dáng người thô kệch ấy sẽ chẳng biết đâu là lễ phép đạo lý, thế nhưng với những điều mà chị đã từng trải, vẻ đẹp của tâm hồn của người đàn bà ấy càng trở nên sâu sắc. Khi bị đưa về tòa án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc ly hôn ấy nhưng chị đã xin quan tòa rằng “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.

Đến tận cùng nỗi đau, khi đưa cho chị một sự lựa chọn giải thoát nhưng chị lại chối bỏ. Chắc hẳn, người đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại dột ấy. Thế nhưng, sau những lời tâm tình của chị, người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ nữ ấy. Chị vẫn luôn dành cho chồng những lời ngợi khen, chị biết chồng chị là người hiền lành cục tính, nhưng cái nghèo đã khiến anh ta trở thành một con người vũ phu, cộc cằn.

Hình ảnh của người đàn ông cũng có biết bao điểm chung như những nhân vật Chí Phèo của Nam Cao hay nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa vậy. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, lòng người, khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người đàn bà ấy biết rõ rằng: thân gái dặm trường, họ cần một người đàn ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần có một người cha để dựa dẫm. Dù cho họ có vũ phu, cộc cằn đến nhường nào thì đó vẫn là một người đàn ông mà họ cần. Họ nghèo nên thiết nghị, họ không có quyền đòi hỏi một người đàn ông giàu sang, có học vấn.

Trong khi đường lối của Đảng trước và sau cách mạng luôn hướng tới bảo vệ nhân quyền cho mọi người, giúp cho nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thế nhưng, tại nơi đây những con người lênh đênh trên bốn bể là nước, họ vẫn chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho một người phụ nữ.

Đằng sau việc trọng tình nghĩa với người chồng của chị, tình mẫu tử cũng của chị cũng thật đáng ngưỡng mộ. Sợ con tổn thương mà chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, niềm vui của chị thật giản đơn khi “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no”. Những đứa con là ngọn nguồn sức mạnh để chị sống và tồn tại. Ý chí quật cường của chị được bồi đắp nhờ tình thương con, chị chấp nhận hi sinh cuộc đời chị để mong cho con mình có được cuộc sống an nhiên hơn. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà làng chài là những đức tính của biết bao người phụ nữ Việt Nam luôn yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.

Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chỉ qua một nhân vật người đàn bà trong truyện mà người đọc như được nhìn thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại. Tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả. Tác giả đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập, đói nghèo mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn, thui chột.

Số 3: Phân tích hình ảnh người đàn bà hàng chài

Hình ảnh người phụ nữ đã từng xuất hiện nhiều trong văn học xưa và nay. Mỗi người đều có những đặc điểm riêng với những vẻ đẹp ấn tượng và khó lẫn qua ngòi bút của mỗi tác giả. Khi phân tích hình ảnh người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, người đọc sẽ có được cảm nhận riêng về số phận người phụ nữ hàng chài tuy vất vả nghèo khó nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp tâm hồn.

Hình ảnh người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa dù nổi bật xuyên suốt tác phẩm nhưng lại không được đặt tên cụ thể. Điều này cho thấy đây là nhân vật có vai trò phát triển mạch truyện, có mối quan hệ mật thiết với các nhân vật khác tượng trưng cho hình ảnh người phụ nữ trong xã hội. Hình ảnh người đàn bà đã thể hiện được tấm lòng nhân đạo và quan điểm nhân văn của tác giả.

Sự xuất hiện của nhân vật người đàn bà mà câu chuyện “săn ảnh” của nghệ sĩ Phùng được soi chiếu từ nhiều góc nhìn khác nhau. Đó là góc nhìn ở bề sâu bức tranh cuộc sống. Hình ảnh người đàn bà xuất hiện khi chiếc thuyền đẹp như mơ nhìn từ xa trong làn sương sớm lao vào bờ. Nguyễn Minh Châu ngay lập tức cho người đọc quan sát những thước phim quay chậm ấn tượng về hình ảnh một người phụ nữ lao động cần cù.

Trước hết, hình tượng người đàn bà hàng chài được khắc họa với những dấu ấn là con người với những éo le của số phận. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở dấu ấn của con người và số phận thì hình ảnh người đàn bà hàng chài sẽ bị lẫn vào giữa bao nhiêu người phụ nữ khác trong văn học xưa và nay. Tác giả đã khẳng định được “chất ngọc” nơi người phụ nữ này nhờ điểm nhấn vẻ đẹp tâm hồn.

Tác giả Nguyễn Minh Châu đã đậm tô một số phận, một hình ảnh đại diện cho người phụ nữ hàng chài nghèo khó, cam chịu và giàu hi sinh. Trong cuộc sống còn nhiều ngang trái, người đàn bà hàng chài đã để lại ám ảnh trong tâm trí của nghệ sĩ. Đặc biệt, mỗi khi anh xem lại tấm ảnh tuyệt mỹ trong bộ lịch là một lần day dứt. Dù không dụng công trong miêu tả, tác giả lặng lẽ ghi lại những gì chân thực nhất về gương mặt và số phận người đàn bà.

Đó là gương mặt đời thường mà văn học sau năm 75 trú tâm khám phá và tái hiện. Qua hình ảnh người đàn bà hàng chài ta thấy được hình ảnh một người nhanh nhẹn, hoạt bát với một vài chi tiết nhỏ nhưng đặc biệt. Ấn tượng nhất là đôi mắt: chị đưa mắt nhìn xuống chân khi chuẩn bị bị chồng đánh, đưa cặp mắt và đầm phá, đôi mắt nhìn thấu cuộc đời khi nói chuyện với chánh án Đẩu…

Chỉ những chi tiết ấy thôi đã bộc lộ rõ nét nhất tâm sự của một người đàn bà cùng với những lam lũ vất vả phải chịu đựng. Đôi mắt long lanh như biết nói, đôi mắt thấu hiểu sự đời. Quả thật không sai đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, đôi mắt bộc lộ cảm xúc và suy nghĩ chân thật nhất, không lẫn vào bất cứ đâu.

Qua phân tích hình ảnh người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, ta có thể thấy được vẻ đẹp bên trong của người phụ nữ. Đó được thể hiện chủ yếu hội tụ trong câu chuyện diễn ra ở tòa án huyện, một con người trải qua nhiều khổ cực nên thấu hiểu sự đời. Hình ảnh này khiến người đọc có cái nhìn rõ nhất về nghệ thuật độc đáo trong cách khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người.

Số 4: Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài

Người đàn bà ấy qua lời kể của Phùng vô cùng ấn tượng, không phải bởi vẻ đẹp mà bởi vì xấu xí, thô kệch, không hề ưa nhìn. Đó là người đàn bà “xấu, rỗ mặt” lại mang “thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch”. Không chỉ thế, ở mụ, người ta thấy toát lên một sự lam lũ, một dáng vẻ kham khổ của một người phụ nữ nhà quê “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ” và “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới”.

Sự khốn khó ấy còn thể hiện khi mụ đến toà án huyện với sự “lúng túng và sợ sệt”, “tìm đến một góc tường để ngồi”, dáng vẻ ấy là dáng vẻ của một người mang đầy những mặc cảm, tự ti. Thậm chí khi Đẩu mời mụ ngồi vào ghế, mụ cũng “rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại”. Dáng vẻ của mụ thật khiến người ta phải tội nghiệp, thương cảm làm sao! Tạo hoá dường như đã trút hết những bất hạnh của cuộc đời lên con người mụ, từ ngoại hình xấu xí, đến sự nghèo khổ, đến số phận đau đớn.

Đọc từng câu chữ, người ta thấy ở đó là niềm thương cảm sâu sắc mà Nguyền Minh Châu muốn gửi gắm. Ông cảm thông, thấu hiểu, thương xót cho những số phận bất hạnh của người đàn bà ấy. Thế nhưng, không chỉ dừng lại ở sự thương cảm ngoại hình, ông còn đi sâu khám phá thêm về cuộc sống, số phận của người đàn bà ấy, để thương cảm hơn cho số phận con người. Và quả thật, số phận, cuộc đời của người đàn bà ấy tràn đầy những đau khổ và bất hạnh vô cùng!

Người đàn bà hàng chài vốn được sinh ra trong một gia đình khá giả, thế nhưng vì “một bận lên đậu mùa” mà mụ bị “rỗ mặt”. Vừa xấu lại vừa rỗ mặt khiến mụ bị xa lánh, “không ai trong phố lấy” để rồi mụ “có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá”. Tạo hoá đã đưa đẩy cuộc đời mụ từ những bất hạnh này sang bất hạnh khác, thế nhưng, bất hạnh thực sự bắt đầu từ khi mụ lấy chồng!

Cuộc sống của một người đàn bà chài lưới, quanh năm suốt tháng ở trên biển thế nhưng lại chưa từng một ngày no đủ. Quanh năm, mụ chỉ lo từng bữa cho đám con nheo nhóc. Lam lũ, khổ cực là thế, nhưng cái đói, cái nghèo đeo bám mụ từng ngày khiến mụ không dám rời xa cái thuyền kia để “lên bờ” sống, bởi “không bỏ nghề được”, bỏ nghề thì sẽ không có ăn. Cuộc sống lênh đênh trên biển đã khiến cuộc sống của gia đình mụ bấp bênh đến độ, có khi “ông trời làm động biển suốt háng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Có còn cái đói, cái nghèo nào đến mức đó hay chăng, khi mà chiến tranh đã qua đi, và dù rằng, người đàn bà đó phải thức trắng hàng đêm, phải làm lụng vất vả mỗi ngày?

Đói nghèo đã khổ, cơ cực đủ điều, thế nhưng cái mệt thể xác chẳng thể nào đau đớn bằng những trận đòn roi tàn bạo từ người chồng. Dường như mụ ngày nào cũng phải chịu nỗi hành hạ tinh thần đau đớn đó “ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ”, thế nhưng lại chẳng thể phản kháng, đổi lại chỉ có sự cam chịu đến tận cùng.

Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự thương xót vô cùng với số phận của người đàn bà hàng chài. Sự nghèo túng, gánh nặng về cơm áo đã khiến cho mụ rơi vào cái vòng tròn của sự bất hạnh. Từ hình ảnh của người đàn bà ấy, tác giả còn muốn nói với người đọc những trăn trở của mình về cuộc chiến đấu chống lại cái đói, cái nghèo. Cũng giống như giặc ngoại xâm, “giặc đói, giặc dốt” cũng là một cuộc chiến mà chúng ta cần chúng ta đánh đuổi. Bởi còn đói còn nghèo thì cái xấu cái ác vẫn sẽ còn tiếp diễn.

Qua từng trang văn học của Việt Nam, người ta vẫn luôn thấy ánh lên ở mỗi người phụ nữ vẻ đẹp tâm hồn cao cả và ở người phụ nữ hàng chài này, Nguyễn Minh Châu đã làm cho vẻ đẹp tâm hồn ấy thăng hoa tuyệt vời, hoàn toàn đối lập với vẻ ngoài rách rưới, khổ sở của mụ. Có thể nói, vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà ấy thể hiện trong mọi khía cạnh, trong mọi mặt mà đầu tiên là vẻ đẹp của một người phụ nữ đã từng trải, sâu sắc, thấu hiểu và bao dung vô cùng.

Nếu như Phùng và Đẩu bất bình trước sự độc ác của người chồng thì những lời lẽ của người đàn bà hàng chài đã khiến những người từng “vào sinh ra tử”, những trí thức như họ biến thành những người đàn ông thật nông nổi, hời hợt vô cùng.

Mụ đã kể cho Phùng, cho Đẩu nghe về cuộc đời mình, cho họ biết lý do tại sao mụ lại cam chịu sự vũ phu của người chồng. Bởi mụ hiểu tất cả đều do hoàn cảnh ép buộc, xô đẩy cuộc đời họ đến bước đường hôm nay. Nếu ngày xưa, chồng chị là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi” nhưng do cuộc sống, cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo, đông con “giá như tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”, đã đẩy hắn trở nên tha hoá, trở thành một kẻ vũ phu, tàn nhẫn. Chắc hẳn, người đàn bà ấy phải là người thấu đáo, suy xét cẩn thận mới có thể hiểu được lẽ đời biến chuyển như thế!

Và người đàn bà cũng chỉ rõ cho Đẩu và Phùng thấy sự thiếu thực tế của họ rằng làm nghề chài lưới, cần người đàn ông “để chèo chống khi phong ba, để làm ăn nuôi nấng một đặng sắp con”, “là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Người đàn bà ấy đã chỉ ra cái khó khăn, cơ cực của người phụ nữ khi mưu sinh trên biển, khi mà những hiểm hoạ luôn bất chợt và tiềm ẩn.

Mụ cũng biết rằng “từ ngày cách mạng về đỡ đói khố” thế nhưng những bất cập mà chính quyền chưa giải quyết được, đó là cấp đất cho dân chài nhưng “chẳng ai ở vì không bỏ nghề được”. Đến lúc đó, Đẩu và Phùng mới dường như chợt “vỡ ra” nhiều điều, giải pháp, sự thiện chí của họ vô cùng phi thực tế, và họ có lẽ cũng cảm phục người đàn bà nhà quê kia nhưng lại thấu hiểu cuộc đời, thấu hiểu con người đến nhường ấy!

Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài không chỉ thể hiện ở sự hiểu thấu cuộc đời mà còn ở tấm lòng nhân hậu, sự bao dung và tình mẫu tử sâu sắc.

Người đàn bà ấy hàng ngày phải chịu những trận đòn roi độc ác “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” của người chồng không phải vì ngu muội, không dám phản kháng, cũng không phải mụ đã gây nên tội tình gì mà là vì mụ muốn để người chồng được giải toả tất cả những u uất, những dồn nén chất chứa trong lòng. Mụ hi sinh thân mình để ngày mai, vợ chồng mụ lại trở lại con thuyền, lại bắt đầu cuộc sống mưu sinh vốn đầy những cơ cực. Cách xử sự của người đàn bà ấy khiến cho người đọc chúng ta không chỉ thương xót mà còn vô cùng cảm phục nữa. Bởi đó là cách xử sự của một những hiểu rõ bổn phận và trách nhiệm của mình và cố gắng thực hiện nó dù nó phi lý và đau đớn vô cùng.

Nếu như Đẩu và Phùng vô cùng bất bình với những trận đòn man rợ của người đàn ông dành cho vợ “cả nước không có một người chồng nào như hắn” thì người đàn bà hàng chài lại luôn không hề trách cứ người chồng của mình. Mụ nhận hết mọi lỗi lầm về bản thân “giá như tôi đẻ ít đi”, “cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá”, “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”.

Dường như tất cả mọi tội lỗi đều thuộc về người đàn bà, mọi khó khăn đều bắt nguồn từ chính mụ, thế nên, mụ chưa từng một lời than trách người chồng và luôn miệng xin rằng “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Đọc đến đây, chúng ta không khỏi xúc động, cảm phục tấm lòng vị tha, nhân hậu của người đàn bà hàng chài xấu xí ấy. Ẩn chứa trong một vẻ ngoài xấu xí, lại là một nhân cách cao cả vô cùng!

Tình mẫu tử vốn là thiên tính của người phụ nữ, và người đàn bà này cũng vậy, mụ yêu thương con mình vô cùng. Sự yêu thương ấy là lý do để mụ cam chịu những trận đòn roi man rợ bởi mụ muốn có người đàn ông để cùng mình “nuôi đặng một sắp con”. Và cũng vì thương con, sợ con chịu tổn thương tinh thần vì cảnh bạo lực gia đình nên mụ đã xin chồng đưa mình lên bờ để đánh “sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được lão đưa tôi lên bờ mà đánh”.

Còn người phụ nữ nào có tình mẫu tử hơn thế, nhận hết mọi đau thương về mình “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở đất được”, chỉ mong đàn con được ăn no mà khôn lớn. Và cũng vì sợ thằng con làm gì dại dột với bố mà chị đã cắn răng gửi nó lên bờ cho ông ngoại nuôi nấng dù đó là đứa con chị yêu thương nhất cuộc đời mình. Tình thương con của người mẹ ấy chưa từng một lần được thể hiện trực tiếp nhưng lại diễn ra trong âm thầm.

Khi đứa con chứng kiến cái cảnh tàn bạo ấy, người đàn bà đã đau đớn và xấu hổ đến chừng nào, “người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa xấu hổ, nhục nhã”. Mụ ôm con trong nước mặt “mếu máo, ôm chầm” lấy nó rồi “vái lấy vái để”. Cuộc đời của mụ có lẽ chỉ sống vì những đứa con, mụ chỉ đau đớn khi làm tổn thương con cái chứ chưa từng thấy đau đớn cho bản thân mình.

Chính chúng ta cũng phải tự hỏi, cuộc sống như người đàn bà ấy, liệu có khi nào được hạnh phúc hay chưa? Câu trả là lời có! Và có lẽ khoảnh khắc mà mụ hạnh phúc nhất đời là khi “ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no” và gia đình được hòa thuận. Đó là khoảnh khắc mà gương mặt xấu xí của mụ “lần đầu tiên, chợt ửng sáng lên như một nụ cười”. Tất cả đó là vẻ đẹp, là sự thiêng liêng của tình mẫu từ, yêu thương con, sống vì con. Người đàn bà ấy cũng như vô vàn những người phụ nữ trên đất nước Việt Nam, bao dung, nhân hậu, vị tha, luôn kiên cường chịu đựng, hi sinh vì con cái.

Hình ảnh về người đàn bà đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong lòng nghệ sĩ Phùng và cả trong lòng người đọc chúng ta. Những nét khắc họa từ ngoại hình đến hành động, lời nói,… đã khiến người đàn bà hàng chài ấy trở thành biểu tượng cho những người phụ nữ miền biển đáng thương. Và hình tượng người đàn bà ấy đã giúp Nguyễn Minh Châu thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của mình. Đó là sự thương cảm, thấu hiếu dành cho những số phận bất hạnh bị nghèo đói, bạo lực bủa vây, nhưng ở họ, vẫn sáng ngời những phẩm chất tốt đẹp, nhận hậu, vị tha.

Bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
Bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Số 5: Phân tích vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu, với phong cách sáng tác giàu tính biểu tượng trong nền văn học nước nhà. Những tác phẩm của ông luôn khiến người đọc phải trằn trọc, suy nghĩ rất nhiều. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một câu chuyện giàu sức gợi như thế. Hình ảnh người đàn bà làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.

Chiếc thuyền ngoài xa kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi đến với vùng đất biển này. Và từ chuyến đi này, anh đã nhận ra rất nhiều chiều của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn bỏ lỡ. Hình ảnh người đàn bà là hình ảnh khiếp anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa đau xót. Có thể nói người làng chài là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ.

Người đàn bà hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh Phùng là một người đầy nhọc nhằn, lam lũ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên một hình ảnh giàu sức gợi “người đàn bà trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn và vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch.

Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng đầu tiên, đầy nhọc nhằn, đầy khổ sở và đầy thương cảm. Người đàn bà ấy tiếp tục ám ảnh người đọc bằng chi tiết “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”, đã phần nào gợi lên sự chua xót, khốn cùng. Giữa cảnh biển mênh mông lại xuất hiện một con người khiến người khác phải trằn trọc như thế này.

Người đàn bà ấy còn đầy vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi người chồng hằn học và mắng nhiếc. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con cho mình.

Dọc theo hình trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người đàn bà đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Một vẻ đẹp đầy sự khó khăn, nhọc nhằn và đau khổ. Hành động bạo lực của người chồng khiến chị cứ câm lặng, không ai oán một lời.

Và sự cam chịu ấy được lặp lại khi chị được gọi đến hầu tòa. Mặc dù “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng người phụ nữ ấy vẫn “không hé răng một lời”. Hình dáng “mụ ngồi ghé vào mép ghế và cố thu người lại” càng khiến cho Phùng, cho Đẩu, và cho người đọc một nỗi ám ảnh khó bỏ. Tuy nhiên chỉ một lát, “người đàn bà lại lúng túng và sợ sệt”. Có lẽ cuộc sống của chị quá nặng nề, quá thê lương trong những năm qua.

Tình tiết người đàn bà vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa càng toát lên vẻ cam chịu, sự nhẫn nại, giàu đức hi sinh “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thoát thì người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng đau khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao?

Lời tâm tình của người đàn bà về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thương xót vừa khâm phục. Một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Người đàn bà yêu con, thương con vô điều kiện, không đòi hỏi bất cứ điều gì.

Khi chị kể đến chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no” thì có lẽ người đọc ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. Cuộc đời của chị nhiều đau thương và nước mắt nhưng lại có biết bao nhiêu phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng.

Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là “người đàn bà”, có lẽ không phải chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người đàn bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển xinh đẹp nào.

Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta. Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Tấm lưng bạc phếch, ướt sũng của người đàn bà này có lẽ còn ám ảnh rất nhiều người nữa.

Người đàn bà đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó.

Hình ảnh người đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã gửi gắm nhiều thông điệp đến người đọc về cuộc sống, phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ.

Số 6: Cảm nhận về người đàn bà hàng chài

Nguyễn Minh Châu là một trong số những tác giả tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, bằng ngòi bút tinh tế, nhẹ nhàng, ẩn chứa nhiều những bài học, những quan điểm có giá trị nhân văn ông đã đem đến cho nền văn học hiện đại một xu hướng mới.

Không còn viết về những đề tài chiến tranh thảm khốc, những nỗi đau thương mất mát trên chiến trường, hay sự hào hùng hy sinh anh dũng của những con người ở tiền tuyến và hậu phương, Nguyễn Minh Châu đã đặt trọng tâm vào việc phản ánh đời sống xã hội lúc bấy giờ, đi sâu vào từng cuộc đời cá nhân với những nỗi đau và những vẻ đẹp lẩn khuất, để cuối cùng mở ra những quan niệm mới mẻ về cuộc đời, khiến chúng ta nhận thức được những điều có lý trong chính những nghịch lý của cuộc đời.

Chiếc thuyền ngoài xa là một trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Minh Châu với nhân vật người đàn bà làng chài mang trong mình những nỗi bất hạnh, đớn đau. Tuy nhiên từ trong những nỗi đau thương bất hạnh ấy, độc giả lại cảm nhận được thật rõ nét những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý, cũng như thấu hiểu cảm thông hơn cho nhân vật này, cho những người phụ nữ làm nghề chài lưới ven biển giai đoạn sau giải phóng, khi mà chiến tranh đi qua nhưng những hậu quả để lại trên mảnh đất Việt Nam còn quá lớn và dai dẳng.

Trước hết để diễn tả nỗi bất hạnh của người đàn bà làng chài, người ta không thể bỏ qua những chi tiết về ngoại hình của chị. Chẳng còn gì đáng buồn hơn là ông trời đã bắt người đàn bà ấy phải chịu nỗi đau của một người phụ nữ có dung mạo xấu xí, chị vốn sinh ra trong một gia đình giàu có, thế nhưng một cơn đậu mùa đi qua đã để lại trên mặt chị cơ man nào là những nốt rỗ chi chít, rồi trở thành cô gái quá lứa lỡ thì, rồi cuối cùng may mắn nên duyên cùng người chồng hiện tại.

Thế nhưng ấy chẳng phải là cuộc hôn nhân hạnh phúc, viên mãn gì, bởi lẽ lấy chồng nghèo, chị đã phải hy sinh cả cuộc đời của mình cho những nỗi lo cơm áo gạo tiền, cuối cùng giờ đây chị biến thành một người phụ nữ trung niên, dáng vẻ thô kệch, khuôn mặt tiều tụy, xơ xác, thảm hại vô cùng. Nhưng bất hạnh của chị chưa dừng lại ở đó, mà nó còn khủng khiếp hơn khi bản thân người phụ nữ này còn là nạn nhân của cảnh bạo hành gia đình dã man.

Bước vào đầu câu chuyện, người ta đã không khỏi xuýt xoa say mê trước cái cảnh một con tàu tiến vào bờ trong ánh mai hồng, tựa như một bức danh họa thời cổ, một cảnh “đắt” trời cho hiếm có. Thế nhưng giữa lúc ấy bước xuống khỏi con thuyền như mơ, lại là một cặp vợ chồng, tiều tụy, lam lũ, và khủng khiếp hơn ấy là cảnh người đàn ông dùng thắt lưng quất liên tiếp vào người đàn bà đi cùng vừa đánh vừa chửi rủa đay nghiến những lời cay độc, còn người đàn bà thì chỉ biết chịu đựng, không bỏ chạy, không la hét chống cự.

Rồi cả nỗi đau đớn của chị khi phải chứng kiến đứa con trai của mình là thằng Phác lao vào đánh lại bố nó để bảo vệ mẹ. Tất cả những điều ấy khiến người ta dễ dàng đặt ra một dấu hỏi lớn, vì sao người đàn bà ấy lại phải nhẫn nhịn và chịu đựng một cách nhu nhược và hèn nhát đến nhường này, trong khi bản thân chị cũng có được sự bảo vệ của thằng con, sao chị vẫn cứ căng mình để nhận lấy những đòn roi từ người chồng vũ phu, độc ác.

Tuy nhiên, chỉ khi được Phùng và chánh án Đẩu mời lên giải quyết chuyện ly hôn, chị mở lòng tâm sự những điều mình giấu trong lòng bấy lâu nay người ta mới vỡ lẽ ra rằng, không phải việc gì chúng ta cho là có lý cũng hoàn toàn đúng trong mọi trường hợp. Với câu chuyện của người đàn bà làng chài, khi được Phùng và Đẩu giúp đỡ làm thủ tục ly hôn, giải thoát khỏi cảnh bạo lực gia đình nghiêm trọng, thì phản ứng của chị không phải là vui mừng, hạnh phúc, muốn ly hôn lập tức.

Mà trái lại, người đàn bà ấy sống chết cầu xin đừng bắt chị ly hôn chồng, có lẽ đối với nhiều người đó là một hành động không thể nào “gàn dở” hơn, thế nhưng phải đứng vào vị trí ấy của người đàn bà làng chài chúng ta mới hiểu chị có biết bao nhiêu nỗi lo, nỗi khó xử. Chị không muốn ly hôn chồng chung quy tất cả cũng là tấm lòng thương con của người mẹ, vì những đứa con còn tuổi ăn tuổi lớn của mình, chị sợ rằng không có người đàn ông chèo chống lúc phong ba bão táp, thì mình chị làm sao có thể gồng gánh để nuôi từng ấy miệng ăn qua những ngày biển động.

Lão chồng vũ phu của chị dù có đánh đập, hành hạ chị đến cỡ nào, rồi cũng phải quay về con thuyền này, làm tròn bổn phận của một người cha, ra sức lao động để cùng chị nuôi lớn con cái. Vì con chị chẳng sợ gì đòn roi, đau đớn, miễn sao là những đứa con của chị có thể được ăn no, được lớn lên đàng hoàng, khỏe mạnh, là đã đủ khiến chị hạnh phúc, mãn nguyện.

Tấm lòng người đàn bà, người mẹ ấy thật bao dung, ấm áp. Không chỉ lo lắng về vật chất, cơm ăn áo mặc, mà hơn thế nữa chị còn lo lắng cả về mặt tinh thần cho những đứa con của mình, chị muốn chúng có bố như bao đứa trẻ khác, có một gia đình đầy đủ vẹn toàn. Và dù bị đánh đập dã man, chị cũng không muốn để con mình nhìn thấy, chính vì vậy chị luôn xin gã chồng vũ phu có đánh thì rời khỏi thuyền rồi hãy đánh chị.

Bởi lẽ chị không muốn những hình ảnh bạo lực, sự rạn nứt tình cảm gia đình giữa cha mẹ làm ảnh hưởng đến tâm hồn của con cái. Về chuyện của thằng Phác, khi phát hiện nó thù ghét cha mình, thậm chí có những suy nghĩ lệch lạc, chị đã nhanh chóng gửi nó về nhà ngoại, để tránh việc nó làm ra những chuyện không thể vãn hồi.

Có thế mới thấy được tình mẫu tử thiêng liêng của người đàn bà làng chài, dẫu trên tấm lưng và tâm hồn dày đặc những vết thương đau đớn, thế nhưng chị vẫn một lòng bảo hộ chu toàn cho những đứa con bằng cách của riêng mình. Sống một cuộc đời nhiều sóng gió, vất vả và đau thương như thế nhưng bản thân chị không mấy khi nghĩ đến những chuyện đớn đau mà trái lại chị luôn hướng về những tháng ngày hạnh phúc, gia đình quây quần đầm ấm bên nhau trong những bữa cơm, đối với chị chỉ cần nhìn thấy con cái ăn no là chị cũng đã đủ hạnh phúc.

Đối với chị “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ” cho nên họ “phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Chị thấu hiểu lẽ ấy, nên chấp nhận nhẫn nhịn, hy sinh tất cả để củng cố cuộc đời của các con.

Bên cạnh vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng, ở người đàn bà làng chài còn có vẻ đẹp của sự nhẫn nhịn, cam chịu và tấm lòng bao dung sâu sắc. Đối với việc bị đánh đập tàn nhẫn của người chồng vũ phu, người đàn bà làng chài không than trách, không kết tội, mà trái lại chị có phần thấu hiểu, cảm thông và bào chữa cho hắn.

Chị cho rằng chung quy lại cũng chỉ tại khổ quá, đói kém quá, biết bao nhiêu gánh nặng của một gia đình hơn chục miệng ăn cứ quanh năm suốt tháng đè nặng lên đôi vai của người chồng, khiến hắn mệt mỏi và cần một nơi để trút giận, trút hết những uất ức bấy lâu, xong rồi thì hắn lại quay về lao động, kiếm sống. Chị hồi tưởng về những ngày trẻ và nhắc lại một cách dịu dàng rằng chồng chị khi ấy “cục tính nhưng hiền lành không bao giờ đánh đập tôi”.

Sau cùng chị tổng kết “giá mà tôi đẻ ít đi”, một nạn nhân, một người đáng được che chở bảo vệ, cuối cùng lại nhận hết mọi trách nhiệm về mình và biện minh cho người đã gây ra biết bao đau khổ cho bản thân. Có tấm lòng nào nhân hậu và bao dung được hơn thế nữa. Thêm nữa có lẽ bản thân chị vẫn luôn ghi nhớ cái ơn nghĩa cứu vớt cuộc đời chị khi xưa của người chồng, mặc dầu cuộc đời chị có thể không được trọn vẹn, nhưng ít nhất chị cũng có một gia đình và những đứa con của riêng mình, không phải chịu sự cô độc đến già.

Bên cạnh ấy, ở người đàn bà làng chài, lam lũ, ít học, thế nhưng người ta lại nhận ra được vẻ đẹp của một tâm hồn từng trải, thấu tình đạt lý, có một cái nhìn rất đa chiều và sâu sắc về cuộc đời. Chị không chỉ là một con người biết nhẫn nhịn, biết chịu đựng mà bản thân chị còn là một người biết phân biệt đúng sai, chị cũng hiểu được rằng hành động của Phùng và Đẩu cốt là để giúp đỡ chị, thế nhưng phải đứng trong hoàn cảnh của chị người ta mới thấy khó khăn để lựa chọn cỡ nào.

Từng lời phân tích, với những lý lẽ mộc mạc, giản đơn, giàu đức hy sinh của người đàn bà làng chài, dường như đã khiến Phùng và Đẩu vỡ ra một điều gì đó. Đó là việc những cái có lý vẫn có thể tồn tại ngay trong lòng những điều nghịch lý nhất, mà bản thân con người phải có một cái nhìn đa diện nhiều chiều thì mới nhận ra và thấu hiểu được.

Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là một trong những tác phẩm xuất sắc phản ánh rất rõ bức tranh xã hội Việt Nam sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, tuy chiến tranh đã đi qua thế nhưng hậu quả nó để lại cho con người, cho mảnh đất quê hương thì còn mãi dai dẳng, chính cái đói, cái nghèo kiệt quệ đã khiến con người ta khốn khổ, tha hóa.

Tuy nhiên không nhằm mục đích nhấn mạnh vào vấn đề này, mà chủ yếu Nguyễn Minh Châu muốn khai thác vẻ đẹp tâm hồn của những con người nhỏ bé, những khía cạnh đạo đức, từ đó dẫn ra những quan điểm mới về cách nhìn nhận cuộc đời, cách cảm nhận những vẻ đẹp chân chính mà ở đây là hình ảnh người đàn bà làng chài với vẻ đẹp của tình mẹ, sự bao dung và thấu hiểu lý lẽ ở đời.

Số 7: Cảm nhận nhân vật người đàn bà hàng chài

Sáng tác của Nguyễn Minh Châu chia làm hai giai đoạn, nếu như giai đoạn trước, các nhân vật luôn được đặt vào bầu không khí vô trùng thì đến giai đoạn sau với cảm hứng thế sự, các nhân vật có nhiều chuyển biến rõ nét. Người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa chính là một nhân vật tiêu biểu. Cũng qua nhân vật này tác giả gửi gắm giá trị nhân đạo sâu sắc của mình.

Nếu như các nhân vật khác trong tác phẩm đều có một cái tên rõ ràng, như Phùng, Đẩu, thằng Phác, thì người phụ nữ xuất hiện trong tác phẩm này lại chỉ được gọi một cách phiếm chỉ “người đàn bà làng chài”. Phải chăng thông qua cái tên mang tính chất phiếm chỉ này, nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc thông điệp: người đàn bà kia chính là đại diện cho biết bao số phận người phụ nữ, giàu lòng yêu thương, giàu đức hi sinh trong cuộc sống còn vô vàn thống khổ, khắc nghiệt.

Người đàn bà xuất hiện trong tác phẩm qua nhận xét của Phùng vô cùng đặc biệt – ngoại hình xấu xí, thực không mấy ưa nhìn. Đó là người đàn bà mặt rỗ, dáng vẻ mệt mỏi, thân hình thô kệch lam lũ. Sau này, đi sâu vào tác phẩm và nghe những lời tâm sự của người đàn bà ta mới biết, chị vốn sinh trong một gia đình khá giả, nhưng vì một trận ốm mà mặt rỗ, không ai lấy. Hình ảnh chị cam chịu nhẫn nhục để người chồng lấy dây lưng vụt tới tấp, đã phần nào hé lộ số phận bi kịch, bất hạnh của chị.

Dù chị có số phận bất hạnh như vậy, nhưng ta cũng không thể phủ nhận ẩn sâu trong người phụ nữ ấy là những vẻ đẹp, phẩm chất đáng quý. Đầu tiên ta thấy được chị là người phụ nữ có khả năng chịu đựng cao. Có thể thấy, như lời chị tâm sự “ba ngày một trận nhẹ, bảy ngày một trận nặng” cứ khi chồng chị bực là chị bị đánh. Thì có thể thấy rằng, việc chị bị đánh diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Mặc dù bị hành hạ về thể xác như vậy, nhưng chị vẫn cam chịu nhẫn nhục, không hề kêu than, không hề chống trả, hay tìm cách trốn chạy. Bởi đối với chị chịu đựng cũng là một lẽ đương nhiên của những người phụ nữ sống ở miền biển.

Không chỉ vậy người đàn bà làng chài còn là một người phụ nữ giàu lòng tự trọng, vô cùng yêu thương con. Cuộc đời chị hi sinh tất cả về con, khi bị người chồng đánh, chị xin hắn lên bờ đánh, để những đứa trẻ không phải nhìn thấy cảnh ấy. Chị đặc biệt thương thằng Phác, nên đã gửi nó lên rừng ở cùng ông. Khi Phác thấy bố đánh mẹ, đã ngay lập tức xông vào, chị sợ hãi, quỳ sụp xuống van xin.

Chị sợ thằng Phác sẽ bị thương. Trong những lời vô cùng chân thành, chị cũng cảm thấy vui, hạnh phúc khi nhìn thấy những đứa con mình được ăn no “trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt bừng sáng lên như một nụ cười khi nghĩ đến những niềm vui nhỏ bé mà gia đình bà từng có và đặc biệt khi nghĩ đến cảnh đàn con được ăn no”. Hạnh phúc quả thực bình dị của một người mẹ nghèo. Thương con, hi sinh vì con cũng là lí do vì sao chị kiên quyết không bỏ chồng, bởi với những người dân miền biển, ngày đêm đối mặt với sóng gió không thể thiếu đôi vai vững chắc của người đàn ông. Hành động, suy nghĩ đó của chị càng khẳng định hơn nữa tình mẫu tử sâu nặng chị dành cho con.

Không chỉ vậy, chị còn là một người thấu hiểu lẽ đời, đã đem đến cho cả Phùng và Đẩu những bài học, những quan niệm khác về con người và cuộc đời. Dù chị bị chà đạp về nhân phẩm, bị hành hạ về thể xác nhưng chị đến tòa án huyện trước những lí lẽ của mình, ta không còn thấy một người đàn bà quê mùa, ít học, mà thay vào đó là một người phụ nữ thấu tình đạt lí, thấu hiểu sự đời. Ban đầu chị rụt rè, sợ hãi, bởi đây là lần đầu chị tiếp xúc với một không gian mới.

Chị ngồi sâu vào một góc, cố để không ai chú tâm đến mình. Những lời lẽ vô cùng hạ mình, nhỏ bé đến tối nghiệp trước Phùng và Đẩu “con” “van xin” “quý tòa”. Hình ảnh của chị thật đáng thương, khiến cho cả hai người đàn ông không khỏi khó xử. Nhưng sau khi lấy lại được bình tĩnh, chị đã nhanh chóng thay đổi cách xưng hô: “Chị cảm ơn các chú”. Có một sự đổi vai nhanh chóng giữa hai đối tượng, người giáo huấn và người được giáo huấn giữa Phùng, Đẩu và người đàn bà làng chài.

Với những suy nghĩ, trải nghiệm trong cuộc đời, lí lẽ đời đã thắng những lí lẽ giáo điều sách vở của Phùng và Đẩu. Bằng sự từng trải của bản thân, tình yêu thương con và đức hinh sinh, người đàn bà làng chài đã khiến cho hai người đàn ông thay đổi suy nghĩ, khiến họ cảm thông cho số phận và cuộc đời mình. Nhìn vào cuộc đời chị người ta mới thấu rằng cuộc đời này vốn đầy những đa đoan, nhìn ngoài sao có thể thấu hết hững vấn đề ở xung quanh.

Hình ảnh người đàn bà làng chài là đại diện tiêu biểu cho số phận người phụ nữ trong xã hội vừa bước chân ra khỏi chiến tranh. Cuộc sống đói nghèo lạc hậu, bạo lực gia đình đã dồn họ vào ngõ cùng tối tăm. Nhưng trong bóng tối tưởng thăm thẳm đó lại ngời sáng những đức tính đẹp đẽ của người phụ nữ nông dân hồn hậu: yêu thương chồng con, đức hinh sinh và tình mẫu tử cao đẹp.

Số 8: Cảm nhận vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài

Nguyễn Minh Châu là tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam sau 1975. Ông thành công với nhiều tác phẩm như: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Chiếc thuyền ngoài xa nhưng để lại dấu ấn sâu đậm nhất là tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”. Trong tác phẩm, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người đàn bà làng chài – người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh.

Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới… toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa”.

Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ dường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Sự đối lập giữa vẻ đẹp chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia đình hàng chài khiến Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.

Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta… Không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà dường như đằng sau cách gọi phiếm định ấy đã hé mở một cuộc đời ngang trái, một số phận bị vùi dập giữa cuộc sống bộn bề lo toan.

Dường như cuộc sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ. Người đàn bà trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và gợi ấn tượng người đàn bà xấu xí, mệt mỏi dường như đang buồn ngủ. Và cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

Qua câu chuyện ở tòa án huyện người đọc hiểu hơn sự bất hạnh trong cuộc đời chị. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ…

Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ. Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,… Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, với lời lẽ cay độc “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà coi đó là một lẽ đương nhiên.

Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con. Người đàn bà đã nhẫn nhục, cam chịu. Chị không muốn đàn con phải nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ. Chị xin chồng lên bờ mà đánh khi con lớn. Chị xót xa đau đớn khi phải chứng kiến cảnh thằng Phác đánh cha: “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, và làm rỏ xuống những dòng nước mắt…”.

Người đàn bà ấy là người sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Cái sự thâm trầm trong thấu hiểu lẽ đời dường như chị chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Khi được đề nghị giúp đỡ thì: “Xin các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu”; “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”.

Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ: ”Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”. Trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con: ”Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được”. Chị ”phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”.

Có thấu hiểu được như vậy chúng ta mời hiểu hết tình cảm, tấm lòng của người đàn bà bất hạnh. Bởi nếu hiểu sự việc một cách đơn giản chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được. Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị.

Người đàn bà ấy còn là người giàu lòng vị tha. Chị thấu hiểu nguyên nhân vì sao chồng lại trở nên như thế. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi cuộc sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh tha hóa. Có thể chúng ta không chấp nhận cho hành vi tội lỗi của anh ta nhưng chúng ta phần nào cảm thông cho anh ta.

Đặc biệt ở người đàn bà là chị cũng vẫn giữ trong tâm hồn mình ngọn lửa của hi vọng, của niềm tin để thắp lên hạnh phúc mỏng mạnh: Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “…vui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng nó được ăn no”; “trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”.

Đằng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương đáng thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

Gấp trang truyện lại người đọc còn mãi ám ảnh bởi những câu hỏi: Cuộc đời người đàn bà ấy rồi sẽ kết thúc ra sau? Những đứa con tội nghiệp của bà có được cuộc sống hạnh phúc? Đó là những vấn đề nhà văn vẫn chưa đưa ra lời giải đáp. Câu trả lời nằm trong cuộc sống, hành động của mỗi người chúng ta. Điều đó nói lên giá trị của tác phẩm và tầm vóc to lớn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
Bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Số 9: Cảm nhận người đàn bà hàng chài

Nguyễn Minh Châu là một là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn. Từ sau 1975, ông chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh. Ông được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những tác phẩm tiêu biểu phải kể đến của thi sĩ. Hình ảnh người đàn bà làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.

Truyện được kể lại qua lời kể của nhân vật Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Theo lời đề nghị của trưởng phòng, Phùng trở về chiến trường xưa để chụp một tấm hình cảnh thuyền biển cho bộ lịch Tết. Tại đây, anh đã phát hiện ra một khung cảnh thuyền biển lúc bình minh đẹp như tranh mực Tàu của một danh họa thời cổ.

Nhưng éo le thay, đang ngây ngất với cảm giác hạnh phúc thì Phùng phải chứng kiến một cảnh tượng phũ phàng. Đó là cảnh người chồng đánh vợ một cách thô bạo, còn người vợ thì nhẫn nhục chịu đựng một cách khó hiểu. Phùng từ ngất ngây sung sướng đến kinh ngạc, sững sờ. Có thể nói, nhà văn đã ra tình huống truyện độc đáo và từ tình huống này mà nhân vật người đàn bà dần hé lộ số phận và tính cách.

Tác giả chỉ gọi nhân vật của mình là người đàn bà một cách phiếm định. Phải chăng ông muốn nói hộ bao nhiêu người đàn bà vô danh ở vùng biển này? Người đàn bà trong truyện trạc ngoài bốn mươi, cùng chồng đánh cá bằng thuyền lưới vó ở một vùng biển miền trung.

Người đàn bà có thân hình “cao lớn với những nét thô kệch”, “rỗ mặt”, lúc nào cũng xuất hiện với khuôn mặt “mệt mỏi”, “tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Cái vẻ ấy gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, quanh năm phải chống chọi với cái nghèo, cái đói, với thiên tai khắc nghiệt. Ngay từ hình thức bên ngoài của nhân vật, tác giả đã dự báo về một số phận lắm éo le, nghịch cảnh. Khắc họa về hình ảnh người đàn bà, Nguyễn Minh Châu tập trung ở khuôn mặt và đôi mắt – nơi ẩn giấu những bí ẩn của cuộc đời.

Ở người đàn bà xấu xí, rỗ mặt ấy có một đôi mắt thật lạ. Đôi mắt chính là cuộc đời chị. Đôi mắt của một cuộc đời không bình lặng. Đôi mắt “ngước nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng rồi…đưa cặp mắt nhìn xuống chân’ đầy vẻ cam chịu.

Đôi mắt đã từng “nhìn thẳng vào chúng tôi, lần lượt từng người một”, nói những lời đâu phải sẽ nghe sau những giây phút “sợ sệt, lúng túng,rón rén đến ngồi ghé vào chiếc ghế và cố thu người lại”. người đàn bà xuất hiện với khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt vì thiếu ngủ, vì lao lực, khuôn mặt chứa đầy những giọt nước mắt trong những vết rổ chằng chịt, khuôn mặt cúi xuống nhẫn nhục khi nói về đời mình, khuôn mặt ấy còn ám ảnh Phùng mãi sau này.

Nguyễn Minh Châu khắc họa đậm nét những chi tiết ngoại hình nhằm giúp người đọc hình dung được cuộc sống khổ đau, bất hạnh của nhân vật. Bà phải chịu đựng về cả nỗi đau thể xác lẫn tinh thần. Thường xuyên bị chồng đánh nhưng người đàn bà ấy vẫn quyết gắn bó với người chồng vũ phu. Trong tâm thức bà luôn lo sợ các con sẽ bị tổn thương, luôn phải che giấu những nỗi đau của mình nhưng các con vẫn khiến bà thực sự đau lòng vì “bà cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ , nhục nhã”.

Bà đau vì không tránh được cho con khỏi bị tổn thương do bạo hành gia đình. Bà làm như vậy như là để tạ tội với các con vì không thể cho nó một mái ấm hạnh phúc. Bà hiểu được nguyên nhân sự nghèo khổ của gia đình là do đông con, chồng phải trốn lính, thuyền chật, cuộc sống bấp bênh. Bà hiểu sâu sắc thiên chức làm mẹ, hiểu được bản chất của chồng. Theo bà, ông ta trở nên thô bạo như vậy là do hoàn cảnh quá nghèo, quá khổ. Người chồng vũ phu kia chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.

Tóm lại, nhân vật người đàn bà hàng chài là một người mẹ giàu đức hi sinh và thấu hiểu lẽ đời.Một phụ nữ vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống của người Á Đông là biết nhẫn nhịn, biết hi sinh bản thân vì gia đình, chồng con. Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, tác giả muốn gửi đến người đọc những suy ngẫm sâu sắc về cuộc đời, về nghệ thuật. “Chiếc thuyền ngoài xa” mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống con người.

Đó là cái nhìn đa chiều, ở các cự li khác nhau, để phát hiện ra bản chất sau vẻ ngoài của cuộc sống và con người. Phải chăng sau câu chuyện rất buồn này, trái tim nhân hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp niềm tin yêu cuốc ông, trân trọng vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sự can đảm và tấm lòng bao dung của người phụ nữ? Đó không phải là vẻ đẹp chói chang , hào hùng mà là những hạt ngọc khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp, lam lũ của đời thường.

Số 10: Phân tích người đàn bà hàng chài

Ai đó đã từng nói “ Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người.

Kim Lân với truyện ngắn “Vợ nhặt” và Nguyễn Minh Châu với tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trường hợp như vậy. Nếu như với khả năng viết rất hay về nông thôn và cuộc sống của người dân quê, Kim Lân xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt qua tình huống truyện độc đáo thì với phong cách truyện đậm chất tự sự-triết lí, Nguyễn Minh Châu đã khám phá ra những nghịch lí trong cuộc sống của người đàn bà làng chài. Qua cả hai tác phẩm, các tác giả đều cho ta thấy được vẻ đẹp khuất lấp của người phụ nữ Việt Nam trong những hoàn cảnh khó khăn.

Có thể nói, trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhân vật người vợ nhặt tuy không phải là nhân vật chính nhưng vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm.Tuy là một con người vô danh nhưng nhà văn đã xây dựng cho nhân vật của mình một cá tính đậm nét. Được khắc họa sống động theo lối đối lập giữa bên trong và bên ngoài, ban đầu và về sau, người vợ nhặt hiện lên với đầy đủ những phẩm chất của con người bình dị trong nạn đói thê thảm Từ một cô con gái “ngồi vêu ra ở cửa nhà kho” chao chát, chỏn lỏn đến một nàng dâu hiền hậu, đảm đang, đúng mực là một hành trình đầy bất ngờ với bao biến động trong cuộc đời nhân vật. Nhà văn đã chọn được tình huống truyện thật độc đáo để nhân vật tự bộc lộ giá trị của mình.

Ở đầu tác phẩm, những vẻ đẹp của người vợ nhặt bị che khuất bởi những con số không tròn trĩnh: không quê quán, không nghề nghiệp, không cả một cái tên, không nhan sắc, không lòng tự trọng. Cuộc sống đói khổ càng tô đậm sự xấu xí của thị: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người “gầy sọp”, “trên cái khuôn mặt xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Khi nghe tiếng hò của Tràng, thị “lon ton chạy theo” đẩy xe thóc cùng, hôm sau lại “sầm sập chạy đến”, “cong cớn” đứng trước mặt anh ta để đòi “nợ” rồi “cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc”. Giữa sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc chết đói để giữ sĩ diện hoặc bỏ lòng tự trọng sang một bên để bám víu lấy sự sống, thị đã chọn cách thứ hai.

Song, qua tiến trình của câu chuyện, con người thực sự của nhân vật người vợ nhặt dần hiện ra dưới ngòi bút truyện tài hoa của Kim Lân. Thị “rón rén, e thẹn, đầu cúi xuống, chân bước díu vào nhau” khi đi qua xóm ngụ cư, trên đường về nhà Tràng. Ở đây, ta chỉ thấy một cô gái hiền hậu, biết ý tứ và ngượng ngùng một cách thật dễ thương chứ không còn cái “cong cớn” vô duyên lúc trước. Buổi sáng sau khi về làm vợ Tràng, thị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp, nấu cơm và cư xử, nói năng đúng mực khiến ngay cả Tràng cũng ngạc nhiên vì sự thay đổi ấy.

Thị đã trở thành người vợ đảm, người con dâu đảm đang biết lo toan việc nhà. Phải chăng đây mới chính là bản chất tốt đẹp của con người vợ nhặt? Ngay cả trong chi tiết theo không Tràng về làm vợ của thị, nếu xét kĩ, ta sẽ thấy hành động ấy thực chất xuất phát từ khao khát tình yêu, hạnh phúc và tổ ấm gia đình cháy bỏng của những người nông dân bình dị. Tóm lại, với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt với những vẻ đẹp tâm hồn đáng được trân trọng và ngợi ca.

Bên cạnh người “vợ nhặt”, nhân vật người đàn bà hàng chài trong “CTNX” cũng để lại ấn tượng sâu sắc. Là nhân vật chính, nhân vật này có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc thể hiện giá trị tư tưởng của tác phẩm. Nguyễn Minh Châu đã khắc họa nhân vật khá sắc nét bằng bút pháp hiện thực theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất. Xuất hiện trong tình huống đầy nghịch lí dưới khám phá của nhân vật Phùng, nhân vật người đàn bà làng chài hiện lên với những vẻ đẹp khuất lấp khiến ta xót xa, lo âu và không khỏi trăn trở.

Xuất hiện trước mắt độc giả , người đàn bà làng chài hiện lên với ngoại hình xấu xí, thô kệch: than hình cao lớn, “khuôn mặt mệt mỏi”, “tái ngắt”, “tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới”. Cuộc sống của chị là một chuỗi những tháng ngày vừa lao động vất vả, vừa phải chịu đòn roi của chồng: “ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Độc giả có thể thông cảm với hoàn cảnh bất hạnh nhưng rất dễ bất bình với sự nhẫn nhục, cam chịu quá đáng của nhân vật khi im lặng chấp nhận trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình.

Nhưng phía sau ngoại hình xấu xí và sự nhẫn nhục ấy là cả một tấm lòng vị tha, độ lượng, đức hi sinh cao cả và sự cứng cỏi, can đảm hiếm có của người phụ nữ. Chị chấp nhận cuộc sống ấy bởi lẽ chị yêu thương các con, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ tổ ấm gia đình. Đối với chị thì “đàn bà ở thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”.

Và dù bị đánh đập, hành hạ bao nhiêu thì người đàn bà ấy vẫn cảm thông với những khó khăn của chồng, vẫn cứ chắt chiu từng giây phút hạnh phúc trong cuộc sống. Phía sau sự thất học, quê mùa, người đàn bà làng chài vẫn là người phụ nữ sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Lí lẽ của chị là lí lẽ của con người từng trải bao sóng gió, khó khăn, không chỉ khiến chánh án Đẩu, nhiếp ảnh gia Phùng mà còn khiến tất cả chúng ta phải ngạc nhiên, cảm phục.

Có thể thấy, cả hai nhân vật đều là những thân phận nhỏ bé, là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện. Vẻ đẹp ấy, trong những lam lũ của đời thường, trong những khoảnh khắc khó khăn của cuộc sống có thể bị che lấp đi nhưng không bao giờ biến mất. Cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều thành công ở điểm này, khi miêu tả nhân vật bằng những chi tiết chân thực vô cùng, vừa làm toát lên số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng của họ, vừa khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp bên trong những con người ấy.

Tuy nhiên, giữa hai nhân vật cũng có nhiều điểm khác biệt. Vẻ đẹp của người vợ nhặt được khắc họa qua những phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh trong nạn đói thê thảm. Thị như một luồng gió mới “lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối” của những người dân xóm ngụ cư cũng như gia đình Tràng. Trong khi đó, vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu lại là phẩm chất của người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính trong tình trạng bạo lực gia đình.

Nhân vật này không khỏi khiến ta băn khoăn, trăn trở về cách nhìn nhận con người cũng như mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Sở dĩ có sự khác biệt ấy là do phong cách nghệ thuật và thời điểm sáng tác của hai nhà văn. Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển biến đổi từ thấp đến cao, mang cảm hứng lãng mạn, tiêu biểu cho văn học thời kì kháng chiến. Trong khi đó nhân vật người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại. Nhân vật này thể hiện rõ cảm hứng thế sự-đời tư trong ngòi bút truyện của Nguyễn Minh Châu sau 1975.

Tóm lại, người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài là hai nhân vật được xây dựng rất thành công của Kim Lân và Nguyễn Minh Châu. Tuy có nhiều điểm khác nhau trong phong cách nhưng với tinh thần nhân đạo cao cả, hai nhà văn đều khám phá và nâng niu trân trọng những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Qua hai tác phẩm, các tác giả còn cho chúng ta thêm tin tưởng vào sự bất diệt của những phẩm chất tốt đẹp trong con người dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Với tất cả giá trị về nội dung và nghệ thuật ấy, chắc chắn cả hai nhân vật cũng như tên tuổi của Kim Lân và Nguyễn Minh châu sẽ có sức sống lâu dài trong kho tàng văn học dân tộc.

Số 11: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài

Nguyễn Minh Châu được đánh giá là một người mở đường tinh anh và đầy tài năng của nền văn học Việt Nam những năm sau đổi mới. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu ở thời kì này chủ yếu thuộc hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn, trong đó truyện ngắn của ông xứng đáng được xếp vào hàng những truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại bởi cả trình độ nghệ thuật cũng như chất lượng tư tưởng.

Truyện Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983 đã thể hiện được những khám phá quan trọng của nhà văn về cuộc sống và nghệ thuật ở thời kỳ mới. Thành công nổi bật về nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm này có thể kể tới việc xây dựng một tình huống truyện vô cùng độc đáo.

Là một sự kiện đặc biệt của đời sống được mô tả trong tác phẩm mà tại sự kiện đó, nhà văn đã làm sống dậy một tình thế bất thường có tính chất éo le và gây bất ngờ trong quan hệ giữa các nhân vật, tại sự kiện đó, tính cách nhân vật được bộc lộ sắc nét, ý tưởng của nhà văn cũng hiện hình khá trọn vẹn.

Là tình huống nhận thức bởi nó hướng tới bộc lộ nhận thức của nhà văn về cuộc đời và nghệ thuật qua sự thể hiện nhận thức của các nhân vật trong tác phẩm về vấn đề này. Phùng là một phóng viên nhiếp ảnh. Theo yêu cầu của cấp trên, anh cần chụp một bức ảnh về cảnh bình minh trên biển. Vì vậy, Phùng đã trở về vùng biển nơi anh từng chiến đấu năm xưa. Sau nhiều ngày tìm kiếm, Phùng đã phát hiện ra một cảnh đẹp tuyệt vời để nhận ra bản thân cái đẹp cũng là một giá trị đạo đức vì để có được những giây phút trong ngần của tâm hồn.

Phùng phát hiện ra một sự việc vô cùng tàn nhẫn trong đời sống hiện thực – đó là sự việc người đàn ông làng chài đánh đập, chửi rủa vợ mình một cách tàn tệ ngay trên bãi cát – nơi Phùng đang say sưa với cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Sự việc này khiến Phùng kinh ngạc, đau đớn để từ đó nhận ra những điều phi lý, những sự thật trần trụi vẫn luôn tồn tại trong cuộc sống bề bộn quanh mình. Khi đến toà án huyện, nghe câu chuyện của người phụ nữ, Phùng lại có thêm những phát hiện quan trọng về bản chất của con người, về sự phức tạp của đời sống để từ đó có thêm những trăn trở về nghệ thuật, về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời.

Sau rất nhiều ngày tìm kiếm, lựa chọn và thất vọng, cuối cùng, Phùng cũng bất ngờ được chứng kiến một cảnh đẹp tuyệt vời: bình minh nơi cửa biển với không gian phóng khoáng, thi vị, với màu hồng hồng của sương mai, với con thuyền lưới vó và tấm lưới còn đọng nước. Sự hài hoà của hình ảm thiên nhiên và hình ảnh trong cuộc sống ở một thời điểm đặc biệt đã tạo nên vẻ đẹp lí tưởng của bức tranh và đem lại cho Phùng một niềm hạnh phúc đến ngỡ ngàng khi thưởng thức. Đó cũng là cội nguồn cảm hứng sáng tạo của Phùng: khi phát hiện được khoảnh khắc “trời cho” ấy, Phùng đã bấm máy liên tục đến gần hết cuộn phim. Đó cũng là cơ sở cho những suy tưởng của anh: cái đẹp không chỉ thỏa mãn nhu cầu thưởng thức, kích thích sáng tạo mà còn có khả năng thanh lọc để đem lại giây phút trong ngần của con người.

Sự việc xảy ra trên bãi cát: ngay chính nơi Phùng vừa ngắm cảm thiên nhiên và thực hiện niêm hứng thú sáng tạo đã diễn ra một sự việc bất ngờ – một lão đàn ông thô kệch, xấu xí đang đánh đập, chửi rủa một người phụ nữ mà người phụ nữ ấy lại chính là vợ ông ta. Sự việc này khiến Phùng cảm thấy bất ngờ không chỉ bởi anh vừa trải qua giây phút thăng hoa trong niềm say mê sáng tạo mà còn bởi đây là điều phi lý, bất công mà anh không thể ngờ rằng vẫn còn tồn tại trong cuộc sống hiện thời – đó là tình trạng bạo lực trong gia đình.

Phùng đã từng trải qua chiến tranh, đã cầm súng để bảo vệ hoà bình và hạnh phúc cho con người nên anh không thể chấp nhận nổi cách hành xử tàn nhẫn, độc ác của lão đàn ông kia. Đó chính là lý do khiến Phùng không chỉ kinh ngạc, phẫn nộ mà con có những hành động bột phát: anh quăng chiếc máy ảnh, phương tiện tác nghiệp của người phóng viên – nghệ sĩ để xông vào đánh người đàn ông kia như một cách để bênh vực người đàn bà bất hạnh, yếu đuối.

Phản ứng trong cả tình cảm và hành động của Phùng khi ấy cho thấy anh không chỉ là một người nghệ sĩ có niềm say mê với cái đẹp mà còn là con người có tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm. Cũng chính tấm lòng và trách nhiệm ấy đã khiến anh dù hoàn thành nhiệm vụ của một phóng viên vẫn quyết định ở lại vùng biển thêm mấy ngày để cùng Đẩu giải quyết sự việc.

Câu chuyện ở tòa án huyện cả Phùng và Đẩu đã phải đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác về người đàn bà – nạn nhân của tình trạng bạo lực gia đình kia. Mang tâm lí của một người tự coi mình là ân nhân, xuất hiện để giúp đỡ, che chở và bênh vực cho người đàn bà bất hạnh để giúp chị ta thoát khỏi những bi kịch trong cuộc sống của mình, Phùng và Đẩu đã vô cùng bất ngờ khi người đàn bà ấy không nghe theo lời khuyên, từ chối sự giúp đỡ và một mực van xin để không phải bỏ chồng. Sự việc này bất ngờ đến mức Phùng vừa kinh ngạc, vừa khó hiểu, vừa bị sốc tới mức căn phòng đang lộng gió biển mà anh có cảm giác như bị rút hết không khí để trở nên ngột ngạt.

Phùng và Đẩu còn bất ngờ hơn khi nghe lời giải thích, thanh minh của người đàn bà: người phụ nữ nhẫn nhục, cam chịu vừa mới trước đó thôi còn nhún mình thái quá trong cách xưng hô “con – quý toà” thì bỗng dưng sắc sảo, đến bất ngờ trong sự thay đổi cách xưng hô mang đầy vẻ bề trên “chị – các chú”. Cách xưng hô này của chị ta khiến Phùng và Đẩu không tránh khỏi cảm giác khó chịu vì dù sao Đẩu cũng là một chánh án toà án huyện còn Phùng là chứng nhân, vừa là ân nhân khi che chở cho người phụ nữ kia.

Nhưng cảm giác sâu sắc nhất, mãnh liệt nhất mà Phùng cảm nhận được từ câu chuyện này lại có được chính từ phát hiện mới của anh về con người của người phụ nữ ấy – đó là những phẩm chất đích thực ẩn giấu sau bề ngoài nhẫn nhục, cam chịu và có phần u mê. Hoá ra, người phụ nữ ấy hoàn toàn không giống với những gì Phùng và Đẩu thấy: đằng sau vẻ cam chịu nhẫn nhục là sự hiểu biết, lòng vị tha, tình yêu thương sâu sắc – những phẩm chất chỉ có được ở một người có nhiều trải nghiệm cuộc đời và hiểu được ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Chị nhẫn nhục là vì thương con, chị cam chịu vì lòng độ lượng, vị tha, vì thấu hiểu nguyên cớ dẫn đến những hành động độc ác vũ phu của người chồng và trên hết vì chị có một đức hi sinh vô bờ bến.

Tất cả nhưng điều này khiến cả Phùng và Đẩu không thể tiếp tục nhìn chị ta bằng cái nhìn thương hại. Cả một tập thể nghệ sĩ say mê, tâm huyết, lăn lộn hàng tháng trời để khám phá, sáng tạo và đã tạo nên vô số những tác phẩm có giá trị nhưng khi vị trưởng phòng lựa chọn để làm một bộ lịch ảnh nghệ thuật về thuyền và biển thì vẫn thấy những tác phẩm đã có trong tay không đủ để tạo nên một bộ ảnh thật hoàn chỉnh. Vì thế mới có chuyến đi của Phùng về vùng biển để chụp một cảnh biển buổi sáng có sương mù.

Như vậy có thể thấy, cho dù người nghệ sĩ có cố gắng nỗ lực bao nhiêu, có say mê tâm huyết bao nhiêu trong khám phá và sáng tạo thì tất cả những cố gắng, nỗ lực, say mê tâm huyết ấy vẫn chưa thể đủ để đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống. Trong bức ảnh mà Phùng mang về, nền ảnh chỉ là đen trắng với những đường nét như trong một bức cổ họa bằng mực tàu thì vì đã có những trải nghiệm trong thực tế nên Phùng luôn nhìn thấy trong những bức ảnh đen trắng màu hồng hồng của sương mai.

Và tuy bức ảnh chỉ có ảnh, không có con người song khi nhìn kỹ, Phùng vẫn thấy bóng dáng cao lớn của người đàn bà bước ra từ con thuyền và đi lẫn vào đám đông. Từ nghịch lý này, có thể thấy, chỉ khi có trải nghiệm và sự gắn bó với cuộc đời, người nghệ sĩ mới có thể phát hiện những điều mà bằng con mắt thường người ta không thể nhận ra. Và cũng chỉ có sự gắn bó bằng tâm thế của người trong cuộc mới giúp cho người nghệ sĩ thấy cuộc đời trong nghệ thuật và kéo gần được khoảng cách giữa nghệ thuật với cuộc đời.

Khát vọng, nhu cầu của con người và thực tế cuộc sống mà con người phải đối mặt: người đàn bà trong câu chuyện chỉ mong có một cuộc sống( bình yên, êm ấm, mong những đứa con của chị được ăn no, muốn được thấy cảnh vợ chồng con cái quây quần bên nhau để có những giờ phút vui vẻ. Thế nhưng, chị lại phải đối mặt với một bi kịch gia đình: luôn bị người chồng đánh đập, hành hạ một cách tàn nhẫn.

Và dù rất thương con, muốn bảo vệ các con, tránh cho chúng khỏi bị tổn thương thì chị vẫn khiến những đứa con đầu lòng, bị tổn thương vì phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ. Tình cảm đạo đức và hành vi trái đạo đức: thằng Phác vì thương mẹ, muôn bênh vực mẹ nhưng do còn non nớt trong nhận thức và bồng bột trong cách ứng xử nên đã có một hành động dại dột là xông vào đánh bố, thậm chí cầm dao định đâm bố.

Nếu hành động này không được ngăn cản sẽ khiếm bi kịch chồng chất nên bi kịch vốn đã rất nặng nề căng thẳng trong cuộc sống của gia đình ấy. Với những hành động này, Phác vốn là đứa con thương mẹ, là chỗ dựa, niềm an ủi cho người mẹ lại trở thành một mũi dao đâm thẳng vào lòng mẹ nó để làm nhỏ xuống những giọt nước mắt. Đòn roi của người chồng khiến chị đau đớn về thân xác, những hành động của đứa con lại khiến chị đau đớn về tinh thần vì nó phá vỡ cái điều mà chị cố gắng gìn giữ trong gia đình: Đó là sự bình yên trong tâm hồn những đứa trẻ.

Tình cảm nhân đạo, ý thức trách nhiệm đã khiến cả Phùng và Đẩu cố gắng can thiệp để giúp đỡ, bênh vực, che chở cho người đàn bà bất hạnh nhưng do giải pháp không phù hợp khiến họ bất lực trong mong muốn giúp đỡ: Vì muốn che chở cho người đàn bà bất hạnh, Phùng đã xông vào đánh lão đàn ông vũ phu còn Đẩu thì khuyên nhủ người đàn bà từ bỏ lão chồng độc ác. Phùng và Đẩu làm việc này bằng lương tâm, lòng nhiệt tình và sự cảm thông thật sự. Nhưng những việc họ làm lại không thực sự giúp ích được cho người phụ nữ kia. Bởi vì họ chỉ nhìn câu chuyện của người đàn bà bằng cái nhìn của người ngoài cuộc nên không thể hiểu thấu nội tình.

Khi ở toà án huyện, người đàn bà đã nói rõ: “Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn nên các chú đâu có hiểu được việc làm ăn của những người lam lũ khó nhọc” “các chú đâu phải là đàn bà, các chú làm sao hiểu được nỗi khổ của người đàn bà trên một con thuyền không có đàn ông”. Sự giúp đỡ của Phùng và Đẩu sở dĩ không có tác dụng bởi họ không giúp được đúng cái mà người phụ nữ ấy cần (được giải thoát khỏi phải tình trạng nghèo khổ, túng quẫn – nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bi kịch của gia đình chị). Giải pháp thực sự thiết thực đối với chị lúc này là giúp chị thoát nghèo – điều đó vượt ra ngoài phạm vi – khả năng và quyền hạn của Phùng và Đẩu.

Chính những điều bất ngờ và nghịch lý mà Phùng chứng kiến đã khiến anh không thể tiếp tục nhìn cuộc sống bằng một cái nhìn giản đơn. Nó buộc anh phải suy nghĩ để nhận thức lại tất cả.

Ở sự việc bất ngờ đầu tiên mà Phùng bắt gặp trong chuyến đi về vùng biển, anh đã nhận ra rằng cuộc sống không chỉ chứa đựng những vẻ đẹp mà còn chứa đựng những sự thật tàn nhẫn, nhưng quan hệ phức tạp. Việc chứng kiến cảnh người chồng đánh vợ trên bãi cát khiến Phùng bừng tỉnh để nhận ra đằng sau vẻ đẹp của một bức tranh mực tàu, đằng sau màu hồng hồng của sương mai ở một không gian ngỡ như bình yên, tĩnh lặng là một cuộc sống dữ dội với tất cả vẻ phi lí, tàn nhẫn của nó.

Tưởng như lúc ấy Phùng đã chạm đến đáy sự thật cuộc đời thì trong cuộc trò chuyện với người đàn bà ở tòa án huyện, Phùng lại nhận ra rằng: Hoá ra cuộc sống không hoàn toàn như những gì ta nhìn thấy bên ngoài. Nếu chỉ nhìn bằng cái nhìn của người ngoài cuộc, ta chỉ thấy những biểu hiện bên ngoài của sự việc mà cái bên ngoài không phải bao giờ cũng thống nhất với cái bên trong. Người đàn bà với tư cách một người trong cuộc đã cho Phùng thêm một góc nhìn khác, cách nhìn khác để hiểu hơn về cuộc sống.

Qua lời nói của người đàn bà, Phùng hiểu được cái nguyên cớ dẫn đến sự tàn nhẫn độc ác của lão đàn ông, nguyên nhân của tấn bi kịch gia đình và điều quan trọng nhất mà Phùng nhận ra chính là bản chất đích thực của người phụ nữ kia. Hoá ra, sự cam chịu nhẫn nhục của chị không phải vì u mê tăm tối mà nó xuất phát từ lòng vị tha. Người đàn bà chấp nhận để chồng đánh vì chị hiểu rằng người đàn ông ấy rất cần được giải toả sau những nhọc nhằn cơ cực trong cuộc sống hàng ngày. Chị không bỏ chồng vì hiểu rằng trên con thuyền đi biển rất cần có người đàn ông chèo chống vì biển không phải lúc nào cũng gió lặng sóng êm mà còn có cả phong ba, bão tố.

Chị xin chồng đưa mình lên bờ để đánh là vì muốn tránh cho các con khỏi nỗi đau lòng… Cứ thế, cuộc trò chuyện với người đàn bà ấy không chỉ cho Phùng nhận ra một con người khác ở người phụ nữ này mà còn khiến anh có được một bài học về cách nhìn con người, cách nhìn sự việc: chỉ có thể nhìn nhận một cách thấu đáo về con người cũng như về cuộc sống khi tự biến mình thành người trong cuộc, khi nhìn nhận không chỉ nên dùng lý trí để xét đoán mà còn phải dùng tấm lòng vị tha để mà cảm thông. Điều này ngỡ không mới song lại rất quan trọng, nhất là khi cuộc sống hiện tại luôn chứa đựng cả những mâu thuẫn phức tạp, những điều khó hiểu, khó giải thích bằng những cách nhìn nhận đánh giá thông thường.

Qua tình huống truyện, Nguyễn Minh Châu giúp ta nhận ra cái phức tạp ở đời sống con người với những hiện tượng không dễ để đánh giá, những mối quan hệ không dễ để cắt nghĩa, lí giải. Đối mặt với cuộc sống như thế, người nghệ sĩ phải có một cái nhìn vừa tỉnh táo, vừa thấu suốt nhân tình bởi chỉ có cái nhìn như thế mới có thể phát hiện ra những khiếm khuyết, những điều tệ hại cần loại bỏ trong con người và cả những vẻ đẹp ẩn chứa trong vẻ ngoài thô kệch. Những phát hiện về vẻ đẹp của con người trong tác phẩm đã đem lại cho người đọc một cảm giác ấm áp, một niềm tin vào con người sau những đắng chát và gai góc của cuộc sống.

Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu đã lựa chọn người kể chuyện trong truyện ngắn này là một người nghệ sĩ bởi chính sự mẫn cảm, cái nhìn sâu sắc mang tính phát hiện và ý thức trách nhiệm với cuộc đời của nghệ sĩ Phùng đã giúp Nguyễn Minh Châu gửi gắm một quan niệm, một yêu cầu đối với nghệ thuật: Nghệ thuật cần hướng tới cái đẹp song nghệ thuật không thể chỉ là chiếc thuyền ngoài xa. Nghệ thuật chỉ có ý nghĩa khi bắt nguồn từ cuộc sống, là tiếng nói của đời sống để trở thành một phần của cuộc sống này.

Số 12: Phân tích hình ảnh người đàn bà hàng chài

Trong cuộc sống phức tạp này, sự thật đội khi không phải là điều ngay trước mắt mà sự thật là cái ẩn giấu bên trọng. Vì vậy muốn nhìn nhận đúng về cuộc sống về con người, chúng ta phải nhìn vào cái bên trong, bản chất thật, nhìn cuộc sống một cách đa diện. Giống như nhân vật người đàn bà làng chài của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn chiếc thuyền ngoài xa. Mang vẻ bề ngoài xấu xí, nhưng phẩm chất bên trong lại vô cùng tốt đẹp.

Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu được viết vào năm 1983 và đến 1985 trong tập ” Bến Quê” tác phẩm là sản phẩm con người đời thương. Truyện kể về việc nghệ sĩ nhiếp ảnh phùng đi tới vùng biên này mong tìm được một bức ảnh cho bộ lịch. Sau gần một tuần tìm kiếm, cuối cùng anh cũng tìm thấy một cảnh đắt trời cho ” Trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ”. Nhưng vừa như phát hiện một chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy khoản khắc trong ngần của tâm hồn thì bất ngờ anh phát hiện ra cảnh bao lực gia đình. Với sự xuất hiện người đàn bà làng chài gây ấn tượng lớn cho người độc và người nghe.

Người đàn bà làng chài, không được gọi tên. Chỉ được gọi bằng những đại từ “Người đàn bà, bà…” Người đàn bà chạc 40 tuổi, mang thân hình quen thuộc của người vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ. Người đàn bà có ngoại hình thật xấu xí và phi thẩm mĩ. Trước kia, người đàn bà này sống ở phố. Con một gia đình khá, nhưng không ai lấy vì xấu. Chị đã có mang với anh làng chài và đã có cuộc sống hôn nhân với anh. Người khác nhìn vào cho rằng đây là địa ngục vì ba ngày chị bị một trận nhỏ, năm ngày chị bị một trận lớn.

Đúng vậy cuộc sống của chị thật đáng thương và khổ cực. Chị khổ cả về thể xác và tinh thần, giống bao gia đình làng chài khác, gia đình chị đông con. Nhà thì nghèo khó. Thuyền thì bé, có những lần da đình chị phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Một cuộc sống không thể nào khổ hơn. Người ta nhiều khi khổ về vật chất, nhưng tinh thần đầy đủ cũng là hạnh phúc “một túp lều tranh hai trai tim vàng”. Nhưng chị đâu được thế cuộc sống tinh thần của chị còn khổ hơn. Người đàn ông xấu xí- chồng chị, một phần vì cuốc sống làm cho tính cách hắn hung bạ.

Hắn dùng cách giải thoát sự bức xúc bằng cách đánh đập chị, chửa rửa chị và các con chị “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ” Bị những trận đòn roi những cái quất mạnh của chông tàn bạo, nhưng chị vẫn “Với vẻ mặt cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không tìm cách chống trả, không tìm cách chạy trốn. Trận đòn roi chỉ dừng lại khi thằng phác lao tới cứu mẹ và đánh lại bố” Cả hai mẹ con chỉ biết khóc. Người đàn bà kể trước kia khi con còn nhỏ, hắn đánh chị trên thuyền. Sau khi con lớn, chị xin hắn đưa lên bờ rồi đánh. Chúng ta thấy rằng cuộc sống của chị thật khó khăn, chị chỉ biết cam chịu và đôi khi chính là sự ngu dốt.

Nhưng thực chất bên trong còn nhiều điều mà mọi người chưa rõ. Khi chánh án đầu gợi ý li hôn, chị nhất định không chịu, van nài xin không li hôn, nhận hết trách nhiệm , tội nỗi lên đầu mình. Vì sao ư? Vì chị là một người am hiểu lẽ đời, cho dù thất học. Chị hiểu rằng tên con thuyền này cần một người đàn ông chèo chống vượt qua. Phong ba và nuôi cho sấp con của chị cũng rất cảm thông cho chồng chị, xưa là một con người cực tình nhưng không bao giờ đánh vợ. Nhưng cũng vì cuộc sống khó khăn, làm cho người đàn ông đâm ra đánh vợ con , chị nhẫn nhục cam chịu, nhận hết trách nhiệm về bản thân mình. Nhận vì mình đẻ nhiều con mà cuộc sống khổ cực. Ngoài cam chịu, chấp nhận hi sinh, cuộc sống của chị còn có niềm vui đó là khi các con chị được ăn no, mặc ấm.

Người mẹ nào cũng vậy, thấy các con mình hạnh phúc, thì bản thân hạnh phúc gấp một trăm lần rồi. Và đôi khi gia đình chị cũng hòa thuận, đầm ấm, vui vẻ chị còn có lòng tự trọng cao. Chị biết xấu hổ khi có người khác biết truyện mình bị đánh, đặc biệt là thằng phác. Người chị yêu thương nhất ” Cái thằng con từ tính khí đến mặt mũi giống như lột từ cái lão đàn ông đã hành hạ mụ” Chị đã khóc khi phùng nhắc tới thằng phát. Chị thương con vô cùng, Chị cũng đem đến cho đẩu và phùng những bài học quý giá.

Nguyễn Minh Châu đã thành công trong việc xử dụng nghệ thuật đối lập. Một bên là người đàn bà xấu xí, phi thẩm mĩ, một bên là vẻ đáng thương, phẩm chất bên trong của con người đáng trân trọng. Người đàn bà trong truyện là người có cốt cách bên trong, biết nhìn xa, thương đàn con nhỏ, giàu đức hi sinh, lòng vị tha, thương chông, thương con am hiểu lẽ đời, sẵn sàng hi sinh bản thân về hạnh phúc, no ấm cho chồng, cho con. Đây chính là những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.

Qua hình ảnh người đàn bà trong truyện chúng ta thấy người phụ nữ Việt Nam vẫn giữ được những nhét đẹp truyền thống của người phụ nữ Á Đông. Dù vẻ ngoài không đẹp nhưng bên trong luôn có phẩm chất cao quý. Luôn nghĩ tới gia đình, hạnh phúc nhỏ của mình, sẵn sàng hi sinh mọi thứ để giữ gìn, chăm sóc gia đình, hạnh phúc đó chính là con cái của mẹ. Người phụ nữ mang một lòng vị tha cao cả, Những khác biệt của người phụ nữ làng chìa, phụ nữ ngày nay năng động hơn, làm chủ cuộc sống hơn, làm chủ được kinh tế.

Họ không còn phải nhẫn nhục chịu trận đòn roi của chồng. Họ yêu thương chồng con, họ cần một người đàn ông chèo kéo mái ấm gia đình, là người yêu thương gia đình, yêu thương vợ con. Nhưng nếu là người đàn ông vũ phu đánh đạp vợ con, họ sẵn sàng báo cơ quan chức năng để bảo vệ quyền lợi hạnh phúc của gia đình mình. Bên cạnh đó vẫn còn những người phụ nữ nhu mì, hèn nhắc, nhẫn nhục sẵn sàng chịu đựng đòn roi của chồng. Cố bấu víu lấy cái hạnh phúc chỉ có trong ảo tưởng, sống không có lập trường. Họ cần phải thay đổi cách sống, cách suy nghĩ tới giải pháp cuối cùng để giải thoát tìm hạnh phúc , cho mình cơ hội để đến với hạnh phúc đích thực.

Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã cho ta thấy sự đối lập, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ. Chúng ta cần phải nhìn cuộc sống và tâm hồn đa diện, phải tìm kiếm, khám phá cái bản chất bên trong, từ vẻ bề ngoài của người đàn bà trong truyện yêu thương chồng con hi sinh cao cả.

Bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
Bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Số 13: Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài

Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu, được mệnh danh “nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc). “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu thể hiện quan điểm sáng tác cùng hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của tác giả. Thông qua việc xây dựng hình tượng người đàn bà hàng chài, nhà văn đã thể hiện cái nhìn hiện thực đa chiều về đời sống con người ở phương diện bề nổi và những vẻ đẹp khuất lấp trong bề sâu của nhân vật.

Nhân vật người đàn bà hàng chài không có tên gọi cụ thể. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã không đặt tên cho nhân vật người đàn bà mà chỉ gọi phiếm chỉ bằng các đại từ: mụ, chị ta, người đàn bà. Điều này không hề khiến cho nhân vật dễ dàng bị lãng quên, mà ngược lại, cách gọi đó đã đem đến một ý nghĩa khái quát về những người có cuộc đời, số phận và phẩm chất tương tự và tạo ra kiểu “nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình”. Dưới ngòi bút của nhà văn, nhân vật hiện lên với những nét vẽ về ngoại hình: từ nhỏ đã là một người con gái xấu xí như nét vẽ vội của tạo hóa.

Theo dòng chảy của cuộc đời, vẻ ngoài của người phụ nữ vẫn gắn liền với sự thô mộc: trạc ngoài 40, cao lớn với những đường nét thô kệch. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tập trung đặc tả một số chi tiết thể hiện điều này: khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá mang nét đặc trưng của một người đàn bà miền biển lam lũ. Như vậy, từ tên gọi đến ngoại hình của nhân vật đều gợi ra sự thua thiệt về nhan sắc, hé mở một số phận lam lũ, vất vả, cơ cực.

Qua những trang văn của Nguyễn Minh Châu, số phận người đàn bà hiện lên gắn liền với sự nghèo khổ về vật chất. Chị và gia đình sinh sống trên thuyền và không gian chật chội. Người đàn bà ấy đã từng tâm sự giá như “sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”. Vào những ngày biển động suốt tháng, toàn phải ăn cây xương rồng luộc chấm muối. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đó, người đàn bà còn phải gánh chịu những bi kịch về thể xác và tinh thần. Chị thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ “ba ngày một trận nhẹ, năm  ngày một trận nặng” một cách tàn nhẫn, bị chính người chồng nguyền rủa: “Mày chết đi cho ông nhờ”. Như vậy, cuộc đời của người đàn bà hiện lên với sự lam lũ, thiếu thốn, nghèo khó và bất hạnh.

Tuy nhiên, vẻ đẹp của con người không chỉ được phát hiện, cảm nhận thông qua thị giác mà đôi khi lại đòi hỏi người ta phải lắng lại và cảm nhận bằng trái tim. Cũng giống như người đàn bà hàng chài, bên trong ngoại hình không mấy đẹp đẽ của con người lại ngời sáng những vẻ đẹp đáng trân trọng, giống như nội dung quen thuộc trong câu ca dao: “Thân em như củ ấu gai/ Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen”. Dưới ngòi bút cảm thông đầy tính khám phá về con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu, bên ngoài chiếc vỏ bọc xấu xí của ngoại hình, người đàn bà hàng chài đã hiện lên với vẻ đẹp khuất lấp trong tâm hồn.

Trước hết, người đàn bà hàng chài là người mẹ yêu thương con, luôn nhẫn nhục, chịu đựng đòn roi của chồng để các con có một mái nhà có cha, có mẹ. Dù sống trong cảnh “Ba ngày một trận  nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng chị vẫn van xin Phùng và Đẩu: “Đừng bắt tôi bỏ nó”. Hơn ai hết, người phụ nữ lam lũ, khổ cực ấy hiểu rằng trên thuyền, cần một người đàn ông chèo lái.

Trước những trận đòi roi tàn nhẫn của người chồng: “lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn: “Mày chết hết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”, người phụ nữ vẫn kiên cường chịu đựng mà không hề phản kháng. Chính sức mạnh của tình yêu thương dành cho các con đã giúp người đàn bà nhẫn nhục, cam chịu. Chị còn luôn cố gắng để con tránh được những tổn thương về tinh thần khi xin được lên bờ chịu đòn và gửi thằng Phát – đứa con nóng tính nhất sống với ông ngoại.

Người đàn bà ấy luôn đau đớn, dằn vặt vì không thể che chở cho tâm hồn ngây thơ của con, xót đau khi chứng kiến đứa con vì bảo vệ mẹ mà phạm phải lỗi đạo với cha. Khi chứng kiến cảnh Phác giằng lấy chiếc thắt lưng của người chồng và đánh trả, người đàn bà “dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”, “Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xẹp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”.

Nguyễn Minh Châu đã đặc tả những chi tiết, hành động cụ thể để làm nổi bật lên nỗi đau của người phụ nữ khi không thể bảo vệ tâm hồn của những đứa con: “Người đàn bà hàng chài chúng tôi sống cho con chứ không sống cho mình”. Như vậy, nhà văn đã tái hiện thành công hình tượng một người phụ nữ giàu đức hi sinh, ý thức rất rõ về thiên chức làm mẹ cao cả, vĩ đại và luôn nhẫn nhịn, chịu đựng vì tương lai của những đứa con.

Không chỉ là người mẹ yêu thương con, người đàn bà hàng chài là người vợ yêu thương chồng, thấu hiểu chồng và giàu lòng vị tha. Trong lời bộc bạch của chị với nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu, chúng ta có thể thấy được chị luôn mang ơn chồng: “Từ nhỏ là đứa con xấu, rỗ mặt, không ai lấy”, vì thế cuộc hôn nhân với người chồng đã đem đến cho chị niềm hạnh phúc được làm vợ, làm mẹ.

Dù bị đánh đập nhưng chị vẫn yêu thương chồng. Điều này không được tác giả Nguyễn Minh Châu bộc lộ trực tiếp nhưng được thể hiện gián tiếp qua chi tiết: đứa con mà chị yêu thương nhất là thằng Phát – “cái thằng từ tính khí đến mặt mũi giống như lột ra từ cái lão đàn ông đã hành hạ mụ”. Trong hồi ức về thời trẻ, chị hiểu chồng mình là người “cục tính nhưng hiền lành lắm”; còn ở thời điểm hiện tại, chị thấu hiểu cho những vất vả, lo toan, gánh nặng trên đôi vai người chồng.  Đó là sự cảm thông với chồng vì hoàn cảnh mà tha hóa: vì nghèo khổ, túng quẫn…, lúc nào thấy khổ  quá là lão xách tôi ra đánh. Người phụ nữ đó còn giàu lòng vị tha và sự bao dung.

Trước những trận đòn roi của chồng, chị tự nhận lỗi về mình: Đám đàn bà đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật; “Giá đẻ ít đi”, biện minh cho hành động hung hăng của chồng bằng cách chỉ ra lỗi thuộc về sự nghèo đói, lạc lậu. Hơn ai hết, chị hiểu rõ người chồng cũng là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ. Đồng thời, người phụ nữ đó luôn chắt chiu, trân trọng những khoảnh khắc vợ chồng, con cái sống hòa thuận, vui vẻ.

Bằng tài năng trong việc xây dựng hình tượng nhân vật, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tái hiện thành công cuộc sống khốn khó nhưng ngời sáng những vẻ đẹp khuất lấp trong phẩm chất, tâm hồn của người đàn bà hàng chài. Người phụ nữ vị tha, giàu lòng nhân hậu đó chính là hiện diện của cuộc sống khuất chìm sau vẻ đẹp của nghệ thuật, là sự lí giải hiện thực đầy nghịch lí mà Phùng và Đẩu không thể hiểu được.

Số 14: Phân tích vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài

Người nghệ sĩ vốn là người suốt đời đi tìm cái đẹp, cái toàn mỹ toàn thiện. Thế nhưng không phải vẻ đẹp nào cũng đơn giản mà có thể nó còn ẩn giấu những sự thật không hoàn mĩ bên trong.

Câu chuyện về người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về bản chất của cuộc sống, nhìn sâu vào mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Một bức tranh thuyền và biển “toàn bích” nhưng lại ẩn chứa trong đó là số phận đau khổ của người lao động nghèo mà điển hình là người đàn bà hàng chài. Từ đó, ta có thể thấy được những giá trị nhân đạo sâu sắc mà tác giả gửi gắm.

Chiếc thuyền ngoài xa là câu chuyện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trong chuyến công tác đi tìm một bức ảnh cho bìa cuốn lịch mới. Trong chuyến đi đó, anh đã chọn nơi chiến trường cũ của mình để tìm nguồn cảm hứng và quả thực, anh đã có được một bức ảnh để đời, một bức ảnh với vẻ đẹp “đơn giản và toàn bích”.

Thế nhưng, khi anh vốn tưởng rằng mình đã “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện” thì một cảnh bạo lực gia đình, chồng đánh đập vợ một cách dã man đã diễn ra ngay trước mắt anh, mà đôi vợ chồng đó lại chính là những người bước ra từ con thuyền đẹp đẽ vừa nãy. Phùng đã vô cùng ngạc nhiên khi người vợ, người đàn bà hàng chài ấy không chút phản kháng, mụ để mặc cho người chồng đánh mình trong sự giận dữ tột độ.

Có lẽ lúc đó, Phùng cũng tự hỏi như chúng ta, người đàn bà hàng chài đó là người như thế nào? Tại sao lại cam chịu trận đòn roi một cách nhẫn nhịn như thế?

Người đàn bà xuất hiện trong tác phẩm qua lời giới thiệu của Phùng. Đọc đến hết câu chuyện, người ta vẫn không hề biết tên người đàn bà ấy. Nếu như những nhân vật khác, họ đều có một cái tên rõ ràng để xưng hô, để gọi như Đẩu, như thằng Phác,… thì người đàn bà này lại chỉ được gọi bằng một cái tên phiếm chỉ “người đàn bà hàng chài” hay “mụ”.

Kể cả khi mụ ta đến toà án huyện, gặp Đẩu, ta cũng không biết tên mụ là gì. Bởi phải chăng mụ là đại diện, là hiện thân cho hàng trăm hàng ngàn những số phận người đàn bà ở những vùng biển khác nhau, cũng cơ cực như thế, cũng vô danh, cũng phải sống trong khắc nghiệt và thống khổ như thế?

Người đàn bà ấy qua lời kể của Phùng vô cùng ấn tượng, không phải bởi vẻ đẹp mà bởi vì xấu xí, thô kệch, không hề ưa nhìn. Đó là người đàn bà “xấu, rỗ mặt” lại mang “thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch”. Không chỉ thế, ở mụ, người ta thấy toát lên một sự lam lũ, một dáng vẻ kham khổ của một người phụ nữ nhà quê “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ” và “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới”.

Sự khốn khó ấy còn thể hiện khi mụ đến toà án huyện với sự “lúng túng và sợ sệt”, “tìm đến một góc tường để ngồi”, dáng vẻ ấy là dáng vẻ của một người mang đầy những mặc cảm, tự ti. Thậm chí khi Đẩu mời mụ ngồi vào ghế, mụ cũng “rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại”. Dáng vẻ của mụ thật khiến người ta phải tội nghiệp, thương cảm làm sao! Tạo hoá dường như đã trút hết những bất hạnh của cuộc đời lên con người mụ, từ ngoại hình xấu xí, đến sự nghèo khổ, đến số phận đau đớn.

Đọc từng câu chữ, người ta thấy ở đó là niềm thương cảm sâu sắc mà Nguyền Minh Châu muốn gửi gắm. Ông cảm thông, thấu hiểu, thương xót cho những số phận bất hạnh của người đàn bà ấy. Thế nhưng, không chỉ dừng lại ở sự thương cảm ngoại hình, ông còn đi sâu khám phá thêm về cuộc sống, số phận của người đàn bà ấy, để thương cảm hơn cho số phận con người. Và quả thật, số phận, cuộc đời của người đàn bà ấy tràn đầy những đau khổ và bất hạnh vô cùng!

Người đàn bà hàng chài vốn được sinh ra trong một gia đình khá giả, thế nhưng vì “một bận lên đậu mùa” mà mụ bị “rỗ mặt”. Vừa xấu lại vừa rỗ mặt khiến mụ bị xa lánh, “không ai trong phố lấy” để rồi mụ “có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá”. Tạo hoá đã đưa đẩy cuộc đời mụ từ những bất hạnh này sang bất hạnh khác, thế nhưng, bất hạnh thực sự bắt đầu từ khi mụ lấy chồng!

Cuộc sống của một người đàn bà chài lưới, quanh năm suốt tháng ở trên biển thế nhưng lại chưa từng một ngày no đủ. Quanh năm, mụ chỉ lo từng bữa cho đám con nheo nhóc. Lam lũ, khổ cực là thế, nhưng cái đói, cái nghèo đeo bám mụ từng ngày khiến mụ không dám rời xa cái thuyền kia để “lên bờ” sống, bởi “không bỏ nghề được”, bỏ nghề thì sẽ không có ăn.

Cuộc sống lênh đênh trên biển đã khiến cuộc sống của gia đình mụ bấp bênh đến độ, có khi “ông trời làm động biển suốt háng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Có còn cái đói, cái nghèo nào đến mức đó hay chăng, khi mà chiến tranh đã qua đi, và dù rằng, người đàn bà đó phải thức trắng hàng đêm, phải làm lụng vất vả mỗi ngày?

Đói nghèo đã khổ, cơ cực đủ điều, thế nhưng cái mệt thể xác chẳng thể nào đau đớn bằng những trận đòn roi tàn bạo từ người chồng. Dường như mụ ngày nào cũng phải chịu nỗi hành hạ tinh thần đau đớn đó “ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ”, thế nhưng lại chẳng thể phản kháng, đổi lại chỉ có sự cam chịu đến tận cùng.

Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự thương xót vô cùng với số phận của người đàn bà hàng chài. Sự nghèo túng, gánh nặng về cơm áo đã khiến cho mụ rơi vào cái vòng tròn của sự bất hạnh. Từ hình ảnh của người đàn bà ấy, tác giả còn muốn nói với người đọc những trăn trở của mình về cuộc chiến đấu chống lại cái đói, cái nghèo. Cũng giống như giặc ngoại xâm, “giặc đói, giặc dốt” cũng là một cuộc chiến mà chúng ta cần chúng ta đánh đuổi. Bởi còn đói còn nghèo thì cái xấu cái ác vẫn sẽ còn tiếp diễn.

Qua từng trang văn học của Việt Nam, người ta vẫn luôn thấy ánh lên ở mỗi người phụ nữ vẻ đẹp tâm hồn cao cả và ở người phụ nữ hàng chài này, Nguyễn Minh Châu đã làm cho vẻ đẹp tâm hồn ấy thăng hoa tuyệt vời, hoàn toàn đối lập với vẻ ngoài rách rưới, khổ sở của mụ. Có thể nói, vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà ấy thể hiện trong mọi khía cạnh, trong mọi mặt mà đầu tiên là vẻ đẹp của một người phụ nữ đã từng trải, sâu sắc, thấu hiểu và bao dung vô cùng.

Nếu như Phùng và Đẩu bất bình trước sự độc ác của người chồng thì những lời lẽ của người đàn bà hàng chài đã khiến những người từng “vào sinh ra tử”, những trí thức như họ biến thành những người đàn ông thật nông nổi, hời hợt vô cùng.

Mụ đã kể cho Phùng, cho Đẩu nghe về cuộc đời mình, cho họ biết lý do tại sao mụ lại cam chịu sự vũ phu của người chồng. Bởi mụ hiểu tất cả đều do hoàn cảnh ép buộc, xô đẩy cuộc đời họ đến bước đường hôm nay.

Nếu ngày xưa, chồng chị là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi” nhưng do cuộc sống, cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo, đông con “giá như tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”, đã đẩy hắn trở nên tha hoá, trở thành một kẻ vũ phu, tàn nhẫn. Chắc hẳn, người đàn bà ấy phải là người thấu đáo, suy xét cẩn thận mới có thể hiểu được lẽ đời biến chuyển như thế!

Và người đàn bà cũng chỉ rõ cho Đẩu và Phùng thấy sự thiếu thực tế của họ rằng làm nghề chài lưới, cần người đàn ông “để chèo chống khi phong ba, để làm ăn nuôi nấng một đặng sắp con”, “là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Người đàn bà ấy đã chỉ ra cái khó khăn, cơ cực của người phụ nữ khi mưu sinh trên biển, khi mà những hiểm hoạ luôn bất chợt và tiềm ẩn.

Mụ cũng biết rằng “từ ngày cách mạng về đỡ đói khố” thế nhưng những bất cập mà chính quyền chưa giải quyết được, đó là cấp đất cho dân chài nhưng “chẳng ai ở vì không bỏ nghề được”. Đến lúc đó, Đẩu và Phùng mới dường như chợt “vỡ ra” nhiều điều, giải pháp, sự thiện chí của họ vô cùng phi thực tế, và họ có lẽ cũng cảm phục người đàn bà nhà quê kia nhưng lại thấu hiểu cuộc đời, thấu hiểu con người đến nhường ấy!

Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài không chỉ thể hiện ở sự hiểu thấu cuộc đời mà còn ở tấm lòng nhân hậu, sự bao dung và tình mẫu tử sâu sắc.

Người đàn bà ấy hàng ngày phải chịu những trận đòn roi độc ác “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” của người chồng không phải vì ngu muội, không dám phản kháng, cũng không phải mụ đã gây nên tội tình gì mà là vì mụ muốn để người chồng được giải toả tất cả những u uất, những dồn nén chất chứa trong lòng.

Mụ hi sinh thân mình để ngày mai, vợ chồng mụ lại trở lại con thuyền, lại bắt đầu cuộc sống mưu sinh vốn đầy những cơ cực. Cách xử sự của người đàn bà ấy khiến cho người đọc chúng ta không chỉ thương xót mà còn vô cùng cảm phục nữa. Bởi đó là cách xử sự của một những hiểu rõ bổn phận và trách nhiệm của mình và cố gắng thực hiện nó dù nó phi lý và đau đớn vô cùng.

Nếu như Đẩu và Phùng vô cùng bất bình với những trận đòn man rợ của người đàn ông dành cho vợ “cả nước không có một người chồng nào như hắn” thì người đàn bà hàng chài lại luôn không hề trách cứ người chồng của mình. Mụ nhận hết mọi lỗi lầm về bản thân “giá như tôi đẻ ít đi”, “cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá”, “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”.

Dường như tất cả mọi tội lỗi đều thuộc về người đàn bà, mọi khó khăn đều bắt nguồn từ chính mụ, thế nên, mụ chưa từng một lời than trách người chồng và luôn miệng xin rằng “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Đọc đến đây, chúng ta không khỏi xúc động, cảm phục tấm lòng vị tha, nhân hậu của người đàn bà hàng chài xấu xí ấy. Ẩn chứa trong một vẻ ngoài xấu xí, lại là một nhân cách cao cả vô cùng!

Tình mẫu tử vốn là thiên tính của người phụ nữ, và người đàn bà này cũng vậy, mụ yêu thương con mình vô cùng. Sự yêu thương ấy là lý do để mụ cam chịu những trận đòn roi man rợ bởi mụ muốn có người đàn ông để cùng mình “nuôi đặng một sắp con”. Và cũng vì thương con, sợ con chịu tổn thương tinh thần vì cảnh bạo lực gia đình nên mụ đã xin chồng đưa mình lên bờ để đánh “sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được lão đưa tôi lên bờ mà đánh”.

Còn người phụ nữ nào có tình mẫu tử hơn thế, nhận hết mọi đau thương về mình “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở đất được”, chỉ mong đàn con được ăn no mà khôn lớn. Và cũng vì sợ thằng con làm gì dại dột với bố mà chị đã cắn răng gửi nó lên bờ cho ông ngoại nuôi nấng dù đó là đứa con chị yêu thương nhất cuộc đời mình. Tình thương con của người mẹ ấy chưa từng một lần được thể hiện trực tiếp nhưng lại diễn ra trong âm thầm.

Khi đứa con chứng kiến cái cảnh tàn bạo ấy, người đàn bà đã đau đớn và xấu hổ đến chừng nào, “người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa xấu hổ, nhục nhã”. Mụ ôm con trong nước mặt “mếu máo, ôm chầm” lấy nó rồi “vái lấy vái để”. Cuộc đời của mụ có lẽ chỉ sống vì những đứa con, mụ chỉ đau đớn khi làm tổn thương con cái chứ chưa từng thấy đau đớn cho bản thân mình.

Chính chúng ta cũng phải tự hỏi, cuộc sống như người đàn bà ấy, liệu có khi nào được hạnh phúc hay chưa? Câu trả là lời có! Và có lẽ khoảnh khắc mà mụ hạnh phúc nhất đời là khi “ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no” và gia đình được hoà thuận. Đó là khoảnh khắc mà gương mặt xấu xí của mụ “lần đầu tiên, chợt ửng sáng lên như một nụ cười”.

Tất cả đó là vẻ đẹp, là sự thiêng liêng của tình mẫu từ, yêu thương con, sống vì con. Người đàn bà ấy cũng như vô vàn những người phụ nữ trên đất nước Việt Nam, bao dung, nhân hậu, vị tha, luôn kiên cường chịu đựng, hi sinh vì con cái.

Hình ảnh về người đàn bà đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong lòng nghệ sĩ Phùng và cả trong lòng người đọc chúng ta. Những nét khắc họa từ ngoại hình đến hành động, lời nói,… đã khiến người đàn bà hàng chài ấy trở thành biểu tượng cho những người phụ nữ miền biển đáng thương.

Và hình tượng người đàn bà ấy đã giúp Nguyễn Minh Châu thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của mình. Đó là sự thương cảm, thấu hiếu dành cho những số phận bất hạnh bị nghèo đói, bạo lực bủa vây, nhưng ở họ, vẫn sáng ngời những phẩm chất tốt đẹp, nhận hậu, vị tha.

Số 15: Cảm nhận về người đàn bà hàng chài

Chiếc thuyền ngoài xa đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Người phụ nữ bất hạnh ấy đã để lại cho người đọc một niềm cảm thông và trân trọng sâu sắc bởi những phẩm chất đáng quý của bà.

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.

Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Phùng bên cạnh nhân vật người đàn bà hàng chài để làm nổi bật lên phẩm chất đáng quý của người đàn bà ấy. Tất cả mọi việc xảy ra trong cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.

Đọc hết câu truyện người đọc cũng không biết tên thật của người đàn bà ấy là ai, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta…. Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không

biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, không phải chi mình người đàn bà đó gặp bất hạnh mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ chịu những bất hạnh như thị.

Tác giả đã dùng những ngôn từ rất đắt giá để miêu tả về người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ ”trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

Người đàn bà bất hạnh ấy không chỉ phải chịu thiệt thòi về ngoại hình mà tạo hóa mang lại mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho chị.

Số 16: Cảm nhận nhân vật người đàn bà hàng chài

Vẻ đẹp của cuộc sống, của mỗi con người cần phải được nhìn nhận và đánh giá trong mọi mối quan hệ phức tạp, đa chiều. Và cái đẹp, cái mà mỗi chúng ta đều mong muốn hướng tới để hoàn thiện nhân cách của chính mình đôi khi tiềm ẩn trong cái vẻ xù xì, gai góc mà không phải ai và lúc nào cũng có thể nhận ra được.

Đó chính là vấn đề có ý nghĩa cơ bản được toát lên từ Chiếc thuyền ngoài xa – một tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Minh Châu trong thời kì đổi mới. Vẻ đẹp của tác phẩm được toát lên từ nhiều yếu tố trong đó có nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc biệt là nhân vật người đàn bà một nhân vật để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc.

Chiếc thuyền ngoài xa được khai thác từ những tình huống mang ý nghĩa nghịch lí: một cảnh biển vào buổi sáng như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ nhưng ẩn trong đó lại là hình ảnh một gia đình thuyền chài đầy bi kịch; một người phụ nữ xấu xí, thô kệch bị chồng đánh đập, hắt hủi nhưng vẫn quyết gắn bó cả cuộc đời với kẻ vũ phu mà không một chút phàn nàn.

Câu chuyện không nhiều nhân vật: một anh trưởng phòng, một họa sĩ – Phùng đã từng là chiến sĩ; một vị quan tòa cũng đã từng vào sinh ra tử đối diện với cái chết; một người chồng vũ phu, độc ác; một đứa bé còi cọc thương mẹ bằng một thứ tình yêu rất ngây thơ, trong sáng những cũng không ít đắng cay – thằng Phác…

Mỗi nhân vật được hiện lên bằng những nét bút vẽ chân dung và tính cách khác nhau nhưng mỗi người là một sô phận đang trôi trên dòng đời còn bao nỗi lo toan, nhọc nhằn. Trong số đó, nhân vật người đàn bà có lẽ là nhân vật để lại nhiều dư vị xót xa, cay đắng, cảm phục trong lòng người đọc.

Tác giả chỉ gọi nhân vật là người đàn bà một cách phiếm định. Có lẽ đây cũng là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Tuy không có tên tuổi cụ thể, người vô danh như biết bao người vô danh trên tất ca tập trung và thể hiện đầy đủ nhất. Cách gọi tên nhân vật như thế vừa cụ thể nhưng lại vừa khái quát, vừa phiếm định nhưng lại vừa xác định.

Đó là một người đàn bà trạc ngoài 40 tuổi, cao lớn với những đường nét thô kệch mặt rỗ, “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Những chi tiết miêu tả ngoại hình đầy ấn tượng ấy đã dựng lên trước mắt người đọc một người đàn bà với một cuộc đời đầy nhọc nhằn, lam lũ, nhẫn nhục như tất cả những người đàn bà ở vùng biển – nơi mà con người ta luôn phải đối diện với hiểm nguy, cuộc sống luôn phải đặt trong vòng vây của sự đói khát, bấp bênh.

Cách miêu tả ngoại hình kết hợp với chi tiết: đưa tay lên có ý định gài hay sửa lại tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân”, và tiếng quát của người đàn ông: “Cứ ngồi nguyên đấy, động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”, như dự báo cho người đọc về một tính cách, một số phận đầy bất hạnh. Để rồi giữa khung cảnh đẹp như mơ vào một buổi sáng khi mà Phùng, người họa sĩ cho rằng, không còn nơi nào có thể đẹp hơn ấy, người đàn bà bị người đàn ông “dùng cái thắt lưng quật tới tấp”.

Nhưng bà thầm lặng chịu đau đớn “với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách trốn chạy”. Mà đâu phải cảnh đánh đập đó diễn ra trong khoảnh khắc, đó là cơm bữa “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Ấy thế mà khi được Đẩu – vị chánh án huyện, khuyên nên bỏ người chồng vũ phu ấy, người đàn bà ấy “chắp tay vái lia lịa”, cầu xin “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.

Mà nguyên do lí giải điều đó lại vỏ cùng bất ngờ: “Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có một người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng đi làm ăn nuôi nấng một sáp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa”.

Như vậy, nhà văn đã có dụng ý tạo nên ấn tượng cho người đọc về hình ảnh người đàn bà bằng thủ pháp đối lập giữa ngoại hình và nội tâm, giữa một số phận bất hạnh và tấm lòng nhân hậu, bao dung, thương con hơn tất cả mọi thứ trên đời. Vì thương con, người đàn bà ấy đã phải chấp nhận tất cả: sự đánh đập, sự đói khát, sự nhục nhã… Và cũng xuất phát từ tình thương con, người đàn bà ấy cho rằng: “Phải sống cho con chứ không phải sống cho mình”.

Triết lí ấy giản dị mà sâu sắc. Nó được đúc kết, được rút ra từ chính cuộc đời nhọc nhằn, bất hạnh của một người mẹ mà tình thương con, nỗi đau, ngay cả đến sự thấu hiểu lẽ đời cũng không bao giờ để lộ ra ngoài. Đó là một sự cam chịu nhẫn nhục, nhưng cũng thật đáng để chia sẻ, cảm thông. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân, hậu, bao dung, giàu lòng vị tha, đức hi sinh.

Lời giải bày thật tình, giản dị nhưng sâu xa ấy ở tòa án huyện chính là câu chuyện về sự thật cuộc đời mà những người như Phùng, như Đẩu, chỉ giây phút ấy mới thực sự hiểu được nguyên do của những điều tưởng như vô lí. Người đàn bà ấy đã giải quyết bi kịch đời mình một cách thật ngắn gọn, sâu sắc. Trong đau khổ triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được niềm vui cuộc sống: “Vui nhất là khi nhìn thấy đàn con chúng tôi được ăn no”. “Ông trời sinh ra đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn”.

Chính những lời giãi bày từ gan ruột người đàn bà ấy đã thức tỉnh trong Phùng một chân lí: không thể giản đơn, dễ dãi trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của đời sống. Anh đã phát hiện ra bên trong người đàn bà thô kệch ấy là một trái tim nhân hậu, một vẻ đẹp tâm hồn mà không phải ai cũng có thể nhận ra được. Vẻ đẹp ấy đối lập hoàn toàn với bức tranh cảnh biển vào buổi sáng, nhưng đó cũng là vẻ đẹp, mà không phải ai và lúc nào cũng khám phá cho hết được.

Vẻ đẹp của người đàn bà hấp dẫn người đọc chính là tình yêu con vô bờ bến, là những triết lí cuộc đời giản dị nhưng sâu sắc: “phải sống cho con chứ không phải sống cho mình”. Chính sự giải hóa những bi kịch cuộc đời mình một cách rõ ràng, dứt khoát ấy đã khiến câu chuyện và vị thế của các nhân vật thay đổi.

Từ một người với tư cách là thẩm phán huyện, một người làm chứng, Phùng và Đẩu đã nhanh chóng trở thành người được nghe, được hiểu những lẽ đời mà trước đây, các anh chỉ nhìn thấy bằng cái nhìn một chiều, dễ dãi. Từ một người với tư cách là bị can, người đàn bà đã nhanh chóng trở thành quan tòa, một quan tòa công minh, luôn coi tình thương con và sự hi sinh là nguyên tắc sống của cuộc đời mình.

Khép những trang sách kể về cuộc đời một người đàn bà vô danh trên vùng biển, nhưng dư âm của câu chuyện vẫn cứ day dứt, ám ảnh người đọc. Làm thế nào để số phận những người đàn bà như trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa thoát khỏi tình trạng bi kịch trên? Có phải trong thời đại nào con người ta cũng cần phải có sự thương yêu, lòng thông cảm, phải có niềm tin vào cuộc đời? Đó cũng là những thông điệp mà nhà văn muốn gửi đến cho mỗi người đọc trước cuộc sống hôm nay.

Bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
Bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Số 17: Cảm nhận vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu, với phong cách sáng tác giàu tính biểu tượng trong nền văn học nước nhà. Những tác phẩm của ông luôn khiến người đọc phải trằn trọc, suy nghĩ rất nhiều. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một câu chuyện giàu sức gợi như thế. Hình ảnh người đàn bà làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.

Chiếc thuyền ngoài xa kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi đến với vùng đất biển này. Và từ chuyến đi này, anh đã nhận ra rất nhiều chiều của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn bỏ lỡ. Hình ảnh người đàn bà là hình ảnh khiến anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa đau xót. Có thể nói người đàn bà hàng chài là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ.

Người đàn bà hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh Phùng là một người đầy nhọc nhằn, lam lũ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên một hình ảnh giàu sức gợi “người đàn bà chạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”.

Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng đầu tiên, đầy nhọc nhằn, đầy khổ sở và đầy thương cảm. Người đàn bà ấy tiếp tục ám ảnh người đọc bằng chi tiết “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”, đã phần nào gợi lên sự chua xót, khốn cùng. Giữa cảnh biển mênh mông lại xuất hiện một con người khiến người khác phải trằn trọc như thế này.

Người đàn bà ấy còn đầy vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi người chồng hằn học và mắng nhiếc. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con của mình.

Dọc theo hành trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người đàn bà đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Một vẻ đẹp đầy sự khó khăn, nhọc nhằn và đau khổ. Hành động bạo lực của người chồng khiến chị cứ câm lặng, không ai oán một lời.

Và sự cam chịu ấy được lặp lại khi chị được gọi đến hầu tòa. Mặc dù “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng người phụ nữ ấy vẫn “không hé răng một lời”. Hình dáng “mụ ngồi ghé vào mép ghế và cố thu người lại” càng khiến cho Phùng, cho Đẩu, và cho người đọc một nỗi ám ảnh khó bỏ. Tuy nhiên chỉ một lát, “người đàn bà lại lúng túng và sợ sệt”. Có lẽ cuộc sống của chị quá nặng nề, quá thê lương trong những năm qua.

Tình tiết người đàn bà vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa càng toát lên vẻ cam chịu, sự nhẫn nại, giàu đức hi sinh “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thoát thì người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng đau khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao?

Lời tâm tình của người đàn bà về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thương xót vừa khâm phục. Một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Người đàn bà yêu con, thương con vô điều kiện, không đòi hỏi bất cứ điều gì.

Khi chị kể đến chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no” thì có lẽ người đọc ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. Cuộc đời của chị nhiều đau thương và nước mắt nhưng lại có biết bao nhiêu phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng.

Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là “người đàn bà”, có lẽ không phải chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người đàn bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển xinh đẹp nào. Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta. Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Tấm lưng bạc phếch, ướt sũng của người đàn bà này có lẽ còn ảm ánh rất nhiều người nữa.

Người đàn bà đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó. Hình ảnh người đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã gửi gắm nhiều thông điệp đến người đọc về cuộc sống, phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ.

Số 18: Cảm nhận người đàn bà hàng chài

Nguyễn Minh Châu – nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại, là người “mở đường tinh anh và tài hoa” văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa của ông được viết sau chiến tranh, khi ấy ông đã đem văn học về gần với cuộc sống, ngòi bút của nhà văn bám sát vào hiện thực để làm nổi bật những vấn đề thế sự trong cuộc sống con người thời hậu chiến. Nhân vật người đàn bà hàng chài được tác giả khắc họa rất rõ nét và chân thực trong tác phẩm, một mặt để cho người đọc cảm nhận rõ sự thật cuộc đời, mặt khác lại thấy được những hạt ngọc đang ẩn giấu trong tâm hồn con người Việt Nam.

Giữa cảnh biển đẹp đẽ, hoàn mĩ như bức tranh mực tàu, người đàn bà hàng chài hiện lên vẻ ngoài lam lũ, tội nghiệp. Người đàn bà tuổi trạc ngoài bốn mươi, thân hình “cao lớn với những đường nét thô kệch”. Mụ rỗ mặt và khuôn mặt hiện rõ vẻ mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và đang buồn ngủ. Ngoại hình lam lũ, tội nghiệp là vậy, khi nhìn vào cảnh ngộ của người đàn bà này ta càng thêm xót xa, thương cảm. Chị ta phải chịu nhiều bất hạnh ngay từ khi còn trẻ. Thời còn con gái chị ta đã bị rỗ mặt do một trận đậu mùa khiến cho khuôn mặt trở nên xấu xí, khó lấy được chồng. Chị ta lỡ có thai với người con trai của một nhà hàng chài, từ đó theo chồng và gắn bó với nghề chài lưới, quanh năm suốt tháng lênh đênh trên biển.

Từ khi có gia đình, chị ta phải lăn lộn với cuộc sống nghèo khổ, thiếu thốn về vật chất và tủi nhục về tinh thần. Vì sinh đẻ nhiều, gia đình đông con mà thuyền lại chật, có những khi biển động gió lớn cả nhà chỉ đành ăn cây xương rồng luộc chấm muối. Không chỉ thiếu thốn về vật chất, chị ta còn là nạn nhân của bạo lực gia đình, thường xuyên hứng chịu những trận đòn roi vô lí của người chồng “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Chánh án Đẩu từng thốt lên rừng “cả nước không có một người chồng nào như hắn… chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu”.

Trong hoàn cảnh khốn cùng, nghiệt ngã như vậy nhưng người đàn bà hàng chài vẫn giữ cho mình những phẩm chất quý giá. Đó là một người mẹ với tình yêu thương con vô bờ. Trong đám con đông đúc của mình, chị ta thương thằng Phác nhất, không muốn nó chịu khổ nên phải gửi nhờ ông ngoại nuôi dưỡng.

Điều đầu tiên mà chị ta mong mỏi cho các con là có cuộc sống ổn định, không phải lênh đênh, chịu bấp bênh và khổ cực trên biển. Dù cuộc sống có cơ cực chị vẫn cố gắng để các con của chị không chỉ được no đủ mà còn bảo vệ đời sống tinh thần của các con không bị tổn thương khi phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ. Khi các con lớn, chị đã “xin chồng lên bờ mà đánh” vì chị không muốn các con phải chứng kiến cảnh đau lòng đó.

Chị đã cố gắng hết sức để bảo vệ các con, thế nên khi thằng Phác lao vào đánh bố để bảo vệ mẹ, người đàn bà ấy như chết lặng. Chị ta cảm thấy tủi nhục và đau đớn, nhát quất của chồng trên da thịt không đau bằng sự xuất hiện của thằng con trai “như một viên đạn xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rơi xuống những dòng nước mắt. Chị ta đau vì cách hành xử của bố với mẹ đã làm tổn thương đến tâm hồn và nhân cách con trẻ, thằng bé dám thực hiện hành động độc ác ngay cả với cha đẻ ra nó là phản ứng tiêu cực.

Người đàn bà ấy còn có một tình yêu dành cho chồng sâu sắc. Vốn chị ta thương thằng Phác nhất cũng chính vì nó giống như lột cái lão đàn ông đã hành hạ chị, giống từ tính khí đến mặt mũi. Phải thừa nhận rằng cách hành xử thô bạo của chồng không làm cho chị ta thay đổi tình cảm của mình dành cho anh ta mà ngược lại vẫn nâng niu hình ảnh của người đàn ông ấy trong tình yêu của mình.

Chị hiểu cho người đàn ông vì cuộc sống cơ cực nhiều bế tắc cần có cách để giải tỏa, nhưng chồng chị lại không biết uống rượu như những đàn ông khác. Dường như cách đánh vợ là cách duy nhất để giải tỏa những uất ức, chính vì thế khi con đã lớn, chị không yêu cầu chồng chấm dứt đánh những trận đòn mà chỉ xin chồng lên bờ mà đánh. Chị chấp nhận, cam chịu, nhẫn nhục để chồng có thể giải tỏa uất ức.

Ta nhìn thấy được một người đàn bà hàng chài giàu đức hy sinh vì con, vì chồng, vì gia đình. Trong cuộc sống cơ cực triền miên, chị ta luôn nhận lỗi về mình “phụ nữ trên thuyền đẻ nhiều quá”, điều đó còn bởi sự lạc hậu mà chị ta luôn miệng mong các chú cách mạng thông cảm cho. Niềm vui lớn nhất của chị là những lúc vợ chồng hòa thuận, đàn con được ăn no, đó là điều hiếm hoi nhưng người đàn bà luôn mong mỏi và trân trọng.

Người đàn bà ấy đã xác định lẽ sống vì chồng, vì con, vì gia đình chứ không phải vì bản thân, quên hẳn những nhu cầu và đòi hỏi của cá nhân. Dù bị chồng đánh và đày đọa nhưng chị ta vẫn van xin không bỏ chồng, chấp nhận bị bắt tội, bị phạt tù. Nghĩa là dù người đàn ông ấy có độc ác, tàn bạo đến mấy chị vẫn cần để có người cùng chèo chống khi phong ba và hơn nữa là chị muốn giữ gìn cho các con một mái ấm gia đình trọn vẹn, đủ đầy.

Có thể nói, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa chính là người đàn bà hàng chài. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài dẫn dắt chúng ta đến với những góc tối tăm nhất của cuộc đời để nhìn nhận những sự thật gần ngay trước mắt. Trong nơi tối tăm ấy thứ ánh sáng duy nhất và đẹp đẽ nhất chính là phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn con người, tiêu biểu ở đây là phẩm chất cao đẹp của người đàn bà hàng chài.

Số 19: Phân tích người đàn bà hàng chài

Nếu các nhân vật trong những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu thời kì trước năm 1975 được nhìn nhận từ khía cạnh tiêu chuẩn đạo đức cách mạng, sự cống hiến đối với đất nước thì sau năm 1975, ông nhìn nhận nhân vật của mình ở phương diện đời tư, thế sự. Nổi bật trong số đó là nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn Minh Châu sáng tác năm 1987.

Người đàn bà ấy là nhân vật chính trong khung cảnh bình minh ở nơi đầm phá miền Trung – chiến trường cũ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng thời kháng chiến chống Mĩ. Nếu không vì Phùng muốn “thu vào tờ lịch tháng bảy năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh” thì có lẽ anh sẽ không bắt gặp được người phụ nữ này và cũng sẽ không có cơ hội để vỡ lẽ ra nhiều điều từ thực tế cuộc sống và nghệ thuật.

Người đàn bà không được Nguyễn Minh Châu gọi bằng một tên riêng nào cả, ông chỉ gọi người phụ nữ lam lũ ấy bằng những đại từ phiếm chỉ như “người đàn bà”, “mụ”. Phải chăng đây là dụng ý của tác giả vì chị chỉ là một trong vô số những người đàn bà làng chài ở các vùng biển khác cũng vô danh, nhỏ bé và có một cuộc đời bình thường giống như họ? Phải chăng cũng vì không có một tên gọi cụ thể mà hình tượng nhân vật lại có sức khái quát lớn?

Chị là người phụ nữ “trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch”. Chị bị rỗ mặt, “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Tấm lưng áo của chị đã “bạc phếch và rách rưới”. Với những chi tiết miêu tả ngoại hình như vậy, Nguyễn Minh Châu đã khiến bạn đọc hình dung ra một người đàn bà lam lũ, vất vả, chật vật để đối mặt với cuộc sống mưu sinh trên biển đầy hiểm nguy.

Dường như số phận đã đẩy hết bất hạnh lên con người chị nhưng chị lại cam tâm chịu đựng mà không hề có một lời trách móc. Ngoại hình chị xấu xí, vì thế mà đàn ông trong phố không ai lấy chị rồi chị “có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới”. Người đàn ông chị lấy khi ấy là một người “cục tính nhưng hiền lành” và không bao giờ đánh đập vợ.

Nhưng có lẽ vì sự khắc nghiệt của cuộc sống mưu sinh mà anh ta trở nên vũ phu khiến chị thường xuyên phải chịu những trận đòn roi tàn nhẫn: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Hành động của người chồng khiến vị chánh án Đẩu phải gay gắt thốt lên rằng: “Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu”.

Chị đã phải chịu đựng bao nhiêu cơn thịnh nộ từ người chồng, chịu đựng bao sự khổ cực, bấp bênh của cuộc sống hàng chài mà không bao giờ phản kháng. Chị cam chịu số phận bởi chị là một người vị tha, bao dung và hiểu chuyện.

Người đàn bà hàng chài là người thấu hiểu chồng mình hơn ai hết. Chị hiểu tại sao người đàn ông hiền lành trước đây lại trở nên nóng tính, bạo lực đến như vậy. Nguyên nhân cũng là do sự đói khổ, bấp bênh của cuộc sống thường ngày. Cuộc sống ấy khổ cực nhường nào khi “vào các vụ bắc, ông trời làm biển động suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”.

Là một trụ cột vững chắc cho gia đình, là một người chồng, người cha nên có người đàn ông nào lại dửng dưng vô cảm trước sự đói khổ của vợ con mình. Anh ta đánh vợ không phải vì thù ghét vợ mà là vì anh ta bế tắc, cùng quẫn trước cuộc đời khi không thể lo cho gia đình một cuộc sống sung túc. Vì không có cách nào khác để giải tỏa những tâm trạng tiêu cực đó nên “bất kể khi nào thấy khổ quá” là anh xách vợ ra đánh.

Khi chánh án Đẩu và Phùng khuyên người đàn bà nên bỏ chồng thì chị đã “chắp tay lại vái lia lịa”: “Con lạy quý tòa… Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Rồi chị đã bào chữa cho chồng bằng các lí lẽ xác đáng và tự nhận hết lỗi lầm về mình: “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”; “nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”.

Phải chịu những trận đòn roi và sự đánh đập của chồng có người phụ nữ nào không đau đớn nhưng người đàn bà hàng chài ý thức được nguyên nhân dẫn đến hành động bạo lực của người chồng nên chị không hề oán trách, căm giận mà còn hết lòng bao dung, vị tha: “Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”.

Không chỉ vậy, người đàn bà hàng chài còn là một người mẹ hết lòng thương con và giàu đức hi sinh. Chị muốn các con của chị được đón nhận tình yêu thương của cả bố và mẹ. Chị muốn các con được lớn lên trong không khí hòa thuận, vui vẻ của gia đình nên chị đã xin chồng lên bờ đánh để các con không phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình từ chính người bố của mình.

Các con còn nhỏ, chúng chưa thể hiểu được nguyên nhân dẫn tới sự bạo lực của bố nên có thể sẽ căm thù, oán giận bố. Chị xin lên bờ đánh là để tránh cho các con những sự tổn thương về mặt tinh thần. Khi thằng Phác trông thấy bố đang dùng chiếc thắt lưng “quật tới tấp” vào lưng mẹ thì nó đã “như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm”, “nhảy xổ vào người đàn ông” giằng lấy chiếc thắt lưng rồi “lảo đảo ngã dúi xuống cát” vì hai cái tát của bố.

Người đàn bà đã “ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Chị không muốn Phác căm thù bố và cũng không muốn nó trở nên bạo lực như bố. Đó là đứa con mà chị yêu nhất nhưng người đàn bà phải gửi nó lên rừng với ông ngoại chỉ vì “sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó”.

Người đàn bà ấy nhất quyết không bỏ chồng vì “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Chị sống vì con nhiều hơn là sống cho mình. Vì con mà chị có thể nhẫn nhục, cam chịu, vì con mà chị tiếp tục sống với người đàn ông vũ phu ấy chứ không tìm cách giải thoát cho mình.

Các con chính là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chị bởi đối với chị: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Đối với một người mẹ, dù bản thân có phải chịu đựng bao nhiêu sự khốn khổ thì họ vẫn luôn muốn các con có một cuộc sống no đủ.

Tuy là người phụ nữ quê mùa nhưng chị lại rất hiểu chuyện. Chị hiểu được lòng tốt của Phùng và Đẩu nhưng đã từ chối lòng tốt ấy: “Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”; “Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”.

Những lời giãi bày của chị đã khiến vị chánh án và người nhiếp ảnh hiểu ra nhiều điều. Cuộc sống vốn không hề đơn giản như cách mà chúng ta vẫn nghĩ và có những lí thuyết sách vở không thể nào giải quyết một cách thấu đáo ở trong thực tế. Phùng và Đẩu khuyên người đàn bà li hôn nhưng họ lại không hiểu được những nỗi khổ tâm của chị, không hiểu được tình nghĩa vợ chồng chung sống với nhau bao lâu nay của chị.

Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nhân vật người đàn bà hàng chài với sự đối lập về ngoại hình và tính cách, giữa sự bất hạnh chị phải gánh chịu với tấm lòng vị tha, bao dung và đức hi sinh của chị. Người đàn bà ấy đã mang đến cho tất cả bạn đọc chúng ta một cách nhìn nhận thực tế và bao quát hơn về con người và cuộc đời. Vẻ đẹp của của chị được ẩn sâu bên trong vẻ bề ngoài rách rưới, cam chịu. Và tác giả đã “đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người” để phát hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách trong những nhân vật của mình.

Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thành công nhân vật người đàn bà hàng chài. Nhân vật này đã giúp bạn đọc cảm nhận được sự thấu hiểu, sự đồng cảm và tình thương mà tác giả dành cho nhân vật của mình. Qua đó, Nguyễn Minh Châu cũng phần nào khẳng định mình xứng đáng với vị trí là một trong những “người mở đường đầy tài hoa và tinh anh” (Nguyên Ngọc) trong công cuộc đổi mới nền văn học Việt Nam.

Số 20: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự – triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.

Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu chuyện của Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở tòa án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.

Người đàn bà có vẻ ngoài xấu xí, thô kệch và “vốn là đứa con gái xấu lại rỗ mặt sau một bận lên đậu mùa”. Người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn này đâu có được cái nhan sắc “trời phú”, chị ta xấu xí, khuôn mặt rỗ càng khó nhìn hơn khi chị ta bước sang cái tuổi trạc ngoài 40.

Bên cạnh đó số phận kém may mắn: Trong câu chuyện về cuộc đời mình, chị đã nhận thức được rất rõ sự kém may mắn của mình: “cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai của một hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới”.

Đồng thời, tác giả cũng khắc họa rõ nét về cuộc đời lam lũ, vất vả của người đàn bà làng chài. Tính cách: Một người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục. Hành động và lời nói của người chồng: “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”.

Trước hành động rất tàn bạo của người chồng, người đàn bà hàng chài đã không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn. Người đàn bà ấy giàu lòng tự trọng. Chồng đánh như vậy, chị ta đâu có khóc. Nhưng chỉ sau khi biết được hành động vũ phu của chồng đã bị thằng Phác và người khách lạ (nghệ sĩ Phùng) phát hiện chị lại cảm thấy đau đớn, vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu hổ và nhục nhã. Nhiều khi, sự đau đớn do đòn roi không thể làm con người ta bật khóc, điều này đúng trong trường hợp của người đàn bà hàng chài. Những giọt nước mắt đau đớn chứa đựng biết bao sự nhọc nhằn chỉ thực sự rơi khi thấy đứa con yêu của mình chứng kiến cảnh tượng mình bị chồng đánh, chỉ thực sự rơi khi có người khách lạ chứng kiến.

Sống rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, hiểu chồng, thương con vô bờ bến, một người phụ nữ vị tha giàu đức hy sinh. Được mời đến tòa án huyện để giải quyết việc gia đình, lúc đầy chị ta rụt rè, tìm một góc tường ở chốn công đường kia để ngồi. Nhà văn có miêu tả, đây không phải là lần đầu người đàn bà đến chốn công đường nhưng người đàn bà ấy vẫn có cái vẻ sợ sệt, lúng túng- cái sợ sệt lúng túng ấy ngay lúc chị ta đứng ở bãi xe tăng cũng không hề thấy có. Chị thấy sợ hãi khi đến một không gian lạ. Chị ta thật tội nghiệp, cái thế ngồi bị động, ngồi vào mép ghế và cố thi người lại, ngồi như thể để tự vệ cho dù đã được Đẩu nói bằng những lời rất thân mật, chia sẻ, cảm thông.

Nguyễn Minh Châu đã dụng công nhấn vào sự thay đổi ngôn ngữ và tâm thế của người đàn bà hàng chài. Ban đầu, khi gặp chánh án Đẩu, chị còn xưng “con” và có lúc đã van xin, “con lạy quý tòa”… “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Nhưng khi thấy Phùng xuất hiện, đang cúi gục lập tức người đàn bà hàng chài ngẩng lên, nhìn thẳng, “chị cám ơn các chú… Lòng cách chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”.

Vẻ bề ngoài khúm núm, sợ sệt, điệu bộ khác, ngôn ngữ khác đã làm cho cả Đẩu và Phùng hết sức ngạc nhiên. Người đàn bà hàng chài kia không hề giản đơn như Đẩu và Phùng nghĩ. Thì ra, cái nghề chài lưới trên một chiếc thuyền vó bè lênh đênhh không thể thiếu bàn tay và sức lực của người đàn ông. Để duy trì sự tồn tại cho cả gia đình thì họ phải hợp sức lại mà làm quần quật để nuôi một đàn con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Tình cảnh của người đàn bà hàng chài kia cũng như của bao gia đình hàng chài khác, trừ phi chị nói “giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”.

Trong câu chuyện kể về cuộc đời mình, người đàn bà hàng chài kia đã chấp nhận đau khổ, coi nỗi khổ vận vào đời mình như một lẽ đương nhiên. Chị sống cho con chứ không phải là sống cho mình. Nếu những phụ nữ trên các thuyền khác chấp nhận người đàn ông uống rượu thì chị cũng chấp nhận để chồng đánh chỉ xin chồng là đánh ở trên bờ, đừng để các con nhìn thấy. Đó là một cách ứng xử rất nhân bản.

Ở đây, lẽ đời đã chiến thắng. Người lao động lam lũ, nghèo khổ không có uy quyền nhưng có cái tâm của một người thương con, thấu hiểu lẽ đời cũng là một thứ quyền uy có sức công phá lớn. Nó đã làm chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng thức nhận được nhiều điều. Thức nhận được, nỗi nhọc nhằn vất vả trong công việc làm ăn của cư dân vùng biển. Thức nhận được cuộc sống bấp bênh khiến họ phải chấp nhận không ít những nghịch cảnh, những ngang trái. Thức nhận được người đàn bà kia không hề chịu đòn roi một cách vô lí, cả Đẩu và Phùng chua chát nhận ra rằng: trên thuyền cần có một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo, cần có một người đàn ông để chèo chống khi biển phong ba bão táp.

Thức nhận được ở người phụ nữ ấy chứa đựng mẫu tính sâu xa như một bản năng: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”, những lời lẽ ấy của người đàn bà hàng chài được thốt lên từ một niềm tin đơn giản mà vững chắc vào cái thiên chức mà trời đã giao phó cho người đàn bà. Thức nhận được rằng, người đàn bà hàng chài kia rất biết tìm cho mình những niềm vui, hạnh phúc dẫu rất nhỏ nhoi trong cuộc sống đầy khó khăn.

Ở chị vững bền một niềm tin, một tình yêu và sự lạc quan vào cuộc sống. Hãy biết sống ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được nữa, nụ cười chợt ửng sáng lên trên khuôn mặt rỗ chằng chịt chị nghĩ đến “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ” và niềm vui “nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Hạnh phúc với người đàn bà hàng chài kia thật giản dị mà không kém phần sâu sắc. Thức nhận được nỗi đau, cũng như sự thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời người đàn bà kia không bao giờ để lộ ra bên ngoài cả.

Kết thúc truyện ngắn, người đọc vẫn không biết người đàn bà hàng chài kia tên gì, phải chăng là nhà văn đã sơ xuất? Không phải, đó chính là dụng ý nghệ thuật của nhà văn, người nghệ sĩ nhiếp ảnh kể rằng mỗi khi nắm thật kĩ bức ảnh mà mình chụp anh lại thấy người đàn bà hàng chài ấy bước ra từ bức ảnh “mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân rậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…” nghĩa là người đàn bà ấy chỉ là một người trong đám đông của những con người lam lũ, nhọc nhằn, những con người lao khổ, đông đúc và vô danh.

Qua những cảm nhận về người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu cũng khẳng định cho chúng ta thấy sự lam lũ, vất vả, nhọc nhằn không làm mất đi ở người phụ nữ vùng biển nói riêng, người phụ nữ Việt Nam nói chung tấm lòng yêu thương, nhân hậu bao dung, vị tha. Và với người phụ nữ, gia đình hạnh phúc là gia đình trọn vẹn các thành viên cho dù đây đó vẫn có những tính cách chưa hoàn thiện.

Bằng biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người, qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về con người. Ông đã khai thác số phận cá nhân và thân phận con người đời thường, để phát hiện những nét đẹp trong những con người tầm thường, lam lũ. Cả đời, ông đã tâm niệm sáng tác văn học là đi tìm “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người”.

Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Chính số phận của người đàn bà hàng chài như một hồi chuông lay tỉnh chúng ta hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Từ câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống. Đây cũng là nét mới trong văn xuôi sau năm 1975 mà Nguyễn Minh Châu chính là vị “khai quốc công thần của triều đại văn học mới”.

Bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
Bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Tổng kết

Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 20 mẫu phân tích người đàn bà hàng chài chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 12.

0/5 (0 Reviews)
Chúng tôi tạo ra Top10timkiem.vn nhằm mục đích cung cấp cho người đọc những thông tin, liệt kê một cách chi tiết nhất về mọi lĩnh vực trong cuộc sống.