Top 20 mẫu phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân chi tiết nhất

223
Top 20 mẫu phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân chi tiết nhất
Top 20 mẫu phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân chi tiết nhất
4.6/5 - (14 votes)

Tổng hợp các bài mẫu phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân trong bài Vợ Chồng A Phủ của tác giả Tô Hoài một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 20 mẫu phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Dàn ý phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả và tác phẩm
  • Giới thiệu sơ lược về Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Tâm trạng của Mị trước đêm xuân.

II. Thân bài

– Phân tích tâm trạng Mị trong đêm mùa xuân.

+ Trước đêm mùa xuân, do bị đày đọa, áp chế, Mị trở thành một người phụ nữ “vô hồn”, mất hết ý niệm về thời kì lẫn ko gian. Kiếp sống của Mị lúc đó chẳng khác nào kiếp sống con trâu, con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra. Nhưng có thể nói sức sống trong Mị chưa hoàn toàn lụi tắt.

-> Sức sống trong Mị có thể bị dập tắt vĩnh viễn, nhưng cũng có thể sẽ trỗi dậy lúc có điều kiện.

+ Do sự tác động của bối cảnh bên ngoài đối với Mị trong đêm mùa xuân. Mùa xuân năm đấy ở Hồng Ngài đẹp và gợi cảm biết bao

–> Chính ko gian rộn ràng sắc màu cùng tiếng sáo tha thiết lửng lơ kia đã đánh thức con người Mị ngày xưa. Tiếng sáo vô tình hay cố ý chạm vào nỗi nhớ “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hồi”. “Mị ngồi nhẩm lại bài hát của người đang thổi”…

– Mùa xuân đó đầy sắc màu, rộn ràng âm thanh. Điều đấy xa lạ với ko gian trong căn phòng nhỏ nhỏ của Mị, nhưng thân thiện với toàn cầu nhưng Mị đã từng sống rất hạnh phúc. Chúng gợi cho Mị nhớ lại thời xa xưa. Ngày xưa, Tết Mị uống rượu. Hiện thời, Mị cũng uống rượu. Rồi Mị say.

– Rượu – chất men đánh thức phần đời đã mất của Mị. “Lúc uống rượu say, Mị lại được sống về những ngày trước. Ngày trước Mị vui sướng biết bao. Tai Mị vẳng nghe tiếng sáo vọng lại đầu làng. Đấy là tiếng sáo của tơ duyên, của tuổi thanh xuân căng đầy sức sống. Mị ko còn là cô con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra nữa. Mị đang uống rượu bên bếp và thổi sáo rồi Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Ra thế, Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ.”

– Sự đối lập giữa hoàn cảnh đêm xuân, giữa toàn cầu được đánh thức với cuộc sống thực tại: Lúc say, Mị nhớ và sống lại với ngày xưa, nhưng thực ra, Mị vẫn đang ở nhà thống lý Pá Tra. Mị vẫn đang sống kiếp đọa đày với A Sử. Sự đối lập giữa một bên là hạnh phúc tuổi xanh với một bên là kiếp sống trâu ngựa đã khiến Mị suy nghĩ tới việc kết liễu đời mình như ngày mới về làm dâu nhà thống lý. Mị lại ước gì có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ ko buồn nhớ lại nữa. Càng nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra. Ôi chao, tiếng sáo đấy, tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường. Mị đang muốn quên đi, Mị ko muốn nhớ lại cái ngày trước nhưng ko được. Tiếng sáo đấy lửng lơ, tiếng sáo đấy làm Mọi thiết tha bổi hổi. Mị muốn đi chơi. Mị muốn thoát ra ngoài cái ô cửa ô mờ đục, trăng trắng này!

– Nhưng Mị lại thực hiện một sự giải thoát bằng cách khác. Đó là bỏ nhà đi chơi như những người trẻ trung đang dìu dặt ngoài làng. Mị đã ý định giải thoát một cách lặng lẽ nhưng mãnh liệt: Mị tới góc nhà, tay lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng…Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách… Mị rút thêm cái áo. Mị làm tất cả, thật thản nhiên và quyết liệt như ngày xưa, lúc trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo.

– Ý định giải thoát của Mị ko thành: Trông thấy Mị, A Sử lấy làm lạ. Nó chỉ biết rằng Mị muốn đi chơi. Thằng chồng ác hơn con hổ đấy ko biết trước mặt mình đã là một cô Mị khác, cô Mị của ngày xưa nhưng hắn đã từng lừa lọc để đánh cắp đem về. Hắn thẳng tay vùi dập tàn nhẫn sự trở về đó: A Sử bước lại, nắm lấy Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói Mị đứng vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống mặt, A Sử quấn luôn tóc lên cột làm cho Mị ko cúi, ko nghiêng đầu được nữa…

III. Kết bài

Thành công của nhà văn Tô Hoài là đã khắc hoạ một nhân vật sống chủ yếu bằng tâm trạng, với tâm trạng. Cả đêm mùa xuân, Mị hành động được rất ít, nhưng người đọc vẫn thực sự thu hút với một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy. Ko gian, thời kì, giọng kể của tác phẩm theo một tiết tấu của chính tâm trạng đấy. Hẳn Tô Hoài đã đặt cả tấm lòng của mình vào tâm trạng của Mị, để người đọc dõi theo tâm trạng đấy, lúc tha thiết, lúc nghẹn ngào xót xa.

Xem thêm:

Top 20 mẫu phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

Số 1: Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

“Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp.” (A-ma-tốp) Tô Hoài là nhà văn như thế. Bằng sự am hiểu sâu rộng về phong tục tập quán và gắn bó máu thịt với miền đất Tây Bắc, ông đưa người đọc đến với những cảm xúc khó quên trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” (1952). Ở đó có nỗi khổ đau, đày đọa đang hiện hữu từng ngày, nhà văn ấy đã thổi vào nhân vật Mị – đại diện cho một tầng lớp nhân dân ở đây – ngọn gió của sức sống mãnh liệt, phản kháng mạnh mẽ trước cái ác. Điều đó thể hiện rõ qua diễn biến tâm lý nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân.

Ngòi bút chân thực, giản dị và tự nhiên, Tô Hoài đưa người đọc hướng về quá khứ tươi đẹp của nhân vật Mị trước khi bắt đầu cuộc sống ảm đạm và tủi nhục tại nhà thống lý Pá Tra. Mị vốn là một thiếu nữ phơi phới sức sống. Cô nàng xinh đẹp, lại có tài thổi lá hay như thổi sáo. Chẳng có gì bất ngờ khi Mị “có nhiều người mê, ngày đêm đã thổi sáo theo Mị, ngày xuân người ta dẫm nát cả vách nhà Mị. Thế nhưng cô thiếu nữ H’Mông này đã có tình yêu của mình, luôn khao khát yêu và được yêu. Người con gái ấy chăm chỉ, hiếu thảo và có lòng tự trọng. Cô sẵn sàng làm nương ngô để kiếm tiền trả nợ nhưng quyết không chịu bán vào gia đình thống lí Pá Tra.

Nhưng tấn bi kịch đã xảy ra, Mị bị A Sử lừa bắt về làm vợ, bắt đầu chuỗi ngày đau khổ, tủi nhục. Mị không cam chịu, không chấp nhận cái sự thật nghiệt ngã ấy: “hằng mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc”. Đã có lúc cô muốn chết đi nhưng vì thương cha, nàng đành chấp nhận cuộc sống không bằng chết này. Tác giả khéo léo thuật lại cuộc sống của Mị bằng đôi mắt của chính cô, với hình ảnh so sánh hết sức chân thực “Mị cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, “sống trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” hay Mị cũng tự thấy mình không bằng con trâu, con ngựa, cứ sống cuộc đời ảm đạm, bi thương. Dường như thần quyền, cường quyền và bạo quyền đã dập tắt hoàn toàn ngọn lửa phản kháng trong Mị. Nhưng không, ngọn lửa ấy không hề tàn lụi mà đang âm ỉ cháy trong trái tim cô, trước vẻ đẹp của Hồng Ngài ngày xuân đã có dịp bùng lên.

Mị như được hồi sinh, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy một sức sống, lòng ham sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng đầy bi kịch. Mùa xuân ở Hồng Ngài được Tô Hoài lột tả từ chính đôi mắt yêu mến núi rừng của ông, nghệ thuật trần thuật, miêu tả đặc sắc tái hiện một bức tranh xuân rộn rã thanh âm và màu sắc. Thế giới bên ngoài ô cửa bằng lòng bàn tay nơi phòng Mị đẹp biết bao. Nào là màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ. Ngoài kia nô nức tiếng cười đùa của trẻ nhỏ, tiếng sáo, tiếng hát gọi bạn tình, tiếng của cuộc sống đang hiện hữu. Chính những hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị, làm tan chảy tấm đá lạnh lẽo đã bao phủ trái tim cô. Ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài như cho Mị được một sống lại.

Mị nhớ về quá khứ, Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta chưa có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu”

Tiếng sáo làm Mị mạnh mẽ hơn, Mị muốn thoát khỏi cái lớp xác vô hồn ấy bằng một hành động “nổi loạn nhân tính”. Mị tìm đến rượu, nhưng không phải để tìm vui mà là để giải sầu “Mị uống ực từng bát rồi say”. Từ miêu tả tượng thanh “ừng ực”, như cô đang muốn nuốt hết căm hận vào lòng. Mị nghĩ về quá khứ, nhưng cũng đau đớn trước hiện thực phũ phàng: cô đã có chồng, cô làm vợ A Sử, con dâu của nhà thống lý Pá Tra nhưng nghiệt ngã thay, Mị còn không bằng con trâu, con ngựa. Ngay lúc này, tâm can Mị giằng xe khôn nguôi, liệu rằng cô gái trẻ có dám bước ra khỏi bụi mù số phận.

Men rượu, tiếng sáo là tác nhân tác động đến tâm trạng cô gái, Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng. Mị nhận ra rằng mình vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi. Tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường:

Anh ném pao, em không bắt,

Em không yêu, quả pao rơi rồi…”

Hàng loạt hành động mạnh mẽ như chính tâm thái bây giờ của Mị, cô thản nhiên xắn thêm miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng, quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái áo. Mị làm đẹp cho mình, trân trọng bản thân và thắp sáng ngọn đèn cũng là thắp sáng cuộc đời tối tăm của cô. Những hành động “nổi loạn” ấy cứ thế diễn ra trong tiếng sáo dập dìu. Tiếng sáo gọi bạn tình như đem đến cho Mị một sức mạnh mới, khơi gợi khao khát yêu đương và hạnh phúc.

Hiện thực vẫn là hiện thực, A Sử nhận ra những hành động khác lạ của Mị, hắn tàn độc, sẵn sàng đạp lên ngọn lửa mới bùng lên trong cô. A Sử trói Mị bằng cả một thúng sợi đay, quấn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Thế nhưng không có một dòng nào miêu tả thái độ phản kháng của Mị, cô chỉ im lặng, âm thầm cam chịu. Thể xác bị trói buộc, nhưng tinh thần và tâm hồn Mị đang dạo chơi, say đắm với niềm vui riêng mình. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói.  Lòng Mị bồi hồi theo tiếng sáo: “Em không yêu, quả pao rơi rồi, Em yêu người nào, em bắt pao nào…” Những vết dây trói đau nhức đưa Mị trở về với thực tại đau đớn, khổ nhục. Mị vùng bước đi, nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa, chỉ còn tiếng vó ngựa đạp vào vách.

Cứ như thế, Mị bị trói đứng cả đêm, thực tại và quá khứ cứ đan xen vào nhau, giằng xé tâm hồn Mị. Lúc là nỗi đau đớn khắp người bị dây trói thít lại, Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa, tiếng sáo, tiếng chó sủa xa xa, Mị lúc mê, lúc tỉnh. Rồi Mị nhớ đến câu chuyện về người đàn bà từng bị trói đứng mà chết trong nhà thống lý Pá Tra. Cô thương cảm cho đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài, một đời chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mà Mị cũng sợ nữa, Mị sợ chết, Mị sợ sẽ giống như người đàn bà kia, bị cuộc đời ám muội này dìm chết. Mị không còn lãnh cảm, lùi lũi như con rùa nữa, cô sợ chết và thiết được sống, cô muốn vùng lên, dẫu chỉ từ trong tinh thần.

Mặc dù cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị không thành, cô không thể thoát khỏi địa ngục trần gian là nhà bố con tên thống lí. Thế nhưng, Mị không còn là Mị của những ngày trước, Mị đã sống lại những thời khắc của tuổi thanh xuân tươi trẻ và mơ ước tự do. Nó như một đợt sóng dâng lên rồi nhanh chóng tan ra, dù chưa làm thay đổi cuộc đời Mị. Tuy nhiên, đây lại là con sóng ngầm mạnh mẽ hơn bao giờ hết, là động lực để Mị vùng lên, “nổi loạn” lần nữa, để cắt dây trói cho A Phủ và giải thoát cho chính cuộc đời cô, chạy trốn khỏi Hồng Ngài.

Bằng cách dựng cảnh sinh động, sử dụng những chi tiết đắt giá, cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị cùng ngôn ngữ mộc mạc giản dị, nhà văn đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô.

Khép lại những trang sách, dư âm về nhân vật Mị, về cô gái Mèo xinh đẹp với sức sống tiềm tàng luôn thường trực, chỉ cần có cơ hội là bùng lên mạnh mẽ đã ghi sâu vào tâm khảm độc giả. Người ta còn đau đớn, thương cảm trước vẻ đẹp của một miền sơn cước trùng điệp, hùng vĩ lại đối lập hoàn toàn với những phận người sống trong áp bức của cường quyền, thần quyền, bất hạnh và tủi nhục. Bức tranh ấy được họa bằng ngòi bút rất tình của người con đã phải lòng Tây Bắc – Tô Hoài – một người có hiểu biết sâu rộng và gắn bó sâu sắc với con người, thiên nhiên nơi đây. Quả không sai khi nói Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là kiệt tác bất hủ giàu giá trị nhân đạo, ám ảnh lòng người đến muôn đời.

Bài Vợ chống A Phủ của Tô Hoài
Bài Vợ chống A Phủ của Tô Hoài

Xem thêm:

Số 2: Nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

Xantưkhôp Sêđrin từng nói: “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không chấp nhận cái chết”. Vậy, điều gì đã làm nên sức sống bất tử của một tác phẩm văn học? Tài năng, tấm lòng người cầm bút chăng? Trả lời câu hỏi ấy, tôi muốn nhắc tới truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài. Ở đó, Tô Hoài đã khắc họa nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân mang sức sống tiềm tàng ẩn khuất bằng cả tài năng và tấm lòng nhân đạo lớn lao.

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là kết quả của 8 tháng dòng Tô Hoài ăn, ngủ, sinh hoạt và giao tiếp tâm hồn với người đồng bào miền núi Tây Bắc. Truyện ngắn xây dựng hình tượng nhân vật Mị làm trung tâm, điển hình cho số phận và tính cách, tâm hồn con người miền núi trong xã hội cũ. Bên ngoài một cô Mị đau khổ, bất hạnh còn tiềm ẩn một sức sống tiềm tàng âm ỉ. Sức sống ấy được khơi dậy mạnh mẽ trong đoạn đêm tình mùa xuân khi Mị nghe tiếng sáo gọi bạn.

Thời điểm xuân về, cả đất trời và con người H’Mông đều hòa nhịp với nhau. Người ta uống rượu, chơi xuân, đi chợ tình. Còn Mị, Mị chỉ dám lén lấy rượu uống. Mị “uống ực từng bát” để dồn nét, nuốt hết mọi cay đắng vào mình. Suốt quãng thời gian dài, Mị rơi vào vòng xoáy của công việc. Mị bị bóc lột sức lao động tàn nhẫn. Mị bị biến thành thứ công cụ biết nói mà không thể nói. Mị sống như “con rùa lùi lũi”, chẳng bằng thân trâu thân ngựa, không biết đến ngày mai. Thế rồi, khi tiếng sáo “từ xa vọng lại, thiết tha, bổi hồi”, sức sống tiềm tàng trong Mị được đánh thức và bùng lên dữ dội.

Tiếng sáo như chất xúc tác đánh thức cô Mị những cảm giác rất con người. Mị nhớ về quá khứ tươi đẹp. Hồi đó Mị xinh đẹp, nết na, thổi sáo giỏi khiến bao chàng trai bản mê đắm đi theo. Một điều tất yếu, càng nhớ quá khứ tươi đẹp bao nhiêu, Mị càng khao khát được hạnh phúc trong thực tại bấy nhiêu. Mị có sự phát triển từ tâm hồn tới hành động. Từ cảm giác rất người đã chuyển thành những hành động rất người. Mị “đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng thêm vào đĩa cho sáng”. Mị thắp sáng căn phòng, đồng thời cũng là thắp sáng cho chính cuộc đời tăm tối của Mị. Con người ấy đã “quen” với bóng đêm tù ngục đang đi tìm ánh sáng. Chỉ một chi tiết rất nhỏ, song sức sống tiềm ẩn bấy lâu nay trong nhân vật được bộc lộ rất rõ ràng.

Sức sống tiềm tàng trong nhân vật được thể hiện cao nhất trong khoảnh khắc Mị rơi vào cảnh bi thảm nhất. Đó là tình cảnh Mị bị A Phủ trói đứng. Biết Mị muốn đi chơi xuân, thấy Mị đang chuẩn bị đi chơi, A Phủ không nói một câu nào. A Phủ tiến tới “nắm Mị”, “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị”, “quấn luôn tóc Mị vào cột”… Trái lại, sức sống mùa xuân trong Mị đang mãnh liệt quá, tiếng sáo tha thiết gọi mời quá, Mị còn đang mải mê sống với quá khứ tươi đẹp. Thể xác bị trói chặt nhưng tâm hồn Mị đang bay. Sức sống tâm hồn mạnh mẽ tới mức điều khiển cả thể xác Mị. “Mị vùng bước đi”. Cái trạng thái “vùng bước” ấy đã lột tả tất thảy niềm ham sống, yêu đời, khao khát được hạnh phúc trong Mị. Ấy chẳng phải sức sống tiềm tàng mạnh mẽ đó sao?

Tóm lại, trong đoạn trích “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã thật tài tình khi thể hiện diễn biến nội tâm nhân vật Mị đặc biệt là trong đêm tình mùa xuân khi Mị nghe tiếng sáo gọi bạn. Qua đó, Tô Hoài khẳng định sức sống tiềm tàng mạnh mẽ bên trong những con người tưởng như bị áp bức tới chai sạn cảm xúc. Để làm tốt điều này, phong cách, tài năng và tấm lòng nhân đạo của tác giả chính là yếu tố cốt lõi. Vậy nên, truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” mới có thể sống mãi trong lòng người đọc bao thế hệ đi qua.

Số 3: Cảm nhận nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

Tô Hoài là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam, các sáng tác của ông thiên về diễn tả sự thật đời thường với lối viết giản dị, gần gũi, thông tục. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Truyện Tây Bắc” là một tác phẩm tiêu biểu, sau hơn nửa thế kỉ, đến nay vẫn giữ nguyên vẹn sức hút với nhiều thế hệ người đọc. Tác phẩm xoay quanh số phận cuộc sống của nhân vật Mị, đặc biệt là diễn tả diễn biến nội tâm của cô trong từng giai đoạn và đêm tình mùa xuân là một cảnh tác động lớn diễn biến tâm lý và hành động của người con gái vùng núi này.

Vì sao sau bao nhiêu năm sống “lầm lũi như con rùa nuôi nơi xó cửa”, chấp nhận cuộc sống chẳng bằng con trâu, con ngựa, sức sống của Mị lại chợt hồi sinh trong đêm tình mùa xuân? Phải chăng không khí mùa xuân đến bất ngờ cùng hội xuân, sắc áo váy rực rỡ và những cuộc chơi đã ảnh hưởng đến Mị? Hay chẳng phải sắc màu cũng chẳng phải hương xuân mà chính là tiếng sáo thân quen. Tiếng sáo gọi bạn tình vốn đã quen thuộc, đi vào nếp sống của người dân Hồng Ngài, họ dùng tiếng sáo để thể hiện tình yêu, để nói lòng mình. Nghe tiếng sáo, Mị lại bồi hồi nhớ lại quá khứ của mình, tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, hình ảnh tiếng sáo quan trọng đến mức được lặp lại hơn mười lần trong tác phẩm. Tiếng sáo tuy giản dị, mộc mạc nhưng lại khiến lòng người thiết tha bồi hồi, bởi nó tượng trưng cho tình yêu trai gái.

Tiếng sáo khơi dậy trong người con gái vốn tưởng đã chết về mặt tinh thần sống lại quá khứ tươi đẹp, cái ngày mà cô thỏa sức vùng vẫy trong tự do và tình yêu. Chính tiếng sáo đã tác động mạnh mẽ đến sức sống tiềm tàng trong Mị. Bên cạnh tiếng sáo, men rượu cũng là một yếu tố khiến Mị có sự thay đổi. Mị uống ực từng bát, uống như một tên sâu rượu, Mị uống để quên đi hiện tại khốn khổ, nhục nhã và cũng để không nhớ đến tương lai mờ mịt, không có gì để hi vọng. Hành động uống rượu ấy đã nói lên nỗi oan khuất đau buồn trong trái tim người con gái nhưng cũng tiếp thêm sức mạnh để người con gái ấy bừng tỉnh sức sống.

Từ những chất xúc tác từ bên ngoài ấy cùng bản chất mạnh mẽ, tràn đầy sức sống, Mị đã hồi sinh cảm xúc trong đêm tình mùa xuân. Nghe tiếng sáo, Mị bỗng cảm thấy tha thiết, bồi hồi. Những cảm xúc nhẹ nhàng ấy khiến Mị nhớ về quá khứ – một quá khứ tươi đẹp mà chẳng bao giờ Mị dám hi vọng có thể sống lại một lần nữa. Ngày ấy, Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo, tài năng cùng với sắc đẹp của nàng khiến bao chàng trai Hồng Ngài mê đắm, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Từ những hồi ức đẹp đẽ ấy, Mị thấy phơi phới trở lại và cô nhận ra mình vẫn còn trẻ. Thật kì lạ khi người ta không biết trạng thái của bản thân ra sao để rồi một ngày chợt nhận ra mình vãn còn trẻ.

Điều ấy chẳng khác nào bao ngày qua, Mị không biết mình đang sống hay chỉ là tồn tại như một cái xác và đêm nay, cô mới chợt tỉnh, nhận thức được mình vẫn còn trẻ, mình vẫn còn sống và mình phải làm điều gì để chứng minh điều đó. Điều đầu tiên cô muốn làm khi sống lại cảm giác chính là muốn đi chơi. Bao năm rồi, kể từ khi bị gả về nhà thống lý Pá Tra, làm vợ A Sử, Mị đều không đi chơi xuân, mặc dù những người đàn bà có chồng khác vẫn đi chơi. Mị muốn ra ngoài, không còn muốn yên phận sống trong căn phòng kín mít, chỉ có một ô cửa sổ nhỏ, hằng ngày nhìn ra không biết là sáng hay tối nữa. Cô bắt đầu sửa soạn, cô lấy chiếc váy hoa,cho thêm mỡ vào đèn để thắp sáng căn phòng tăm tối và quấn tóc.

Đây là những hành động được coi là phản kháng của Mị, cô đã bắt đầu có những phản ứng với cuộc sống, đã hồi sinh cảm xúc. Nhưng ngay khi ngọn lửa sức sống đang bùng cháy mạnh mẽ thì lại bị dập tắt, con người tàn nhẫn ấy không ai khác chính là A Sử – con trai thống lý và cũng là chồng Mị. Hắn đột nhiên về nhà và thấy lạ khi thấy Mị sửa soạn đi chơi. Con người ấy đã trói Mị lại, độc ác hơn, hắn lấy tóc Mị quấn quanh cột, không cho Mị cử động. Nhưng dù bị trói, hơi rượu vẫn nồng nàn trong Mị, chi phối lý trí cô. Cô nghe thấy tiếng sáo, tiếng sáo gọi bạn tình của ai kia mà như gọi lòng cô, bất giác cô bước đi, cô muốn đi theo tiếng sáo tình yêu ấy, đó mới chính là cuộc sống đáng lẽ cô được hưởng. Nhưng dây trói cứa vào da thịt, nỗi đau thể xác làm cô bừng tỉnh. Cô đành lòng phải trở lại với hiện thực đắng cay, rằng thân phận mình không bằng con ngựa nhà thống lý. Đau xót thay.

Sự hồi sinh sức sống của Mị trải qua cả một quá trình diễn biến từ những cảm xúc hồi tưởng về quá khứ đến hành động phản kháng muốn đi chơi và cuối cùng nhận thức ra một điều quan trọng. Lúc trước, Mị đã coi mình là con trâu, con ngựa nhà thống lý mà đã là con trâu, con ngựa thì không có suy nghĩ, chúng chỉ biết ăn và làm việc mà thôi nhưng lúc này Mị đã hiểu ra, trong ngôi nhà này, đến cả con trâu, con ngựa mình cũng không bằng. Sự hồi sinh sức sống này do nguyên nhân khách quan là tiếng sáo và men rượu nồng nó chưa đủ sức mạnh để tạo nên những hành động mạnh mẽ để tự giải thoát mình, chính vì thế sau đó, Mị lại trở lại cuộc sống như cũ.

Qua nghệ thuật miêu tả tâm lý cùng việc sử dụng ngôn ngữ giản dị, thông dụng, Tô Hoài dường như đã vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh một người con gái mạnh mẽ, tuy đã bị vùi dập, tưởng chỉ còn cái xác không hồn nhưng bên trong vẫn tiềm tàng ẩn chứa sức sống mãnh liệt, chỉ tìm cơ hội để hồi sinh, để bùng cháy.

Số 4: Phân tích nhân vật Mị đêm tình mùa xuân

Tô Hoài được biết đến không chỉ là cây bút của những câu chuyện loài vật mà ông còn được biết đến là nhà văn của những người nông dân nghèo khổ, đặc biệt là sau cách mạng ngòi bút của ông tập trung nhiều hơn vào số phận của những người nông dân Tây Bắc. Với tài năng, sự cần mẫn của mình ông đã tạo nên những tác phẩm để đời và một trong những số đó là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm sáng lên là nhân vật Mị với sức sống tiềm tàng, mãnh liệt, luôn khát khao hạnh phúc, được thể hiện rõ nhất trong đêm tình mùa xuân.

Mị vốn là cô gái xinh đẹp, giàu sức sống và yêu lao động. Gia đình nợ món tiền lớn của nhà thống lí Pá Tra, nhưng cô vẫn một mực xin cha cho làm nương, làm rẫy để trả nợ dần. Nhưng số phận bất hạnh, Mị bị A Sử bắt đi và chính thức trở thành con dâu gạt nợ với chuỗi ngày kinh hoàng bị bóp nghẹt, mài mòn cả về thể xác và tinh thần. Người ta không còn thấy một người con gái nhanh nhẹn, yêu lao động, yêu cuộc sống mà thay vào đó là một người phụ nữ tàn tạ, héo úa, “như con rùa lùi lũi trong xó cửa”. Cuộc sống của Mị bị cầm tù chẳng khác nào cái buồng cô sống chỉ có một cái cửa ô vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ, trăng trắng không biết là sương hay là nằng. Tưởng rằng cuộc đời cô sẽ cứ lầm lũi như vậy cho đến lúc chết, nhưng không, tất cả đã thay đổi trong đêm tình mùa xuân ấy.

Xuất phát điểm, Mị là cô gái giàu sức sống, nhưng do sự tàn độc của gia đình thống Lí đã bào mòn, bẻ gãy gần như tất cả khát vọng sống của cô. Bằng tài năng bậc thầy trong miêu tả tâm lí nhân vật, Tô Hoài đã có sự chuẩn bị kĩ lưỡng, chu đáo cho sữ trỗi dậy mạnh mẽ của Mị trong đêm tình mùa xuân.

Tác giả đặt quá trình trỗi dậy của Mị trong không khí mùa xuân. Mùa xuân Tây Bắc với âm thanh náo nhiệt, rộn rã với màu sắc tươi vui đã làm bừng lên sức sống trong vạn vật và con người. Dù những chi tiết Tô Hoài đưa vào để miêu tả không khí mùa xuân Tây Bắc có phần khác lạ và mới mẻ, nhưng chính nó đã tạo nên nét riêng biệt cho tác phẩm. Đông thời không khí mùa xuân bao giờ cũng gắn liền với tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc, bởi vậy không khí ấy cũng có tác động ít nhiều đến tâm lí Mị. Thứ hai đó là sự tác động của men rượu. Mị uống rượu vào ngày tết cũng như biết bao người khác, nhưng cái cách mà cô uống lại rất khác. Cô uống ừng ực từng bát, uống như trút giận, cho vơi đi những đau đớn, tủi hờn. Và cuối cùng là sự xuất hiện của tiếng sáo. Tiếng sáo vừa gợi lên không khí mùa xuân vui tươi, náo nức, vừa gợi nhắc về quá khứ đẹp đẽ, đồng thời đây cũng là tác nhân quan trọng làm bừng lên khát vọng hạnh phúc của Mị trong đêm tình mùa xuân.

Tiếng sáo dù mới chỉ lấp ló ở đầu núi nhưng đã hiến Mị tha thiết, bồi hồi, nó không chỉ là tiếng sáo gọi bạn tình mà còn là tiếng của sự sống đang cựa quậy hồi sinh trong tâm hồn Mị. Bởi vậy, nếu như trước đây Mị chối từ phương tiện giao tiếp của con người là ngôn ngữ để tồn tại một cách câm lặng thì giờ đây ngôn ngữ đã trở lại dù đó mới chỉ là tiếng nói thầm: “Mị ngồi nhẩm nhầm bài hát của người đang thổi: Mày có con trai con gái rồi/…/Ta đi tìm người yêu”. Nội dung bốn câu hát chính là viết về tình yêu nên nó thôi thúc Mị càng mạnh mẽ hơn, thúc Mị hãy thoát khỏi địa ngục trần gian.

Sự tác động của mùa xuân và hơi men đã khiến Mị chối bỏ thực tại, tìm về với quá khứ. Mị lịm đi và nhứ về những ngày trước, lúc này chỉ có thể xác của Mị thuộc về hiện tại khổ đau còn tầm hồn, tư tưởng đã quay trở về quá khứ đẹp đẽ. Những kí ức tươi đẹp sống lại trong lòng Mị, thổi bùng trong Mị khát vọng hạnh phúc và mong muốn đoạn tuyệt với hiện tại. Nhưng dù Mị đã trối bỏ thực tài, khát vọng hạnh phúc đã được thắp lên nhưng “Mị không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng”. Hành động này như một quán tính, một thói quen của cô. Bởi vậy, chỉ có một tiếng sáo, một chút men rượu vẫn chưa đủ để cô cắt đứt hoàn toàn với thực tại. Trong vô thức Mị vẫn bị cuộc sống đó cầm tù, giam hãm. Mị nhìn ô cửa sổ và nó đã đánh động Mị về chuỗi ngày sống mỏi mòn trong nhà thống lí Pá Tra, chính điều ấy đã đưa cô đi đến quyết định đoạn tuyệt, nếu có nắm lá ngón lúc này, cô sẽ quyết ăn mà chết ngay mới thôi. Sự sống và cái chết trong Mị không còn nhạt nhòa mà đã được phân định rõ ràng, Mị dám chết để chối từ thực tại đau khổ, bất hạnh.

Ngay khi khát vọng sống bùng lên mạnh mẽ, Mị dám chấp nhận cái chết để từ bỏ cuộc sống đau khổ, thì tiếng sáo lại xuất hiện đầy hữu ý, tiếng sáo đã khiến cuộc nổi loạn trong Mị không dừng lại ở tư tưởng mà biến thành hành động. Mị đến góc nhà lấy ống mỡ, bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Nó không chỉ thắp lên ánh sáng vật lí xua tan cái tối tăm của căn phòng, mà con mang ý nghĩa biểu tượng, thắp lên niềm mơ ước, hi vọng về hạnh phúc. Không chỉ vậy, Mị còn búi lại tóc, lấy váy để chuẩn bị đi chơi. Những hành động này cho thấy sự bùng nổ mạnh mẽ, dữ dội trong tâm lí Mị, gắn bới sự trỗi dậy của khát vọng hạnh phúc. Nhưng chính lúc đấy, A Sử xuất hiện, chặn đứng cuộc vượt thoát của Mị. Nhưng cường quyền lúc này chỉ trói buộc được thể xác của Mị còn khát vọng hạnh phúc, sống đã mạnh liệt đến mức Mị vượt ngục tinh thần. Bởi vậy, dù chân tay không cựa quậy được, nhưng Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo, tiếng sáo đưa Mị lên những cuộc chơi, đám chơi và đêm đó Mị sống giữa hai cõi mơ và thực: thực cô ý thức được mình không bằng con ngựa nhưng mơ lại giúp Mị vượt thoát khỏi thực tại khổ đau để sống trọn vẹn với quá khứ đẹp đẽ của mình.

Với diễn biến tâm trạng vừa phức tạp, vừa hợp lí, Mị đã thực hiện cuộc nổi loạn đầu tiền, thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ. Mặc dù chưa thành công, tuy khát vọng hạnh phúc chưa thành hiện thực, nhưng cuộc vượt thoát trong đêm tình mùa xuân vẫn có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó cho thấy ẩn đằng sau người phụ nữ bị nô lế hóa, tưởng như chai sạn vẫn tiềm tang sức sống mãnh liệt. Đồng thời khát vọng hạnh phúc bị chặn đứng cũng mang giá trị tố cáo, phê phán sâu sắc.

Bài Vợ chống A Phủ của Tô Hoài
Bài Vợ chống A Phủ của Tô Hoài

Số 5: Diễn biến tâm trạng nhân vật Mị đêm tình mùa xuân

Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai đoạn sáng tác sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nội dung kể về cuộc đời đầy biến cố của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ trong chế độ thực dân, phong kiến.

Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc có ý nghĩa khái quát cao, tiêu biểu cho cuộc sống đau khổ, tủi nhục và quá trình vùng lên tự giải phóng của đồng bào miền núi Tây Bắc. Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm xuân với những tình tiết chân thực và cảm động đã thể hiện sức sống mãnh liệt cùng khao khát tình yêu cháy bỏng của Mị – người con gái xinh đẹp mà bất hạnh.

Mị mồ côi mẹ, ở với cha già. Vì đẹp người đẹp nết nên Mị được nhiều chàng trai trong vùng để mắt tới. Tương lai của cô lẽ ra sẽ tốt lành, yên ấm, nhưng chì vì món nợ truyền đời của cha mẹ mà Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Tuổi xuân của Mị đã bị A Sử, gã con trai xấc xược và hung bạo tước đoạt, giày xéo.

Quãng đời Mị sống trong nhà thống lí là chuỗi dài những đọa đày, tủi nhục. Tuy danh nghĩa là con dâu nhà quan lớn nhưng thực chất Mị chỉ là đầy tớ, nô lệ, bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa. Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhịn và cam chịu. Lúc mới bị bắt về, Mị phản ứng quyết liệt, định ăn lá ngón tự tử, nhưng rồi thương xót cha già, Mị không đành lòng chết. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Cuộc sống không còn ý nghĩa. Cô sống mà như đã chết. Đau khổ triền miên đã làm cho Mị hóa thờ ơ, lạnh lùng. Mọi cảm xúc trong cô dường như đã chai lì. Tuy nhiên, khát vọng sống trong Mị chưa hoàn toàn lụi tắt. Trong Mị luôn tồn tại hai con người tưởng chừng đối lập: Con người bên ngoài lạnh lùng vô cảm và con người bên trong có sức sống âm thầm nhưng mãnh liệt.

Tác giả lấy khung cảnh mùa xuân, đêm xuân làm nền cho diễn biến tâm trạng của Mị. Mùa xuân, đất trời tưng bừng màu sắc, rộn rã âm thanh, rất gần gũi với quãng đời hồn nhiên, vui vẻ ngày trước của Mị: Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió vã rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ… Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi.

Đoạn văn tả cảnh mùa xuân trên vùng núi cao Tây Bắc với những hình ảnh đặc sắc sinh động và đầy sức sống. Màu sắc sặc sỡ của những chiếc váy hoa của các cô gái phơi trên các mỏm đá báo hiệu Tết đã đến gần. Tiếng cười ầm của đám trẻ con chơi quay trên sân chơi trước nhà. Tiếng sáo thổi réo rắt rủ bạn tình đi chơi. Tiếng chó sủa xa xa… Những đêm tình mùa xuân đã tới.

Sức sống tưng bừng của vạn vật mùa xuân đã làm cho tâm hồn Mị hồi sinh. Tâm trạng Mị lúc này pha trộn giữa nhiều cung bậc cảm xúc: vui sướng và đau khổ, tủi nhục đến mức muốn chết và khao khát sống. Những cảm xúc ấy đang trỗi dậy, cuộn xoáy, trào dâng trong lòng Mị.

Trong lúc trai gái và lũ trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn trên sân chơi đầu bản thì Mị thiết tha bồi hồi khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình từ đầu núi vọng lại. Mị nhẩm thầm bài hát quen thuộc mà thời con gái cô hay hát:

Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu.

Sau bao năm câm lặng trong đau khổ, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ khe khẽ cất tiếng hát thầm.

Cảnh vui xuân nhộn nhịp ở đầu bản và cảnh ăn Tết ồn ào trong nhà thống lí Pá Tra đã tác động mạnh tới tâm hồn Mị, khiến cô nhớ lại thời con gái chưa xa. Lúc đầu, Mị hành động theo thói quen một cách vô thức: Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Mị uống rượu mà như uống nỗi tủi hận, cay đắng vào lòng, hay là Mị cố tình uống thế cho thật say để quên đi nỗi khổ? Tuy nhiên, hành động ấy thể hiện một sự chuyển biến khác thường đang diễn ra trong tâm trạng người con gái đáng thương.

Bi kịch bắt đầu khi ý thức về bản thân của Mị đang trỗi dậy. Mị say rượu lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát men rượu đánh thức nỗi nhớ về phần đời đã qua: Mị đang sống về ngày trước. Tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng bên tai Mị. Đấy là tiếng sáo của tình yêu rạo rực, của tuổi thanh xuân căng đầy sức sống. Dường như lúc này, Mị không còn là con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra nữa mà là cô gái xinh đẹp đang uống rượu bên bếp lửa và thổi sáo: Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo.

Bao kỉ niệm đẹp thời con gái sống dậy trong lòng Mị: Mị thổi sáo giỏi… có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Hồi tưởng về mùa xuân tươi đẹp thời con gái, điều đó cho thấy con người thật của Mị đang hồi sinh. Khát vọng sống như ngọn lửa đang bừng cháy trong tâm hồn Mị.

Diễn biến tâm trạng Mị rất phức tạp: Cô đang bị giằng xé bởi mâu thuẫn giữa thân phận tù túng của người con dâu gạt nợ và mong muốn được tự do đi chơi Tết của cô gái đang khao khát tự do và tình yêu. Liệu Mị có dám cắt đứt sợi dây oan nghiệt đang thít chặt lấy số phận mình để đến với những cuộc chơi vui vẻ, với tiếng sáo gọi bạn tình réo rắt du dương?

Mải mê chìm đắm trong quá khứ nên Mị tạm quên hiện tại: rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau, Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi Mị từ từ bước vào buồng. Tâm trạng Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị nhận ra rằng mình vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi.

Khát vọng sống như ngọn lửa bừng cháy trong lòng khiến Mị càng thêm một phẫn uất trước tình cảnh tủi nhục của mình. Bao nhiêu người có chồng mà vẫn đi chơi ngày Tết đấy thôi. A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Uất ức, nước mắt Mị ứa ra. Tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường:

Anh ném pao, em không bắt,

Em không yêu, quả pao rơi rồi…

Mị muốn quên thời con gái ngày trước mà không sao quên được. Tiếng sáo cứ lửng lơ trong đầu khiến cho Mị thiết tha bồi hồi.

Khi A Sử bất ngờ vào buồng để thay áo mới, tiếp tục đi rình bắt thêm con gái nhà người ta đem về làm vợ; Mị lặng lẽ, thản nhiên xắn thêm miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng, quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái áo. A Sử nhìn Mị, Mị không thèm nói một lời. Những hành động “nổi loạn” diễn ra trong khi tiếng sáo đang rập rờn trong đầu Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình như đem đến cho Mị một sức mạnh mới, khơi gợi khao khát yêu đương và hạnh phúc. Khi với tay lấy váy hoa… là Mị đã thực sự sống lại thời con gái với bao ước mơ tươi đẹp.

Mị đã bừng tỉnh; quá khứ, hiện tại đan xen trong tâm hồn Mị. Hiện tại thì tăm tối, ngột ngạt, mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lơ lửng bay ngoài đường, đánh thức quá khứ đẹp đẽ chưa xa.

Những hành động khác thường của Mị đã bị A Sử trấn áp phũ phàng. Sau câu hỏi ngạc nhiên và giận dữ: “Mày muốn đi chơi à?”, A Sử trói Mị bằng cả một thúng sợi đay, quấn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Không có một dòng nào miêu tả thái độ phản kháng của Mị. Suốt từ đầu đến cuối, Mị chỉ im lặng, âm thầm cam chịu. Tuy vậy, ẩn chứa bên trong lại là một cô Mị hoàn toàn khác, một cô Mị đang say mê sống với những kỉ niệm tình yêu. A Sử chỉ trói buộc được thể xác chứ không thể trói buộc được tâm hồn Mị.

Miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân, Tô Hoài dường như đã nhập thân vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn nâng đỡ tâm hồn Mị. Tai Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Tuy Mị chưa giải thoát được thể xác nhưng Mị đã giải thoát được tâm hồn.

Lòng Mị bồi hồi theo tiếng sáo: Em không yêu, quả pao rơi rồi, Em yêu người nào, em bắt pao nào… Những vết dây trói đau nhức đưa Mị trở về với thực tại đau đớn, khổ nhục. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách… Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.

Mị đang sống với con người bên trong của mình: Chừng đã khuya… Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi nhớ đến thời điểm trai bản đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Lúc này, thực tại và quá khứ cứ đan xen vào nhau, giằng xé tâm hồn Mị. Càng nhớ tới kỉ niệm cũ, Mị càng xót xa, đau khổ, phẫn uất trước thực tại phũ phàng : Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê, lúc tỉnh. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.

Mị bàng hoàng tỉnh… Không một tiếng động. Mị thương những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan… Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: Đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Nhớ thế, Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết, cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau dứt từng mảnh thịt.

Như thế là cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị không thành. Mị không thể thoát khỏi địa ngục trần gian là nhà bố con tên thống lí, nhưng Mị không còn là con ngựa, con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa nữa. Mị đã sống lại những thời khắc của tuổi thanh xuân tươi trẻ và tự do. Cuộc trỗi dậy ấy như một đợt sóng dâng lên rồi nhanh chóng tan ra, dù chưa làm thay đổi cuộc đời Mị nhưng những đợt sóng ngầm của cảm xúc đến lúc nào đó sẽ tuôn trào mãnh liệt mà bằng chứng là hành động Mị liều lĩnh cởi trói cứu A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài.

Ở đoạn văn này, tác giả miêu tả hành động của Mị rất ít, nhưng người đọc vẫn bị cuốn hút bởi một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy, có một sức sống tiềm tàng mà không một thế lực tàn ác nào vùi dập được. Không gian, thời gian, giọng kể chuyện của tác giả đều phù hợp với diễn biến phức tạp của tâm trạng Mị. Tô Hoài đã dẫn dắt người đọc dõi theo tâm trạng ấy, khi thiết tha bồi hồi, khi nghẹn ngào xót xa! Đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm xuân thấm đẫm tính nhân văn, góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị; thể hiện một cách chân thật và cảm động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.

Số 6: Hình tượng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

Văn học Việt Nam đánh dấu sự thành công của nhiều tác giả viết truyện ngắn như Kim Lân, Năm Cao, Vũ Trọng Phụng,.. Đặc biệt ,Tô Hoài là tác giả tiêu biểu với phòng cách viết độc đáo, mỗi tác phẩm của ông đều cho thấy tài năng bậc thầy trong việc khai thác tâm lý nhân vật. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là thành công rực rỡ của ông trong sự nghiệp sáng tác của đời mình, bằng ngòi bút điêu luyện ông đã đi sâu vào từng ngóc ngách của tâm hồn nhân vật. Đặc biệt, trong đêm tình mùa xuân, những diễn biến tâm lý và hành động của nhân vật Mị được thể hiện rất chi tiết, cụ thể giàu sức gợi.

Mị vốn là cô gái xinh đẹp, giàu lòng yêu thương và tràn trề sức sống nhưng xã hội phong kiến đầy bất công và tàn nhân đã đẩy cuộc đời Mị vào khốn khổ bần cùng, kiếp làm dâu cũng là kiếp nô lệ nơi nhà tên thống lý độc ác. Có những lúc tưởng chừng như Mị muốn kết liễu cuộc đời mình bởi sự khốn cùng ấy. Cuộc sống trong tâm tối, kiếp làm trâu làm ngựa có thể khiến Mị khổ đau, buồn tủi, bòn rút hết sức lực nhưng không thể làm cho sức sống tiềm tàng trong Mị mất đi, nó dường như đang âm ỷ trong lòng chỉ chờ cơ hội để bung toả, cháy sáng giữa chốn bần cùng, tăm tối ấy. Mùa xuân đến, khi mà nơi nơi đang rạo rực sức xuân “trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa xếp trên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa… Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi và cỏ ranh vàng ửng… Trong các làng Mèo, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm, sặc sỡ… Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân trước nhà.

Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi…” Những khung cảnh ngày xuân đang tới khiến tâm hồn Mị như đang được sưởi ấm, trái tim người con gái vốn đang hoen rỉ giờ đây vc dịp hồi sinh, tỉnh thức. Bảo nỗi đau đớn, buồn tủi hòa trong hạnh phúc, vui sướng, những cảm xúc thiết tha ấy đang trào dâng như những đợt dâng trào trong lòng Mị. Đặc biệt, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình nơi đầu vách núi vọng lại, tâm hồn Mị dường như được tưới lên một sức sống, tiếp lên một thứ tình cảm thôi thúc Mị, Mị lúc này trở nên biết yêu và biết cảm nhận mọi vật xung quanh hơn, tiếng hát câm nín bấy lâu đang cật lên nhịp nhàng trong từng hơi thở của cô gái, tiếng hát thầm ấy chứa chan bảo nỗi lòng, bao nỗi tâm sự:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu.”

Rồi Mị tìm đến hơi rượu “Mị uống ừng ực từng bát”, men rượi đã làm Mị quên đi thực tại khổ đau của mình, men rượ đưa Mị về với những ngày thành xuân khi quá khứ còn tươi đẹp, những ngày Mị được tự do vui sống trong hạnh phúc, được cất tiếng hát trong trẻo yêu thương, được biết bao người con trai đem lòng yêu mến. Đó là những ngày rực rỡ Mị được sống với chính mình. Càng say, bao nỗi đớn đau trong Mị dần quên đi, Mị uống hết tất thảy những tủi hờn đắng cay mà bấy lâu đang chịu đựng, quá khứ đẹp đẽ thôi thúc Mị hành động, trong Mị ngập tràn một sức sống mới, nổi loạn hơn, rạo rực hơn. Trong Mị lúc này, nội tâm đang ngập tràn mâu thuẫn, những sự giằng xé giữa quá khứ và hiện tại, quay quắt giữa thực tại tù túng, khốn cùng và khát khao sống tự do, khát khao hạnh phúc chân chính của đời mình.

Mị sung sướng vô cùng, sống lòng đang trào dâng từng đợt thôi thúc nàng hành động, tâm tư Mị đang sục sôi khôn tả :” rồi Mị lấy ống mỡ sẵn bỏ thêm vào đĩa dầu” , nàng đang thắp lên ngọn lửa lòng, ngọn lửa của màn đêm tăm tối ,ngọn lửa cuộc đời giữa số phận đắng cay là ngọn lửa của niềm tin, nhen nhóm hy vọng của tương lai tốt đẹp. Rồi bỏ mặc hết tất thảy những cấm đoán, ràng buộc ,”Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” , một hành động dũng cảm và đầy bản lĩnh. Lúc này đây, Mị khao khát được là mình, được làm đẹp, được đi chơi Tết như bao nhiêu người con gái khác, bấy lâu Mị đã khổ quá rồi. Đây là một hành động chứng tỏ sức sống mãnh liệt , Mị đang vùng vẫy hết mình để đấu tranh cho quyền sống và quyền tự do của đời mình.

Nhưng rồi, thực tại phũ phàng Mị vẫn không thể tránh khỏi khi bóng dáng tên chồng vô lương tâm A sử cùng lời quát mắng tàn độc dần xuất hiện: “Mày muốn đi chơi à”, rồi hắn trói Mị vào cột nhà một cách đầy dã man như một con ác thú tàn độc. Hắn đã trói buộc cuộc đời Mị bấy lâu, giờ đây ngày cả cái ước muốn nhỏ nhoi được đi chơi xuân cũng bị hắn cấm đoán. Nhưng dù thể xác có bị cầm tù thì tâm hồn nàng vẫn đang vươn cao cất cánh, bay bỏng tới những khung trời của mùa xuân, của tình yêu, của tiếng sáo đêm xuân tình. Quá khứ đã đưa Mị về với những cảm xúc vẹn nguyên, tròn đầy nhất, quá khứ đã níu giữ khát khao được sống, lòng yêu cuộc sống của nàng.

Khi Mị chợt tỉnh, cũng là lúc cái đau thể xác với những dây trói đang xiết vào từng thớ thịt Mị khiến nàng đau đớn, nỗi tủi nhục khi nghĩ cuộc đời mình lại chẳng bằng một con ngựa trong chuồng. Nàng vùng bước đi nhưng những sợi đay đã trói chặt nàng. Hình ảnh cô gái miền núi Tây Bắc với bao nét đẹp trong tâm hồn, một cô gái luôn giữ trong mình một ngọn lửa của sức sống, ngọn lửa ấy thật thiêng liêng và quý giá. Trong bần cùng, đau khổ, bao áp bức, bất công, tàn nhẫn, trong hoàn cảnh đau thương nhất vẫn không vùi tất được ngọn lửa lòng trong Mị, một sức sống bất diệt, không một thế lực nào có thể giết chết đi sức sống tiềm tàng của những con người dũng cảm, tin yêu cuộc sống.

Bằng cách miêu tả tâm lí độc đáo, Tô Hoài đã đưa người độc được sống với từng cảm xúc của nhân vật, một cô gái Mị mà mãi mãi có lẽ ai đã đọc tác phẩm một lần cũng không thể nào quên. Tác phẩm như một thông điệp mạnh mẽ về tinh thần lạc quan, về nghị lực sống, nghị lực vươn lên, đấu tranh với những độc ác, bất công để tìm lấy hạnh phúc, tự do cho cuộc sống chính mình.

Số 7: Nhân vật Mị đêm tình mùa xuân

Một trong những thành công tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật. Ngòi bút nhà văn thật tinh tê, sâu sắc trong việc miêu tả diễn biến tâm lí, sức sống tiềm tàng và sự biến đổi số phận của nhân vật. Đó là Mị – người phụ nữ tưởng chừng như đã cam chịu số phận, không còn sức sống và lối thoát nhưng trong hoàn cảnh có thể, Mị vẫn vươn lên làm chủ cuộc đời mình. Và cái gì đã khiến bên trong “con rùa” câm lặng ấy bùng lên khát vọng sống, khát vọng yêu, khát vọng được quyền làm người cho ra một kiếp người, chính là đêm tình mùa xuân trở về trên rẻo cao.

Trong tác phẩm, nhân vật Mị biểu hiện rất rõ khi cô có những biến đổi trong tâm lí trước hoàn cảnh sống và tìm cho mình một con đường hi vọng. Đặc biệt là diễn biến tâm lí của cô trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài. Những ngày đầu làm dâu, Mị thấm thía nỗi đau của một cuộc đời bị cướp đoạt, “đêm nào Mị cũng khóc”, Mị muốn tự tử. Bởi vì, Mị không muốn chấp nhận một cuộc sống chết mòn héo úa, điều này chứng tỏ trong con người Mị tiềm ẩn một sức sống mạnh liệt, muốn thoát khỏi cuộc sống nô lệ. Nhưng thương cha sẽ phải gánh chịu hậu quả về cái chết của mình, Mị đành vứt nắm lá ngón, trở lại nhà thống lí.

Ngày lại ngày qua, nỗi khổ cùng cực đã dồn nén dần cái sức sống tiềm tàng ấy vào tận đáy buồng tìm Mị. Mị không nghĩ đến cái chết nữa. Mị bị biến thành một công cụ lao động cho nhà thống lí Pá Tra. Cuộc đời của Mị “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Mị bị đọa đày đến mức bị tê liệt về tinh thần, buông xuôi, phó mặc cho hoàn cảnh “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, “biết đi làm mà thôi”. Mị còn phải chịu nỗi đau về tinh thần triền miên. Căn buồng của Mị ở là một thứ ngục thất giam cầm tù nhân “ Ở cái buồng Mị nằm, kín nút, có một…không biết là sương hay nắng”.

Nhưng giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm là ở chỗ nhà văn đã nhìn thấy sức sống vẫn còn tiềm tàng trong Mị. Sức sống ấy sẽ vẫn bùng cháy khi có cơ hội. Và nó đã đến trong đêm tình mùa xuân. Mùa xuân thường mang lại cho con người hi vọng, ước mơ, là mùa lễ hội, vui chơi, mùa của tình yêu.

Năm ấy ở Hồng Ngài gió và rét dữ dội. Mùa xuân đến mang theo âm thanh đặc trưng của nó. Âm thanh rộn rã của trẻ con chơi đùa, đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn tình hòa cùng màu sắc sặc sỡ của váy áo phơi trên những mỏm đá. Đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình xuân tha thiết, bồi hồi vọng đến tai Mị. Tiếng sáo thấm vào trái tim Mị, thức tĩnh sự câm lặng bấy lâu nay. Từ trong tâm trạng lặng lẽ, u uẩn, một cuộc sống vô vị không có quá khứ, không có hiện tại và không có cả tương lai. Mị nghe tiếng sáo tha thiết gọi bạn mà hồi tưởng những ngày hồn nhiên, tươi trẻ thuở xưa. Ngày ấy Mị thổi sáo giỏi. Tiếng sáo giúp Mị nhận ra một điều tưởng như đã chìm vào quên lãng.

Mị uống rượu “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cô đang uống đắng cay của cái phần đời đã qua và muốn thoát khỏi thực tại. Rượu làm thân xác cô say, nhưng tâm hồn cô lại tỉnh, Mị với cõi lòng phơi phới trở lại với thời con gái trẻ trung, hạnh phúc.Mị như sống lại, Mị thấy yêu đời. Không khí mùa xuân chỉ là một chất xúc tác, bởi vì nếu như sâu xa trong Mị không có một sưc sống tiềm tàng thì nó đã không thực dậy với bao điều tốt đẹp. “Mị thấy lòng mình vui sướng lại. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ”.

Cứ thế cho đến khi men rượu hay men cuộc đời đã nâng bỗng tâm hồn Mị trở về với ý thức sâu sắc của nhân phẩm. Mị ý thức sự tồn tại của bản thân “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chớ không buồn nhớ lại nữa”. Nghịch lí trên cho thấy khi niềm khát khao sống hồi sinh, con người không chấp nhận cái trạng thái vô nghĩa lí của thực tại.

Nếu như lúc trước Mị hoàn toàn mơ hồ về thời gian. Mị không nhớ mình về đây được mấy năm vì trước nay Mị đâu có mùa xuân. Nhưng giờ đây Mị muốn có cái quyền đơn giản như bao người khác: “Mị muốn đi chơi”. Có thể đối với Mị là một sự thay đổi lớn lao và vẫn còn kịp lúc, tuy bắt nguồn từ cảm xúc nhất thời nhưng nó cũng chứng tỏ Mị vẫn còn đó bao khát khao. “Mị quấn lại tóc”. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách.

Chính sự thay đổi đó làm cho A Sử ngạc nhiên vì dưới mắt hắn Mị chẳng khác nào một nô lệ. Hành động trói Mị tàn nhẫn của hắn tuy giam giữ được thể xác Mị, nhưng không thể giam giữ tâm hồn Mị: “ Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi.” Tâm hồn Mị giờ như chơi vơi trong mộng. Mị trở về thời xưa với bao ước vọng. Sức sống trổi dậy làm Mị phơi phới, mơ mộng trong thoáng chốc nhưng rồi Mị cũng trở về thực tại. Chính sức sống của Mị buộc cô phải nghĩ đến liệu cô có duy trì được nó hay không. Mị nhớ đến người chị dâu đã bị trói chết. Mị sợ. Một khi ta biết sợ chết thì người ta càng thêm yêu cuộc sống. Mị cũng vậy.

Với ngôn ngữ lựa chon một cách tinh tế, nghệ thuật trần thuật đặc biệt là thể hiện sâu sắc diễn biến tâm lí nhân vật, tác giả làm cho người đọc cũng phải thổn thức, vui mừng đến xót xa cho số phận nhân vật.

Mùa xuân rồi cũng qua đi nhưng sức sống tiềm tàng trong Mị đã được khơi dậy và chờ dịp bùng lên. Với nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật tinh tế Tô Hoài đã đem đến cho nhân vật một hướng đi, một cuộc đời mới. Đó cũng chính là giá trị nhân văn cao đẹp của tác phẩm. Đồng thời cũng cho thấy tài năng của Tô Hoài cùng những đóng góp của ông cho văn học Việt Nam.

Số 8: Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa Xuân

Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” mà nhà văn Tô Hoài đã dành nhiều công sức và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập “Truyện Tây Bắc” (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong “Vợ chồng A Phủ” không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật của một cây bút tài hoa. Trong “Vợ chồng A Phủ“, Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái “dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mắt buồn rười rượi”. Đó là tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.

Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.

Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa… Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Tuy nhiên sợi dây ấy chỉ có thể “trói” được thân xác Mị chứ không thể “trói” được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực để sống theo tiếng gọi trái tim mình.

Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó.

Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay “Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác.

Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lý trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn ác hơn cả thú dữ trong rừng.

Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ… Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó.

Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này.

Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi, còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên.

Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân – hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài – một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…

Rõ ràng, trong đêm mùa xuân này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.

Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn – giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 – 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.

Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.

Bài Vợ chống A Phủ của Tô Hoài
Bài Vợ chống A Phủ của Tô Hoài

Số 9: Phân tích tâm trạng Mị trong đêm tình mùa Xuân

Vợ Chồng A phủ là tác phẩm hay nhất nói về con người và đất nước vùng cao Tây Bắc. Qua ngòi bút của Tô Hoài ta thấy được nỗi khổ đau và tủi nhục của các cô gái khi bị “ ép duyên” và sự áp bức của chế độ phong kiến thời bấy giờ. Có nhiều tuyến nhân vật chính và phụ trong tác phẩm như A Phủ, A Sử, thống lí Bá Tra… nhưng Mị vẫn là nhân vật trung tâm của tác phẩm và tâm trạng, hành động, suy nghĩ của Mị được bộc lộ rõ nét nhất qua cảnh Mị trong đêm tình mùa xuân.

Mị là cô gái người dân tộc H’Mông tài sắc vẹn toàn, vừa hát hay, thổi sáo giỏi làm say đắm biết bao chàng trai. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ không có đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Bá tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả hết nợ. Vì vậy, đến tuổi xuân thì, Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Bá Tra nhưng thực chất là làm nô lệ. Suốt ngày, ở nhà thống lí, Mị phải quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, đi cõng nước dưới khe suối lên, hái thuốc phiện, giặt đay, se đay, bung ngô, tước đay thành sợi… Kiếp sống cơ cực hơn cả ngựa trâu đã biến một cô gái hồn nhiên, yêu đời, năm nào thành một người phụ nữ cam chịu “ lùi lũi như con rùa nuôi sống xó cửa”, có khi vô cảm. Mặt khác, Mị cũng có những phản ứng ngấm ngầm. Một hôm, Mị trốn về nhà. quỳ lạy bố, úp mặt xuống đất khóc nức nở nhưng bên trong áo giấu sẵn một nắm lá ngón để tự tử.

Mị không chỉ là nạn nhân của sự đầu độc, áp chế về tinh thần. Bọn thống lí Bá Tra đã lợi dụng thần quyền – tục mê tín dị đoan để làm cho người nô lệ này yên phận với kiếp sống đau khổ. Mị tin rằng “ Ta là thân đàn bà. nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Cho nên, Mị sống nhẫn nhục, thầm lặng, vô cảm, không có chút hi vọng vào sự đổi thay của tương lai.

Thế rồi mùa xuân lại về. Khung cảnh thiên nhiên mùa xuân ở Hồng Ngài thật thơ mộng, tình tứ và bừng sức sống: “ Gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng”, “ trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ hau, đỏ thẫm, rồi sang màu tím man mát”.

Cùng với vẻ đẹp thiên nhiên là không khí náo nức, nhộn nhịp của ngày hội. “ Trai gái, trẻ con ra sân chơi tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy”; “ chiêng đánh ầm ỉ”; “ văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Chính cái không khí ấy đã khơi dậy, đánh thức nơi bề sâu hun hút của tâm hồn Mị một cuộc sống mãnh liệt, trẻ trung. Mị “ lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ựng từng bát”. Rồi Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị.

Nhưng khi tâm trạng bồi hồi, sung sướng vô ngần ấy vừa xuất hiện thì nổi đắng cay, chua xót, u sầu cũng chạy đến vây lấy Mị. Mị ý thức được cảnh ngộ éo le của cuộc đời mình.” A Sử với Mị không có lòng với nhau nhưng vẫn phải ở với nhau. Mị liền nghĩ đến cái chết: “ Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn hết cho chết ngay”. Nhưng rồi, “ tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường: Anh ném pao, em không bắt; Em không yêu, quả pao rơi rồi…” đã giục giã, thôi thúc Mị, khiến Mị dường như quên hết cảnh ngộ bi thảm hiện tại. Mị hành động như một người tự do,như “ bao nhiêu người có chồng khác”. Mị đến góc nhà lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Mị muốn đi chơi một cách bản năng. Cái ý nghĩ “ muốn đi chơi” vọt ra khi có tiếng sáo rập rờn ở trong đầu. Cái hành động “ quấn lại tóc”, “ với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”, “ rút thêm cái áo” chuẩn bị đi chơi là sự chiến thắng bất ngờ của bản năng. Bản năng đã làm cho Mị không biết sợ sệt là gì.

Trong lúc lòng yêu đời đang trỗi dậy mãnh liệt cũng là lúc Mị bị vùi dập một cách tàn nhẫn, không thương tiếc. Mặc dù đang “ thay áo mới, khoác thêm hai vòng bạc vào cổ rồi bị cái khăn trắng lên đầu” để đi chơi nhưng A Sử biết được ý định của Mị, hắn chỉ hỏi một câu: “ Mày muốn đi chơi à?” rồi “ bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thùng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên dây cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. Sau hành động vô nhân đạo, phũ phàng ấy, hắn bỏ đi.

Trong bóng tối, dù bị trói như một thứ đồ vật nhưng Mị vẫn sống với bản năng. Mị không biết mình đang bị trói. Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Mị vẫn nghe lời ca, tiếng hát ngọt ngào, tình tứ vang lên: “ Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Mãi đến lúc Mị “vùng bước đi”, cô mới giật mình trở về với thực tại, mới thấm hiểu rõ cái cảnh ngộ bi thảm của mình: “ Tay chân đau không cựa được” vfa cô mới thổn thức nỗi lòng, biết mình không bằng con ngựa. Nhưng khi nghe tiếng chó sủa xa xa, đêm đã về khuya thì Mị mới khóc, lòng Mị lại bồi hồi. Trong suốt đêm Mị bị trói đứng như thế, Mị rơi vào tâm trạng lúc tỉnh, lúc mê. Lúc mê lòng lại “ nồng nàn tha thiết nhớ”. Lúc tỉnh thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Đến sáng “ khi bàng hoàng tỉnh thì cô “ sợ quá”, “ cựa quậy”, xem mình còn sống hay chết”. Tâm trạng lo sợ ấy đã thể hiện ý thức về sự sống của Mị. Có cảm thấy đau đớn từng mảnh thịt bởi vì cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại. Chính sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị có những hành động táo bạo, mạnh mẽ sau này, cô cắt dây cởi trói để cứu A Phủ thoát khỏi cảnh ngộ bi thảm đồng thời cũng là tự cứu mình.

Tóm lại, trong khung cảnh tăm tối, ngột ngạt, tù túng, tàn bạo, chúng ta thấy có bản năng sống đầy chất thơ của nhân vật Mị bừng sáng lên. Sức sống tiềm tàng, trẻ trung không dập tắt được của Mị là một bài ca hùng hồn về sự sống. Đồng thời cũng là một bản cáo trạng đanh thép về tội ác của bọn phong kiến, thần quyền cùng núi cao Tây Bắc.

Số 10: Tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa Xuân

Phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật luôn là một thử thách đối với bất cứ tác giả nào. Không phải ai cũng có cái biệt tài đi miêu tả tâm lí nhân vật một cách tường tận và chân thực. Và Tô Hoài chính là một trong số ít những tác giả có biệt tài phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật với sự phát triển tâm lý hết sức logic, tự nhiên. Sự phát triển tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân chính là một ví dụ điển hình.

Mị là cô gái trẻ, sinh ra trong một gia đình nghèo khó, cha mẹ vì không có tiền cưới nhau nên phải vay tiền thống lí Pá Tra. Tiền chưa trả hết, món nợ đó đổ dồn lên Mị. Nhưng Mị không lấy đó làm gánh nặng, mà vẫn xin cha cho mình lao động để trả nợ dần. Rõ ràng trong cô gái này có một tình yêu lao động, yêu cuộc sống hết sức mãnh liệt. Khi bị biến thành con dâu gạt nợ, Mị phản kháng vô cùng quyết liệt, cô còn có quyết định ăn lá ngón để chấm dứt cuộc sống mất tự do này. Nhưng vì thương cha mà cô đã gắng gượng sống. Nhưng càng gắng gượng bao nhiêu thì tâm hồn cô lại càng bị bào mòn, chai sạn bấy nhiêu cho đến mức “ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”, Mị “như con rùa lùi lũi nơi xó cửa”, Mị dường như quên đi cả khát vọng tự do, khát vọng hạnh phúc của mình, chỉ chờ đến ngày mình chết đi mà thôi.

Đẩy nhân vật vào sự cùng khổ đến tận cùng chính là một dụng ý nghệ thuật của Tô Hoài, bởi chỉ khi con người ta bị đẩy vào bước đường cùng thì khát khao mới được bùng lên quyết liệt và mạnh mẽ ấy. Và cái khao khát ấy đã được thể hiện rõ nét trong đêm tình mùa xuân ấy.

Để tạo tiền đề cho sự đột phá của Mị, Tô Hoài đã dụng công chuẩn bị những yếu tố khác đặc biệt là những yếu tố về thiên nhiên, về cảnh sắc cuộc sống của những người miền núi. Mùa xuân về trên vùng cao quả thực vô cùng rực rỡ, đẹp đẽ. Những đồi cỏ ranh vàng ửng nhưng những vệt lửa thổi dưới thung khô, càng rét càng trở nên dữ dội hơn. Trên những mỏm đá mèo là những chiếc váy sắc màu rực rỡ, rồi cùng với đó tiếng cười của trẻ con. Không khí mùa xuân thật náo nhiệt, tràn đầy sức sống. Chính những tác nhân bên ngoài này đã phần nào gợi lên lòng yêu cuộc sống, giúp Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ.

Trong những yếu tố được Tô Hoài chuẩn bị thì đắt giá nhất là chi tiết tiếng sáo. Tiếng sáo xuất hiện từ xa đến gần, từ đỉnh núi, đến đầu làng rồi quanh quẩn trong tâm trí Mị. Tiếng sáo ấy đã tác động mạnh mẽ đến tâm lí Mị. Cùng với đó là sự kết hợp của hơi men, “ngày tết, Mị cũng uống rượu như ai” , nhưng Mị uống như để quên đi đau đớn, Mị uống ừng ực từng bát, rồi say lịm đi. Trong mơ màng Mị thấy tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng. Tiếng sáo ấy đã làm Mị động tâm, là cô bổi hổi nhớ lại những kỉ niệm đẹp trước đây. Lòng cô phơi phới trở nên, niềm vui sướng trào dâng. Và cô nhận thấy “Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Sau bao năm làm con rùa lùi lũi trong xó cửa, dường như ý thức về bản thân mình đã dần dần quay trở lại.

Dường như đoạn văn này ta thấy như chính lời Mị nói ra, Tô Hoài đã xuất sắc hóa thân để thấu hiểu những suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật. Đồng thời điều đó cũng giúp Tô Hoài thấy được những giằng xé, mâu thuẫn trong tâm lí Mị giữa quá khứ và hiện tại. Và khi tiếng sáo vang lên, khi Mị như bừng tỉnh, và khát khao: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không muốn nhớ lại nữa”. Đây là sự phản kháng hết sức quyết liệt, đối với Mị phải sống mất tự do, còn đau đớn, tủi cực hơn cả cái chết. Điều đó đã cho thấy khát khao mãnh liệt của Mị.

Thì ra đằng sau con những tưởng như đã chết hoàn toàn ấy lại vẫn tiềm tàng sức sống mãnh liệt đến như vậy. Mị không cam chịu ở nhà, Mị muốn đi chơi như mọi người, muốn được hòa nhập, muốn được sống thực sự. Cô đã hiện thực hóa bằng hàng loạt các hành động: cô vào khêu đèn, quấn tóc và lấy váy để chuẩn bị đi chơi… Nếu như với những người con gái khác đó là điều rất bình thường, nhưng đối với Mị là cả một quá trình thức tỉnh và đấu tranh không ngừng.

Nhưng chính lúc ấy, ý định của cô lại bị kẻ độc ác – A Sử chặn đựng bằng hành động bạo ngược, trói đứng ở cột. Dù A Phủ có giam giữ được thân thể nhưng cũng không thể giữ nổi tâm hồn của cô bởi tâm hồn cô theo tiếng sáo, nhớ về những ngày trước.

Chỉ với duy nhất phần miêu tả tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân, đã có thể khẳng định tài năng nghệ thuật của Tô Hoài trong cách xử lý, sắp xếp sự kiện để miêu tả tâm lí nhân vật. Qua đó càng khẳng định hơn nữa tài năng của ông. Đồng thời cũng thấy được vẻ đẹp trong sức sống của Mị.

Số 11: Tâm trạng Mị trong đêm tình mùa Xuân

Nhắc đến “Vợ chồng A Phủ” chắc hẳn bạn sẽ nhớ đến ngay cô Mị – một nhân vật trung tâm của truyện ngắn. Với cuộc đời đau khổ và cơ cực, Mị đại diện cho cuộc sống tủi nhục của người dân miền núi dưới ách thống trị của phong kiến và bọn chúa đất. Cuộc đời của Mị trong cảnh làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra thể hiện giá trị hiện thực của tác phẩm. Tuy nhiên dưới ngòi bút nhân đạo của mình, Tô Hoài không để cho cô Mị cứ mãi sống nhẫn nhịn chai lì mà thúc đẩy sức sống tiềm tàng trong cô. Sức sống ấy được bùng cháy trong đêm tình mùa xuân. Diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm ấy đã trở thành điểm ấn tượng khó phai mờ trong lòng người đọc.

Nguyễn Du có câu “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Chính vì cảnh vật thiên nhiên nơi miền núi vào xuân đã tác động đến tâm trạng của Mị. “Những chiếc váy hoa phơi trên mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ”. Đám trẻ con chơi quay ầm cả bản. Gió heo may, cỏ vàng ửng…. Cảnh vật vào xuân, cả bản ăn Tết. Đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha bổi hổi cứ vang vọng. Ngoại cảnh đã góp phần không nhỏ vào sự thay đổi tâm trạng của Mị. Và rồi Mị lén uống rượu. “Mị uống ừng ực từng bát”. Uống “ừng ực” như để trôi đi, nguôi đi cái buồn, cái khổ. Mị uống như để quên đi cái đau khổ của phầm đời đã qua. Mị uống cái khao khát của phần đời chưa tới. Nhưng Mị uống chỉ say về thể xác còn tâm hồn cô lại như được thức tỉnh sau bao ngày bị tê liệt, đày đọa. “Chén rượu tiêu sầu, sầu càng sầu thêm”. Mị càng uống, Mị càng tỉnh.

Mị nhớ về những kỉ niệm ngày xưa. “Ngày xưa Mị thổi sáo giỏi”, Mị có tài thổi lá hay hơn thổi sáo. Những đêm tình mùa xuân, trai bản đứng nhẵn cả đầu buồng Mị. Rồi Mị thấy “phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng”. Mị ý thức được “mình còn trẻ lắm”. Điều đí đã dẫn tới ý định Mị “muốn đi chơi xuân”. Nhớ lại kỉ niệm ngày xưa Mị lại trở về thực tại. Mị ý thức được cuộc đời, số phận của mình. Mị ý thức được tình cảnh đau xót của mình. “Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn sống lại nữa”. Tiếng sáo lại rập rờn trong đầu Mị cùng tiếng hát ” Anh ném pao, em không bắt- Em không yêu, quả pao rơi rồi”. Tiếng sáo và tiếng hát cứ tha thiết như mời gọi lại vừa như giận hờn. Tiếng sáo cứ rập rờn bay bổng thể hiện cho khát vọng tình yêu và tự do. Tiếng sáo ấy cùng men rượu nồng nàn đã thổi bùng lên tâm hồn Mị. Điều đó đã dẫn tới hành động Mị chuẩn bị đi chơi xuân.

Cũng như bao cô gái khác trong làng, họ vẫn đi chơi xuân ngay cả những người đã có chồng cũng vậy. “Huống hồ Mị và A Sử chẳng có lòng với nhau”. Thế là “Mị vào buồng, quấn lại tóc, với lấy cái váy hoa”. Mị “xắn thêm mỡ” để thắp sáng căn buồng âm u, thắp sáng ngục tù tối tăm, thắp sáng ngọn lửa khát vọng trong lòng mình. Mị chuẩn bị đi chơi xuân. Phải, đúng như vậy. Nhưng thật không may, A Sử đã nhìn thấy điều đó. Hắn ta không cho Mị đi. Hăn trói đứng Mị trong căn buồng tối tăm ấy. Nhưng A Sử đâu biết rằng, hắn chỉ có thể trói được thể xác còn tâm hồn Mị vẫn theo các cuộc chơi. Mị vừa mơ vừa tỉnh.

Mị vùng bước đi theo các cuộc vui nhưng sợi dây trói lại kéo Mị trở về thực tại. Tiếng sáo tha thiết cứ đưa hồn Mị bay theo thì Mị lại trở về thực tại với tiếng chân ngựa đạp vào vách. Mị lại nhận ra mình không bằng con ngựa. Khát vọng chơi xuân của Mị đã bị chặn đứng. Mị phải trở về thực tại. Tô Hoài đã đặt sự hồi sinh của Mị vào tình huống bi kịch. Khát vọng mãnh liệt của Mị đối lập hoàn toàn với hiện thực phũ phàng. Nhưng điều đó không làm tắt đi sức sống trong Mị mà càng khiến cho sức sống ấy thêm mãnh liệt. Chính khát vọng này của Mị đã thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác phẩm. Mặc dù bị chà đạp nhưng sức sống của Mị vẫn còn. Nó như một đốm than nhen nhóm trong đống tro tàn chỉ chờ dịp để bùng cháy. Ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài đã không dửng dưng trước khát vọng đó của Mị.

Qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, Tô Hoài đã tạo một ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Ông đã khiến cho trang văn của mình không nhuốm màu u uất và tối tăm mà vẫn chứa chan ánh sáng của sự sống. Tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân như một bước “chuyển nhịp” cho tác phẩm. Nó mang đến màu sắc mới cho truyện ngắn. Chính khát vọng sống tiềm tàng, ẩn chứa trong Mị đã làm nên điều đó.

Số 12: Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

Đề tài Tây Bắc in đậm trong sự nghiệp văn chương của Tô Hoài: “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”,”Họ Giàng ở Phìn Sa”… Truyện “Vợ chồng A mang ý nghĩa như một “chiến công” của nhà văn Hà Nội này khi theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc (1952). Truyện kể về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài trong nhà thống lí Pá Tra và khi làm chiến sĩ du kích ở căn cứ Phiềng Sa. Qua đó, tác giả nói lên nỗi thống khổ sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm tham gia kháng chiến để giành lấy tự do, tình yêu và hạnh phúc.

Nhân vật Mị là một sáng tạo đặc sắc của Tô Hoài. Đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài là tình tiết cảm động nhất, hay nhất của truyện đã thể hiện khát vọng sống, khao khát tình yêu của người con dâu gạt nợ.

Mị mồ côi mẹ, ở với cha già. Mị xinh đẹp, tuổi xuân phơi phới. Vì món nợ truyền kiếp. Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Tuổi xuân của Mị bị thằng A Sử, con trai thống lí tước đoạt, giày xéo. Mị khổ như con trâu con ngựa. Mị toan ăn lá ngón tự tử, nhưng thương cha già, Mị chết không đành lòng. Sống trong đau khố, Mị gần như vô cảm vô hồn “càng không nói, lùi lủi như con rùa nuôi trong xó cửa”.

Xuân qua rồi xuân lại trở lại. Đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài lại đến. Cả một không gian tưng bừng. Lúa ngô ở các nương đã thu hoạch xong. Gió và rét dữ dội. Cảnh sắc làng Mèo càng đẹp. Màu “vàng ửng” của cỏ gianh. Màu trắng, màu đỏ au, đỏ thậm, màu tím man mát của hoa thuốc phiện vừa nở. Màu “sặc sỡ” của những chiếc váy hoa phơi trên mỏm đá xòe như con bướm. Tiếng “cười ầm” của đám trẻ con chơi quay. Tiếng sáo thổi rủ bạn đi chơi. Tiếng chó sủa xa xa… Trước cảnh tưng bừng ấy, cứ tưởng Mị “Riêng mình nào biết có xuân là gì?”. Nhưng thật bất ngờ. Những đêm tình mùa xuân ỡ Hồng Ngài đã hồi sinh và hồi xuân tâm hồn Mị. Tâm trạng và hành động Mị được Tô Hoài thể hiện một cách tinh tế, xúc động.

Trong lúc trai gái và lũ trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy trên sân chơi thì Mị “tha thiết bồi hồi” khi nghe tiếng sáo từ đầu núi “vọng lại”. Mị “nhẩm thầm” bài hát của người đang thổi sáo:

“… Ta không có con trai con gái – Ta đi tìm người yêu…”. Sau bao mùa xuân câm lặng, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ khẽ thầm hát?

Tiếng sáo đã gợi thương gợi nhớ và thức tỉnh. Mị lén lấy hũ rượu, “uống ừng ực từng bát”. Uống rượu như nuốt hận. Hay uống cho vơi đi nỗi đau khổ? Say rượu “lịm mặt”, tâm trạng Mị diễn biến. Mị hồi tưởng “sống về ngày trước”. Tiếng sáo gọi bạn tình “văng vẳng” trong tai Mị. Bao kỉ niệm đẹp thời con gái sống dậy trong lòng Mị. Mị thổi sáo giỏi… Có biết bao nhiêu người mê, ngày đem đã thổi sáo đi theo Mị. Hồi tưởng lại mùa xuân đẹp thời con gái, điều đó cho thấy Mị đã được thức tỉnh. Khát vọng sống như ngọn lửa đã bừng sáng tâm hồn Mị.

Mị “từ từ bước vào buồng”v ới tâm trạng “thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị được thức tỉnh, tự ý thức là mình “trẻ lắm”, “vẫn còn trẻ”. Mị khao khát “Mị muốn đi chơi”.

Khát vọng sống như ngọn lửa bừng cháy bao nhiêu Mị lại phẫn uất bấy nhiêu! Phẫn uất và đau khổ cho thân phận và số phận trớ trêu đầy bi kịch. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. A Sử với Mị “không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!”. Không thể cam chịu mãi kiếp con dâu gạt nợ. Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay! Uất ức, nước mắt Mị ứa ra, khi tiếng sáo gọi bạn yêu “vẫn lửng lờ bay ngoài đường”. Tâm hồn Mị diễn biến phức tạp trong quá trình thức tỉnh, nổi loạn. Mị đang sống trong nghịch lí giữa thân phận con dâu gạt nợ và niềm phơi phới muốn đi chơi Tết. Liệu Mị có dám phá tung và cắt đứt sợi dây oan nghiệt đang thít chặt lấy số phận, thân phận mình để đến với những cuộc chơi cùng với tiếng sáo gọi bạn yêu?

Mị vào buồng lần này không phải để nhìn qua “cái lỗ vuông” để nghĩ đến cái chết, mà Mị đã hành động một cách mạnh mẽ, ngang nhiên trước mặt A Sử khi hắn xuất hiện bất ngừ trong buồng. A Sử thay áo mới, khoác thêm hai vòng bạc… để đi chơi rình bắt gái đem về làm vợ. Mị cũng chuẩn bị đi chơi Tết. Như thách thức. Mị đã hành động. Xắn thêm miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Quấn lại tóc. Với tay lấy cái váy hoa. Rút thêm cái áo. A Sử nhìn Mị, Mị “cũng không nói” hay không thèm nói? Hàng loạt hành động “nổi loạn” của Mị diễn ra liên tiếp khi tiếng sáo đang “rập rờn” trong đầu Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình như đem đến cho Mị một sức mạnh mới, khơi gợi lòng khao khát yêu đương và hạnh phúc. Khi Mị với tay lấy váy hoa… là Mị thực sự được thức tỉnh, được sống lại thời con gái với bao ước mơ đẹp.

Sự phản kháng Sự phản kháng của Mị phải trả giá nặng nề. Chỉ sau một câu hỏi: “Mày muốn đi chơi à? Thằng A Sử độc ác đã trói Mị vào cột nhà bằng một thúng sợi đay. Hai tay Mị bị trói bằng dây thắt lưng, tóc Mị quấn lên cột, Mị “không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. Thể hiện diễn biến tâm trạng và hành động Mị trong cảnh Mị bị trói trong đêm tình mùa xuân, ngòi bút nghệ thuật của Tô Hoài như đã “nhập hồn” vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị “đứng im lặng”. Hơi rượu còn như nâng đỡ tâm hồn Mị. Quên đau khổ, đau đớn thực tại, Mị “vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo cuộc chơi,những đám chơi”. Mị vùng bước đi, lòng “bồi hồi” theo tiếng sáo: “Em không yêu, quả pao rơi rồi – Em yêu người em bắt pao nào…”. Mị lại trở lại thực tại đau đớn, khổ nhục “tay chân đầu không cựa được”. Mị thức “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” khi nghe tiếng ngựa “gai chân”, nhai cỏ, tiếng chó sủa xa xa. Mị nghĩ đến những cảnh tình tự của bao cặp tình nhân giờ này đã “dỡ vách ra rừng chơi”. Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi trong trạng thái lúc mẽ lúc tỉnh. Dây trói thít lại, đau nhức. Hơi rượu tỏa, Mị “nồng nàn tha thiết nhớ”.

Bị trói đứng suốt đêm, Mị “bàng hoàng tỉnh” lúc trời sáng. Chỉ nghe tiếng lửa réo – Không một tiếng động – Mị nghĩ đến các vợ chú, thương những người đàn bà “khốn khổ sa vào nhà quan”; thương người đàn bà nọ bị chồng trói chết trong nhà thống lí. Mị vừa thương mình, vừa thương người, thương cho thân phận những người dàn bà ở Hồng Ngài “một đời con người chỉ biết đi theo con ngựa của chồng”. Mị sợ hãi “cựa quậy” xem mình còn sống hay chết. Dây trói xiết lại “đau dứt từng mảnh thịt”.

Nhờ một sự tình cờ mà Mị thoát chết trong đêm hãi hùng đó. Đoạn văn đêm tình mùa xuân có 3 cảnh. Cảnh Mị ngồi nhẩm thầm tiếng sáo và lén uống rượu ừng ực từng bát. Cảnh Mị chuẩn bị váy áo đi chơi. Cảnh Mị bị A Sử trói đứng suốt đêm trong buồng. Cảnh nào, chi tiết nào cũng sinh động, điển hình cho bi kịch của Mị, của người con dâu gạt nợ. Đoạn văn đêm tình mùa xuân thể hiện ngòi bút kể chuyện cảm động, phân tích diễn biến tâm trạng và hành động nhân vật một cách tinh tế, sâu sắc. Tiếng sáo gọi bạn tình được Tô Hoài nhắc đi nhắc lại 13 lần đầy ám ảnh, như thức tỉnh, như lay gọi, như vổ về niềm khao khát đi chơi Tết, khao khát được sống trong tình yêu và mùa xuân của người con dâu gạt nợ.

Sự “nổi loạn”của Mị cho thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị mà máu và sự dã man không thể nào vùi dập được! Đem tình mùa xuân thấm đẫm tính nhân vãn, Nó đã góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị. Nó đã thổ hiện một cách xúc động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện “Vợ chồng A Phủ”.

Bài Vợ chống A Phủ của Tô Hoài
Bài Vợ chống A Phủ của Tô Hoài

Số 13: Nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

Tô Hoài là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông được mệnh danh là nhà văn của núi rừng Tây Bắc. Các tác phẩm của ông đều tái hiện một cách sinh động phong tục tập quán của người dân miền núi. “Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn xuất sắc của Tô Hoài rút từ tập “Truyện Tây Bắc“. Tác phẩm tái hiện lại cuộc đời và số phận của Mị và A Phủ trong hai giai đoạn khi ở Hồng Ngài và Phiềng Sa. Truyện rất thành công trong việc thể hiện bút pháp miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật rất tài hoa của Tô Hoài. Đặc biệt là đoạn trích miêu tả diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân.

Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm, cô mang những nét tiêu biểu của người con gái núi rừng Tây Bắc. Mị là cô gái xinh đẹp, yêu đời. Ở tuổi thanh xuân, cô có một tính cách phóng khoáng, tự do; một trái tim nồng nhiệt, căng tràn sức sống, khao khát yêu và được yêu. Mị cũng là một cô gái tài năng. Cô thổi sáo rất hay, không những vậy, thổi lá cũng hay như thổi sáo, đã biết bao nhiêu người hằng đêm thổi sáo đi theo Mị. Những đêm tình mùa xuân, trai làng đến đứng nhẵn vách đầu buồng Mị. Tất cả những điều đó như báo trước một cuộc đời tươi đẹp, nhiều ước mơ, khao khát hạnh phúc tuy cuộc sống còn khó khăn. Nhưng không may, Mị lại trở thành nạn nhân của cường quyền và thần quyền Tây Bắc. Chỉ vì món nợ truyền kiếp của gia đình và lần cúng trình ma nhà thống lí, Mị đã vĩnh viễn trở thành cô con dâu gạt nợ của gia đình Pá Tra, để từ đây cuộc sống của Mị hoàn toàn thay đổi. Vốn là một cô gái tràn trề sức sống, Mị trở thành một cô gái mất hết ý chí về cuộc đời, cô ngày càng ít nói “lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, nghĩ mình cũng như là một công cụ lao động, như là một con trâu con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra.

Những tưởng cuộc đời Mị sẽ mãi như thế, vĩnh viễn sống trong cảnh tối tăm địa ngục, không có ý định giải thoát cho mình nữa. Nhưng không, sức sống ấy không hề tiêu tan trong tâm hồn đã chai sạn vì quá đau khổ mà nó chỉ tạm thời lắng xuống, như một ngọn lửa nhỏ nằm dưới đám tro tàn chờ cơ hội bùng lên mạnh mẽ.

Khung cảnh mùa xuân năm ấy đã tác động vào tâm hồn Mị với những cơn gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng và sắc màu sặc sỡ của những chiếc váy hoa phơi dưới nắng xòe ra trên mỏm đá như những cánh bướm. Những yếu tố đó đã làm cho lòng Mị phơi phới trở lại. Mị lẩm nhẩm hát theo bài hát của người đang thổi sáo, “tiếng sáo gọi bạn nơi đầu núi ” văng vẳng vọng lại. Tuy nhiên, sức sống tiềm tàng trong tâm hồn Mị chỉ thực sự bùng lên mạnh mẽ nhất trong đêm tình mùa xuân.

Mị uống rượu ngày tết và lịm mặt say, ngồi trơ ra giữa nhà. Hơi rượu và “tiếng sáo gọi bạn yêu lơ lửng bay ngoài đường” đã kéo Mị ra khỏi thực tại. Bữa rượu tan từ bao giờ Mị cũng không biết, người về người đi chơi đã vãn cả Mị vẫn ngồi đấy. Tâm hồn Mị đang sống về ngày trước. Mị nhớ lại “mùa xuân này, Mị ngồi thổi sáo bên bếp lửa, Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Trong đầu Mị nhớ lại những kí ức tưởng chừng đã bị quên lãng. Nhưng quan trong hơn, Mị đã thức tỉnh được sức sống trong tâm hồn mình. Mị vẫn nhớ, vẫn ý thức được về bản thân, ý thức được mình còn là một con người, mình còn trẻ. Nhưng bỗng chốc thực tại tàn nhẫn ùa về làm cho Mị đau đớn “nếu có nắm lá ngón trên tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không thèm nhớ lại nữa”. Điều này càng chứng tỏ sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy trong tâm hồn Mị. Khi người ta muốn chết, có ý thức đấu tranh thoát khỏi cuộc sống vô nghĩa thì có nghĩa là lúc đó người ta đang tha thiết sống.

Nhưng ngay sau đó diễn biến tâm lí và hành động của Mị lại đầy mâu thuẫn. Mị muốn đi chơi, khao khát được sống được tự do nhưng Mị lại không bước ra ngoài đường chơi mà lại từ từ bước vào buồng, ngồi trên giường mà nhìn ra cái cửa sổ vuông – ngục giam tâm hồn Mị. Lúc này trong tâm hồn Mị có một diễn biến rất phức tạp, có sự đấu tranh quyết liệt giữa một bên là sức sống mãnh liệt, khát khao hạnh phúc và một bên là hiện thực cuộc sống, là mặc cảm về thân phận. Thế nhưng rồi niềm khát khao đã chiến thắng, Mị sắn thêm miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng, quấn lại tóc và sửa soạn áo váy chuẩn bị đi chơi. Lúc này Mị không hề sống trong thực tại mà chỉ nhớ về quá khứ, tâm hồn Mị đã đi theo tiếng sáo đến những cuộc chơi những đám chơi. Rồi A Sử về, hỏi Mị, trói Mị vào cột nhà. Mặc cho bị A Sử lấy thắt lưng trói hai tay, lại lấy cả thúng sợi đay trói đứng vào cột nhà, quấn cả tóc vào cột Mị vẫn không hề hay biết. Trong đầu Mị vẫn dập dờn tiếng sáo “em không yêu quả pao rơi rồi – em yêu người nào – em bắt pao nào”.

Chỉ cho đến khi định vùng bước đi ra ngoài chơi, bị những sợi đay siết chặt vào người thì Mị mới biết là mình đang bị trói. Lúc này Mị đau đớn không chỉ ở nỗi đau thể xác mà còn ở tâm hồn. Còn gì chua xót tủi nhục hơn khi một con người bị giam cầm, bị chặn đứng khát vọng sống ngay khi khát vọng ấy vừa bùng lên sau bao nhiêu lâu bị thực tại cuộc sống vùi dập, làm cho chai sạn. Mị lúc say lúc tỉnh. Hơi rượu thoang thoảng. Lúc thì Mị thấy trong đầu dập dờn tiếng sáo gọi bạn yêu, lúc lại quay trở về hiện thực bị trói đứng với những sợi dây đay siết chặt quanh người. Nhưng diễn biến tâm lí lại ngày càng theo chiều hướng ngược lại so với lúc đầu. Mị càng lúc càng hết say, càng lúc càng tỉnh, càng lúc càng đớn đau. Ý muốn đi chơi dần mất đi, ngọn lửa của sức sống tiềm tàng nhỏ dần rồi tắt hẳn. Để rồi đến sáng ngày hôm sau Mị hoàn toàn ngã quỵ cả về thể xác lẫn tinh thần. Mị quay trở về là Mị của thường ngày, là “con rùa nuôi xó cửa của nhà thống lí Pá Tra”.

Mị là nhân vật trung tâm của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, qua diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân, tác giả đã mang đến và thổi bùng ngọn lửa sức sống tiềm tàng trong nhân vật của mình, chứng minh cho khát vọng sống và sức sống mạnh mẽ của người dân miền núi Tây Bắc.

Số 14: Cảm nhận nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc. Tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. Vẻ đẹp ấy đã ngời lên thật trọn vẹn qua diễn biến tâm trạng Mị và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật này qua đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.

Trước khi vào nhà thống lý Pá Tra, Mị là một cô gái trẻ đẹp. Trong tác phẩm này, nhà văn không hề dùng mỹ từ nào để tả cái đẹp của Mị, nhưng vẻ đẹp ấy vẫn hiện lên qua chi tiết: “trai đến đứng nhẵn vách đầu buồng Mị”. Mị chính là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Cô có một cuộc sống tự do, hạnh phúc, vô tư giữa tháng ngày tuổi trẻ. Cô gái vùng cao ấy, mỗi khi tết đến xuân về thường làm bao kẻ si tình chết mê, chết mệt bởi tiếng sáo. Mị thổi sáo giỏi “thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao người mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”.

Không chỉ đẹp người, cô gái ấy còn đẹp nết. Mị giàu lòng hiếu thảo, có tình yêu lao động, yêu tự do, giàu lòng tự trọng. Tô Hoài đã đặt vào miệng Mị tất cả những phẩm chất cao quý ấy qua lời nói đầy tha thiết với cha già: “con nay đã biết cuốc nương làm ngô” (tình yêu lao động); “con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố” (lòng hiếu thảo); “bố đừng bán con cho nhà giàu” (giàu lòng tự trọng).

Khi bị bắt làm dâu nhà Pá Tra, Mị có cuộc sống thống khổ, là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, bị tước đoạt tự do, hạnh phúc cá nhân: mở đầu tác phẩm, nhà văn đã giới thiệu nhân vật một cách ấn tượng: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Lúc nào cô ấy cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Dáng vẻ ấy của Mị gợi ra hình ảnh một con người có số phận đau khổ.

Dù cuộc sống thống khổ, trong Mị vẫn mãnh liệt một sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do, hạnh phúc. Khát vọng ấy đã bùng cháy lên khi mùa xuân đến trên đất Hồng Ngài. Mị đã bước vào cái đêm đáng ghi nhớ ấy thoạt tiên, như một tâm hồn câm lặng cái cô Mị xưa kia trẻ đẹp, khao khát yêu đương và cũng đã được yêu đương, cô Mị ấy tưởng như đã chìm hẳn vào dĩ vãng. Chỉ còn một người đàn bà “không nói. lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, người đàn bà bị cầm tù trong một ngục thất tinh thần (hình ảnh cái buồng có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng). Đã bao năm rồi, người đàn bà ấy chẳng biết đến mùa xuân, chẳng đi chơi Tết.

Vậy mà vào đúng cái đêm tình mùa xuân năm ấy, Mị thốt nhiên lại muốn đi chơi, và đã sửa soạn đi chơi thực sự. Vì sao vậy? Khó có thể cho là tại đất trời. Thời tiết mùa xuân năm nào chẳng đại loại là như thế.

Lí giải sự đột biến khác thường của Mị trong đêm ấy, là một thử thách thật sự đối với Tô Hoài. Hãy xem bằng cách nào mà nhà văn vượt qua thử thách.

Với một người như Mị, muốn đi chơi nghĩa là muốn phá phách, nghĩa là nổi loạn. Cũng với một người như Mị để có thế nổi loạn, thì phải có cái gì có khả năng làm quên đi hiện tại để sống trở về những tháng năm xưa.

Cái đó là men rượu mà Tết năm ấy, Mị đã lén “uống ực từng bát”. “Rồi say Mị lịm mặt ngồi đấy, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước”… Rõ nhất là tiếng sáo. Mỗi lần tiếng sáo trớ lại truyện là mỗi lần nó được biến đổi đi từ âm thanh của hiện tại dần dần thành tiếng của những mùa xuân trước. Từ chỗ ở ngoài Mị, ở xa Mị, dần dần như tiếng ai mời gọi, hồn ai chờ đợi ngoài đường, đế cuối cúng rập rờn trong đầu người thiếu phụ. Tiếng sáo dìu hồn Mị hay là bước đi cùa hồn Mị được ghi dấu bằng tiếng sáo.. Như thế là sức sống, lòng ham sống đã thức dậy trong lòng người thiếu phụ. Nhưng sự vượt khỏi hoàn cảnh hiện tại của nhân vật không hề đơn điệu, dễ dàng.

Một thời gian dài. Mị sống trong sự giao tranh giữa quá khứ và hiện tại. Quá khứ đẩy đưa đi, hiện tại thì níu lại. (Nên lòng phơi phới mà Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái cửa số lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và lòng ham sống trào dậy đầu tiên trong ý nghĩa muốn chết ngay chứ không buồn nhớ lại…).

Nhưng sức sống cứ lớn dẩn, sức ám ảnh của tuổi xuân cứ mạnh dần, cho tới khi nó dường như chiếm trọn tâm hồn Mị. Phải tới lúc đó, Mị mới hành động như một kẻ mộng du. không thấy, không nghe A Sử nói.

Rồi Mị bị A Sử trói trong trạng thái mơ hồ. Mãi về sau, Mị mới cảm thấy cái Hiện tại tàn khốc khi vùng bước đi mà tay chân không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần ngay tức khắc thì sự tỉnh ra cũng vậy Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa hơi rượu, tiếng sáo với cái đau nhức của dây trói và tiếng chân ngựa đạp vào vách. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn dần lên, tê dại dần đi để dần dần trở lại với vị trí của con rùa lùi lũi trong xó cửa.

Một làn sóng tình cảm đã tan đi, không làm thay đổi mảy may đời Mị. Những cái gì Tô Hoài đã viết về đêm hôm ấy vẫn đầy ý nghĩa. Nó cho thấy sức sống của con người dù bị giẫm đạp, đè nén đến đâu cũng vẫn không bị mất đi. Ý nghĩa ấy khiến ta thêm tin, thêm yêu mến con người. Thứ hai chế độ phong kiến là chế độ buộc trói, giam hãm chống lại con người và sư sống. Chế độ ấy đáng căm thù, lên án cả từ phía nhân danh quyền sống của con người. Một tình tiết nghệ thuật giàu chất nhân đạo và chất thơ.

Số 15: Phân tích nhân vật Mị đêm tình mùa xuân

Với nhà văn Tô Hoài “Nhân vật là trụ cột của sáng tác, phải chuẩn bị nhân vật trước tiên” cho nên ông đã rất thành công khi xây dựng nhân vật Mị và A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Ngòi bút miêu tả tâm lí của Tô Hoài đã đạt tới phép “biện chứng tâm hồn”, điều đó được thể hiện rõ ràng qua diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân với nhiều cảm xúc khó hiểu nhưng ẩn chứa một sức sống tiềm tàng mãnh liệt.

Tô Hoài (1920) là một trong những cây bút văn xuôi hiện đại hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam với nhiều sáng tác phong phú thiên về phong tục và những sinh hoạt đời thường của con người. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” được viết năm 1952 và in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Đây chính là kết quả của chuyến đi với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc dài 8 tháng của nhà văn khi được hòa mình vào những phong tục tập quán của người dân miền núi.

Mị là một cô gái xinh đẹp nhưng gia cảnh lại chẳng mấy giàu có. Thế nhưng cố vẫn rất yêu đời và có tài thổi kèn lá hay như thổi sáo. Trong những đêm tình mùa xuân “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị” chứng tỏ mị có sức hấp dẫn như một bông hoa rừng Tây Bắc vậy. Người ta thường hay nói “Hồng nhan bạc phận” và với Mị cũng vậy, sóng gió bắt đầu ập đến với cô kể từ khi cô bị bắt làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Mị có thái độ phản đối trước những lệ tục cổ hủ, nghiệt ngã tồn tại trong xã hội phong kiến trước cách mạng, Mị nói với cha rằng “bố đừng bán con cho nhà giàu”.

Những ngày sống trong nhà thống lí, Mị cảm thấy mình không bằng thân con trâu, con ngựa, Mị “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mị đã muốn tự tử nhưng nghĩ đến cha Mị lại không tự tử, sống trong cái khổ lâu dần Mị cũng không còn nghĩ đến cái chết nữa. Điều đặc biệt ẩn chứa bên trong của một cô gái tưởng chừng như yếu đuối ấy lại có một dòng nhựa sống vô cùng mãnh liệt. Tâm hồn Mị như được hồi sinh trong đêm tình mùa xuân với những giai điệu của tiếng sáo, tiếng nhạc và rồi sức sống của Mị được đẩy lên cao trào trong đêm đông, Mị đã cắt dây trói cứu A Phủ – người có cùng cảnh ngộ với Mị để cùng nhau trốn thoát khỏi nhà thống lí Pá Tra.

Thiên nhiên vốn là ngoại cảnh nhưng nó cũng có tác động vô cùng to lớn đối với tâm trạng của con người. Thiên nhiên Tây Bắc rạo rực khi xuân về khiến cho Mị cũng dần thay đổi, không còn u buồn như trước nữa. Khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc thật đẹp “gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng”, “gió và rét rất dữ dội” cho thấy sự biến chuyển của đất trời đang từ mùa đông khắc nghiệt đang chuyển biến dần sang mùa xuân ấm áp. Cuộc sống của con người cũng thật sinh động bởi những màu sắc rực rỡ của “những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”, rộn ràng bởi tiếng cười đùa của đám trẻ trên sân chơi trước nhà hay những tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi như dội vào tâm hồn Mị. Mị ngồi nhẩm thầm lời bài hát của người đang thổi sáo. Lời bài hát tuy giản dị, mộc mạc nhưng hàm chứa lẽ sống đầy phóng khoáng, tự do của con người:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu”

Người ta thường chỉ hát khi có điều gì thôi thúc họ và Mị cũng hát vì có một mùa xuân đang thức dậy ngay cả trong lòng Mị. Có lẽ, tiếng hát trong lòng Mị chính là một biểu tượng nghệ thuật cho thấy sức sống bắt đầu được hồi sinh sau những chuỗi ngày Mị sống trong tủi nhục, u buồn. Mị uống rượu, Mị “cứ uống ực từng bát” như muốn nuốt hận vào lòng để quên đi thực tại và nén sâu nỗi xót xa tủi nhục vào trong lòng. Hơi men của rượu đã làm thức dậy trong đầu Mị những kỉ niệm ngày xưa “tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”, “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm ngày trước.

Đây là cảm giác vui sướng nhất của Mị trong suốt cả quãng đời khi Mị còn được tự do. Mị có ý thức rất rõ về mình “Mị trẻ lắm. Mị muốn đi chơi” như bao người có chồng vẫn đi chơi ngày Tết. Mị lại nghĩ đến cái chết, đây là lần thứ hai trong cuộc đời Mị nghĩ đến nó nhưng ý nghĩ đó vụt đến rồi vụt biến mất. Nếu như lần thứ nhất Mị nghĩ đến cái chết để giải thoát khi bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra thì lần thứ hai Mị nghĩ đến cái chết để tỏ rõ sự phản kháng mãnh liệt với hoàn cảnh bi đát của mình. Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn còn văng vẳng bên tai Mị khiến cho Mị cũng chẳng buồn nghĩ đến cái chết nữa, nhịp sống của mùa xuân vẫn khơi dậy trong lòng Mị những ý thức muốn sống, cô có nhu cầu đi chơi.

Tâm hồn và thể xác của con người luôn là một thể thống nhất và không thể tách rời. Khi Mị vui Mị cũng muốn làm nhiều việc ý nghĩa cho cuộc đời mình hơn. Mị đến góc nhà lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ vào đĩa đèn cho sáng, ánh sáng của ngọn đèn trong căn buồng Mị chính là ánh sáng của sự sống, nó đang được chắt chiu trong cái khắc nghiệt của hoàn cảnh và Mị đã lấy ánh sáng trong lòng mình để thắp sáng cuộc đời. Mị cuốn lại tóc, với lấy cái váy hoa cho thấy sức sống của Mị đã được trở về với vẻ đẹp nữ tính. Điều này gắn với quy luật tâm lí của người phụ nữ khi có khát vọng về tình yêu trong cuộc sống thì họ rất có ý thức chăm sóc bản thân nhưng khi mất đi hạnh phúc thì họ không còn nâng niu, trân quý tài sản quý giá như vẻ đẹp nữ tính ấy nữa. Mị chuẩn bị mọi thứ cho tươm tất để được hòa vào sắc xuân như thời còn ở với bố, Mị cũng chuẩn bị đi chơi như bao người nhưng sức sống của Mị nhanh chóng bị đàn áp bởi A Sử.

Hắn lấy cái thắt lưng trói đứng Mị vào cột nhà, tắt đèn và khép cửa buồng lại giống như việc đi chơi của Mị đã bị dập tắt ngay tại giây phút này. Ngay trong hoàn cảnh đó Mị vẫn sống với một trạng thái vô cùng lạ lùng “Trong bóng tối Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói”, Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo còn vang bên tai nhưng Mị vùng lên để bước đi thì chân tay đau không thể cựa được. Tưởng chừng như A Sử trói Mị để cản bước cô đi chơi nhưng A Sử chỉ có thể cầm tù Mị về thể xác mà không thể trói buộc tâm hồn Mị. Tiếng sáo xuất hiện đã đưa Mị trở về với thực tại, giúp Mị ý thức được tình cảnh đau khổ “Mị không nghe tiếng sáo nữa”, “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Ngòi bút của Tô Hoài đã thật sự tinh tế khi miêu tả sức sống bền bỉ trong tâm hồn Mị, nó như một hạt mầm căng tràn nhựa sống để thức dậy xuyên qua lớp đất đá vươn tới bầu trời tự do khi mùa xuân về.

Để miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, nhà văn Tô Hoài đã phát hiện ra hai mặt tưởng như đối lập mà thống nhất trong tính cách của nhân vật Mị. Đó chính là con người tưởng chừng như cam chịu nhưng lại có sức phản kháng mạnh mẽ, khao khát tự do hạnh phúc từng bước vươn dậy để tạo nên một sức mạnh không gì có thể hủy diệt được. Nhà văn đã thành công ở nghệ thuật khắc họa nhân vật. Ngòi bút của Tô Hoài đã diễn tả tinh tế, chân thực những biểu hiện tâm lí phức tạp đầy mâu thuẫn của Mị. Mị là kiểu nhân vật tâm trạng, được miêu tả chủ yếu ở đời sống nội tâm. Nhà văn đã sử dụng nghệ thuật trần thuật, truyện được kể chủ yếu ở ngôi thứ ba từ điểm nhìn của những người ở Hồng Ngài như hòa vào tiếng nói bên trong của nhân vật để nói lên nỗi lòng của Mị.

Nhân vật Mị trong “Vợ chồng A Phủ” chính là hiện thân cho sức sống của con người lao động miền núi trong chế độ cũ phải chịu nhiều áp bức, bóc lột. Nhà văn đã khám phá ra vẻ đẹp ẩn chứa trong tâm hồn của những con người bị vùi dập. Mị tưởng chừng như đã trở thành vật vô tri vô giác trong nhà thống lí nhưng vẫn tiềm tàng sức sống mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân. Qua nhân vật Mị, ta thấy được niềm thương cảm của tác giả trước những thân phận bất hạnh, nhà văn đã phát hiện, trân trọng và khẳng định vẻ đẹp của họ khi họ hướng tới ánh sáng của cách mạng.

Số 16: Diễn biến tâm trạng nhân vật Mị đêm tình mùa xuân

Nếu những nhà văn hiện thực phê phán chỉ thấy con người là nạn hân bất lực của hoàn cảnh thì các nhà văn cách mạng bao giờ cũng phát thiện hiện ra sức manh phúc sinh trong tâm hồn của những con người cùng khổ. Là cây bút xuất sắc trong dòng văn học cách mạng Việt Nam, chẳng những rất thành công khi diễn tả cái chết dần chết mòn của Mị – một cô gái tràn đầy sức sống mà còn rất tinh tế khi khám phá quá trình hối din của Mị. Nếu như có một hoàn cảnh làm tê liệt bóp chết sức sống của Mị thì tất cũng có một hoàn cảnh giúp Mị hối sinh. Và hoàn cảnh đó chính là đêm tình mùa xuân quyến rũ.

Ở vùng rẻo cao Hồng Ngài không gì vui bòng Tết đến, xuân về. Năm nay Hồng Ngài đón một cái tết đặc biệt. Đúng lúc gió và rét rất dữ dội thế nhưng, bất chấp cái khắc nghiệt của thời tiết, không khí đón Tết vui xuân của Hồng Ngài vẫn rất náo nức tưng bừng. Tiếng cười nói rộn vang. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng sáo rủ bạn đi chơi. Không khí tưng bừng, náo nức ấy đã vọng vào tâm hồn Mị, khiến tâm hồn Mị thức tỉnh hồi sinh.

Mày có con trai con gái rồi Mày đi làm nương Tao không có con trái con gái Tao di tìm người yêu

Lời của tiếng sáo thật giản dị mộc mạc, nhưng nó chứa chan niềm vui niềm tự do, khát vọng yêu đương, hạnh phúc. Khúc ca say mê náo nức của mùa xuân tuổi trẻ đã vọng vào cõi sâu thẳm trong lòng Mị thiết tha đã đánh thức cõi lòng câm lặng bấy lâu của Mị, tiếng sáo ấy khơi dậy sức sống tiềm tàng trong con tim Mị. . Ý thức về quyền làm người trỗi dậy, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Cách uống rượu của Mị thật lạ. Mị uống lấy được, uống như chưa bao giờ được uống, uống cho bõ hờn, bõ tức. Uống để cuốn phăng đi bao cay đắng tủi nhục của quãng đời đã qua. Uống cho thỏa khát khao say mê, phía trước. Men rượu nồng nàn tiếng sao tha thiết đã nhấc bổng Mị thoát khỏi thực tại, dìu Mị trở về miền quá khứ đẹp tươi với bao khát khao nồng cháy. Mị say, cứ lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người hát trong lòng Mị đang sống về ngày trước. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi … có biết bao nhiêu người mê.

Ngày trước Mị trẻ trung yêu đời, ngày trước Mị đã từng yêu và được yêu. Sống với ngày trước, lòng Mị bỗng phơi phới trở lại đột nhiên vui sướng, hạnh phúc. Những kí ức hạnh phúc đã thôi thúc Mị nổi loạn. Bắt đầu là sự nổi loạn trong ý nghĩ. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng ngày Tết cũng đi chơi. Huống chi Mị với A Sử không có lòng với nhau, vậy mà vẫn phải ở với nhau. Lần đầu tiên, sau chuỗi ngày dài dằng dặc, sống cam chịu, nhấn nhục với kiếp ngựa trâu như con rùa nuôi trong xó tối, Mị dám chối bỏ ràng buộc duyên pohận với A Sử để thành người tự do. Đắm chìm trong miền kí ức say mê, trong những khát khao nồng cháy dường như Mị đã quên cả thực tại. Rượu đã tan lúc nào. Người về đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Cõi mộng, cõi mơ miền thương nẻo nhớ đang gọi Mị.

Mãi sao, Mị mới bừng tỉnh. Mị đứng dậy nhưng không bước ra đường chơi nữa mà từ từ bước vào buồng. Ý nghĩ muốn đi chơi đã lóe lên trong đầu Mị nhưng nó chưa đủ mạnh để dứt Mị ra khỏi thế giới ngục tù. Phản ứng nổi loạn ở Mị cần thêm thời gian và chất xúc tác. Bước vào buồn, ngòi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, mờ mờ trăng trắng. Bao cay đắng tủi nhục của kiếp nô lệ trung thân bỗng dội về, dày vò cõi lòng Mị tan nát, ứ máu đầy bi kịch. Và Mị bỗng nảy ra ý nghĩ thật lạ lùng, đột biến mà mang tinh tất yếu : Mị muốn tự tử : nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt úa ra. Cứ nghĩ Mị sẽ tự tử ngay nhưng đúng lúc ý nghĩ muốn chết trỗi dậy thì tiếng sao gọi bạn yêu lơ lửng bay ngoài đường lại một lần nữa vang vọng vào tâm hồn Mị.

Khúc ca yêu nồng nàn ấy đã dập tắt ý nghĩ muốn chết nhưng cũng không thể sống lùi lũi như con rùa nuôi trong xó tối nữa. Mị phải sống trong vùng trời tươi sáng, ngập tràn ánh nắng tự do, hạnh phúc. Và chính ý nghĩ ấy đã thôi thúc Mị có hành động nổi loạn, táo bạo, quyết liệt từng có. Mị đến góc nhà lấy ống mỡ sắn một miếng bỏ vào thêm đĩa đèn cho sáng. Tại sao Mị phải thắp đèn ? Phải chăng, Mị không cam chịu sống trong xó tối nữa ? Mị muốn phá tan màn đêm âm u, mù tối nơi đại ngục trần gian này. Mị muốn thắp ssáng cho tương lai của mình. Ngọn lửa trên đĩa đèn hay ngọn lửa trong lòng Mị đang rừng rực cháy. Thắp đèn xong, Mị cuốn lại tóc, với tay lấy cái váy và rút thêm cái áo. Bất chấp mọi luật lệ của nhà thống lí, Mị hành động như một người hoàn toàn tự do

Những khát vọng cháy bỏng của Mị vừa bùng lên thì đã bị vùi dập một cách thô bạo tàn nhẫn. A Sử trói đứng Mị vào cột bằng cả một thúng sợi đay tàn nhẫn. Tóc Mị xõa xuống, A Sử cuốn luôn tóc lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng được nữa. Rồi A Sử tắt đèn đóng cửa lại. Tại sao A Sử phải trói Mị như thê ? Có phải đó là thói quen tàn bạo của A Sử hay chính A Sử cũng giật mình hoảng sợ trước hành động nổi loạn táo bạo của Mị ? Hắn phải dùng mọi vũ lực thô bạo nhất để dập tắt tinh thần phản kháng mạnh mẽ của Mị. Tuy nhiên những cánh cửa buồng khép chặt, những làn dây chói chặt không sao chói được tâm hồn Mị. Bóng ma của buồng gian cũng không sao dập tắt được ngọn lửa cháy sáng trong tim Mị. Mọi vũ lực bạo tàn của A Sử đều trở nên vô nghĩa. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo cuộc chơi, những đám chơi. Mị khe khẽ hát, tiếng hát cất lên từ trái tim sôi nổi, nồng nàn. Rồi Mị vùng bước đi, mạnh mẽ, quyết liệt, sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do đã trỗi dậy mãnh liệt. Sức sống ấy cứ trào ra ngoài ra sợi dây trói.

Nhưng rồi Mị chợt bừng tỉnh, những làn dây chói cứa vào ra thịt đau dứt, xót xa, đau đớn đến tê tái. Tiếng sáo tha thiết, dìu dặt tắt lịm, chỉ còn tiếng chân ngựa đạp vách nhức nhối ai oán. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con nghựa. Cả đêm ấy, Mị lúc mê, lúc tỉnh, lúc đớn đau, quặn thắt trước thực tại thê thảm, khốn cùng, lúc lại cồn cào, tha thiết nhớ. Quá khứ, thực tại, hạnh phúc, khổ đau cứ giằng xé trong trái tim Mị. Ngòi bút Tô Hoài thật tinh tế tài hoa khi lách vào cõi sâu tâm tư của Mị khiến Mị trở thành ‘thật hơn con người thật’.

Mùa xuân rồi cũng qua đi nhưng sức sống tiềm tàng trong Mị đã được khơi dậy và chờ dịp bùng lên. Với nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật tinh tế Tô Hoài đã đem đến cho nhân vật một hướng đi, một cuộc đời mới. Đó cũng chính là giá trị nhân văn cao đẹp của tác phẩm. Đồng thời cũng cho thấy tài năng của Tô Hoài cùng những đóng góp của ông cho văn học Việt Nam.

Bài Vợ chống A Phủ của Tô Hoài
Bài Vợ chống A Phủ của Tô Hoài

Số 17: Hình tượng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

Nhắc đến Tô Hoài là nhắc đến một cây bút với khả năng sáng tác dồi dào, phong phú ở nhiều thể loại, mà ở thể loại nào ông cũng để lại những tác phẩm, những dấu ấn xuất sắc từ truyện thiếu nhi, hồi ký, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim,… Ở mảng văn học hiện thực Tô Hoài đã ghi dấu ấn với tập truyện Tây Bắc bao gồm ba truyện ngắn nói về cuộc sống của người dân tộc miền núi phía Bắc những năm tháng trước cách mạng tháng tám. Trong đó Vợ chồng A Phủ là tác phẩm được biết đến nhiều nhất bởi những giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc được lồng ghép trong bối cảnh hiện thực đất nước lúc bấy giờ.

Có thể nói rằng Tô Hoài chính là người tiên phong “mở đất” khi viết về đời sống của các dân tộc miền núi phía Bắc, đặc biệt hơn là đi sâu vào những bất hạnh và vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn của người phụ nữ dân tộc thiểu số dưới ách áp bức của cả cường quyền, lẫn thần quyền. Mị trong Vợ chồng A Phủ chính là một điển hình cho những số phận bất hạnh, đau khổ tột cùng của vùng trời Tây Bắc, cuộc đời Mị tưởng như đã chết từ khi bước chân vào nhà thống lý Pá Tra, thế nhưng với sức sống mạnh mẽ, khao khát tự do tột độ, trong đêm tình mùa xuân ấy, Mị đã thức giấc, bắt đầu phản kháng, tìm lối thoát cho riêng mình.

Mị xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, bố Mị phải đi vay tiền cưới vợ, món nợ ấy mãi đến khi Mị đã lớn khôn, trở thành một cô gái xinh đẹp, giỏi giang mà vẫn chưa trả hết nợ. Chính món nợ truyền kiếp khốn khổ đó đã kéo theo cuộc đời của Mị xuống những bất hạnh tột cùng. Vì để trả nợ cho cha, Mị phải chấp nhận làm con dâu gán nợ cho nhà thống lý Pá Trá, bị bắt ép chung sống với A Sử, người mà Mị không thương, chấp nhận từ bỏ tình yêu của cuộc đời.

Ngày đầu tiên về là dâu, Mị đã bỏ trốn về nhà, trong tay cầm nắm lá ngón chỉ muốn chết quách đi cho xong, Mị đã cố gắng vùng vẫy, phản kháng để chống lại số phận. Thế nhưng Mị chết rồi thì lấy ai trả nợ cho người cha già, cái hiếu, cái tình đã giữ Mị ở lại với cuộc đời này, thế nhưng Mị sống cũng chẳng khác nào cái xác không hồn, chỉ đơn giản là đang tồn tại. Mang tiếng về làm dâu nhà giàu, nhưng Mị sống không khác gì một nô lệ, làm việc quần quật không kể ngày đêm, liên tục từ mùa này qua tháng khác, chưa từng ngơi nghỉ đến một ngày.

Cái khổ sở về thể xác cùng với sự hành hạ về tinh thần khi phải chung sống với người đàn ông vũ phu dường như đã giết chết trái tim, giết chết tâm hồn Mị. Mị tựa như một cỗ máy lao động, suốt mấy năm trời người ta chẳng nghe Mị nói chuyện lần nào, cứ lặng im, “lầm lũi như con rùa trong xó cửa”, đi qua từng năm tháng khổ đau. Rõ ràng là một cô gái xinh đẹp có tài thổi sáo, tuổi đời tầm hai mươi thế nhưng lại sống như một nắm tro tàn, lạnh lẽo, đơn độc, thậm chí không còn cảm nhận được niềm vui sướng hay đau khổ bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi.

Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Ấy vậy mà trong sự chai lì đến vô cảm, không thiết tha với cuộc đời, Mị vẫn còn nhận thức được cái khổ đau không bằng loài trâu ngựa của người đàn bà sống trong nhà thống lý Pá Tra rằng “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Chi tiết nhỏ này đã khắc họa mạnh nỗi đớn đau, bất hạnh cùng cực không chỉ của riêng nhân vật Mị mà là của chung nhiều những thân phận đàn bà khác ở Hồng Ngài, là người nhưng sống kiếp không bằng loài vật nuôi, đớn đau đến tột cùng.

Không chỉ là nỗi đau về thể xác khiến Mị trở nên chai sạn, mà thực tế chính những vết thương trong tâm hồn mới khiến Mị trở nên thờ ơ với tất cả. Từ một cô gái xinh đẹp, thổi sáo, thổi lá giỏi, được biết bao chàng trai si mê, lại có một tình yêu đẹp tưởng như gần đâm hoa kết trái, Mị bỗng trở thành con dâu gán nợ, chịu cảnh chung đụng với một kẻ thô lỗ, bị giam cầm trong một căn phòng tối tăm chỉ có một ô cửa sổ bé bằng lòng bàn tay lúc nào cũng mờ mờ không biết là màu sương hay là màu nắng. Mị phải từ bỏ tất cả những mong ước của đời mình, từ bỏ cuộc sống tự do, chôn vùi tuổi trẻ trong cuộc hôn nhân gán nợ, lấy người chồng sang giàu nhưng chẳng khác nào địa ngục trần gian. Mị không có quyền được lựa chọn, không có một con đường nào khác, cô chỉ còn cách bọc mình lại trong cái vỏ chai lì, lầm lũi để tiếp tục những ngày tháng tối tăm, tuyệt vọng.

Những tưởng cuộc đời Mị cứ mãi thinh lặng, bế tắc và vĩnh viễn bị chôn vùi dưới cái ách của thần quyền và thần quyền, thế nhưng chính đêm tình mùa xuân cùng với tiếng sáo gọi bạn réo rắt – âm thanh của sự sống trong Vợ chồng A Phủ, dường như đã đánh thức tâm hồn Mị. Một tâm hồn chưa chết hẳn, nằm sâu trong nắm tro tàn ấy chính là những hòn than nóng bỏng, vẫn nồng nhiệt niềm khao khát được sống, được tự do của Mị, chỉ trực chờ ngày được phất lên ngọn lửa rực rỡ. Khi mùa xuân đến, những cô gái, chàng trai trẻ tuổi nô nức hẹn hò, người ta khoác lên mình những bộ váy áo màu sắc sặc sỡ, thổi sáo, thổi lá tình tứ suốt ngày này qua ngày nọ.

Mị nghe thấy tiếng sáo vọng lại “thiết tha bổi hổi”, trong vô thức mị bất chợt lẩm nhẩm theo bài hát của người vừa thổi, những câu hát mà có lẽ đã lâu lắm rồi Mị không còn nhắc tới. Có thể nói rằng, ở một chi tiết nhỏ này, người ta đã thấy được trái tim vốn chai sạn của Mị hình như đang dần sống lại, bởi lẽ làm gì có người nào lại hát khi tâm hồn đã nguội lạnh. Những câu hát ấy, dù không thành tiếng, thành lời thế nhưng nó lại là tiếng vang của tâm hồn, một tâm hồn khởi sắc, dần bước ra khỏi lớp vỏ chai lì bấy lâu nay vẫn mang.

Sự thay đổi trong tâm hồn Mị càng được bộc lộ rõ ràng thông qua chi tiết Mị uống rượu “Ngày Tết Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Trên thực tế Mị ở trong nhà thống lý Pá Tra không hề có một vị trí nào, cô sống cuộc đời còn bần cùng khổ sở hơn cả loài vật nuôi, thế nên việc uống rượu đối với Mị là một sự kiện xa xỉ, thậm chí nếu bị bắt được có lẽ Mị sẽ bị đánh trói, bắt phạt. Dù thế nhưng Mị vẫn lén lấy rượu uống, điều đó giống như là một sự phản kháng, Mị muốn đòi quyền lợi cho mình, cả nhà thống lý đều được uống rượu ăn Tết đủ đầy, Mị cũng muốn được như vậy, Mị muốn một lần được sống như con người ở cái nơi đã mang đến cho Mị biết bao nhiêu là đau khổ.

Và cứ thế Mị uống rượu ừng ực, từng bát, uống không phải để thỏa mãn cái niềm khao khát, thèm muốn, mà dường như Mị đang cố uống cho trôi đi hết tất cả những uất ức khổ đau, cũng là cái cách mà cô thể hiện sự phẫn nộ, khó chịu trong lòng bấy lâu nay. Trong men rượu cay, Mị bỗng nhớ về những ngày xa xăm, khi Mị còn chưa bị ép làm dâu nhà thống lý, cô cũng có một cuộc sống tươi đẹp, tương lai đầy hứa hẹn, khi bản thân Mị là người con gái tài sắc vẹn toàn, chăm chỉ lao động, lại có một tình yêu đẹp sắp đơm bông.

Thế nhưng chỉ trong một đêm tất cả đã trở thành ác mộng, càng nghĩ Mị lại càng ngẩn ngơ trong hoài niệm. Thế rồi người cũng về hết, còn lại một mình Mị ngồi trơ giữa nhà, trong lòng Mị bỗng nảy ra điều gì đó, Mị đứng dậy đi vào buồng “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Tâm hồn tưởng đã chết của Mị đã thực sự sống lại một cách diệu kỳ, đã biết bao lâu rồi Mị không còn cảm nhận được cái cảm giác vui sướng, cái phơi phới của một tâm hồn son trẻ, có lẽ là từ lúc Mị bước chân vào nhà thống lý Pá Tra. Không chỉ là về cảm xúc mà dấu ấn chứng minh cho sự sống lại của tâm hồn Mị còn nằm ở nhận thức về cuộc đời về tuổi trẻ của mình “Mị trẻ lắm.

Mị vẫn còn trẻ”, đồng thời bộc lộ thành khao khát, ước muốn rằng “Mị muốn đi chơi”. Có thể nói rằng đến lúc này niềm khao khát tự do, khao khát được sống, được hưởng thụ cuộc đời của Mị đã bộc lộ một cách rõ rệt nhất. Mị không còn là người đàn bà trẻ tuổi sống lầm lũi, thinh lặng, chịu đựng trong nhà thống lý Pá Tra với khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi nữa, mà đã gần như khôi phục được sự sống quay về với bản tính con người trước kia, một cô gái trẻ đẹp, yêu đời, giỏi thổi sáo, bắt đầu dám phản kháng lại để giành lại hạnh phúc cho bản thân.

Thế nhưng không may rằng dù tâm hồn Mị đã được cởi trói, nhưng thân xác Mị vẫn nằm trong sự khống chế của cường quyền. Trong lúc Mị định thay vào chiếc váy rực rỡ để đi chơi thì A Sử về, nó không cho Mị cái quyền được chơi Tết mà tàn ác túm tóc Mị, rồi trói cô vào cây cột nhà bằng sợi đay, cắt đứt hết những niềm vui sướng vừa nảy nở trong tâm hồn người phụ nữ tội nghiệp. A Sử đi rồi, để lại một mình Mị với căn buồng tối đen, trong hoàn cảnh ấy cứ nghĩ rằng Mị sẽ sụp đổ và tuyệt vọng thêm một lần nữa, nhưng không, “Mị đứng im lặng, như không biết mình bị trói”, lòng Mị vẫn đang nghĩ về những cuộc chơi, những đám chơi mà Mị khao khát.

Dường như dây trói của A Sử có chặt hơn nữa, thì cũng chỉ giữ lại được thân xác này của Mị chứ không thể trói buộc được cái tâm hồn khao khát tự do mãnh liệt của cô. Mị bắt đầu phản kháng “Mị vùng bước đi” nhưng dây trói siết lại, “tay chân đau không cựa được”, nghe tiếng ngựa đạp vào vách, Mị lần nữa ý thức được nỗi đau thân phận rằng bản thân thậm chí còn chẳng bằng con ngựa. Bởi lẽ, con ngựa còn được tự do đôi chân mà đạp vào vách, còn Mị cả chân tay đều bị trói cứng không thể cựa quậy, Mị chảy nước mắt, nghĩ về cuộc đời đau khổ của mình bằng một tâm thế xót xa, cái mà bao lâu nay Mị dường như đã bỏ qua.

Đêm tình mùa xuân đã kết thúc bằng việc Mị bị trói đứng trong buồng ngủ, thế nhưng đó không phải là sự kết thúc, mà thực tế rằng tất cả những sự kiện diễn ra tuần tự đều có ý nghĩa dần dà đánh thức tâm hồn đang nép kỹ trong lớp vỏ chai sần của Mị. Cho đến khi Mị hoàn toàn ý thức được nỗi đau thân phận, ý thức được giá trị của bản thân, cùng với niềm khao khát mãnh liệt được sống, được tự do, thì cũng chính là lúc Mị hoàn toàn sống lại một cách đúng nghĩa cả thể xác lẫn tinh thần. Sự kiện A Sử trói Mị chính là tiền đề, khởi đầu cho những sự phản kháng mạnh mẽ, tự giải thoát cho người khác và cho chính bản thân Mị, để tìm đến một cuộc đời, một tương lai mới tốt đẹp hơn.

Mị trong Vợ chồng A Phủ là một nhân vật điển hình cho nhiều đồng bào miền núi phía Bắc có số phận bất hạnh, phải chịu cảnh áp bức bóc lột của cả cường quyền và thần quyền trong giai đoạn trước cách mạng tháng tám. Với tình cảm gắn bó tha thiết và đôi mắt thấu hiểu của mình Tô Hoài không chỉ phản ánh hiện thực xã hội đầy khắc nghiệt mà còn thông qua đó bộc lộ những vẻ đẹp tiềm ẩn trong từng nhân vật, mà ở Mị là vẻ đẹp tài năng, nhan sắc, nhân cách, sự khao khát tự do mãnh liệt, tình yêu cuộc sống tha thiết, sự phản kháng mạnh mẽ đối với những bất công mà cô phải gánh chịu, để tự giải thoát cho chính bản thân và cả người khác.

Số 18: Nhân vật Mị đêm tình mùa xuân

Vợ chồng A Phủ là tác phẩm nổi bậc nhất trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm kể về số phận đáng thương và cuộc sống vô cùng khắc nghiệt của Mị và A Phủ ở nhà thống lí Pá Tra chốn Hồng Ngài. Dù bị đày đọa đến kiệt quệ cả tinh thần lẫn thể xác nhưng nỗi khổ đau ở nhà thống lí không thể nào giết chết được sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong nhân vật Mị. Trong đêm tình mùa xuân năm ấy, sức sống ấy có dịp trỗi dậy mạnh mẽ.

Đoạn kể chuyện Mị ở Hồng Ngài là đoạn kể về quãng đời tối tăm, tủi nhục của cô. Mị vốn là một cô gái mèo xinh đẹp, tài hoa. Vừa Bước vào tuổi thiếu nữ, Mị đã phải gánh nặng trên vai một món nợ từ đời cha mẹ Mị. Cha con thống lí Pá Tra bắt về Mị làm dâu gạt nợ. Món nợ truyền kiếp của gia đình để cướp trắng tuổi thanh xuân dạt dào khát vọng của Mị. Những năm tháng bị đọa đày dai dẳng trong cái địa ngục trần gian trong nhà thống lí, Mị gần như biến thành tảng đá vô tri. Mỗi ngày Mị không nói, lùi lũi như con rùa núp sau xó cửa. Lúc nào Mị cũng lầm lũi, mặt buồn rười rượi.

Mị bây giờ chỉ là cái xác vô hồn, một cỗ máy biết nói. Mị sống như thực chất chỉ là để kéo dài những ngày chưa được chết mà thôi. “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi còn nước dưới khe suối, cô cũng cúi, mặt buồn rười rượi”.

Cuộc sống với Mị chỉ là một màn sương mờ đục không dĩ vãng, hiện tại, tương lai. Phải chăng ngọn lửa sống trong lòng Mị đã lặng tắt, trái tim Mị đã chai sạn và tê liệt, tâm hồn Mị đã hoàn toàn nguội lạnh và an phận? Mùa xuân đến, tất cả những gì tưởng chừng đã chết trong lòng Mị đều đã được hồi sinh. Mùa Xuân là mùa của cây cối đâm chồi nảy lộc, mùa hội hè đình đám, mùa gặp gỡ hẹn hò của lứa đôi. Mùa xuân đến với núi rừng Tây Bắc, đến với mảnh đất Hồng Ngài được tô hoài miêu tả bằng những câu văn rất lãng mạn.

Có thể nói những trang viết về mùa xuân của tác giả là những trang văn tuyệt hay. Ta gặp ở đó bức tranh mùa xuân với màu rực rỡ: cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy rực rỡ phơi trên mỏm đá thì xòe ra như những cánh bướm. Thanh âm cũng rộn ràng: trẻ con nô đùa, tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết. Mùa xuân bừng bừng một sức sống mãnh liệt bất chấp cái giá lạnh của đất trời. Dường như sự sống, cảnh vật, con người đang được mùa xuân khơi dậy làm cho bừng tỉnh.

Với Mị, mùa xuân còn là mùa gắn với bao kỉ niệm đẹp đẽ của thời trẻ tự do. Trong không khí núi rừng rạo rực vào xuân ấy, Mị nghe tiếng sáo từ xa vọng lại tha thiết, bồi hồi. Tiếng sáo là thứ âm thanh quen thuộc của núi khi hoa ban nở trắng núi rừng Tây Bắc. Đêm đêm trên núi cao tiếng sáo chính là tiếng lòng đắm say của trai gái mèo trao gửi bạn tình. Trong khoảnh khắc ấy, tiếng sáo đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn Mị. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát:

“Mày có con trai con gái rồi

mày đi làm nương

tao không có con trai con gái

tao đi tìm người yêu”

Tiếng hát cất lên từ trái tim tưởng như cô càng, chai sạn của Mị. Mị trước đây sống không ý thức về thời gian, không gian, sự vật. Trước mặt Mị luôn là một màn sương trắng mờ đục. Giờ đây tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn ngủ yên và an phận của Mị. Tiếng sáo rung lên trong trái tim Mị. Những giai đoạn mở đầu của khát vọng được yêu, cái khát vọng bấy lâu nay được chôn chặt trong trái tim Mị.

Mị đã bừng tỉnh mọi cảm nhận về cuộc sống. Ý thức về cuộc sống đã trở lại trong Mị. Mị nhìn thấy, nghe thấy: trai gái, trẻ con ra sân chơi đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy. Nhà thống lí Pá Tra chiêng đánh ầm ĩ. Mị lén uống rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Đó có lẽ nào là cách uống của người thưởng xuân. Chắc chắn không vậy. Uống rượu thưởng xuân phải uống từ từ, từng bát một, nhấm nha, nhấm nháp để tận hưởng và đón nhận hương vị xuân. Đó là cách uống của người khát rượu, thèm rượu? Không đúng. Đã từ lâu Mị chẳng thèm khát gì.

Tô Hoài viết: “Ngày tết Mị cũng uống rượu”. Mọi người uống, Mị cũng uống. Mị uống theo thói ngày xuân của người Mèo. Cách uống ừng ực từng bát ấy giống như Mị uống cho bõ tức, cho nuốt hận tủi hờn. Rồi Mị say, Mị lịm mặt nhìn mọi người nhảy đồng, ngồi hát nhưng trong lòng Mị đang sống về ngày trước. Tô Hoài đã thật khéo léo dùng từ “sống lại” chứ không phải là “nhớ lại”. Nếu “nhớ lại” chỉ là hồi niệm thì “sống lại” là cả phần hồn lẫn phần xác trở về với quá khứ tươi vui của những đêm tình mùa xuân lúc mà Mị chưa về làm dâu nhà thống lí. Chao ôi, đó là những tháng ngày thơ mộng thần tiên, Mị được sống tự do reo vui tiếng hát trên đồi cao, dưới khe sâu, thâu đêm suốt sáng.

Mị đang bứt mình ra khỏi cái ngục tù tăm tối để lần theo sợi dây quá khứ tìm về những ngày xưa hạnh phúc. Đúng trong khoảnh khắc ấy tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Tiếng sáo đã gọi dậy những kỉ niệm ngọt ngào của thời thiếu nữ. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mị uốn chiếc lá trên môi và thổi. Thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị.

Mị như lãng quên hiện tại, lãng quên cái thể xác đang vô cùng đau đớn. Người ta hát mà Mị không nghe, người ta nhảy mà Mị không thấy, rượu tan lúc nào Mị cũng chẳng hay. Chính quá khứ ngọt ngào đã thổi vào lòng những cảm xúc khiến Mị thấy phơi phới trở lại trong lòng một niềm vui sướng. Mị nhận ra mình còn trẻ lắm và muốn đi chơi. Lúc này ý thức về bản thân và quyền sống đã trỗi dậy. Nhưng cũng là lúc Mị nghĩ đến cái chết “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay”.

Đây cũng là lúc Mị thấy thía nhất cảnh ngộ cay đắng của hiện tại “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Hơn thế từ lâu lắm rồi, Mị tồn tại trong trạng thái gần như tê liệt “sống lâu trong cái khổ Mị cũng quen rồi. Mị cũng chẳng còn nghĩ đến chuyện ăn lá ngón tự tử nữa”. Vì thế trong phút giây thức tỉnh, Mị muốn chết. Bởi hơn lúc nào hết, Mị cũng đang yêu tha thiết cuộc sống. Tiếng sáo trở lại song nó không còn lấp ló ngoài đầu núi, văng vẳng ngoài đầu làng mà lửng lơ bay ngoài đường. Tiếng sáo đã thôi thúc Mị đi đến hành động: xắn mỡ bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Hình ảnh ngọn đèn chính là ngọn lửa sống đang trỗi dậy mạnh mẽ trong lòng Mị. Mị ý thức được hoàn cảnh tối tăm và muốn thay đổ. Mị sửa soạn đi chơi: quấn tóc, lấy váy hoa.

Tất cả khẳng định đó chính là hành động của một tâm hồn ham sống đang bừng dậy mãnh liệt, bất chấp bạo quyền. Hình như trong tâm hồn Mị lúc này tiếng sáo mùa xuân tuổi trẻ đã thực sự ngân lên khát vọng tình yêu, hạnh phúc, tự do đang trào dâng không kìm nén được.

Đây cũng là lúc nó bị vùi dập phũ phàng. A Sử xuất hiện đã quấn tóc, trói đứng Mị trong buồng tối. Con thú ấy thản nhiên tắt đèn, khép cửa đi ra không nói tiếng nào. Bị trói, Mị vẫn thả hồn theo tiếng sáo. Tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, dìu Mị về với khát khao yêu đương hạnh phúc: “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Suốt từ đầu tới cuối đêm hôm ấy chỉ thấy cô im lặng, âm thầm cam chịu. Dường như cô đang không sống bằng phần thể xác nữa. Ẩn chứa bên trong lại là cô Mị khác. Một cô Mị đang náo nức say sưa với những kỉ niệm của tình yêu. Say sưa đến nỗi “như không biết mình đang bị trói, khiến Mị vùng dậy bước đi”.

Nhưng dây trói, tiếng chân ngựa đẩy Mị về hiện thực: “Mị không nghe thấy tiếng sáo nữa… Mị thổn thức nghĩ rằng mình không bằng con trâu, con ngựa”. Mị nhận ra đêm đã khuya, thời gian chạm vào kỉ niệm đẹp nhất của lòng Mị. Mị nín khóc, lòng lại bồi hồi. Trong suốt đêm bị trói, Mị đã sống trong một tâm trạng giằng xé giữa quá khứ đẹp đẽ và hiện thực đau khổ, giữa ước mơ hạnh phúc và nỗi tủi hờn vì thân kiếp trâu ngựa. Đó là biểu hiện của một tâm hồn yêu sống, thèm sống, bất chấp cường quyền chà đạp và vùi dập.

Diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài là một tâm trạng hỗn hợp: vui sướng và đau khổ, ham sống và tủi nhục muốn chết. Trong bóng tối nặng nề ấy, hành động của Mị rất ít. Phần lớn là những dòng nội tâm đang trỗi dậy tuôn trào trong lòng Mị. Tác giả đã bộc lộ rõ nét tài năng miêu tả diễn biến nội tâm của nhân vật một cách chân thật, sinh động. Sự trỗi dậy của Mị trong đêm tình mùa xuân tuy không thay đổi số phận nhưng nó là tiền đề quan trọng cho những đột biến lớn lao trong cuộc đời Mị.

Số 19: Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa Xuân

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, nhà văn Tô Hoài được độc giả biết đến là một trong những cây bút rất tiêu biểu. Đến với đoạn trích Vợ chồng A Phủ, độc giả lại càng thêm ấn tượng bởi cách xây dựng hình tượng nhân vật mang cá tính độc đáo, tiêu biểu. Đặc biệt, tác giả đã để lại dấu ấn mạnh trong lòng người đọc bởi cá tính, sức sống bền bỉ, mạnh mẽ của nhân vật Mị. Tô Hoài đã khắc họa thành công và chân thực diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.

Nhân vật Mị được tác giả khắc họa nổi bật và chân thực xuyên suốt tác phẩm. Đó là một cô gái xinh đẹp, mang vẻ đẹp rất riêng của những cô gái vùng cao Tây Bắc. Vẻ đẹp ấy đã làm cho bao chàng trai trong vùng đắm say mà nguyện thổi sáo đi theo Mị. Cô gái trẻ ấy, mang trong mình những sức sống tươi trẻ nhất, với bao tình yêu và hy vọng để bước vào quãng thời gian tươi đẹp mang tên thanh xuân. Nhưng, những hủ tục bởi một xã hội vẫn còn ngang trái nhiều bất công đã xô đẩy cuộc đời Mị vào những ngã rẽ cay đắng nhất. Món nợ truyền kiếp của gia đình đã biến số phận một cô gái đáng lẽ ra phải có được cuộc sống hạnh phúc, lại rơi vào sự bế tắc. Lối thoát nào cho Mị khi bị bắt trở thành con dâu nhà Thống lí Pá Tra. Mang danh con dâu, nhưng cuộc sống hàng ngày của Mị chẳng khác gì thân trâu ngựa. Mị phải làm việc lùi lũi, không chuyện trò, không giao tiếp, làm việc như một cỗ máy, như một cái xác không hồn. Những tưởng, những tháng ngày Mị sống trong sự vô cảm đó sẽ kéo dài mãi. Nhưng không, thực ra sức sống tiềm tàng trong Mị vẫn luôn tồn tại, như một đốm lửa vẫn nhen nhóm tận sâu ở dưới, chỉ chực có cơ hội là cháy bùng lên mạnh mẽ.

Người ta luôn nói rằng, yếu tố ngoại cảnh có ảnh hưởng rất nhiều đến tâm trạng cũng như hành động của con người. Quả thực như vậy. Khung cảnh mùa xuân ở Hồng Ngài đã đem những sức sống tiềm tàng trong Mị bấy lâu nay bị đè nén sống dậy một cách mạnh mẽ. Mùa xuân vùng cao đến, những màu sắc sặc sỡ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá như những cánh bướm, tiếng sáo gọi bạn tình của những chàng trai cô gái chớm yêu… Tất cả mang đến một không khí mùa xuân rạo rực, làm lòng Mị cũng dâng trào bao cảm xúc.

Đêm tình mùa xuân, Mị bắt đầu uống rượu. Tâm hồn Mị bắt đầu trở về với những kỉ niệm ngày trước. Hơi rượu nồng nàn và tiếng sáo xung quanh đã làm Mị nhớ lại những ngày tháng còn được tự do, được sống với đúng ý nghĩa một con người. Mị nhớ lại ngày trước, mình thổi lá hay hơn thổi sáo. Những kí ức về những tháng ngày tươi đẹp tưởng chừng như bị quên lãng giờ đây đang sống dậy, như một thước phim quay chậm đưa Mị trở về với quá khứ. Sự thức tỉnh ấy đang làm trỗi dậy sức sống của một tâm hồn đã bị số phận làm cho chai sạn. Kỉ niệm ùa về, cảm xúc ùa về. Trong những ngày làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị sống với cảm xúc trơ lì như một tảng đá. Nhưng giờ đây, trong khung cảnh đêm tình mùa xuân đang rạo rực, Mị đã có những luồng cảm xúc mạnh. Mị ước nếu như có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn luôn mà không cần suy nghĩ. Ý nghĩ đầy táo bạo này chính là một sự nhen nhóm của tinh thần phản kháng lại số phận. Thực tại đau khổ đã làm người con gái căng tràn sức sống ngày nào chai lì cảm xúc. Nhưng khung cảnh đêm tình mùa xuân đã làm cho người con gái ấy nhen nhóm lên ý thức đấu tranh để có thể thoát khỏi cuộc sống vô nghĩa đang bủa vây, ngay cả khi cách phải chọn là tìm đến cái chết.

Tuy nhiên, những cảm xúc mạnh ấy của lòng Mị lại không biểu hiện ngay trong những hành động. Tác giả Tô Hoài đã cho nhân vật của mình có sự đấu tranh quyết liệt trong tư tưởng: một bên là khát khao tự do cháy bỏng, một bên là sự chai lì cảm xúc, mặc cảm về số phận. Mị đã có những hành động liên tiếp nhau. Hành động đầu tiên, Mị sắn thêm mỡ bỏ vào đèn. Đó là hành động tuy nhỏ nhưng mang nhiều ý nghĩa. Đó có thể là mong muốn của nhân vật muốn căn phòng sáng lên, hay cuộc đời mình có thể tươi sáng và nhiều hy vọng hơn. Tiếp theo, Mị bắt đầu quấn lại tóc và chuẩn bị váy áo đi chơi. “Mị còn trẻ, Mị muốn đi chơi”. Vậy là, khát khao được sống với những cảm xúc chân thực nhất của đời mình đã chiến thắng trong ý nghĩ, hành động của Mị. Mị đang sống, nhưng là sống với những kỉ niệm của quá khứ, cảm xúc của quá khứ. Mị đang quên đi thực tại đau khổ, mà sống đúng với bản chất con người yêu tự do trong mình. Trớ trêu thay A Sử về, và trói đứng Mị lên cột nhà. Nhưng, thân xác Mị bị trói buộc tại đấy, còn tâm hồn Mị vẫn đang lơ lửng và đi theo những tiếng sáo gọi bạn tình. Khát vọng sống vừa mới bùng lên trong Mị, đã bị trói buộc bởi thực tại đau khổ, đó mới là điều cay đắng nhất. Khi Mị dần tỉnh chính là lúc các cơn đau thể xác bắt đầu ập đến, những cảm xúc mạnh mẽ trỗi dậy trong đêm tình mùa xuân cũng dần mất theo cơn say đang dần biến mất. Nhưng, đó lại chính là ngọn nguồn của ánh lửa yêu tự do, vẫn hàng ngày hàng giờ cháy âm ỉ trong lòng cô gái H’mông xinh đẹp ngày nào.

Nhà văn Tô Hoài đã rất thành công khi có những trang văn miêu tả chân thực, cảm động diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân. Cảm xúc và hành động của nhân vật đã dần bộc lộ cá tính và nét tính cách, sức sống tiềm tàng vẫn ẩn sâu trong người con gái ấy. Đó chính là minh chứng cho khát vọng sống, sức sống mạnh mẽ tiềm tàng biểu trưng cho những con người ý chí vùng cao Tây Bắc.

Số 20: Phân tích tâm trạng Mị trong đêm tình mùa Xuân

Vợ chồng A Phủ là một trong hai tác phẩm xuất sắc nhất được in trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Thông qua các nhân vật trong truyện là Mị và A Phủ, tác giả Tô Hoài không chỉ phản ánh được hiện thực đen tối của xã hội phong kiến miền núi Tây Bắc mà còn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc khi đồng cảm, bênh vực những con người bất hạnh, đi sâu khám phá để phát hiện ra sức sống tiềm ẩn bên trong họ. Bằng tài năng và sự am hiểu của mình về đời sống tâm lí của con người Tây Bắc, nhà văn Tô Hoài đã rất tinh tế khi miêu tả diễn biến tâm lí, quá trình trỗi dậy của sự sống bên trong tâm hồn của những con người bị chà đạp đến mất đi khả năng phản kháng. Ta có thể thấy rõ điều này thông qua nhân vật Mị, đặc biệt là chi tiết sức sống của Mị trỗi dậy trong đêm tình mùa xuân.

Mị là cô gái xinh đẹp nhưng có số phận bất hạnh khi bị buộc trở thành người con dâu gạt nợ nhà thống lí. Trong hoàn cảnh đen tối nhất, sức sống mãnh liệt bên trong con người Mị vẫn cháy, để khi thời cơ đến Mị đã vùng lên để tự giải phóng cho mình, giải phóng cho người vô tội khác là A Phủ.

Mị là cô gái trẻ trung, xinh đẹp được nhiều chàng trai theo đuổi, tuy nhiên số phận éo le khiến cho người con gái xinhh đẹp tràn trề nhựa sống ấy phải trở thành người con dâu gạt nợ cho gia đình thống lí. Vốn là cô gái khát khao tự do nên Mị không chấp nhận trở thành món hàng để trao đổi, Mị từng có ý định ăn lá ngón để tự tử nhưng vì thương cha nên Mị đã chấp nhận cuộc sống mất tự do, đọa đầy cả về thể xác và tinh thần trong gia đình thống lí.

Tại nhà thống lí, Mị phải làm việc quần quật ngày đêm và bị chà đạp cả về thể xác và tinh thần, lâu dần Mị đã dần quen trong cái khổ “Sống lâu trong cái khổ Mị quen rồi”. Thế mới thấy cường quyền không chỉ chà đạp con người ta về thể xác mà còn “giết” dần giết mòn sự sống từng ngày. Mị sống lầm lũi, cam chịu như con rùa nuôi trong xó cửa.

Những tưởng Mị sẽ mãi sống như vậy cho đến khi chết đi nhưng không, sức sống tiềm tàng trong Mị không hề mất đi mà vẫn âm thầm cháy, để đến khi có tác động nó sẽ bùng cháy trở lại. Trong đêm tình mùa xuân, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình, Mị bỗng sống lại với những tháng ngày của tuổi trẻ và khát khao tình yêu cháy bỏng.

Mị chợt nhận ra mình vẫn còn trẻ, cảm nhận được những khát vọng thành thực nhất “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Mị uống rượu, uống như để quên đi hiện thực tàn nhẫn và muốn đắm mình trong những cảm xúc của tuổi ter nhưng càng uống Mị càng tỉnh. Cuối cùng Mị có những hành động không ngờ tới, Mị mặc áo để thực hiện nhu cầu đang thôi thúc mãnh liệt “Mị muốn đi chơi”. Có thể thấy Mị đã tự thoát ra khỏi cái vỏ ngoài cam chịu, lầm lũi để sống trở lại là mình, trong giây phút ấy Mị đã vượt qua những giới hạn mà cường quyền, thần quyền để sống cho những nhu cầu của bản thân.

Khi Mị chuẩn bị bước đi thì A Sử quay trở về, thấy Mị muốn đi chơi A Sử đã tàn nhẫn trói đứng vào cột, sự sống trỗi dậy mãnh liệt đến mức tuy bị trói nhưng khi nghe tiếng sao Mị vẫn vô thức “vùng bước đi”. Qua đó mới thấy nỗi đau về thể xác, hoàn cảnh nghiệt ngã của hiện tại không thể khuất phục trước sự sống bên trong của con người Mị.

Tuy sau đêm tình mùa xuân, Mị tiếp tục trở lại với cuộc sống của “con trâu con ngựa” sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa nhưng đây chính là chi tiết quan trọng trong tác phẩm, nó là cơ  sở cho sự sống trỗi dậy mạnh mẽ nhất trong đêm giải cứu A Phủ và giải cứu cho chính mình.

Nhân vật Mị điển hình cho sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ bên trong con người, nó có thể vượt qua mọi bạo tàn của cường quyền, tăm tối nhất của hoàn cảnh.

Bài Vợ chống A Phủ của Tô Hoài
Bài Vợ chống A Phủ của Tô Hoài

Tổng kết

Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 20 mẫu phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 12.

0/5 (0 Reviews)
Chúng tôi tạo ra Top10timkiem.vn nhằm mục đích cung cấp cho người đọc những thông tin, liệt kê một cách chi tiết nhất về mọi lĩnh vực trong cuộc sống.