Tổng hợp các bài mẫu phân tích khổ cuối bài thơ Từ ấy của tác giả Tố Hữu một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 10 mẫu phân tích khổ cuối bài thơ Từ ấy chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!
Dàn ý khổ cuối bài thơ Từ ấy
I. Mở bài
- Hoàn cảnh ra đời
Từ ấy là bài thơ có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu, là cái mốc đánh dấu thời điểm (1937) và được kết nạp Đảng năm 1938 – Tố Hữu giác ngộ và gặp ánh sáng lí tưởng cộng sản. Đó cũng chính là tuyên ngôn nghệ thuật của Tố Hữu. Tự nhận định về Từ ấy, anh viết: “Từ ấy: là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám, đôi mươi đi theo lí tưởng cao đẹp, dám sống, dám đấu tranh”.
- Nội dung: Tâm nguyện cao đẹp của người thanh niên trẻ trung nhiệt tình cách mạng: Niềm say mê mãnh liệt và vui sướng tràn trề cùng với nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn khi gặp gỡ và được giác ngộ lí tưởng cộng sản.
- Tứ thơ: Tứ thơ “Từ ấy” bắt nguồn từ cảm hứng của thời điểm Tô Hữu đón nhận lí tưởng cách mạng.
II. Thân bài
Khổ 3: Sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn nhà thơ
– Trước khi gặp cách mạng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Khi ánh sáng cách mạng như “Mặt trời chân lí chói qua tim”, đã giúp nhà thơ vượt qua những tầm thường ích kỉ trong đời sống tâm hồn chật hẹp để vươn đến một tình yêu “vẹn tròn to lớn”.
– Nhà thơ tự nhận mình “là con của vạn nhà” trong nghĩa đồng bào thiêng liêng nhất; là em của “vạn kiếp phôi pha” gần gũi bằng tình cảm xót thương những kiếp đời lao khổ, bất hạnh, những kiếp sống mòn mỏi, đáng thương; là anh của “vạn đầu em nhỏ” “cù bất cù bơ”. Từ những cảm nhận ấy đã giúp nhà thơ say mê hoạt động cách mạng với những thiết tha cao đẹp công hiến đời mình góp phần giải phóng đất nước, giải phóng những kiếp lầm than trong xã hội tăm tối dưới bóng thù xâm lược.
III. Kết bài
– Hồn thơ Tố Hữu chứa chan tình yêu giai cấp và niềm biết ơn sâu sắc cách mạng.
– Thơ Tố Hữu rõ ràng là thơ trữ tình – chính luận, hướng người đọc đến chân trời tươi sáng.
– Tiếng nói trong thơ là tiếng nói của một nhà thơ vô sản chân chính.
– Giọng thơ chân thành, sôi nổi, nồng nàn.
Hình ảnh thơ tươi sáng, ngôn ngữ giàu tính dân tộc.
Top 10 mẫu phân tích khổ cuối bài thơ Từ ấy
Số 1: Phân tích khổ cuối bài thơ Từ ấy
Nhắc đến văn chương Cách Mạng nếu không nói tới cây bút tài năng Tố Hữu quả là thiếu sót lớn. Một người chiến sĩ cách mạng tài giỏi, một người nghệ sĩ tài hoa. Trong chính trị cũng như trong Cách Mạng, ông luôn là một người xuất sắc. Với tài năng đó, ông viết nên những vần thơ trữ tình lãng mạn, tiêu biểu “ Từ ấy”. Bài thơ trích trong tập cùng tên sáng tác năm 1938 diễn tả những cảm xúc dạt dào của ông về Đảng. Khổ thơ cuối như khúc hát khép lại bài ca tình cảm mãnh liệt ấy.
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”
Mở đầu khổ thơ là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất : “Tôi”. Không còn là “ta” như thơ ca xưa. Thơ ca cách mạng nói chung và thơ ca Tố Hữu nói riêng đã mang trong mình tiếng nói tình cảm cá nhân. Cái tôi đã được khẳng định. Cảm xúc cá nhân đã được thăng hoa.
Tố Hữu nhận mình là “ con của vạn nhà”. “ Vạn nhà” ở đây không chỉ là xứ Huế mộng mơ, đằm thắm mà là mọi mảnh đất trên dải đất hình chữ S thân yêu. Hình ảnh người dân trong lòng tác giả thật gắn bó, đoàn kết. Tố Hữu cũng nói mình “ Là em của vạn kiếp phôi pha”. Nhắc đến “ kiếp phôi pha” là nhắc tới quá khứ cha ông hào hùng lịch sử.
Nhận làm “em” là tác giả muốn nói mình tiếp bước cha ông, tiếp đón hào khí tinh thần chiến đấu đoàn kết của họ. Và Tố Hữu còn nhận mình là “ anh của vạn đầu em nhỏ” Làm anh bởi ông muốn che chở, yêu thương những số phận nghèo đói, bị chiến tranh, bị thực dân đàn áp, làm cho đói khổ.
Khổ thơ ngắn gồm bốn câu, Tố Hữu sử dụng điệp cấu trúc lặp lại ba lần “ Đã là…” để khẳng định rõ ràng vị thế của mình trong một khối đại đoàn kết lớn. Từ đó cũng khẳng định được ý thức tự giác, chắc chắn, vững vàng của tác giả.
Tố Hữu hòa mình cùng với nhân dân. Tác giả như ngầm khẳng định khối đoàn kết của anh em mọi nhà, của tình cảm nhân dân gắn bó. Tác giả nguyện cùng họ đấu tranh, cùng họ chiến đấu.
Nhà thơ tự nguyện làm “con của vạn nhà, em của vạn kiếp phôi pha, anh của vạn đầu em nhỏ”, nguyện mang cả cuộc đời mình để đem lại hạnh phúc cho những mảnh đời bất hạnh, những kiếp sống mòi mỏi trong tuyệt vọng, những đứa bé tội nghiệp vì chiến tranh phi nghĩa vì thực dân đàn áp mà sống khổ cực.
Hình ảnh những người dân Việt Nam những năm 1938 hiện lên xót thương trong lời thơ dạt dào cảm xúc thương xót của tác giả. Tác giả như ngầm lên án chế độ thực dân đàn áp và đồng thời khơi lên niềm tin mãnh liệt vào Cách Mạng vào Đảng sẽ mang lại cho đất nước một cuộc sống mới tươi đẹp, hạnh phúc, không khổ đau.
“Từ ấy” là tiếng reo vui không chỉ của nhà thơ, mà còn là của cả một thế hệ thanh niên khi tìm thấy lí tưởng của Đảng, nguyện chiến đấu hết mình vì lí tưởng, vì nhân dân, vì đất nước. Họ là những người chiến sĩ trẻ, mang trong mình nhiệt huyết, mang trong mình lí tưởng, và lòng yêu thương đồng bào, yêu thương đất nước. Khổ thơ cuối bao trọn những cảm xúc ấy. Tình yêu với cách mạng, niềm tin với Đảng và lòng thương yêu đồng bào hoà làm một thành ý chí chiến đấu cho những người dân Việt Nam.
Tố Hữu quả thực là nhà thơ của nhân dân Việt Nam. Những vần thơ vừa có chất trữ tình vừa có chất thép cách mạng. Khổ thơ cuối bài thơ “ Từ ấy” đã khái quát lại tình cảm, tình yêu, lòng yêu thương và niềm tin Cách Mạng Đảng tuyệt đối của chàng thanh niên nhiệt huyết.

Số 2: Phân tích khổ thơ cuối bài Từ ấy
Bài thơ “Từ Ấy” nằm trong tập thơ cùng tên, được Tố Hữu sáng tác vào năm 1938, đã đánh dấu sự trưởng thành trong lí tưởng của người thanh niên cách mạng. Bài thơ là tiếng reo vui sướng, hạnh phúc của một người trẻ vẫn đang trên con đường tìm kiếm lẽ sống thì gặp được ánh sáng của lí tưởng, của Đảng, của cách mạng. Nếu như khổ thơ thứ nhất thể hiện những cảm xúc, tâm trạng của thi nhân khi được giác ngộ lí tưởng của Đảng thì đến khổ 3 là sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu.
Khổ thơ thứ ba cho thấy sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu. Nhà thơ mong muốn tình cảm nồng nhiệt của mình sẽ trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ những trái tim của những người cùng khổ, tạo nên sức mạnh to lớn phá tan chế độ bạo tàn đầy áp bức bất công:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.
Trước khi giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản giúp nhà thơ không chỉ có được lẽ sống mới mà còn vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng nghèo khổ. Hơn thế, nhà thơ đã tìm thấy tình cảm gia đình ruột thịt trong quần chúng cách mạng. Người chiến sĩ ấy tự nguyện coi mình là con của vạn nhà, Là em của vạn kiếp phôi pha, Là anh của vạn đầu em nhỏ.
Một sự tự nguyện hoàn toàn, tuyệt đối, không băn khoăn, không ngần ngại. Điệp ngữ: Tôi đã là… lặp đi lặp lại ba lần, giống như một lời tuyên thệ của một chiến sĩ khi đã đứng trong hàng ngũ cách mạng. Điệp từ là cùng với các từ con, em, anh và số từ ước lệ vạn (chỉ số lượng hết sức đông đảo) nhấn mạnh và khẳng định một tình cảm gia đinh thật đầm ấm, thân thiết.
Khi nối tới những kiếp phôi pha (những người đau khổ, bất hạnh, những người lao động vất vả, thường xuyên phải dãi dầu mưa nắng để kiếm sống), những em nhỏ không áo cơm cù bất cù bơ (những em bé không nơi nương tựa, phải lang thang vất vưởng nay đây mai đó), tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà thơ biểu hiện thật chân thành, xúc động.
Qua đó, chúng ta có thể thấy được thái độ căm giận của nhà thơ trước những bất công, ngang trái của cuộc đời cũ. Chính vì những kiếp phôi pha, những em nhỏ cù bất cù bơ ấy mà người thanh niên Tố Hữu đã hăng say hoạt động cách mạng và họ cũng chính là đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ Tố Hữu. (Cô gái giang hồ trong Tiếng hát sông Hương, cô bé đi ở trong Đi đi em, ông lão khốn khổ trong Lão đầy tớ, em bé bán bánh rong trong Một tiếng rao đêm…)
Bài thơ Từ ấy tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn cách mạng trong giai đoạn sáng tác đầu tiên của Tố Hữu. “Cái tôi trữ tình” lắng đọng trong từng ý thơ, từng hình ảnh, lúc bay bổng, lúc lắng đọng, lúc là lời bộc bạch trực tiếp, chân thành những ước vọng, tâm tư khi tìm thấy lí tưởng.
Từ ấy là tiếng hát yêu thương, tin tưởng, là tiếng lòng tha thiết của một thanh niên bắt đầu giác ngộ lí tưởng, tự nguyện dấn thân vào con đường cách mạng đầy chông gai, gian khổ, hi sinh của toàn dân tộc. Vượt thời gian, sau hơn nửa thế kỉ ra đời, Từ ấy vẫn tươi xanh chất trữ tình cách mạng. Bài thơ đã tạo được sự đồng cảm, mến mộ của nhiều thế hệ yêu thích thơ Tố Hữu.

Số 3: Cảm nhận khổ cuối bài thơ Từ ấy
Tố Hữu là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất trong phong trào thơ ca cách mạng. Ông có nhiều các tác phẩm có giá trị không chỉ về nghệ thuật văn học mà còn mang giá trị lịch sử bởi hầu hết các tác phẩm của Tố Hữu đều gắn liền với từng chặng đường của lịch sử dân tộc.
Mở đầu cho thành công của Tố Hữu chính là tập thơ Từ ấy (1939) với tác phẩm cùng tên đặc biệt xuất sắc và ấn tượng. Bài thơ không chỉ bộc lộ niềm hân hoan vui sướng của tác giả khi được bước chân vào hàng ngũ của Đảng, mà còn thể hiện sự chuyển biến tích cực trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng.
Có thể nói rằng việc trở thành Đảng viên khi còn trẻ tuổi đã mang đến cho cuộc đời Tố Hữu những bước ngoặt lớn, ông không chỉ tìm thấy cho mình con đường mới, mở ra một sự nghiệp cách mạng vẻ vang lắm gian lao, mà còn thay đổi triệt để nhận thức, từng góc một trong tâm hồn người chiến sĩ đều như được được chiếu rọi bằng ánh sáng của lý tưởng giải phóng dân tộc, làm nên một cuộc đời mới, nhiều ý nghĩa suốt mấy chục năm sau này và mãi mãi về sau. Khổ thơ thứ 3 khép lại tác phẩm đã thể hiện rõ điều này
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”
Bên cạnh sự thay đổi về nhận thức, hiểu được sứ mệnh và trách nhiệm của bản thân trong vai trò người chiến sĩ cách mạng, ở Tố Hữu ta còn nhận thấy được sự chuyển biến sâu sắc trong phương diện tình cảm.
Người chiến sĩ trẻ tuổi đã không còn tự ôm lấy mình, thương cảm cho cuộc đời lạc lõng, tăm tối, mà thay vào đó tác giả tự xem mình trở thành một thành viên trong “đại gia đình” 54 dân tộc anh em, không phân biệt giàu nghèo, tầng lớp, địa vị, già trẻ lớn bé, trở thành con, anh, em của vạn nhà, vạn kiếp phôi pha, vạn đầu em nhỏ.
Lượng từ “vạn” càng nhấn mạnh tấm lòng bao la, rộng lớn mà người chiến sĩ trẻ dành cho đồng bào mình, ấy là khao khát được hòa nhập, được đồng cam cộng khổ, được thấu hiểu từng cuộc đời, được chăm lo đến từng số phận, để ai ai cũng được ấm no, hạnh phúc. Ấy là ước mơ cũng đồng thời là lý tưởng cách mạng vĩ đại của người chiến sĩ trẻ, vừa mới bắt đầu một chặng đường giải phóng dân tộc đầy gian lao.
Câu thơ bộc lộ sự tự nhận thức một cách toàn diện, sự chuyển biến tích cực trong tâm hồn của Tố Hữu. Giờ đây ông không còn chiến đấu một mình, chiến đấu chỉ vì lý tưởng của bản thân, mà hơn hết là ông chiến đấu vì cả đất nước, vì cả một dân tộc đang lầm than, vì những con người thân thương ruột thịt.
Khổ thơ đã thể hiện được những phẩm chất đáng quý của một người chiến sĩ cách mạng, noi gương Hồ Chí Minh, sống giữa đất trời có tấm lòng rộng lớn, bao la, không quản ngại gian khó, sẵn sàng đứng lên hy sinh cuộc đời vì nhân dân, vì đất nước, ý thức sâu sắc được trách nhiệm, sứ mệnh của bản thân.
Biết yêu thương, sẻ chia và thấu hiểu cho những mảnh đời gia khó khắp muôn nơi, bất bình, phẫn nộ trước những ngang trái, bất công, đau xót trước những cảnh lầm than, đớn đau, lấy đó làm động lực, nguồn nuôi dưỡng cho ý chí chiến đấu mạnh mẽ, không ngừng nghỉ.
Từ ấy là một trong những tác phẩm hay và tiêu biểu nhất trong chặng đường sáng tác miệt mài của Tố Hữu. Không chỉ đơn thuần là ghi dấu lại một bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc đời cách mạng của tác giả mà ở tác phẩm này người ta thấy rất rõ được sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn của ông.
Khi những dòng thơ đã thể hiện tinh tế sự chuyển đổi từ cái tôi cá nhân hồn nhiên, tươi sáng trong niềm vui hân hoan khi được đứng vào hàng ngũ của Đảng sang cái ta chung khi nhận thức được sứ mệnh và trách nhiệm của Tố Hữu.
Bên cạnh đó lối thơ tự nhiên, giàu hình ảnh, sức sáng tạo và sự lãng mạn khuynh hướng Pháp đã mang đến cho tác phẩm sức hấp dẫn riêng biệt, ghi danh vào một trong những tác phẩm thơ trữ tình chính nổi tiếng và đáng nhớ suốt cả chặng đường thơ của Tố Hữu, cũng như trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam bên cạnh Việt Bắc.
Số 4: Phân tích khổ cuối bài thơ Từ ấy
Tố Hữu làm thơ chính trị mà rất đỗi trữ tình, nhận định ấy của Xuân Diệu đã phần nào cho thấy nét đẹp nhuần thấm cũng như sự đặc sắc riêng trong thơ chính trị của Tố Hữu, nét riêng ấy phần nào đã được thể hiện trong bài thơ Từ ấy.
Khuynh hướng chính trong thơ Tố Hữu là khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, ngay từ những dòng thơ mở đầu người đọc đã thấy tâm hồn thi sĩ trong người chiến sĩ Tố Hữu:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim..”
“Từ ấy” đánh dấu mốc thời gian Tố Hữu chính thức được đứng trong hàng ngũ của Đảng, với chàng trai tuổi hai mươi ấy đó dường như là khoảnh khắc lịch sử khi nó đánh dấu sự trưởng thành của ông khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng, được góp sức vào công cuộc cứu nước, được hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.
Giây phút hạnh phúc và niềm hân hoan vỡ òa ấy được ví von so sánh bằng một hình ảnh vô cùng giản dị mà ấm áp, tươi đẹp “tâm hồn tôi là một vườn hoa lá”, tâm hồn ấy bừng sáng khi được mặt trời chân lí chói qua tim, rộn ràng háo hức và hân hoan trước giây phút vinh quang này.
Tâm hồn rất đậm hương và rộn tiếng chim, nhờ so sánh ấy, người đọc cũng như có cảm giác rằng niềm vui say trong ánh mắt, trong điệu hồn của nhân vật như làm tươi vui và náo nhiệt cả thiên nhiên, cả thiên nhiên dường như cũng đang nhảy múa không ngừng trước bước chuyển mình lịch sử ấy của người chiến sĩ cộng sản.
Đó là bước chuyển đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ sự bế tắc mất phương hướng đến khi tìm được lí tưởng chiếu rọi, tìm đường con đường để theo đuổi và nhận thấy giấc mộng lớn của mình hòa chung vào niềm tin phấn khởi của cả dân tộc. Và chính sự giác ngộ ấy đã hình thành nên trong tâm hồn người chiến sĩ cộng sản nhưng tình cảm lớn, lí tưởng lớn tươi đẹp biết bao:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mảnh khối đời”
Muốn dùng sự yêu thương để cùng đùm bọc, cưu mang, che chở với biết bao hồn khổ. Lí tưởng ấy, phải chăng chính là sự kế thừa nhuần nhị trong tinh thần dân tộc Việt Nam “lá lành đùm lá rách”, là đạo lí truyền thống tươi đẹp, cao cả của dân tộc. vậy nên mới nói, thơ Tố Hữu thường hướng về những lẽ sống lớn tình cảm lớn của dân tộc.
Điều ấy khơi gợi được sự đồng cảm, đồng thời đánh thức lại lòng nhân đạo trong tâm hồn mỗi con người, khi mà cuộc sống ngày càng phát triển sự rạn nứt nhỏ trong mối quan hệ giữa con người ngày càng rõ rệt. Đó là lẽ sống mà Tố Hữu theo đuổi, lẽ sống như một ngọn đèn soi đường cho người chiến sĩ cách mạng, để đến cuối khổ thơ, nhà thơ khẳng định chắc nịch:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”
Người con của tổ quốc giờ đây không còn cảm thấy cô đơn, mất phương hướng, mà đã gắn kết với cả một tập thể cộng đồng, đó không phải đơn thuần là sự hòa nhập, mà là sự lựa chọn được đồng cam cộng khổ, cùng nếm mật nằm gai, được lắng nghe tiếng nói của những con người nhỏ bé, vô danh. Điệp ngữ xuất hiện liên tiếp trong khổ thơ càng cho thấy tâm thế của người chiến sĩ cộng sản một lời khẳng định, hay là một lời tuyên bố về lẽ sống lí tưởng cao đẹp của mình.
Từ ấy là khúc ca tươi vui, như bản nhạc tâm hồn rộn ràng của người chiến sĩ say mê lí tưởng cộng sản cao đẹp, đồng thời khẳng định được những lẽ sống lớn, tình cảm lớn mà nhân vật theo đuổi.

Số 5: Phân tích khổ thơ cuối bài Từ ấy
Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng nổi tiếng, ông có những tác phẩm thơ nổi tiếng như Việt Bắc (1947-1954), Gió lộng (1955-1961), Ra trận (1962-1971), Máu và hoa (1972-1977). Một trong những tác phẩm nổi tiếng là bài thơ Từ ấy. Bài thơ Từ ấy là bài thơ mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu, bài thơ đồng thời là một chân lí sống của tác giả trong cuộc sống. Khổ 3 của bài thơ thể hiện sự chuyển biến tâm lí sâu sắc của tác giả. Chúng ta cùng đi tìm hiểu khổ 3 của bài thơ Từ ấy để hiểu rõ hơn những vấn đề trong bài.
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của bạn kiếp phôi pha
Là anh của bạn đàn em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”
“Đã là” với từ là được lặp lại nhiều lần thể hiện thái độ dứt khoát, quyết tâm kiên định, vững vàng của Tố Hữu. “Con, anh ,em” là những từ thể hiện sự thân thiết, thân tình…
“Vạn nhà” là chỉ số lượng nhiều, chỉ đại gia đình của giai cấp cần lao. “Vạn kiếp phôi pha” để chỉ những người đau khổ, bất hạnh trong cuộc đời. Nó thể hiện thái độ căm phẫn đối với sự bất công của xã hội, thương xót những người nghèo khổ.
Hình ảnh “vạn đàn em nhỏ” chỉ số lượng nhiều những em bé mồ côi, lang thang vất vưởng. “Không áo cơm, cù bất cù bơ” là câu thành ngữ dân gian chỉ những em bé lang thang, vất vưởng, không nơi nương tựa, đói rét trong xã hội.
Nó thể hiện thái độ căm phẫn bằng một giọng điệu cứng rắn, chân tình cũng như hình ảnh có tính chất ước lệ.
Tố Hữu đã bày tỏ quyết tâm gắn bó máu thịt với giai cấp cần lao nghèo khổ trong xã hội. Coi giai cấp cần lao là đại gia đình của mình, là mẹ cha, là anh em ruột thịt và căm phẫn đối với sự bất công ngang trái trong xã hội để từ đó quyết tâm chiến đấu đem lại cuộc sống tự do, hạnh phúc, công bằng.
Nhờ sự soi sáng của lý tưởng Cộng Sản, Nhà thơ Tố Hữu đã có sự thay đổi về tình cảm là sự gắn bó máu thịt với người dân cần lao để chiến đấu chống lại xã hội bất công thối nát.
Số 6: Cảm nhận khổ cuối bài thơ Từ ấy
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, ông sinh và và lớn lên tại Thừa Thiên Huế, là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho phong trào thơ cách mạng Việt Nam. Nhắc đến thơ Tố Hữu là nhắc đến những vần thơ mang đậm tính trữ tình cách mạnh, thể hiện khát khao, ý chí của những người cách mạng nặng lòng với đất nước.
Những tâm sự của ông qua từng vần thơ đều mang tầm vóc thời đại, của một cái tôi cộng đồng. Có thể nói, Tố Hữu chính là lá cờ đầu của thơ ca kháng chiến với hàng loạt các tập thơ tiêu biểu như Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận hay Máu và hoa. Bài thơ Từ ấy được trích trong tập thơ cùng tên là một bông hoa đẹp trong vườn thơ đầy hương sắc của ông.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Mở đầu bài thơ là lời thơ mang đậm chất tự sự, nhà thơ nhắc lại một sự kiện trọng đại trong đời mình. Trạng ngữ “Từ ấy” đặt đầu câu đã nhấn mạnh thời điểm đầy ý nghĩa khi tác giả bước vào hàng ngũ Đảng, được giác ngộ lý tưởng Đảng Cộng sản. Hình ảnh “nắng hạ” kết hợp với động từ mạnh “bừng” cùng nghệ thuật ẩn dụ đã khẳng định lý tưởng cách mạng tác động vô cùng mạnh mẽ đến tâm hồn nhà thơ.
Nguồn sáng ấy không phải là nắng vàng ấm áp của mùa thu hay nắng xuân mơn man nhè nhẹ mà đó là nặng hạ mang vẻ rực rỡ, chói chang làm bừng tỉnh cả nhận thức và tình cảm trong con người chàng trai tuổi 18 tràn trề sức trẻ. Đó là nguồn sáng được khởi phát từ ánh mặt trời khác thường, đặc biệt và duy nhất “mặt trời chân lý”.
Nếu mặt trời tạo hóa ban tặng ánh sáng làm vạn vật sinh sôi thì mặt trời chân lý mang đến những tư tưởng, con đường đúng đắn cho cách mạng, báo hiệu những điều đẹp đẽ, tươi sáng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc phía trước.
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng”
Mặt trời chân lý rọi sáng trái tim người chiến sĩ khiến tâm hồn như rạo rực, như say mê. Hình ảnh so sánh thật gần gũi hồn tôi-vườn hoa lá càng tô đậm sức sống mãnh liệt, niềm vui cực độ của nhà thơ lúc ấy.
Vườn hoa lá với một thế giới đủ hương sắc, thanh âm như hòa nhập, sôi động và dạt dào sức sống cũng như tâm hồn thi nhân lúc này đây đang vỡ òa với bao cảm xúc tự hào, tin yêu, hy vọng, vui sướng khi được lý tưởng Đảng sáng soi. Đó là một niềm vui quá đỗi lớn lao đối với một kẻ yêu nước, khát khao tận hiến đời mình cho cách mạng, cho nhân dân.
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải đến muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Trong văn học giai đoạn 1932-1945, thơ ca chủ yếu đề cao cái tôi cá nhân, họ chọn một cái tôi thoát ly để rời xa thực tại bất công, chán chường. Riêng với Tố Hữu đó là một cái tôi riêng, cái tôi gắn với cộng động, gắn cuộc đời mình, với nhân dân.
Câu thơ đầy chủ động “Tôi buộc lòng tôi với mọi người” đã thể hiện được một trái tim giàu tình cảm, vì nhân dân và ý thức tự nguyện gắn bó với nhân dân của tác giả. Động từ “trang trải” kết hợp với danh từ “muôn nơi” cùng lối nói quá đã cho thấy được sự đồng cảm của nhà thơ với những nỗi khổ cực, lầm than của nhân dân mình trên mọi miền đất nước.
“Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Lời thơ vừa tha thiết lại vừa mạnh mẽ, khẳng định khối đại đoàn kết toàn dân tộc được kết lại từ lòng nhân ái, ý thức vì mọi người. Những hồn khổ được gắn kết, những người cùng lý tưởng phải hợp sức để tạo nên sức mạnh tập thể, tiến bước trên con đường có lý tưởng cách mạng sáng soi.
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”
Bốn câu thơ cuối bài một lần nữa khẳng định tình cảm dạt dào của người chiến sĩ với nhân dân mình. Điệp từ “là” kết hợp cùng biện pháp điệp cấu trúc và các từ cùng trường từ vựng gia đình “con”, “anh”, “em” đã nhấn mạnh được tình cảm thân thiết như tình thân ruột thịt. Đó là một tình cảm ấm áp, sẻ chia, quan tâm, lo lắng của thành viên dành cho đại gia đình lớn đang trong cơn khốn cùng, gian khổ. Đó là một tấm lòng đồng cảm, vượt lên những ích kỷ, hẹp hòi của cái tôi cá nhân để sống vì người khác.
Thật xúc động khi nhà thơ đã dành những câu thơ cuối bài để viết về những “kiếp phôi pha” bất hạnh, mưu sinh dãi dầu mưa năng để kiếm sống, viết về những em nhỏ “cù bơ cù bất” đói rét trong cuộc đời. Qua những hình ảnh ấy phải chăng tác giả muốn khẳng định đến cuối cùng, lý tưởng cao đẹp nhất của Đảng cộng sản chính là chiến đầu vì nhân dân, vì hạnh phúc của những kiếp người, đặc biệt là với những phận đời nghèo khổ, thương đau.
Bằng thể thơ bảy chữ, kết hợp với giọng điệu vừa tự hào vừa tha thiết, sục sôi, tác giả đã cho thấy tâm nguyện của một thanh niên yêu nước được giác ngộ và say mê, tin yêu vào lý tưởng cách mạng. “Từ ấy” đã trở thành một bài thơ bất hủ, nhắc nhở mỗi chúng ta về ý thức và trách nhiệm với cuộc đời mình, với đất nước, nhân dân.

Số 7: Phân tích khổ cuối bài thơ Từ ấy
Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng nổi tiếng, ông có những tác phẩm thơ nổi tiếng như Việt Bắc. Một trong những tác phẩm nổi tiếng là bài thơ Từ ấy.
Bài thơ Từ ấy là bài thơ mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu, bài thơ đồng thời là một chân lí sống của tác giả trong cuộc sống. Khổ 3 của bài thơ thể hiện sự chuyển biến tâm lí sâu sắc của tác giả. Chúng ta cùng đi tìm hiểu khổ 3 của bài thơ Từ ấy để hiểu rõ hơn những vấn đề trong bài.
“Năm 20 của thế kỷ hai mươi
Tôi sinh ra, nhưng chưa được làm người
Nước đã mất, cha đã làm nô lệ.
Ôi những ngày xưa.
Mưa xứ Huế Mưa sao buồn vậy nỗi mưa rơi
Ngẩng đầu lên không thấy mặt trời.
Đất lai láng những là nước mắt!”.
(Tố Hữu)
Chính vì nỗi đau, nỗi mất mát quá lớn lao ấy mà nhà thơ Tố Hữu đã sớm giác ngộ chủ nghĩa Mác- Lê nin, hăng hái tham gia cách mạng cứu nước lúc tuổi đòi chưa đầy hai mươi. Bài thơ Từ ấy trong tập thơ cùng tên đã thể hiện một cách chân thành lời tâm niệm và niềm vui sướng tột cùng ấy của Tố Hữu:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ”.
Nghệ thuật này thể hiện niềm tự hào, hãnh diện của nhà thơ khi được trở thành một thành viên thân thiết của đại gia đình “những người khốn khổ” đồng thời cũng là tiếng lòng thổn thức của chàng trai vừa mới gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
Ngoài ra, ở khổ thơ này còn xuất hiện các số từ: vạn nhà, vạn kiếp, vạn đầu, con, em, anh có tác dụng khẳng định tính nhân dân và lòng cảm thông với kiếp người lao khổ. Tuy nhiên, ở đoạn kết này cũng như cả bài thơ, những từ ngữ ấy hãy còn khuôn sáo, nghệ thuật lựa chọn từ chưa thật chín muồi, nhưng bài thơ vẫn dạt dào xúc cảm.
Tóm lại, dù còn non nớt buổi ban đầu, nhưng Từ ấy cũng như cả tập thơ cùng tên của Tố Hữu vẫn thế’ hiện được chất men say lý tưởng và chất lãng mạn cách mạng của một con đường thơ đúng đắn.
Mặt khác, độc giả yêu quý Từ ấy còn ở giọng điệu tha thiết, sôi nổi, chân thành, trẻ trung và nhân sinh quan cao đẹp: sống vì mọi người và vì cuộc đời. Chính vì thế Từ ấy đã được nhiều nhà nghiên cứu văn học và các nhà thơ khác đánh giá cao. Đây là nhận xét của nhà thơ Chế Lan Viên: “Tất cả Tố Hữu, thi pháp, tuyên ngôn, những yếu tố làm ra anh có thể tìm thấy trong tế bào thơ này”.
Số 8: Phân tích khổ thơ cuối bài Từ ấy
Tố Hữu là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam với phong cách thơ ca đậm chất trữ tình chính trị. Ông đã để lại những tác phẩm vô cùng đặc sắc, một trong số đó là “Từ ấy”- một bài thơ có ý nghĩa to lớn trong cuộc đời cũng như trong sự nghiệp của tác giả. “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác trong niềm hạnh phúc, vui sướng để đánh dấu mốc qua trọng trong cuộc đời của chính mình.
Mở đầu bài thơ, “từ ấy”- nhan đề của tác phẩm đã được lặp lại:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim.”
“Từ ấy”- một trạng từ chỉ thời gian, nó được dùng làm nhan đề và được nhắc lại trong câu thơ đầu của bài thơ đã khẳng định đó là một thời điểm vô cùng quan trọng trong cuộc đời của tác giả. Tại thời điểm đó, một dấu mốc đánh dấu sự chuyển biến trong tư tưởng của tác giả. Đó là khi tác giả được giác ngộ Cách mạng, giác ngộ lý tưởng Cộng sản, đồng thời được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương – một bước ngoặt đầu tiên cũng là bước quan trọng nhất trong cuộc đời.
Để rồi cả tâm hồn của tác giả “bừng nắng hạ” – một thứ ánh sáng vô cùng mạnh mẽ, chói rực hấp dẫn người thanh niên. “Mặt trời chân lý”- hình ảnh ẩn dụ thật sâu sắc. Nó là chân lý của Đảng của Mác Lê-nin đã chiếu sáng trái tim, con người của tác giả, mở ra một con đường mới cho cuộc đời.
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.”
Nắm bắt được chân lý, tác giả như tìm được chính mình. Mọi tâm tư tình cảm của tác giả đều là niềm vui sướng và hạnh phúc. Tố Hữu dùng biện pháp so sánh, so sánh tâm hồn tác giả như một vườn hoa. Hình ảnh vườn hoa – một tâm hồn thật tươi mới và đẹp, rung động lòng người với mùi hương thơm của những bông hoa rực rỡ cùng với tiếng chim rộn ràng đầy sức sống. Đó quả là một tâm hồn lớn mà vô cùng trong sáng, giản dị của chàng thanh niên 18 tuổi đầy nhiệt huyết.
Đến khổ thơ thứ hai, sự nhận thức về lẽ sống mới của tác giả được khắc họa đậm nét:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.”
Tố Hữu sử dụng động từ mạnh “buộc”, ông muốn nhấn mạnh cá nhân mình cùng với mọi người xung quanh phải thành một khối đoàn kết. Trên mảnh đất Việt Nam hình chữ S xinh đẹp với bao con người, nhiều dân tộc khác nhau sống trên mọi miền lãnh thổ, tác giả đã tự “buộc” mình với “mọi người” để cho tình cảm của mình “ trang trải đến trăm nơi”.
Tác giả đã tự nguyện gắn kết mình với những con người lao khổ, ông muốn chia sẻ, chung sống, hiểu rõ hơn về cuộc sống họ phải trải qua, ông đồng cảm với những số phận bất hạnh để từ đó mọi người đều có thể hiểu nhau hơn và giúp đỡ lẫn nhau. Một lẽ sống mới đã được đúc kết ra trong tâm hồn của tác giả đó là sự gắn kết cái tôi với cái ta chung của mọi người.
Và đặc biệt, khi mọi người có tinh thần đoàn kết, tinh thần tương thân, tương ái, che chở cho nhau thì sẽ giúp cho “mạnh khối đời”. “Khối đời” – hình ảnh ẩn dụ cho một cộng đồng con người có chung cảnh ngộ, “khối đời” chỉ “mạnh”, khi mọi người “gần gũi” cùng nhau vượt qua khó khăn – một lẽ sống đầy triết lý đã in sâu trong trái tim của chàng thanh niên.
Lý tưởng của Đảng như mặt trời chiếu những ánh sáng xua tan những bóng tối u khuất trong tư tưởng của tác giả, và tại khoảnh khắc “từ ấy” trong tình cảm của “cái tôi” đã có sự chuyển biến rõ rệt.
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.”
Trái tim của tác giả được chiếu sáng bởi “mặt trời chân lý”, Tố Hữu đã dần khẳng định vai trò của mình trong cuộc đời . Điệp từ “là” được lặp lại ba lần và đứng hai lần ở đầu câu như càng muốn nhấn mạnh thêm vị trí của mình trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Tác giả đã là “con của vạn nhà”, là em của “vạn kiếp phôi pha”, là anh của “vạn đầu em nhỏ”. Cuộc sống giờ đây của chàng thanh niên không phải sống vì chính mình nữa, mà sống vì mọi người.
Tình cảm của Tố Hữu thật sâu sắc bởi ở đây đã có sự chuyển đổi trong cách xưng hô từ tôi sang “con, em, anh”. Tất cả mọi người giờ đây, đặc biệt là những mảnh đời bất hạnh, đầy khó khăn đều được tác giả chân trọng và yêu quý, coi như anh em ruột thịt trong gia đình. Nếu như trước kia, khi còn thuộc tầng lớp tư sản có trong mình cái tôi cá nhân ích kỷ hẹp hòi thì từ khoảnh khắc “từ ấy”, Tố Hữu đã thoát ra cái tôi đó và sống hoà mình trong cái ta chung để liên kết các giai cấp trong xã hội.
“Từ ấy” là một bài thơ thật hay và xúc động. Các biện pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, điệp từ đã được sử dụng rất thành công kết hợp với những hình ảnh đầy tươi mới (vườn hoa lá, hương thơm, tiếng chim). Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình mà đậm chất trữ tình chính trị.
Ánh sáng rực rỡ của Cộng sản đã mang đến niềm hạnh phúc, vui sướng cho tác giả. Từ đó, chàng thanh niên trẻ tuổi ấy đã nhận ra sứ mệnh của cuộc đời mình. Phân tích Từ ấy, chúng ta có thể cảm nhận đượ sự ý chí, nhiệt huyết sẽ mãi nằm trong trái tim của những người con của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Số 9: Cảm nhận khổ cuối bài thơ Từ ấy
Tố Hữu là “lá cờ đầu tiên của thơ ca cách mạng” Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng. Giọng thơ ông ngọt ngào, tâm tình, thương mến và phong cách thơ đậm đà tính dân tộc. “Từ ấy” là sản phẩm phản quang của một tâm hồn hân hoan vui sướng khi tìm thấy lí tưởng của đời mình. Đến với bài thơ, người đọc sẽ bắt gặp niềm say mê lý tưởng và niềm khát khao được chiến đấu, hi sinh cho các mạng trên tinh thần lạc quan chiến thắng của 1 người thanh niên cộng sản.
Nếu như khổ thơ thứ nhất thể hiện những cảm xúc, tâm trạng của thi nhân khi được giác ngộ lí tưởng của Đảng thì đến khổ thơ thứ ba lại khép lại bài thơ với sự chuyển biến của tình cảm đẹp đẽ trong nhà thơ Tố Hữu:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ”
Mở đầu khổ thơ là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất : “ Tôi”. Không còn là “ta” như thơ ca xưa, thơ ca cách mạng nói chung và thơ ca Tố Hữu nói riêng, nó đã mang trong mình tiếng nói tình cảm cá nhân. Cái tôi đã được khẳng định. Cảm xúc cá nhân đã được thăng hoa. Tác giả đã khẳng định tình cảm gắn bó của mình với “vạn nhà”, với 1 tập thể lớn lao, rộng rãi, nhưng rộng hơn là toàn thể quần chúng nhân dân lao động, với “vạn kiếp phôi pha”, với “vạn đầu em nhỏ”.
Trong tập thơ Từ ấy và bài thơ nói riêng, ta thấy nội dung chủ đạo là tiếng lòng đồng cảm với những thân phận bị đọa đày, quần chúng lao khổ, những kiếp sống mòn mỏi đáng thương, những mái đầu trẻ thơ tội nghiệp không nơi nương tựa. Đó chính là tình yêu cuộc sống, con người, những con người bần nông, những con người vô sản. Vì thế đọc Từ ấy ta như thấy toát lên tinh thần nhân đọa cao cả và mới mẻ. Đó là nhân đạo cộng sản.
Tình cảm của tác giả thể hiện qua cách xưng hô: con, anh và em, cho ta thấy tình hữu ái giai cấp, tình yêu thương gắn bó bởi thứ tình cảm thiêng liêng ruột thịt. Điệp từ “đã là” lặp lại là một điểm nhấn, nó giúp tác giả thể hiện sâu sắc tình cảm gắn bó của mình với quần chúng nhân dân lao khổ. Tình cảm ấy diễn ra một cách tự nhiên chân thành và trong sáng. Càng cao quý hơn khi ta hiểu được Tố Hữu vốn là một trí thức tiểu tư sản, có lối sống đề cao cái tôi cá nhân, ích kỷ, hẹp hòi.
Nhà thơ đã vượt qua giai cấp của mình để đến với giai cấp vô sản, với tình cảm chân thành và điều này chứng tỏ sức mạnh cảm hóa mạnh mẽ lý tưởng cách mạng đối với những người trí thức tiểu tư sản.
Lí tưởng cộng sản không chỉ cảm hóa Tố Hữu mà còn thay đổi cả một thế hệ trí thức tiểu tư sản như Xuân Diệu, Huy Cân. Họ vốn là những thi sĩ lãng mạn rồi trở thành những nhà thơ cách mạng, sáng tác phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Ví như Xuân Diệu trước cách mạng từng quan niệm rằng:
“ Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta”
Nhưng sau cách mạng thì Xuân Diệu đã viết:
“Tôi cùng xương thịt với nhân dân tôi
Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu”.
Như vậy, toàn bộ khổ thơ trên bằng lối sử dụng những từ ngữ chính xác, giàu ẩn ý, nhà thơ đã gửi gắm một cách sâu sắc về tư tưởng, tình cảm của mình. Đó là tình yêu thương con người của Tố Hữu gắn với tình cảm hữu ái giai cấp. Nó thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh đoàn kết, câu thơ trên cũng là một lời khẳng định: khi cái tôi chan hòa với cái ta, khi cá nhân hòa vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh nhân lên gấp bội.
Những câu thơ cũng là biểu hiện nhận thức mới về lẽ sống chan hòa cá nhân và tập thể, giữa cái tôi và cái ta. Trong lẽ sống ấy con người tìm thấy niềm vui và sức mạnh. Sự thay đổi nhận thức ấy, nó bắt nguồn sâu xa từ sự tự giác ngộ lí tưởng của nhà thơ Tố Hữu. Em rất trân quý tác phẩm này. Thầm cảm ơn Tố Hữu đã đem đến cho em nói riêng và bạn đọc nói chung một thi phẩm hay đến như vậy.
Số 10: Phân tích khổ cuối bài thơ Từ ấy
Sự thay đổi tính chất, tình của của nhà thơ Tố Hữu khi giác ngộ lý tưởng Cộng sản được thể hiện rất rõ ở khổ thơ thứ 3 của bài thơ “Từ ấy”.
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của bạn kiếp phôi pha
Là anh của bạn đàn em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”
Đoạn thơ hiện lên như khẳng định, nhấn mạnh một tình cảm gia đình đầm ấm, thắm thiết. Đó chính là một đại gia đình lớn của quần chúng nhân dân lao động. Mà trong đó tác giả là con, là em, là anh của đại gia đình đó.
Tấm lòng của tác giả đã hòa vào tấm lòng đại gia đình dân tộc. Thấu hiểu và chia sẻ tấm lòng đó biểu hiện thật xúc động và chân thành. Từ đấy, ta thấy được tấm lòng căm phẫn của nhà thơ trước cuộc đời ngang trái. Tác giả xót thương cho những số phận của “vạn kiếp phôi pha”, của những em nhỏ không có áo cơm, “cù bất cù bơ…”.
Ông mở lòng đón nhận những kiếp người đau khổ, nhân dân cần lao như đón nhận một cách chân thành những người thân ruột thịt. Câu “Không áo cơm cù bất cù bơ…” để lại ba dấu chấm lửng như tấm lòng của tác giả trải rộng ra, mở lòng mình với bao hồn khổ. Bài thơ rất đặc biệt không chỉ về ý thơ mà còn cả về tứ thơ. Tác giả dùng thể thơ truyền thống, sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu làm nổi bật tâm trạng của nhà thơ.
Tố Hữu đã bày tỏ quyết tâm gắn bó máu thịt với giai cấp cần lao nghèo khổ trong xã hội. Coi giai cấp cần lao là đại gia đình của mình, là mẹ cha, là anh em ruột thịt và căm phẫn đối với sự bất công ngang trái trong xã hội để từ đó quyết tâm chiến đấu đem lại cuộc sống tự do, hạnh phúc, công bằng.
Nhờ sự soi sáng của lý tưởng Cộng Sản, Nhà thơ Tố Hữu đã có sự thay đổi về tình cảm là sự gắn bó máu thịt với người dân cần lao để chiến đấu chống lại xã hội bất công thối nát.

Tổng kết
Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 10 mẫu phân tích khổ cuối bài thơ Từ ấy chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 11.