Tổng hợp các bài mẫu phân tích khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ của tác giả Hàn Mạc Tử một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 15 mẫu phân tích khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!
Dàn ý phân tích khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ
I. Mở bài
– Dẫn dắt và giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Giới thiệu khổ hai
II. Thân bài
– Khổ hai là bức tranh sông nước nhuốm màu tâm trạng
– Mây gió: ngược chiều , trái tự nhiên, chia cắt đôi ngả
– Dòng nước: nhân hóa ” buồn thiu”
– Dòng sông không còn là sự vật vô tri vô giác
– Sự chảy trôi buồn một nỗi buồn ly tán
– Hoa bắp lay: gợi buồn
– Thuyền và sông trăng: hình ảnh ảo, khó phân định vừa mơ vừa thực
– Trăng: chứa đựng vẻ đẹp tác giả luôn muốn gửi gắm
– Dòng sông trăng: trăng tan vào nước để trôi chảy từ vũ trụ về nơi xa.
– “kịp” không chỉ là khát khao mong đợi mà còn âu lo
III. Kết bài
– Tóm tắt nội dung khổ 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ và nêu lên giá trị, những đóng góp của khổ 2 với cả bài thơ.
Top 15 mẫu phân tích khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ
Số 1: Phân tích khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ
Phong trào thơ mới năm 1932-1945 là sự nở rộ của cái tôi cá nhân. Có thể thấy nếu thơ trung đại gắn liền với những điều lớn lao, ước lệ thì thơ mới gắn liền với cảm xúc. Như nhà thơ Hàn Mạc Tử nói rằng: ” tôi làm thơ nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng”. Về cơ bản thơ Hàn luôn hướng tới quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật nhưng cái đẹp trong thơ ông lại riêng biệt, nó là nét đẹp kì dị, đau thương đan xen với những thứ hư ảo. Thiên nhiên trong thơ ông cũng vậy, nhuốm màu tâm trạng, như thực mà như mơ:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Bốn câu thơ được trích trong bài thơ nổi tiếng Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử đã vẽ lên một bức tranh sông nước xứ Huế nhưng bức tranh ấy cũng đượm nỗi buồn lo. Mở đầu khổ thơ với hình ảnh ” gió” và “mây”. Gió và mây xưa kia thường ” gió thổi mây bay” nhưng trong thơ ông hai sự vật ấy lại chia làm đôi ngả.
Những thứ vốn dĩ không thể tách rời thì hồn thơ Hàn Mạc Tử đã chia cắt những thứ không thể cắt chia. Bản thân dòng nước cũng là một vật vô tri vô giác trong tự nhiên nhưng với biện pháp nhân hóa ” dòng nước buồn thiu” khiến nó có những cảm xúc buồn, vui của con người.
Điệu chảy ” buồn thiu” của dòng sông Hương lững lờ yên tĩnh như điệu làn êm ả. Không những vậy dường sự chảy trôi vô định của dòng nước thẫm đẫm nỗi buồn li tán của sự vận động giữa mây và gió hay chính là sự mặc cảm chia lìa của Hàn Mạc Tử lây lan sang cảnh vật.
Đúng như lời Nguyễn Du đã nói trong truyện Kiều ” lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Trên dòng sông Hương xứ Huế ấy là những “hoa bắp lay” khẽ lay động ở đôi bờ, rất nhẹ và rất khẽ, đặt cùng gió, mây, nước hoa bắp “lay” ấy trong ca dao và cũng gặp cái buồn ấy trong thơ , trong nỗi buồn của người chinh phụ, Trúc Thông có viết: “Lá ngô lay ở bờ rông”.
Cảnh sông Hương xứ Huế hiện lên thật buồn , gió mây đôi ngả, hoa bắp lay , hoang vắng rợn ngợp thấm thía nỗi buồn của sự thê lương. Nỗi buồn thi sĩ hòa hợp với nhịp buồn xứ Huế cùng những khát khao khôn nguôi:
Thuyền ai chở bến sông trăng đó
Có trở trăng về kịp tối nay
Trong tâm trạng thẻ lương ấy, chợt bật lên những ước ao hy vọng là có một điều gì đó có thể trở về với mình để níu giữ, để bám víu. Dường như ước mơ của thi sĩ thường gắn với trăng, với thuyền thể hiện khao khát tri âm.
Bởi thuyền chở trăng mang một vẻ đẹp mà tác giả luôn hướng tới, vẻ đẹp hư ảo huyền hoặc khó phân định . Đây quả là một sản phẩm củ trí tưởng tượng với dòng sông trăng đang trôi chảy, hay trăng đang lan mình thành nước để trôi chảy từ vũ trụ về nơi xa. Thuyền chở trang vừa mơ vừa thực.
Bên cạnh những khát khao mong đợi ấy còn là những lo âu qua từ “kịp”, nỗi mong ước thầm kín đã tìm được nơi gửi gắm là con thuyền trên sông trăng nhưng càng khao khát hy vọng thì lại càng lo âu bởi nỗi mặc cảm vì hiện tại ngắn ngủi.
Khát vọng thì ít mà cảm giác tuyệt vọng thì lấp đầy tâm hồn. Những mong muốn tưởng trừng giản đơn ấy của Hàn Mạc Tử lại gắn liền với những đau thương và dự cảm đổ vỡ.
Nếu khổ thơ mở đầu là cảnh thực thì cảm nhận khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ dạ nghiêng về thế giới ảo. Trong nỗi buồn da diết thì nhà thơ muốn nương tựa vào cái đẹp của tình đời tình người nhưng càng trông đợi thì vẫn không tránh khổ những tuyệt vọng để rồi tác giả chìm sâu vào cõi mộng. Khổ thơ thứ hai này góp phần tạo sự liên kết và giá trị sâu sắc cho cả bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ giúp khẳng định tài năng và thể hiện những cảm xúc chân thật nhất của Hàn Mạc Tử- nhà thơ “điên”.

Số 2: Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ khổ 2
Ai đó đã từng nói “Thơ là tiếng lòng. Đọc thơ, ta nghe thấy tiếng nói cất lên từ sâu thẳm trái tim của thi sĩ. Thơ là sự lên tiếng về thân phận. Đến với bài thơ, ta cảm được tình cảnh, tình thế số phận của nhà thơ”. Và “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử là một bài thơ như thế. Đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta thấy được một trong những nét độc đáo làm nên phong cách thơ rất lạ của ông, đó là mạch thơ đứt đoạn mà thống nhất, nghĩa là bề ngoài kết cấu như rời rạc nhưng lại có sự thống nhất trong chiều sâu của mạch cảm xúc. Nếu khổ thơ đầu là sự bừng sáng kí ức của hoài niệm về vườn Vĩ Dạ lúc hừng đông thì khổ thơ thứ hai lại cảnh xứ Huế đêm trăng thơ mộng cùng bao nỗi niềm chia lìa, lạc loài bơ vơ, buồn thương tuyệt vọng:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
Chỉ bằng vài nét chấm phá tinh tế, gợi cảm Hàn Mặc Tử đã gợi dậy một cách thần tình cả linh hồn của xứ Huế đêm trăng thơ mộng, huyền ảo. Ở phương diện tả cảnh, mới đọc câu thơ “Gió theo lối gió mây đường mây” cứ tưởng là phi lý nhưng ngẫm kĩ đó lại là sản phẩm của ngòi bút xuất thần.
Hàn Mặc Tử đã gợi tả tinh tế, chính xác tài hoa vẻ êm dịu của mây trời xứ Huế. Êm dịu đến mức ta thấy gió thổi mà như mây đứng yên. Hai chữ “buồn thiu” gợi tả vẻ dùng dằng, lặng lờ của dòng nước sông Hương.
Nói như Hoàng Phủ Ngọc Tường thì dòng nước sông Hương cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Sông Hương chảy chậm, thực chậm, đó là điệu slow tình cảm mà dòng sông Hương dành cho xứ Huế. Trong đêm trăng Hương giang thật huyền ảo ấy, bầu trời trong vắt, trăng vằng vặc dải ánh vàng trên sông.
Dòng nước bỗng hóa thành dòng sông trăng, những con thuyền gối bãi ăm ắp đầy trăng. Hàn Mặc Tử vốn say trăng, yêu trăng là vậy. Bài thơ nào của ông cũng có đôi câu về trăng. Đọc “Đây thôn Vĩ Dạ”, dễ thấy đây là những vần thơ dịu êm và huyền ảo nhất trong dòng thơ trăng của thi sĩ.
Bị cuộc đời tuyệt giao từ chối, thơ ca thiên nhiên là nơi Hàn Mặc Tử chút bầu tâm sự, giãi bày lòng mình. Ngoại cảnh dường như chỉ là cái cơ để thi sĩ bày tỏ tâm sự, trải niềm đau của hồn mình, bức tranh “Đây thôn Vĩ Dạ” cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Ngay ở trong câu thơ đầu tiên của khổ thơ thứ hai, ta đã thấy được sự chia lìa, ngang trái:
“Gió theo lối gió mây đường mây” ,Gió mây luôn đi đôi với nhau, sóng đôi cùng nhau, vậy mà ở đây lại chia lìa xa cách, gió một đằng, mây một nẻo. Tại sao vậy? Có phải chăng trái tim thi sĩ luôn trĩu nặng chia lìa, thành ra nhìn đâu cũng thấy chia ly cách biệt. Không chỉ gió mây chia lìa, sông nước hắt hiu, dòng nước buồn thiu hoa bắp lay. Dòng sông ôm lấy nỗi buồn ngậm ngùi câm lặng, rười rượi.
Dòng sông vốn ủ sẵn mối sầu hay sự chia lìa, ly tán của gió mây đã gieo vào lòng sông chết lặng? Hay mối sầu thăm thẳm trong lòng của thi sĩ đã ám bào dòng sông? Khó có thể lý giải một cách rõ ràng được. Chỉ thấy đọc câu thơ lên, lòng ta bỗng trào dâng một nỗi niềm bâng khuâng mà da diết, khắc khoải mà khôn nguôi.
Phụ họa với dòng nước buồn thiu là bông hoa bắp xám bạc khẽ lay trong gió. Động từ “lay” tự nó vốn không vui, không buồn như trong câu thơ này, không hiểu sao nó lại ẩn chứa nỗi niềm hiu hắt đến vậy. Có phải chữ “lay” ấy đã mang theo nỗi buồn trong câu ca dao
Ai về Rồng Dứa, ao Chuông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em
Trong không gian nghệ thuật, hình ảnh hoa bắp lay thật tủi sầu. Tất cả dường như đang bỏ nơi này mà đi. Gió bay đi, mây bay đi, dòng nước cũng trôi xuôi, chỉ còn bông hoa bắp cô đơn, côi cút, vật vờ trên triền sông hoang vắng.
Động thái “lay” như một sự níu giữ vu vơ, một lưu luyến vô vọng. Hình ảnh hoa bắp “lay” cứ như hiện thân cho thân phận lạc loài, bơ cơ, bị cuộc đời lãng uên của thi sĩ.
Đối mặt với xu thế tất cả đang bỏ đi, rời xa mình, thi sĩ chợt ao ước có một thứ gì đó ngược dòng trôi chảy trở về với mình, gắn bó với mình. Với Hàn Mặc Tử, đó là trăng, và cũng chỉ có chăng mà thôi:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Tại sao Hàn Mặc Tử lại mong ngóng ao ước, khao khát có trăng như vậy? Phải chăng bị chôn vùi trong lãnh cung chia lìa, mù tối, “không có niềm trăng và tiếng nhạc” nên thi sĩ ao ước có trăng như thế? Hơn thế, với Hàn Mặc Tử, chí có trăng sao là bất tử.
Đặc biệt, với thi sĩ, trăng không chỉ đơn thuần là nguồn sáng, huyền ảo, diệu kì nhất của thiên nhiên mà trăng là biểu tượng cho cuộc sống tươi đẹp, tràn ngập hạnh phúc mà thi sĩ khao khát. Với những ý nghĩ như thế, giờ đây, “trăng là bám víu duy nhất”, là tri ân, tri kỷ, là cứu tinh với Hàn Mặc Tử. Giọng điệu, chữ nghĩa trong câu thơ bật lên niềm khát khao, da diết, khắc khoải đến cháy bỏng.
Câu thơ mang vóc dáng của một lời khẩn cầu, khẩn nguyện tha thiết. Nhưng thật xót xa, bi kịch thay cho thi sĩ, ngay trong lời khẩn cầu da diết đến cháy bỏng ấy, ta thấy hằn lên một nỗi lo âu hoài, tuyệt vọng, đến đau đớn. Nỗi niềm ấy ghim chặt vào mấy chữ “kịp tối nay”. Cơ hội đón trăng, đắm mình trong trăng thật ngắn ngủi mong manh biết chừng nào.
Chỉ còn đêm nay thôi, sáng mai đã là một dấu chấm hết. Lưỡi hái tử thần đang kể tận cổ, chuông nguyện hồn ai đã dóng lên. Cơ hội mong manh, thời gian ngắn ngủi là thế mà bến sông trăng cứ ở mãi ngoài kia xa vời vợi. Không dùng hình thức cầu khiến, câu thơ là lời hỏi hoài nghi đầy tuyệt vọng.
Có lẽ khi cất lên lời khẩn cầu tha thiết, thi sĩ đã có lời giải đáp cho mình. Chẳng bao giờ con thuyền chở trăng về kịp tối nay cho thi sĩ. Thi sĩ sẽ mãi rời xa cõi đời này trong đau đớn, tuyệt vọng. Đọc những vần thơ này, ta cảm thấy quặn lòng đau đớn. Vọng về đâu đây dự cảm xót xa:
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương anh nằm chết như trăng
Chẳng tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến thương anh và rửa vết thương tâm.
Với bút pháp gợi tả, hình ảnh tinh tế, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một miền quê hương đất nước, Vĩ Dạ-xứ Huế mộng và thơ. Bài thơ còn là tiếng lòng uẩn khúc của một trái tim yêu người, yêu đời, thiết tha, mãnh liệt trong vô vọng. “Đây thôn Vĩ Dạ” xứng đáng là kiệt tác thơ Hàn, một viên ngọc chói lọi nghìn năm.
Số 3: Phân tích khổ 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Tuy cuộc đời nhiều bi thương nhưng ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Đây thôn Vĩ Dạ sáng tác năm 1938 được in trong tập thơ Điên và là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của ông. Bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của cô gái Hoàng Thị Kim Cúc vốn quê ở Vĩ Dạ, một thôn nhỏ bên bờ sông Hương xứ Huế thơ mộng trữ tình. Khổ thơ thứ hai trong bài đã thể hiện nỗi niềm khắc khoải, lo âu của nhà thơ qua việc miêu tả vẻ đẹp cảnh trời mây sông nước xứ Huế nên thơ.
Nếu ở khổ thơ thứ nhất nhà thơ tập trung miêu tả cảnh vườn tược và con người thôn Vĩ trong nắng sớm ban mai ngập tràn sức sống thì với khổ thơ thứ hai nhà thơ lại chú ý đến thôn Vĩ bên dòng sông Hương mênh mang buồn. Sông Hương vốn là một vẻ đẹp của Huế, không chỉ đẹp trong đời thực mà còn rất nổi tiếng trong thơ văn khi viết về cố đô. Giờ đây sông Hương cũng đi vào thơ Hàn Mặc Tử lại mang những đường nét tâm hồn rất riêng của nhà thơ.
“Gió theo lối gió mây đường mây”
Nếu ở khổ thơ thứ nhất hình ảnh vườn Vĩ Dạ trong nắng sớm ban mai tươi đẹp tràn đầy sức sống thì ở khổ thơ này cảnh bỗng biến thành buổi chiều tối và nhuốm màu chia li cách biệt. Cảnh trời mây sông nước xứ Huế hiện lên trữ tình thơ mộng trong sự hài hòa, cân đối giữa “gió” và “mây”, giữa “dòng nước” và “hoa bắp” thế nhưng ta vẫn cảm nhận được một nỗi buồn phảng phất sâu lắng bởi hình ảnh gió, mây trôi lang thang, chia lìa đôi ngả.
Thông thưởng gió và mây không thể tách rời: “Gió cuốn mây trôi, gió thổi mây bay” gió mây cùng chiều. Nhưng ở đây gió theo lối gió, mây đường mây, gió thổi một đằng, mây bay một nẻo, gió mây trái chiều, lạc điệu với nhau.
Dấu phẩy đặt giữa dòng cùng nhịp thơ 4/3 như một sự chia cắt phũ phàng khiến gió mây càng chia cắt nhau mãnh liệt. Chỉ trong một câu thơ mà hình ảnh gió mây trở đi trở lại nhưng nó không tạo nên vẻ quấn quýt, gắn bó mà người lại càng tô đậm hơn sự chia lìa phân tán. Như vậy, ở câu thơ này ta thấy có sự phi lý về hiện tượng khách quan nhưng lại hợp lý về logic nghệ thuật.
Bởi trong cảnh ngộ bất hạnh, bi thương, thi sĩ đã thấy sự chia li can thiệp vào những thứ vốn không thể tách rời, và hình ảnh ở đây được thi nhân cảm nhận qua tâm trạng buồn thương cách biệt của mình.
Ở câu thơ thứ hai cảnh cũng đượm buồn vì được cảm nhận qua tâm trạng buồn của thi nhân:
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Tác giả đã khéo léo sử dụng biện pháp nhân hóa để biến dòng sông cũng trở nên có hồn, cũng chất chứa tâm trạng, nỗi niềm “buồn hiu” – một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng sâu lắng và chứa cả sự chán chường. Hình ảnh hoa bắp với động thái “lay” nhẹ nhàng gợi lên sự sống yếu ớt nhỏ nhoi, câu thơ không tả gió nhưng ta vẫn thấy gió lặng lờ dòng nước và phất phơ, vật vờ những bông hoa bắp với gam màu u trầm, tím nhạt hoặc vàng nhạt.
Và nếu khổ thơ thứ nhất cảnh tràn đầy sức sống, con người và thiên nhiên hài hòa trong nhau thì sang khổ thơ thứ hai cảnh đã đem lại cho ta ấn tượng về sự rời rạc, phân rã buồn và cô đơn, phải chăng chính niềm cô đơn trong tâm hồn đã thấm vào cảnh vật. Trong sa mạc cô đơn của nỗi buồn xa cách, thi sĩ đã thiết tha, khao khát mong đợi một vầng trăng, chính vì thế cảnh thiên nhiên, mây trời sông nước càng trở nên thơ mộng, huyền ảo qua những câu thơ đầy trăng.
” Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Cả không gian ngập tràn ánh trăng, một dòng sông trăng, một bến đò trăng và một con thuyền chở đầy ánh trăng, ta đã bắt gặp hình ảnh thuyền trăng trong cách sáng tác của nhiều thi nhân.
Với bài thơ “Rằm tháng giêng” Bác Hồ đã từng nói: “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền” nhưng có vẽ hình ảnh “bến sông trăng” là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, mới lạ, rất riêng của Hàn Mặc Tử. Nhà thơ đang tự hỏi thuyền chở trăng đậu ở bến sông trăng có chở trăng về kịp tối nay? “Về” là về đây, về nơi cõi lòng u tối mà thi nhân đang mong ngóng, đợi chờ.
Trong cảnh ngộ bệnh tật dày vò, phải sống cách biệt với thế giới bên ngoài thì cái giường bé nhỏ của nhà thơ là cả một sa mạc cô đơn, thế nên nhà thơ càng khao khát đợi một vầng trăng, dẫu là trong hoài niệm. Như vậy, vầng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử không những là hình ảnh đẹp của thiên nhiên là tri âm tri kỷ mà còn là bến bờ hạnh phúc mà thi nhân khao khát mong chờ.
Tiếc thay niềm khao khát tha thiết mãnh liệt ấy lại trở nên mơ hồ, mong manh, thậm chí là xa vời bởi thi sĩ đã đặt vào câu hỏi tu từ một đại từ phiếm chỉ “ai” trong “thuyền ai” để chỉ một con thuyền cố định. Không những thế, giọng thơ khắc khoải cùng với cách nói “kịp tối nay” gợi ý niệm về thời gian vô cùng gấp gáp khiến thi nhân phấp phỏm lo âu: Liệu mình có đủ thời gian đợi chờ?
Bởi vì, đối với người bình thường, thuyền không chở trăng về kịp tối nay, còn có tối mai, tối khác, không kịp ngày này còn có ngày nọ, tháng kia, còn đối với Hàn Mặc Tử thì không được như thế nữa rồi. Nếu “thuyền” không “chở trăng về kịp tối nay” thì biết đâu thi sĩ sẽ ra đi vĩnh viễn trong nuối tiếc đau buồn.
Tác giả đã chạy đua vội vàng với thời gian bởi quỹ thời gian sống còn ngắn ngủi đang vơi đi từng khắc từng ngày. Câu thơ nói cảnh mà thấm đẫm cảm giác mong manh, chứa đầy linh cảm về sự mất mát, lỡ làng
Có đặt trong hoàn cảnh riêng của Hàn Mặc Tử ta mới hiểu hết được nỗi đau của thân phận và duyên phận của chàng thi sĩ trẻ tài hoa bạc mệnh. Dẫu có bị cuộc đời từ bỏ một cách phũ phàng, dẫu có ở trong thế giới tối tắm đau khổ bất hạnh thì nhà thơ vẫn thiết tha níu kéo cuộc đời, vẫn luôn hướng đến ánh sáng, hướng đến cõi nhân gian cao sang diễm lệ.
Qua phân tích khổ 2 của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, một hòn đá nặng nề dường như đè nặng lên trái tim người đọc. Ta như cảm nhận được sự hoài niệm cuộc sống đời thường cùng tâm trạng buồn đau, lo âu thấp thỏm của thi sĩ. Trong cảnh cô đơn ấy, con người này vẫn ấp ủ khát khao được giao cảm với đời cùng tình yêu cuộc sống tươi đẹp mãnh liệt. Tuy nhiên, đáp trả thi nhân chỉ là sự cô đơn, xót xa. Đó là bi kịch cuộc đời của một người nghệ sĩ tài hoa nhưng lại bạc mệnh.

Số 4: Cảm nhận khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ
Hàn Mặc Tử được biết đến là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh nhất trong phong trào thơ mới. Thế nhưng thơ của ông lại phản phất một chút gì đó mơ hồ và đầy bí ẩn đến mức Hoài Thanh hết lời ngợi khen thơ ông như một nguồn thơ dào dạt và lạ lùng.
Không những thế, Hoài Thanh đã phải bỏ ra một tháng trời để nghiên cứu toàn bộ thơ Hàn Mặc Tử và công nhận Vườn thơ Hàn rộng rinh không bờ không bến càng đi xa càng ớn lạnh. Phải chăng vì cuộc đời ông mang nhiều bi thương và số phận vô cùng bất hạnh mà thơ của ông luôn thể hiện một tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời trần thế đến vậy? Và trong số các tác phẩm ấy, nổi bật nhất và đậm chất Hàn Mặc Tử nhất có lẽ là Đây thôn Vĩ Dạ.
Mở đầu khổ 2 của bài Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử đã đề cập ngay đến hình ảnh thiên nhiên sinh động:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Hình ảnh gió và mây từ bao đời nay đã gắn liền với nhau như đôi bạn tri kỷ, không thể tách rời – gió thổi mây bay. Thế nhưng, qua biện pháp sử dụng nghệ thuật nhân hóa đầy sáng tạo của mình, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một nghịch lý chưa từng có từ trước đến nay. Ông vẽ lên một bức tranh thiên nhiên bao la rộng lớn: có gió – nhưng gió theo lối gió; cũng có mây, nhưng lại mây đường mây.
Mây gió đôi đường, đôi ngả. Đồng thời, Hàn Mặc Tử còn sử dụng nhịp thơ một cách vô cùng tinh tế – nhịp 4/3. Cách ngắt nhịp này đã giúp cho câu văn của ông tách thành 2 vế đối nghịch nhau, một bên là gió, bên còn lại là mây khiến sự chia lìa, cách xa này lại càng thêm xa cách. Từ đó, hai người bạn tri kỉ ấy, tưởng chừng như không thể nào xa rời, lại ngoảnh mặt quay lưng, đôi ngả chia ly.
Quả thật, có lẽ Chế Lan Viên đã đúng khi nói Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường mực thước kia sẽ tan biến đi, và còn lại của cái thời này chút gì đáng kể, đó là Hàn Mặc Tử. Chỉ có ông mới có thể biến cái tưởng chừng như phi lý trong hiện thực lại trở nên vô cùng hợp lí trong thơ văn.
Nhưng mọi vật Hàn Mặc Tử nhân hóa chỉ đơn thuần để diễn tả cảnh gió, cảnh mây. Nguyễn Du đã từng viết trong tác phẩm nổi tiếng của ông Truyện Kiều rằng: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Hàn Mặc Tử buồn vì biết mình mắc phải căn bệnh hiểm nghèo, quái ác; buồn vì vẫn còn luyến lưu những cảnh vật thơ mộng và buồn vì mối tình đơn phương với người con gái xứ Huế chỉ còn lại trong giấc chiêm bao! Nhưng trên tất cả, có lẽ ông sợ nhiều hơn là buồn. ông sợ một ngày nào đó mình chẳng còn tồn tại trên cõi đời này nữa.
Có phải chăng vì buồn, vì sợ mà cảnh Huế vốn dĩ rất thơ mộng, trữ tình đã dần nhuốm một màu bi ai đến não lòng:
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Từ trước đến nay, sông Hương được biết đến như một vẻ đẹp tinh khôi, dịu dàng và được xem là một trong những biểu tượng lớn của xứ Huế. Vì thế sẽ chẳng lấy làm lạ nếu Sông Hương luôn trở thành đề tài chính trong các tác phẩm thơ ca nước ta. Sông Hương không chỉ được nhắc đến với một tính yêu nồng nhiệt, chân thành mà cháy bỏng trong thơ của Nguyễn Trọng Tạo:
Sông Hương hóa rượu ta đến uống
Ta tỉnh, đền đài ngả nghiêng say…
Thế nhưng, dưới ngòi bút tài tình của Hàn Mặc Tử, sông Hương lại hiện ra với một vẻ u sầu, ảo não. Buồn thiu là cái buồn nhè nhẹ nhưng dai dẳng, nó len lỏi và thấm dần vào tâm hồn của thi nhân và lan sang cả những thứ vô tri vô giác: dòng nước, hoa bắp. Để rồi, dòng nước ấy lại trôi đi một cách lững lờ; hoa bắp kia lại lay động, đong đưa thật chậm, thật nhịp nhàng theo từng nhịp đưa của gió. Dường như nỗi buồn của thi nhân được hòa quyện dần vào nỗi buồn của thiên nhiên, của vạn vật làm cho buồn lại càng thêm buồn, cô đơn lại càng thêm hiu quạnh.
Buồn bã là thế, cô đơn là thế! Nhưng khi trời xuống trăng lên, không chỉ cảnh vật, mà cả tâm tư, tình cảm con người cũng chuyển mình thay đổi: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó.Câu thơ hiện lên mang theo một khung cảnh tràn ngập ánh trăng – người bạn tâm tình của tác giả. Thật dễ dàng đề thấy trăng có mặt khắp mọi nơi: trăng chất đầy trên con đò đơn độc đậu lặng lẽ bên bờ; trăng trải dài, dát vàng cả một bến đò rộng lớn; trăng tan chảy hòa quyện vào con sông Hương lặng lẽ trôi hững hờ.
Phải là người có một tâm hồn yêu trăng, say trăng đến điên dại mới có thể tưởng tượng ra được hình ảnh bến sông trăng vô cùng đặc sắc này! Trước đây, trong thơ Trương Kế thời Đường chỉ mới xuất hiện Thuyền ai đậu bến Cô Tô; trong Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư, 1300 năm về trước chỉ có Sông xuân đâu chẳng sáng ngời trăng. Thì nay có thể nói rằng hình ảnh sông trăng của Hàn Mặc Tử là vô cùng đặc sắc và tinh tế.
Với sự tinh tế và sáng tạo đó, con thuyền ở hiện thực đã dần đi vào thế giới mộng tưởng nhờ vào sự bao phủ của ánh trăng huyền ảo. Liệu rằng có phải Hàn Mặc Tử đã mượn sự huyền ảo, mộng mị của vầng trăng để che lấp đi niềm đau và nỗi buồn của hiện tại? Bởi ông luôn nghĩ về thơ với một quan niệm có phần kỳ lạ, khác người: Thơ là tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ ước ao trở lại trời xưa. Không chỉ có thế, từ trước đến nay,trăng luôn xuất hiện trong những vần thơ của ông một cách kỳ lạ hơn gấp mấy lần:
…Nước hóa thành trăng trăng ra nước
Lụa là ướt đẫm cả trăng thơm
….
Say! Say lảo đảo cả trời thơ
Gió rít tầng cao trăng ngả ngửa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng.
(Say trăng- Hàn Mặc Tử)
Thế mà giờ đây, hình ảnh vầng trăng trong Đây thôn Vĩ Dạ lại đậm chất trữ tình hơn, đằm thắm hơn: Có chở trăng về kịp tối nay? Câu hỏi tu từ được thốt lên chứa đầy nỗi niềm âu lo, day dứt của người thi sĩ. Nhưng vì điều gì mà nhà thơ phải đợi trăng về chính xác trong tối nay, chứ chẳng phải là tối mai hay bất kì tối hôm nào khác? Hơn ai hết, có lẽ ông là người hiểu rõ căn bệnh mình mắc phải và khoảng thời gian ngắn ngủi mà mình còn có thể tồn tại trên cõi đời này.
Chính vì vậy, trong lòng nhà thơ trỗi dậy trong lòng một nỗi niềm, một khát khao nhỏ bé – được gặp trăng, được tận mắt nhìn thấy người bạn tri kỉ của mình trong đêm nay để cùng được san sẻ nỗi buồn, san sẻ nỗi cô đơn, tuyệt vọng cùng với vầng trăng ấy!
Vầng trăng với ông lúc này như một tia hi vọng nhỏ nhoi, mong manh chỉ còn le lói chút ít ánh sáng cuối cùng trong màn đêm u tối. Nó cũng chính là lý do khiến Hàn Mặc Tử không ngừng bồn chồn, lo lắng rằng: liệu chiếc thuyền ấy, con đò ấy có kịp đưa trăng về cùng ông trong tối nay?
Qua bốn câu thơ tuy ngắn gọn, súc tích nhưng vẫn giàu tính tượng trưng, giàu sức gợi hình, gợi cảm, cùng với các biện pháp nghệ thuật: nhân hóa, sử dụng câu hỏi tu từ, tả cảnh ngụ tình… được sử dụng một cách vô cùng điêu luyện và tuyệt diệu.
Đoạn thơ không chỉ giúp bạn đọc hiểu thêm về tâm tư, tình cảm từ sâu bên trong đáy lòng của một nhà thơ khi sắp phải xa rời chốn trần thế, mà nó còn phần nào khẳng định tài năng và tâm hồn yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước sâu nặng.
Số 5: Cảm nhận khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Hàn Mặc Tử, một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới, thơ của ông luôn phảng phất nỗi buồn, nổi tiếng trong số các sáng tác của Hàn Mặc Tử là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được in trong tập thơ “Đau thương”. Bài thơ là một bức tranh phong cảnh thôn Vĩ nhưng cũng là bức tranh tâm cảnh chứa đựng nhiều tâm trạng, cảm xúc và tâm sự của nhân vật trữ tình, đặc biệt trong khổ thơ thứ hai, vẻ đẹp thiên nhiên và tâm hồn con người đã được đan xen hòa quyện vào nhau.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?”
Có thể nói ở khổ thơ này Hàn Mặc Tử đã hướng tâm trí của mình về dòng sông Hương, một hình ảnh đã gắn liền với thôn Vĩ Dạ, sông Hương hiện lên với vẻ êm đềm, trầm mặc, thơ mộng trữ tình, nhân vật trữ tình hay chính là tác giả nhìn con sông mà trong lòng chứa đựng nhiều suy tư, cảm xúc. Hai câu thơ đầu tác giả dùng bút pháp tả thực vẻ đẹp êm đềm, khoan thai của xứ Huế:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Mọi cảnh vật dường như chậm rãi: gió khẽ thổi, mây nước lững lờ trôi, hoa bắp khẽ đung đưa lay động, nhà thơ đã dùng biện pháp nhân hóa với cả gió, mây và nước, chúng như mang tâm trạng và cũng có sự liên kết, gắn kết với nhau: có gió mây mới bay, có gió thì dòng sông mới có sóng nước, chúng thường đi với nhau khiến cho cảnh vật trở nên sống động hơn, thế nhưng ở đây mây và gió lại xa rời nhau, gió và mây mỗi bên một đường một ngả tạo nên sự xa cách chia ly.
Ít mây ít gió mà mây gió lại không có cùng nhau nên dòng sông cũng đành “buồn thiu”, cây cỏ cũng chỉ lay động rất nhẹ, cảnh vật trở nên thiếu sự sống, đây là một hình ảnh đẹp nhưng lại rất hiu quạnh, lặng lẽ và đượm buồn. Hai câu thơ sau khắc họa rõ tâm trạng của nhân vật trữ tình hay chính là nhà thơ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Tuy mang tâm trạng u buồn, cô đơn nhưng trong tâm hồn của tác giả vẫn chan chứa tình yêu thiên nhiên và con người xứ Huế, dưới cái nhìn của tâm hồn nhà thơ, dòng sông đã không còn là một dòng sông bình thường có nước chảy mà đã trở thành một dòng “sông trăng”, dòng sông chứa đầy ánh sáng trăng vàng, hình ảnh đó khiến cho cảnh vật càng thêm huyền ảo, thơ mộng.
Con thuyền có thực trên dòng sông cũng được chuyển đổi thành một con thuyền đậu trên bến sông trăng, thuyền chở trăng về một bến nào đó trong mộng tưởng của nhà thơ.
Câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?” cho thấy tác giả nôn nóng, chờ đợi, mong muốn con thuyền chở trăng về trong tối nay chứ không phải là một tối nào khác, phải chăng cái “tối nay” đó là một tối thật buồn, thật cô đơn, nhà thơ muốn được tâm sự với trăng, và cũng chỉ có trăng mới hiểu được nỗi lòng nhà thơ.
Mong chờ trăng cũng cho thấy Hàn Mặc Tử rất yêu trăng, ông cũng yêu cảnh vật và con người Huế nhưng hai thứ đó không thấu hiểu và không đáp lại được tình yêu của nhà thơ. Nhà thơ mong muốn gặp được trăng cũng giống như khao khát gặp được một tình yêu tha thiết, kín đáo, nhưng đó là sự chờ đợi khắc khoải, khôn nguôi.
Qua khổ thơ thứ hai bài thơ “Đây thôn vĩ dạ” của Hàn Mặc Tử chúng ta cảm nhận được những tâm tư của nhà thơ nhờ bức tranh thiên nhiên xứ Huế, tuy những tâm trạng đó chỉ là của riêng tác giả nhưng lại có sức ảnh hưởng, có sự cộng hưởng rộng rãi và bên lâu trong lòng người đọc. Chỉ một đoạn thơ bốn câu ngắn ngủi nhưng vẫn chứa đựng tất cả, thiên nhiên xứ Huế, tình yêu của tác giả với xứ Huế nói chung và Vĩ Dạ nói riêng.
Số 6: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ khổ 2
Cuộc sống đối với bạn có thể là chuỗi ngày nhàm chán bởi sự lặp đi lặp lại những tháng ngày mông lung vô vọng; nhưng đối với một ai đó, nó lại đáng quý và tươi đẹp biết bao nhiêu. Đặc biệt là với những người chỉ còn một khoảng thời gian ngắn để gắn bó với cuộc đời này, thì cuộc sống lại càng trở nên quý giá và xa vời hơn bao giờ hết. Trong “Đây thôn Vĩ Dạ”, đặc biệt là khổ 2 của bài thơ, bạn sẽ cảm nhận một cách rõ nét khát vọng sống mãnh liệt cùng nỗi niềm tiếc nuối khi không thể tiếp tục nếm trải vị ngọt đắng cuộc đời của Hàn Mặc Tử. Từ đó, hãy tự hỏi rằng liệu bạn có đang quá lãng phí thời gian – thứ mà đối với người khác chỉ là mộng tưởng?
Nếu như khổ thơ thứ nhất cho ta cảm nhận đẹp nhất về sắc màu của thiên nhiên, của cuộc sống và tâm hồn của người thi sĩ, thì khổ thơ thứ hai sẽ là những nỗi niềm rất buồn, rất bi thương hòa vào cảnh sông nước đêm trăng:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”.
Dòng sông xứ Huế mộng mơ được xem như là linh hồn của cảnh, linh hồn của người. Tác giả đã miêu tả cảnh vật một cách rất nhẹ nhàng, rất êm ả như chính cái cách Huế vận động vô cùng chậm rãi. Gió khẽ lay, mây nhè nhẹ bay cùng những hàng hoa bắp đung đưa rất êm ả, nhẹ nhàng. Từ đó, người đọc như được đứng trước khung cảnh thanh bình lại nhuốm màu buồn của xứ Huế.
Cảnh vật sao buồn thế, có cái buồn như len lỏi, như sâu lắng, như bao trùm cả không gian mênh mông vậy? Câu thơ cứ thế như dài ra, khiến cho nỗi buồn cũng dằng dặc bao phủ mọi vật. Trong cái buồn đó, dòng sông cũng chẳng thể tránh mang tâm trạng chung khi được nhân hóa “buồn thiu”. Câu thơ được tác giả tách thành nhịp 4/3, chia “gió” với “mây” thành hai vật thể riêng biệt.
Từ “gió” và “mây” được sử dụng phép điệp ở hai vế dường như tạo nên một thế giới khép kín. Hai sự vật vốn dĩ luôn gắn liền với nhau, nay lại như chẳng hề quen biết mà tách biệt, chia lìa theo hướng riêng. Gió đóng khung trong gió, còn mây cứ mặc mà khép kín trong mây.
Chính việc nhìn có vẻ rất phi lý này đã góp phần thể hiện tâm trạng bi thương, buồn đau của tác giả. Liệu cảnh vật vốn dĩ mang màu buồn như thế, hay tâm hồn thi nhân ảm đạm đến mức chẳng thể nhìn ra cảnh sắc tươi vui? Liệu mây và gió tách biệt như thế, hay việc phải chia ly và sống trong cảnh đời đầy nghịch lý khiến tác giả chẳng thể “tác thành” cho cả “gió” và “mây”?
Từ “lay” cũng như mang một nỗi buồn rất nhẹ. Đó phải chăng là sự xâm chiếm của nỗi buồn mây nước vào hồn hoa bắp bên sông. Cảnh sông Hương xứ Huế hiện lên sao trông thật buồn, gió mây đôi ngả, hoa bắp lay nhẹ, hoang vắng lại rợn ngợp như ngập tràn nỗi buồn thê lương. Từ đó, một nỗi buồn nặng trĩu như đè lấy cõi lòng thi nhân, nỗi buồn của sự cô đơn, nỗi buồn của sự mặc cảm và tiếc nuối, là nỗi buồn mang đậm chất ca dao thổi vào hồn muôn thuở của con người.
Trước nỗi buồn ngày một nặng trĩu ấy, tác giả như dần nhận ra sự lo âu, phấp phỏng đang dần chiếm lấy cõi lòng mình:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Trong tâm trạng bi thương ấy, thi nhân bỗng bật lên những nỗi niềm ước ao, hy vọng. Đó phải chăng là một sự níu giữ, bám víu cuối cùng của số phận bạc bẽo? Ước mơ của người thi sĩ dường như đã gắn với trăng, với thuyền như một người bạn tri âm duy nhất đem lại nguồn sống cứu vớt chính mình. Thuyền trăng ấy mang một vẻ đẹp mà tác giả luôn mơ tưởng, dẫu cho nó thật hư ảo và khó phân định.
Có thể hiểu “sông trăng” chính là hình ảnh dòng nước ngập tràn ánh trăng, thực thực ảo ảo, đẹp đến nao lòng, và “thuyền trăng” là một con thuyền vận chuyển ánh trăng về với tâm hồn thi nhân.
Trong thơ của Hàn Mặc Tử có cả một miền trăng là nơi chất chứa bao tâm sự, giải tỏa những nỗi đau mà tác giả muốn quên lãng. Từ “thuyền ai” sử dụng danh từ phiếm chỉ “ai” dường như khiến ý thơ trở nên thật mâu thuẫn. Sự mâu thuẫn và phi lý trong ý thơ xét về mặt hiện thực lại giúp người ta lý giải được tâm trạng của chủ thể trữ tình.
Trăng lúc có lúc không, trăng mong manh, xa vời lại mờ ảo, cũng như người tri kỷ mờ ảo chẳng thể nắm bắt khiến cho người ta thật sự lo âu, phấp phỏng. Thi nhân chờ trăng hay chờ tri âm, chờ trăng hay chờ sự đồng điệu, chờ trăng hay chờ sự chia sẻ, chờ trăng hay chính là sự khát khao được giao cảm với đời? Tâm trạng lo âu của tác giả như được đẩy lên cao qua từ “kịp”.
Đó là sự lo âu đan xen với đợi chờ cùng nỗi niềm khao khát. Với một người bình thường, có lẽ nếu không chờ được đêm nay thì còn rất nhiều đêm khác, nhưng đối với Hàn Mặc Tử, rất có thể tối nay sẽ là tối cuối cùng thi sĩ còn cơ hội chờ đợi. Bởi vì quỹ thời gian của ông đang bị vơi dần đi, cuộc chia ly vĩnh viễn có thể đến bất kỳ lúc nào. Nếu như không về kịp tối nay, liệu có còn tối mai, liệu có được cơ hội gặp được tri âm để bầu bạn lần cuối?
Qua khổ 2 của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, một hòn đá nặng nề dường như đè nặng lên trái tim người đọc. Ta như cảm nhận được sự hoài niệm cuộc sống đời thường cùng tâm trạng buồn đau, lo âu thấp thỏm của thi sĩ. Trong cảnh cô đơn ấy, con người này vẫn ấp ủ khát khao được giao cảm với đời cùng tình yêu cuộc sống tươi đẹp mãnh liệt. Tuy nhiên, đáp trả thi nhân chỉ là sự cô đơn, xót xa. Đó là bi kịch cuộc đời của một người nghệ sĩ tài hoa nhưng lại bạc mệnh.

Số 7: Phân tích khổ 2 của bài Đây thôn Vĩ Dạ
“Vĩ Dạ thôn! Vĩ Dạ thôn
Biết che cành trúc không buồn mà say?”
Vẻ đẹp của thôn Vĩ qua những câu thơ ấy của Bích Khê đầy ấn tượng. Vĩ Dạ đẹp, Vĩ Dạ buồn, Vĩ Dạ đắm say lòng người ngoạn cảnh đã cuốn hút biết bao người đắm chìm trong đó để rồi có một người cho ta một bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đặc sắc – Hàn Mặc Tử.
Vĩ Dạ đẹp với những khu vườn xanh tốt, mượt mà dưới ánh bình minh, với những con người dịu hiền, phúc hậu thấp thoáng sau cành tre lá trúc thanh tao. Vĩ Dạ dịu dàng thơ mộng với dòng sông hiền hoà:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Cặp câu thơ đầu bằng biện pháp miêu tả có sức gợi sâu sắc hình ảnh mây gió vần vũ. Câu thơ cho ta nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng, thông thường thì gió và mây là những sự vật gắn kết với nhau, luôn đi liền nhau, bởi vậy giờ đây, khi “gió theo lối gió mây đường mây” nghĩa là tất cả đang ở trong thế của sự chia lìa, tan tác. Điều này phù hợp với tâm trạng của tác giả. Nhưng đối với thiên nhiên, khi gió to thì mây vần vũ, lúc bấy giờ, gió mới thổi mây bay đi. C
òn ở đây, trong Vĩ Dạ của xứ Huế, tất cả đều mang một vẻ đẹp nhẹ nhàng và thơ mộng. Nơi đây, mây cứ lững lờ bay ở bên trên còn gió thì hiu hiu thổi, gợi lên cái gì đó buồn bã, phù hợp với tâm trạng của chính tác giả.
Mọi sự xuất hiện của cảnh vật đều gợi cảm giác buồn. Cả dòng nước trôi cũng không nằm ngoài âm hưởng chung ấy: “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Dòng nước thâm cái buồn của ngoại cảnh hay ấy chính là cái “buồn thiu” của tâm cảnh đang lan tỏa và bao trùm lên ngoại giới. Bên bờ sóng, những bông hoa kia nhữ cũng thấm nỗi buồn của cảnh vật nên cũng chỉ khẽ khàng lay động. Ta cũng đã từng bắt gặp hình ảnh hoa bắp lay đó ở nhiều câu thơ nhưng dù ở đâu thì nó cũng thật buồn. Là những câu thơ của Huy Thông:
“Lá ngô lay ở bờ sông
Bờ sông vẫn gió, người không thấy về”
Hay đó là nỗi buồn trước cảnh hoa lay lan toả trong lòng người đọc:
“Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy, bỏ buồn cho ai”
Dù là nỗi buồn của cảnh chia li, nỗi buồn của nỗi chờ mong mỏi mòn nhưng cảnh bờ sông và những cây bắp, lau bên bờ sông đều mang lại cho người ta cảm giác buồn. Dòng sông và cây hoa bắp lay của Hàn Mặc Tử cũng vậy, đẹp một vẻ đẹp buồn nhẹ nhàng và thơ mộng. Thiên nhiên đẹp nhưng cũng thật lạnh lẽo, dường như nó phảng phất tâm trạng u buồn, cô đơn của nhà thơ trước sự xa cách, thờ ơ của cuộc đời đối với mình.
Trong khung cảnh sông nước nên thơ, thời gian chuyển biến linh hoạt. Thoắt cái, cảnh vật đã chuyển sang một buổi đêm trăng huyền ảo:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hai câu thơ sau cho thấy tâm hồn nhà thơ có buồn và cô đơn nhưng vẫn chan chứa tình yêu đối với con người và thiên nhiên xứ Huế. Đây là cảnh thực mà cứ như ảo vì dòng sông không còn là dòng sông của sóng nước nữa mà là dòng sông ánh sáng, lấp lánh ánh trăng vàng, hay đấy là dòng ánh sáng tuôn chảy khắp vũ trụ làm không gian nghệ thuật thêm hư ảo, mênh mang.
Cũng vì thế, con thuyền vốn có thực trên dòng sông đã trở thành một hình ảnh của mộng tưởng, nó đậu trên bến sông trăng để chở trăng về một bến nào đó trong mơ. Là thuyền ai? Thuyền của người thôn Vĩ hay con thuyền của chính tác giả? Cũng không rõ nữa, chỉ biết rằng con thuyền ấy chở đầy trăng. Bằng ngòi bút liên tưởng và trí tưởng tượng phong phú, Hàn Mặc Tử đã phác hoạ được nét đẹp nhất của sông Hương là vẻ huyền ảo thơ mộng dưới ánh trăng.
Đến câu thơ cuối, con thuyền, dòng sông, ánh trăng trong sự hồi tưởng quá khứ ấy lại gắn với cảm nghĩ của nhà thơ trong hiện tại, bởi nhà thơ mong muốn con thuyền chở trăng về kịp tối nay chứ không phải là một tối nào khác? Con thuyền trở thành con thuyền nhỏ trên mình người du khách đặc biệt, liệu có kịp cập một bến thời gian nào đó tôi nay? Phải chăng cái “tối nay” đó là một tối thật buồn và cô đơn, nhà thơ đang có những tâm sự mà chỉ có trăng mới có thể hiểu được?
Điều đó cho thấy Hàn Mặc Tử rất yêu trăng, rất yêu xứ Huế, yêu cảnh vật và con người nơi đây nhưng dường như cảnh Huế, người Huế không hiểu được, không đáp lại tình yêu ấy nên nhà thơ tìm đến vầng trăng như một người để trút bầu tâm sự cho vơi đi cảm giác lẻ loi, cô đơn và những mặc cảm bệnh tật.
Cả bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một tác phẩm nghệ thuật để lại cho người đọc nhiều suy tư. Bằng những biện pháp tu từ và cặp mắt quan sát, cảm nhận tinh tế của mình, Hàn Mặc Tử đã tiếp tục vẽ những nét vẽ khắc họa rõ hơn về thôn Vĩ trong khổ thơ thứ hai. Với sông Hương, dòng nước trôi hờ hững, với mây bồng bềnh, con thuyền, ánh trăng và đặc biệt là một tấm lòng yêu thiên nhiên, khát khao, khắc khoải trong khát vọng tình đời, tình người, nhà thơ sẽ khiến cho người ta còn mãi vương vấn về một Vĩ Dạ của xứ Huế mộng mơ, nơi có một cặp mắt đau đáu hướng về
Số 8: Phân tích đoạn 2 Đây thôn Vĩ Dạ
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tuyệt phẩm mà nhà thơ Hàn Mặc Tử đã để lại cho nhân gian. Đó là những áng thơ bay bổng và ngọt ngào. Trước khi viết bài thơ thì thi sĩ đã mắc bệnh phong nhưng vẫn mang trong mình nỗi nhớ thương, đau đáu nhớ về quê hương Vĩ Dạ đó là nơi chứa biết bao nhiêu thời gian đẹp đẽ mà nhà thơ đã gắn bó ở đây.
Xứ Huế chính là quê hương thứ hai của nhà thơ Hàn Mặc Tử khi ông đang còn làm nhân viên sau đó mới chuyển vào Sài Gòn và viết báo. Cố đô Huế hiện lên trong tác phẩm của nhà thơ có biết bao cảnh đẹp trữ tình mà con người nơi đây cũng đẹp đẽ. Huế cũng chính là mảnh đất có đặc trưng trồng rất nhiều cây cau ấy vậy mà trong thơ Hàn Mặc Tử có nói đến:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Đó là lời trách mắng dịu dàng và nhẹ nhàng mà khi ai đọc đến cũng có thể đoán được đó chính là lời trách của một cô gái đối với một chàng trai. Nhưng nghe câu nói sao thấy mượt mà nửa dỗi hơn đáng yêu đến vậy! Cô gái trách cứ với chàng trai rằng sao không về chơi thôn vĩ để xem những hàng cau mới mọc lên và được những ánh nắng “rót” vào.
Những cây cau mọc cao và có lá màu xanh mướt nhìn đã rất đẹp nay lại còn được phủ trên mình những ánh nắng màu vàng óng ả nữa! Ôi chao thật đẹp đúng là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp chan hòa ánh sáng. Chưa dừng lại ở đó mà khi đọc đến hai câu thơ tiếp theo ta lại được chiêm ngưỡng cảnh đẹp hoàn mỹ đến khó tưởng:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Nếu các bạn đã từng đi tham quan ở Huế thì sẽ thấy những mảnh vườn xinh xắn có cỏ và những cây cau mọc bên vườn. Người Huế đơn giản lắm họ chỉ cần sống gần gũi với thiên nhiên mộc mạc mà trữ tình vậy thôi cũng đủ cho ta thấy cuộc sống của họ thật nên thơ và tuyệt đẹp khi họ không cần những tòa nhà cao tầng chọc trời hay những chiếc xe ô tô to lớn, khi vào đến Huế chúng ta mới cảm nhận hết được vẻ đẹp của ngày xưa được hiện diện như thế nào.
Đường phố thì đông đúc người qua lại người đi bộ người đi xe đạp không hề ồn ào cũng không hề hấp tấp. Tác giả miêu tả: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” chính là vẻ đẹp của những cây cỏ xanh mướt được những giọt sương sớm đọng lại. Khoảnh khắc ấy đã tuyệt đẹp nay còn đẹp hơn khi có những tia nắng chiếu vào.
Cảnh vật như hoa lệ và mỹ miều hơn bao giờ hết. Mướt quá chỉ sự vật cỏ cây mọc tốt mà xanh non quá đến nỗi xanh như ngọc. Mà ngọc có màu xanh thể hiện cho màu xanh biếc. Tác giả thật khéo liên tưởng giữa màu xanh của cỏ cây và màu xanh của ngọc. Qua đây ta mới thấy được sự tinh tế cũng như khéo quan sát của nhà thơ Hàn Mặc Tử biết bao.
Người xứ Huế hiện lên vẻ đẹp trung thực và hiền lành biết bao qua câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Khuôn mặt hình chữ điền chính là sự thể hiện cho phúc hậu, vuông vắn mà toát lên sự hiền lành và đôn hậu của những con người nơi đây. Đến khổ thơ thứ hai thì tác giả đã đặc biệt khắc họa rõ nét hơn về nhịp sống của những con người nơi xứ Huế chậm rãi mà êm ả:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Dòng nước chảy chậm đến nỗi mà “buồn thiu” hoa bắp lay động cũng rất chậm. Câu thơ khiến ta cũng liên tưởng tới sự xa cách giữa lối gió một hướng , hướng mấy một hướng. Phải chăng đó chính là sự ly biệt, là đường thẳng song song không bao giờ có điểm chung của mối tình giữa chàng trai Hàn Mặc Tử và cô gái Hoàng Thị Kim Cúc – một cô gái mà ngày xưa nhà thơ đã thầm thương trộm nhớ.
Và khi đọc đến câu thơ: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối nay?” khiến người đọc có thể liên tưởng được một thuyền nằm trên mặt sông và nơi đó có cả vầng trăng sáng. Thuyền đi đến đâu như thể chở trăng đi theo đến đó. Liệu thuyền có chở trăng kịp về hay không?
Khổ thơ cuối chính là tình cảm của tác giả Hàn Mặc Tử dành cho cô gái xứ Huế mà ông vẫn luôn thương thầm được miêu tả cụ thể qua 4 câu thơ cuối:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Tác giả mơ đến một giấc mơ ở đó có người khách lạ mà đó chính là cô gái mà tác giả đang yêu. Áo trắng quá khiến nhà thơ không còn nhận ra được cô gái nữa rồi. Màu áo trắng cũng làm chúng ta dễ dàng liên tưởng đến màu áo trắng của tà dài nữ sinh Huế. Câu thơ lặp từ khách đường xa đến 2 lần càng thể hiện sự sâu lắng và xa lạ giữa nhà thơ với nhân vật mà tác giả nhắc đến.
Sương và khói đã làm mờ đi hình ảnh của người con gái khiến cho tác giả cảm giác xa xôi, khó gần. Tác giả tự hỏi bản thân mình: “Ai biết tình ai có đậm đà?” không biết liệu rằng cô nàng đó còn nhớ và còn thương Mặc Tử hay không? Đọc xong câu thơ cảm thấy phảng phất nỗi buồn, đó là tình yêu dạt dào của tác giả đơn phương gửi gắm đến một cô gái mà không được đáp trả lại.
Số 9: Phân tích khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ
Hàn Mặc Tử – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót xa và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào trong thơ, những giây phút ông đã chắt lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hòa vào lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hoà vào nhau. Mở bài đầu thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ. Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ – vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương diện của cảnh Huế. Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Nét đặc sắc của thôn Vĩ – quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu tiên đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống.
Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những tia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng và buổi bình minh. Cái nắng hàng cau nắng mới lên sao lại gợi một nỗi niềm làng quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng.
Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh. Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rõ nồng nàn.
Đó là những tia nắng đầu tiên rọi xuống làng quê mà trước nó chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được đính vào chiếc choàng nhung xanh mịn: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.
Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đến thẫn thờ. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn.
Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có xanh như ngọc mới diễn tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quí, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên.
Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua.
Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thìa những vần thơ này: Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương mặt chữ điền. Mặt chữ điền – khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.
Thôn Vĩ Dạ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong sầu muộn hư ảo như trong giấc mộng:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống.
Nỗi buồn về sự chia li, tiễn biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng tươi mát đầy sức sống ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau buồn, u uất: Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tr thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là dòng sông buồn thiu gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa bắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những người sông trong vòng đời tối tăm, bế tắc.
Mặt nước sông Hương êm quá gợi đến những bế bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp người. Tâm trạng thoắt vui – thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạng khác sống cùng với thời Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt, thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! Dòng nước buồn thiu đã hóa thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng.
Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật là tài tình, thật là đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng.
Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:
Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa
Vờ tan thành vũng đọng vàng kho.
Hay:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi.
Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông. Nó là ông là trời đất, là người ta. Trăng biến thành vô lượng trong thơ ông, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng:
Thuyền ai đậu đên sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tôi nay?
Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời. Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Trái tim khao khát yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu. Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Câu thơ đã tả thực cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói: Ai biết tình ai có đậm đà?
Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ ai mở đầu: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc; tiếp đến Thuyền ai đậu bến sông trăng đó; và kết thúc là Ai biết tình ai có đậm đà? Càng làm cho “Đây thôn Vĩ Dạ” sương khói hơn, huyền bí hơn.
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh người và người của miền đất nước qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghệ thuật gợi liên tưởng, hòa quyện thiên nhiên với lòng người. Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn nguyên nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc.
Số 10: Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ khổ 2
Ai đó đã từng nói “Thơ là tiếng lòng. Đọc thơ, ta nghe thấy tiếng nói cất lên từ sâu thẳm trái tim của thi sĩ. Thơ là sự lên tiếng củathân phận. Đến với bài thơ, ta cảm được tình cảnh, tình thế số phận của nhà thơ”. Và “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử là một bài thơ như thế. Đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta thấy được một trong những nét độc đáo làm nên phong cách thơ rất lạ của ông, đó là mạch thơ đứt đoạn mà thống nhất, nghĩa là bề ngoài kết cấu như rời rạc nhưng lại có sự thống nhất trong chiều sâu của mạch cảm xúc. Nếu khổ thơ đầu là sự bừng sáng kí ức của hoài niệm về vườn Vĩ Dạ lúc hửng đông thì khổ thơ thứ hai lại cảnh xứ Huế đêm trăng thơ mộng cùng bao nỗi niềm chia lìa, lạc loài bơ vơ, buồn thương tuyệt vọng:
Gió theo lối gió mấy đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có trở trăng về kịp tối nay.
Chỉ bằng vài nét chấm phá tinh tế, gợi cảm Hàn Mặc Tử đã gợi dậy một cách thần tình cả linh hồn của xứ Huế đêm trăng thơ mộng, huyền ảo. Ở phương diện tả cảnh, mới đọc câu thơ “Gió theo lối gió mây đường mây” cứ tưởng là phi lí nhưng ngẫm kĩ đó lại là sản phẩm của ngòi bút xuất thần.
Hàn Mặc Tử đã gợi tả tinh tế, chính xác tài hoa vẻ êm dịu của mây trời xứ Huế. Êm dịu đến mức ta thấy gió thổi mà nhu mây đứng yên. Hai chữ “buồn thiu” gợi tả vẻ dùng dằng, lặng lờ của dòng nước sông Hương.
Nói như Hoàng Phủ Ngọc Tường thì dòng nước sông Hương cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Sông Hương chảy chậm, thực chậm, đó là điệu slow tình cảm mà dòng sông Hương dành cho sứ Huế. Trong đêm trăng Hương giang thật huyền ảo ấy, bầu trời trong vắt, trăng vằng vặc dải ánh vàng trên sông.
Dòng nước bỗng hóa thành dòng sông trăng, những con thuyền gối bãi ăm ắp đầy trăng. Hàn Mặc Tử vốn say trăng, yêu trăng là vậy. Bài thơ nào của ông cũng có đôi câu về trăng. Đọc “Đây thôn Vĩ Dạ”, dễn thấy đây là những vần thơ dịu êm và huyền ảo nhất trong dòng thơ trăng của thi sĩ.
Bị cuộc đời tuyệt giao từ chối, thơ ca thiên nhiêm là nơi Hàn Mặc Tử chút bầu tâm sự, dãi bày lòng mình. Ngoại cảnh dường nhủ chỉ là cái cơ để thi sĩ bày tỏ tâm sự, trải niềm đau của hồn mình, bức tranh “Đây thôn Vĩ Dạ” cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Ngay ở trong câu thơ đầu tiên của khổ thơ thứ hai, ta đã thấy được sự chia lìa, ngang trái:
“Gió theo lối gió mây đường mây” ,Gió mây luôn đi đôi với nhau, sóng đôi cùng nhau, vậy mà ở đây lại chia lìa xa cách, gió một đằng, mây một nẻo. Tại sao vậy? Có phải chăng trái tim thi sĩ luôn trĩu nặng chia lìa, thành ra nhìn đâu cũng thấy chia li cách biệt. Không chỉ gió mây chia lìa, sông nước hắt hiu, dòng nước buồn thiu hoa bắp lay. Dòng sông ôm lấy nỗi buồn ngậm ngùi câm lặng, rười rượi.
Dòng sông vốn ủ sẵn mối sầu hay sự chia lìa, li tán của gió mây đã gieo vào lòng sông chết lặng? Hay mối sầu thăm thẳm trong lòng củathi sĩ đã ám bào dòng sông? Khó có thể lí giải một cách rõ ràng được. Chỉ thấy đọc câu thơ lên, lòng ta bỗng trào dâng một nỗi niềm bâng khuâng ma da diết, khắc khoải mà khôn nguôi.
Phụ họa với dòng nước buồn thiu là bông hoa bắp xám bạc khẽ lay trong gió. Động từ “lay” tự nó vốn không vui, không buồn như trong câu thơ này, không hiểu sao nó lại ẩn chứa nỗi niềm hiu hắt đến vậy. Có phải chữ “lay” ấy đã mang theo nỗi buồn trong câu ca dao:
Ai về Rồng Dứa, ao Chuông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em
Trong không gian nghệ thuật, hình ảnh hoa bắp lay thật tủi sầu. Tất cả dường như đang bỏ nơi này mà đi. Gió bay đi, mây bay đi, dòng nước cũng trôi xuôi, chỉ còn bông hoa bắpcô đơn, côi cút, vật vờ trên triền sông hoang vắng. Động thái “lay” như một sự níu giữ vu vơ, một lưu luyến vô vọng. Hình ảnh hoa bắp “lay” cứ như hiện thân cho thân phận lạc loài, bơ cơ, bị cuộc đời lãng quên của thi sĩ.
Đối mặt với xu thế tất cả đang bỏ đi, rời xa mình, thi sĩ chợt ao ước có một thứ gì đó ngược dòng trôi chảy trở về với mình, gắn bó với mình. Với Hàn Mặc Tử, đó là trăng, và cũng chỉ có chăng mà thôi:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có trở trăng về kịp tối nay
Tại sao Hàn Mặc Tử lại mong ngóng ao ước, khao khát có trăng như vậy? Phải chăng bị chôn vùi trong lãnh cung chia lìa, mù tối, “không có niềm trăng và tiếng nhạc” nên thi sĩ ao ước có trăng như thế? Hơn thế, với Hàn Mặc Tử, chí có trăng sao là bất tử.
Đặc biệt, với thi sĩ, trăng không chỉ đơn thuần là nguồn sáng, huyền ảo, diệu kì nhất của thiên nhiên mà trăng là biểu tượng cho cuộc sống tươi đẹp, tràn ngập hạnh phúc mà thi sĩ khao khát. Với những ý nghĩ như thế, giờ đây, “trăng là bám víu duy nhất”, là tri ân, tri kỉ, là cứu tinh với Hàn Mặc Tử. Giọng điệu, chữ nghĩa trong câu thơ bật lên niềm khát khao, da diết, khắc khoải đến cháy bỏng.
Câu thơ mang vóc dáng của một lời khẩn cầu, khẩn nguyện tha thiết. Nhưng thật xót xa, bi kịch thay cho thi sĩ, ngay trong lời khẩn cầu da diết đến cháy bỏng ấy, ta thấy hằn lên một nỗi lo âu hoài, tuyệt vọng, đến đau đớn. Nỗi niềm ấy ghim chặt vào mấy chữ “kịp tối nay”. Cơ hội đón trăng, đắm mình trong trăng thật ngắn ngủi mong manh biết chừng nào.
Chỉ còn đêm nay thôi, sáng mai đã là một dấu chấm hết. Lưỡi hái tử thần đang kể tận cổ, chuông nguyện hồn ai đã dóng lên. Cơ hội mong manh, thời gian ngắn ngủi là thế mà bến sông trăng cứ ở mãi ngoài kia xa vời vợi. Không dùng hình thức cầu khiến, câu thơ là lời hỏi hoài nghi đầy tuyệt vọng.
Có lẽ khi cất lên lời khẩn cầu tha thiết, thi sĩ đã có lời giải đáp cho mình. Chẳng bao giờ con thuyền trở trăng về kịp tối nay cho thi sĩ. Thi sĩ sẽ mãi rời xa cõi đời này trong đau đớn, tuyệt vọng. Đọc những vần thơ này, ta cảm thấy quặn lòng đau đớn. Vọng về đâu đây dự cảm xót xa:
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương anh nằm chết như trăng
Chẳng tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến thương anh và rửa vết thương tâm.
Với bút pháp gợi tả, hình ảnh tinh tế, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một miền quê hương đất nước, Vĩ Dạ-xứ Huế mộng và thơ. Bài thơ còn là tiếng lòng uẩn khúc của một trái tim yêu người, yêu đời, thiết tha, mãnh liệt trong vô vọng. “Đây thôn Vĩ Dạ” xứng đáng là kiệt tác thơ Hàn, một viên ngọc chói lọi nghìn năm.
Số 11: Phân tích khổ 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ
Nếu như thơ trung đại gắn liền với những điều lớn lao, ước lệ thì thơ Mới gắn liền với những cảm xúc cá nhân. Có thể thấy giai đoạn 1932-1945 là giai đoạn nở rộ của cái tôn cá nhân người nghệ sĩ. Nhà thơ Hàn Mạc Tử đã nói rằng: ” tôi làm thơ nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng”. Về cơ bản thơ ông luôn hướng tới quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật nhưng cái đẹp trong thơ ông lại riêng biệt, nó là nét đẹp kì dị, đau thương đan xen với những thứ hư ảo. Thiên nhiên trong thơ ông cũng vậy, nhuốm màu tâm trạng, như thực mà như mơ:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buôn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mở đầu khổ thơ với hình ảnh ” gió” và “mây”:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thui hoa bắp lay
Gió và mây luôn luôn gắn bó với nhau ” gió thổi mây bay” nhưng trong khổ thơ này hai sự vật ấy lại chia làm đôi ngả. Câu thơ tách thành hai vế khác nhau, mở đầu vế thứ nhất là hình ảnh gió khép lại cũng gió, mở đầu vế thứ hai là mây thì kết thúc cũng là mây. Từ đó ta thấy “gió” và “mây” như những kẻ xa lạ, quay lưng với nhau.
Những thứ vốn dĩ không thể tách rời thì hồn thơ Hàn Mạc Tử đã chia cắt những thứ không thể cắt ấy. Dòng nước cũng chỉ là một vật vô tri vô giác trong tự nhiên nhưng với biện pháp nhân hóa ” dòng nước buồn thiu” khiến nó trở nên có những cảm xúc buồn, vui của con người. Điệu chảy ” buồn thiu” của dòng sông Hương lững lờ yên tĩnh như điệu làn êm ả.
Và dường như sự chảy trôi vô định của dòng nước thấm đẫm nỗi buồn li tán của sự vận động giữa mây và gió cũng có thể là sự mặc cảm chia lìa của Hàn Mạc Tử lây lan sang cảnh vật. Như Nguyễn Du đã nói ” người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Trên dòng sông Hương xứ Huế ấy là những “hoa bắp lay” khẽ lay động ở đôi bờ, rất nhẹ và rất khẽ, đặt cùng gió, mây, nước hoa bắp “lay” ấy trong ca dao và cũng gặp cái buồn ấy trong thơ , trong nỗi buồn của người chinh phụ. Sông Hương vốn đẹp đẽ và thơ mộng đã bao đời đi vào thơ ca Việt nam thế mà bây giờ lại “buồn thiu” – một nỗi buồn sâm thẳm, không nói nên lời.
Mặt nước buồn hay chính là con sóng lòng “buồn thiu” của thi nhân đang dâng lên không sao giấu nổi. Lòng sông buồn, bãi bờ của nó còn sầu hơn. “Hoa bắp lay” gợi tả những hoa bắp xám khô héo, úa tàn đang “lay” rất khẽ trong gió.
Hai câu thơ đã mở ra bức tranh thiên nhiên ảm đạm nỗi buồn hiu hắt mang dự cảm về hạnh phúc chia li nhuốm màu chia lìa, sự sống mệt mỏi yếu ớt. Thi sĩ tạo ra hình ảnh này không phải bằng thị giác mà bằng cái nhìn của tâm trạng, tâm hồn mang mặc cảm của một người luôn gắn bó thiết tha với đời mà đang có nguy cơ phải chia lìa.
Hai câu thơ tiếp là nỗi nhớ, là hoài niệm của nhân vật trữ tình về sông nước, đêm trăng và tâm trạng xót xa, nuối tiếc:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Cảnh sông nước được miêu tả gắn với hình tượng trăng. Sông trở thành sông trăng, thuyền trở thành thuyền trăng, bến trở thành bến trăng gợi không khí mơ hồ huyền ảo, đẹp một cách thơ mộng làm cho không gian nghệ thuật ở đây càng thêm hư ảo, mênh mang.
Dòng sông của hiện thực đã trở thành dòng sông của cõi mộng. Cảnh vật đã được ảo hóa gợi lên cảm giác chơi vơi trong tâm trạng của nhà thơ. Hình ảnh con thuyền cô đơn nằm trên bến sông trăng là một hình ảnh sáng tạo độc đáo của tác giả, nó mang theo những nỗi niềm của thi sĩ.
Nếu mọi vật đang trong thế chia lìa, li tán thì chỉ có trăng là đi ngược lại với tất cả để trở về với thi sĩ. Tâm hồn nhà thơ đang rợn ngợp trong nỗi cô đơn, tưởng như mình bị bỏ rơi bên bờ quên lãng. Trong khoảnh khắc ấy thi sĩ chỉ còn biết mong đợi một hình ảnh duy nhất là trăng.
Câu cuối cùng là câu hỏi ẩn chứa biết bao nỗi niềm khắc khoải, lo âu bởi quỹ thời gian còn lại rất ngắn ngủi mà trăng thì vẫn quá xa xôi. Tâm trạng trữ tình phấp phỏng, lo âu được thể hiện qua từ “kịp” vừa như mong chờ hi vọng một cái gì đó đang rời xa, biết khi nào trở lại. Điều đó đã khiến thời gian “tối nay” càng trở nên ngắn ngủi, như một giới hạn trong quỹ thời gian ít ỏi còn lại của thi nhân.
Qua hai câu thơ ta thấy được bức tranh thiên nhiên sông nước xứ Huế buồn hiu hắt trong đêm trăng chở nặng nỗi niềm ưu tư của thi nhân. Tất cả bức tranh ấy thể hiện qua một câu hỏi tu từ da diết và khắc khoải. Trăng đã đi vào thơ Hàn Mặc Tử như một nhân vật huyền thoại, một nơi chốn để tâm hồn thi sĩ được phiêu diêu, thoát tục.
Số 12: Cảm nhận khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ
Đây thôn Vĩ Dạ là Bài thơ được viết ra từ hai nguồn cảm hứng: thứ nhất là cảm hứng đẹp với một ngôi làng vùng quê ven bờ sông Hương, cây cối tốt tươi, thơ mộng. Cảm hứng thứ hai, theo nhà thơ Quách Tấn đó là mối tình đơn phương nhiều ước mơ với Hoàng Cúc.
Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ rất nổi tiếng của Hàn Mặc Tử, in trong tập Thơ điên. Bài thơ không chỉ làm rạng danh cho một thi sĩ tài hoa, đa cảm nhưng cuộc đời gặp nhiều cảnh ngộ éo le, bất hạnh mà còn góp phần tô điểm cho một địa danh vốn đã nổi tiếng ở Huế:
Đây xứ mơ màng, đây xứ thơ
Bài thơ gồm ba khổ: Khổ một là vẻ đẹp mới mẻ, tinh khôi, chứa chan sức sống của khu vườn trong ánh nắng ban mai. Khổ hai: bầu trời, sông nước Vĩ Dạ trong tâm trạng buồn, chia li tuyệt vọng và đau đáu một nỗi khát khao gặp gỡ của Hàn Mặc Tử.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Tiếp theo khổ một đặc tả vẻ đẹp trong sáng, thơ mộng, tràn đầy sức sống của vườn thôn Vĩ Dạ vào một buổi sớm mai, khổ hai đã mở rộng ra khung cảnh bầu trời, sông nước Vĩ Dạ. Bài thơ dường như có sự vận động từ ngoại cảnh vào tâm cảnh. Vì thế, Bầu trời sông nước cũng nhuốm đầy tâm trạng thi nhân.
Cảnh vật xuất hiện với bốn hình ảnh: “gió”, “mây”, “dòng nước”, “hoa bắp”. Hai hình ảnh “gió”, “mây” ở đây trở nên chia lìa, trái tự nhiên, không hoà nhập “gió một đường, mây một nẻo” này được thể hiện theo logic của tâm trạng buồn, cô đơn vì mối tình ở dạng “đơn phương”, “vô vọng” của nhà thơ với Hoàng Cúc. Chú ý phân tích các điệp từ, cách ngắt nhịp câu thơ đã làm nổi bật cảm xúc trên.
Câu thơ thứ hai với hai hình ảnh “dòng nước” và “hoa bắp” cũng đã tiếp tục tô đậm thêm tâm trạng thi nhân: buồn lặng lẽ, hiu hắt, có thể hiểu hai câu thơ ở khổ thơ này vừa tả cảnh, vừa tả tình trong cảnh và cả nhịp điệu của cảnh: Tình buồn chia li, sầu tủi, hiu hắt. Cảnh êm đềm phẳng lặng, nhịp điệu cảnh “trầm tư chẳng nơi nào có được” của Huế đẹp và thơ.
Cùng với cảm giác chìa lìa, mạch thơ đã chuyển hẳn một thế giới thôn Vĩ thực và tràn trề ánh nắng ở khổ 1 sang một thế giới mộng, tắm đẫm ánh trăng ở khổ 2:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Trăng dưới ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử bỗng trở nên huyền ảo, tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí nửa thực nửa hư, như trong cõi mộng. Trăng vốn là biểu tượng cho cái đẹp, cho hạnh phúc, niềm vui. Với Hàn Mặc Tử, trong bối cảnh lúc đó, trăng có ý nghĩa như “một bám víu duy nhất, như người bạn tri âm, tri kỉ”, giờ chỉ còn là nỗi ước ao, khát khao gặp gỡ và nỗi niềm lo âu về sự muộn màng, dang dở. Vì thế, câu thơ của Tử cất lên như một câu hỏi đau đáu, một nỗi niềm day dứt đầy phấp phỏng “Có chở trăng về kịp tối nay?”

Số 13: Cảm nhận khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Hàn Mặc Tử – một người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, trân trọng cuộc sống. Ông cũng là người từng yêu và cảm giác giang dở trong tình yêu của mình. Nhưng ông lại là một con người lạc quan, hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là những tâm sự của ông trước cảnh thiên nhiên thôn Vĩ cùng với nỗi niềm tâm trạng của mình.Bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” câu hỏi vang lên như một lời trách thầm, nhắn nhủ của nhân vật trữ tình trong tâm trạng vời vợi nhớ mong.
Câu thơ bảy chữ nhưng có tới sáu thanh bằng, thanh trắc duy nhất vút lên cuối câu như một nốt nhấn khiến cho lời thơ nhẹ nhàng mà thấm thía những nỗi niềm tiếc nuối vọng lên da diết khôn nguôi. Từ niềm nhớ thương được khơi nguồn như thế, hình ảnh thôn Vĩ chợt sống dậy trong lòng nhà thơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Chỉ ba câu thơ Hàn Mặc Tử đã khắc họa được những nét đặc trưng của thiên nhiên xứ Huế. Mỗi câu thơ là một nét vẽ, mỗi chi tiết sống động tạo thành sự khắc họa sống động đẹp đẽ của thôn Vĩ trong hoài niệm. Trước tiên là vẻ đẹp trong trẻo tinh khôi của buổi sớm mai: nắng hàng cau nắng mới lên không phải là cái nắng chang chang dọc bờ sông trắng mà là cái nắng trong trẻo tin khôi của một ngày.
Chỉ miêu tả nắng thôi mà đã gợi lên trong lòng người đọc bao nhiêu liên tưởng đẹp. . Điệp từ “nắng” đã vẽ ra một bức tranh ánh nắng trong không gian nắng lan đến đâu vạn vật bừng sáng đến đó từ trên cao tràn xuống thấp và tràn đầy cả khu vườn, thôn Vĩ như được khoác lên một chiếc áo mới thanh tân, tươi tắn.
Đến câu thơ thứ ba là cảnh vườn tược được tắm đẫm trong nắng mai ngời sáng lên như một viên ngọc xang diệu kì: “ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.” Câu thơ như một tiếng reo đầy ngỡ ngàng thích thú, không phải xanh non xanh biếc mà là xanh như ngọc. Cảnh giản dị mà thanh khiết cao sang vô cùng. Chữ “mướt” tác động mạnh mẽ vào giác quan người đọc ấn tượng vẻ mượt mà loáng mướt của khu vườn.
Nhưng cái thần của câu thơ lại dồn cả vào chữ “ai” chỉ một chữ mà khiến cho cảnh đang gần gũi bỗng bị đẩy ra xa, hư thực khó nắm bắt. Âm hưởng nhẹ bẫng của tiếng này khiến hơi thở như thoáng xuôi về một cõi hư ảo mơ hồ. Và rất tự nhiên theo mạch cảm xúc, nhắc đến “ai” lập tức nhà thơ nhớ đến hình bóng con người:“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Hình ảnh cành trúc đã trở nên quen thuộc khi nhắc đến con người nơi đây, mảnh đất cố đô văn hiến. Con người như hòa vào, như ẩn vào thiên nhiên một vẻ đẹp kín đáo tao nhã. Đó là vẻ đẹp riêng trong mảnh đất cố đô nhưng ngay trong dòng cảm xúc miên man ấy ta đã thấy nỗi buồn man mác xa nỗi thấm vào lòng người.Cảm giác về cái đẹp mơ hồ mong manh ấy càng rõ hơn ở khổ 2 trong bức tranh mây trời sông nước:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hai câu đầu: Bức tranh có những nét rất đặc trưng của xứ Huế: gió thổi, mây nhẹ trôi, dòng nước lặng lờ và hoa bắp khẽ lay động ven sông. Tả thực mà gợi lên cái hồn xứ Huế: gió mây nhẹ nhẹ bay, dòng sông trôi lững lờ, cây cỏ khẽ đung đưa. Nhưng ngắm kĩ sẽ thấy đường nét chia lìa, rời rạc của tạo vật,sự sống hiện lên lắt lay, mệt mỏi, âm điệu câu thơ buồn bã, xa vắng.
Tả cảnh thực hay là cảnh đã được tâm trạng hoá, bộc lộ nỗi niềm thi nhân. Cái ngược chiều của gió, mấy khơi gợi sự chia lìa đôi ngả của tình đời, tình người, như rạch vào nỗi đau thân phận, sự chia lìa xa cách của chủ thể trữ tình khi viết bài thơ. Hai câu kết đoạn cũng đem đến ấn tượng về bức tranh tâm cảnh như vậy.
Cảnh đẹp sông vẫn thoáng bâng khuâng gợi nên từ những hình ảnh: thuyền ai- sông trăng…. Dòng sông dường như bị ảo hoá, không còn là sông nước mà là sông trăng, lấp ánh ánh trăng vàng, là dòng ánh sáng tuôn chảy khắp vũ trụ làm cho không gian thơ trở nên hư ảo.
Đại từ phiếm chỉ ” ai” nghe thật mơ hồ xa vắng; và con thuyền chở trăng trên dòng sông kia thật mong manh như một ảo ảnh. Để rồi chỉ cần một chữ ” kịp tối nay” là lập tức đủ kéo thi nhân về với thực tại, đối diện với nỗi cô đơn của chính mình. Ba chữ thôi nhưng gợi lên thật nhiều những khắc khoải, mong ngóng, hi vọng, lo âu, vừa mới khao khát đấy rồi lại chợt vội vàng hoài nghi.
Tín hiệu mong chờ thật mong manh nhưng vô cùng da diết. Khao khát của thi nhân hướng tới cái đẹp của tình đời tình người không tránh khỏi những nghi ngại băn khoăn.Khổ cuối bài thơ là tiếng nói giúp nhà thơ hiểu thêm nỗi thiết tha dường như vô vọng đó:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Hình ảnh ” khách đường xa” đã từng xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử? : khách xa gặp lúc mùa xuân chín.hành trình của người khách từ xa xôi- em- là cả một giấc mộng dài say đắm của Hàn Mặc Tử . Bản thân ” khách” đã diệu vợi, khách đường xa càng diệu vợi xa xăm hơn. Phải chăng vì hoàn cảnh đặc biệt của mình,vì mối quan hệ với cuộc đời trong tâm trí nhà thơ trở nên xa xăm cách trở.
Nhà thơ cảm thấy mình chỉ đi song song với tình yêu, hạnh phúc mà không bao giờ nắm bắt được. Phải chăng vì thế mà mọi hình bóng đều xa vời hư ảo: áo em trắng quá nhìn không ra. Câu thơ đầy đam mê ” áo em trắng quá” nhưng cũng thật hụt hẫng xót xa ” nhìn không ra”. Sắc trắng thiên thần tinh khôi ấy sao cứ vượt khỏi tầm tay. Hai câu kết là lời lí giải: Xuất hiện một lí do thật khách quan: ở đây sương khói mờ nhân ảnh.
Xưa nay xứ Huế vốn bảng lảng sương khói, nhưng còn lí do chủ quan : trái tim trong tà áo trắng kia cung hư vô bí mật như sương khói. Đó là sương khói của thời gian, hay sương khói của một mối tình mong manh chưa một lời ước hẹn, sương khói phủ lấy một trái tim biết mình sắp từ giã cõi đời…sương khói ấy che phủ khiến nhà thơ không thể nhận ra, không thể nắm bắt.
Câu kết bài đọng lại nỗi buồn khắc khoải băn khoăn ” ai biết tình ai” có đậm đà không hay chưa kịp nồng trên mà khác đã phôi pha”. Câu thơ gợi lên nhiều cách hiểu; nhà thơ sao có thể biết tình người xứ Huế có đậm đà hay không?; người xứ Huế có biết chăng tình cảm của nhà thơ với cô rất đậm đà?
Đây thôn Vĩ Dạ hấp dẫn người đọc bởi vẻ đẹp bức tranh xứ Huế trầm mặc cổ kính mà rất tao nhã quý phái. Nó gợi nên cái linh hồn của mảnh đất cố đô nhưng không thể nói rằng bài thơ chỉ đơn thuần tả cảnh. Bài thơ đã làm chúng ta thêm yêu cuộc sống hơn.
Số 14: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ khổ 2
Trong phong trào Thơ Mới các nhà thơ được tự do thể hiện cái tôi cá nhân của mình. Nếu như Xuân Diệu thể hiện tình yêu thiên nhiên yêu con người nhưng vẫn cô đơn hoài nghi của mình, Lê Trọng Lư thì thả sức phiêu lưu cùng những bài ca tình yêu thì Hàn Mạc Tử lại quằn quại đau đớn trong những vần thơ về bệnh tật. Đọc thơ Hàn Mạc Tử ta không thể nào không nhớ đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – một bài thơ chở đầy những cảm xúc của nhà thơ về con người về mảnh đất Huế thương. Đặc biệt trong bài thơ ấy ta ấn tượng nhất với những cảm nhận khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ khi nó mang đầy bi kịch và chất chứa bao nỗi buồn.
Bài thơ được sáng tác khi nhà thơ nhận được tấm bưu thiếp của người con gái mang tên một loài hoa đó là nàng Hoàng Cúc. Nhà thơ gặp cô gái ấy ở Huế và đã có một khoảng thời gian ở cạnh nhau. Cả nhà thơ cũng như cô gái đều hiểu được tấm lòng của mình trái tim của mình nhưng khổ nỗi nhà thơ vốn là người nhút nhát.
Trước Hoàng Cúc cũng có biết bao cô gái phải lòng ông cũng như ông mến họ nhưng ông lại không một lần nào ngỏ lời, dần dần những cô gái ấy không thể đợi chờ thêm được nữa nên đã rời xa ông. Và Hoàng Cúc cũng không ngoại lệ. Khi đã chia xa thì cô gái ấy đã đi lấy chồng nhưng trong lòng vẫn coi ông là một người bạn.
Biết tin ông bị bệnh cô gái ấy đã gửi cho ông một tấm bưu thiếp để hỏi thăm và trách móc sao không về chơi thôn Vĩ. Vậy là bây nhiêu nỗi nhớ niềm thương con người và cảnh vật Huế thương cứ thế ngập đến nhà thơ một cách tự nhiên.
Đoạn thơ thứ hai mang đến cho chúng ta biết bao nhiêu trăn trở suy nghĩ của mình về cuộc sống và số phận của nhà thơ tài năng này. Đây có thể coi là đoạn mang tâm trạng nhất, buồn nhất bi kịch nhất.
Mở đầu khổ thơ nhà thơ đã nhắc đến sự chia ly buồn bã. Bởi hiện tại làm cho nhà thơ luyến tiếc những gì đã qua và bốn bức tường cách ly kia chính là sự cản trở ngăn cách:
“Gió theo lối gió, mây đường mây”
Theo quy luật tự nhiên thì gió thổi mây bay vậy mà ở đây nhà thơ lại tách mây và gió ra, gió theo lối gió còn mây đi đường mây thể hiện sự chia ly cách trở. Nhà thơ sầu thảm buồn bã nên đã phá quy luật của tự nhiên để thể hiện sự khắc nghiệt của sự chia ly này.
Gió và mây ở đây có phải chính là nhà thơ và người con gái Huế phúc hậu xinh đẹp ấy. Hay cũng chính là nhà thơ và cuộc đời này. Ngày nhà thơ ra đi khỏi Huế nhà thơ không biết được đó lại là ngày cuối cùng và vĩnh viễn không thể quay lại thăm con người cảnh vật nơi đây được nữa.
Hàn Mạc Tử vẫn còn lưu luyến lắm cái cuộc đời này vậy mà số phận đưa đẩy làm sao để cho nhà thơ phải mắc một căn bệnh không thuốc chữa, để cho nó ngày ngày phá hoại cơ thể, nhà thơ phải chịu đau đớn. Chính vì thế mà Hàn Mạc Tử nhìn đâu cũng thấy chia ly cách xa. Nhà thơ có nỗi sầu vạn kỉ Cù Huy Cận cũng đã từng thể hiện sự chia ly qua hình ảnh:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Cũng sầu đấy, chia ly đấy nhưng sao nó chưa trở thành bi kịch như câu thơ của hàn Mặc Tử được nỗi buồn không chỉ lan tỏa trên bầu trời nơi mà ánh mắt của nhà thơ hướng tới để tìm sự hy vọng mà nó còn lan tỏa khắp cảnh vật nơi đây. Bởi:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”
“ Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Dòng nước kia như được nhân hóa cũng biết buồn giống y như thi sĩ vậy, tâm trạng không tốt thì nhìn đâu cũng thấy không vui. Ta có thể cảm nhận được dòng nước kia lững lờ trôi chậm như thế nào để cho nỗi buồn của nhà thơ càng có chỗ chiếm đóng, càng dằn vặt nhà thơ nhiều hơn.
Cơn gió kia cũng không mạnh mẽ, không tươi mát không mang lại cảm giác xao xuyến cho con người. Nó chỉ khẽ lay hoa bắp bên sông. Những từ “buồn thiu” , “khẽ” sao mà khiến cho người ta đau lòng đến thế.
Trước dòng sông, bên bờ hoa bắp ấy lại xuất hiện con thuyền, bến cũ, trăng mờ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó”
Đại từ ai vang lên không biết rằng đó là thuyền của Hoàng Cúc của người dân xứ Huế hay của ai. Hay đơn giản nhà thơ chỉ nói một cách bâng quơ như thế. Chính sự bâng quơ ấy lại thể hiện được tâm trạng của nhà thơ. Đó là một tâm trạng mơ hồ, khó tả, đau mà lại không đau, nhớ mà lại thương, vui khi nhận được tấm bưu thiếp của Hoàng Cúc nhưng lại không vui vì hiện thực này.
Con thuyền ấy chắc cũng đi hết chặng đường của một ngày và nó đang nằm im trên bến đậu. Chợt nghĩ đến nhà thơ sống cũng được gần nửa đời người mà giờ cũng trong trạng thái nằm im một chỗ.
Thế nhưng con thuyền kia chỉ nghỉ ngơi rồi sáng mai lại lên đường tiếp tục qua sông này sông khác còn Hàn Mạc Tử thì chỉ có một đời người vậy thôi. Ánh trăng như in từng nét lờ mờ trên dòng sông ấy. Một bức tranh nên thơ nên họa mà sao lại buồn man mác thế này!
Đặc biệt nhất, ấn tượng nhất, bi kịch nhất lại chính là câu thơ cuối cùng của khổ thơ này:
“Có chở trăng về kịp tối nay?”
Một câu hỏi tu từ vang lên mà không có lời giải đáp. Từ“kịp” chính là từ mang đầy bi kịch. Nhà thơ như lo lắng bối rối khi nghĩ không biết con thuyền kia có chở được ánh trăng về kịp tối nay. Chở ánh trăng hay chính là trở người con gái kia đến kịp với nhà thơ. Ông không tham lam gì cả mà ông chỉ lo sợ rằng cái lưỡi hái tử thần có thể cướp ông đi khỏi thế gian này bất cứ lúc nào và điều ông mong muốn chỉ là gặp lại người xưa một lần thôi.
Cảm nhận khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đem lại cho ta cảm xúc về tình cảm và cuộc đời của nhà thơ, Ai mà không thương xót cho số phận không may mắn ấy. Khi người ta sắp phải rời xa cuộc đời này và họ còn quá trẻ vẫn còn hoài bão, vẫn còn tình yêu dang dở thì họ sẽ hiểu nhà thơ đã đau khổ như thế nào.
Số 15: Phân tích khổ 2 của bài Đây thôn Vĩ Dạ
Hàn Mặc Tử là một trong những gương mặt đặc sắc của phong trào Thơ mới. Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng nói của một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu cảnh vật, yêu con người nồng nàn, tha thiết. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là bài mang một tình yêu, khát khao cuộc sống như vậy. Khổ thơ thứ 2 của bài thơ mang đến một hoài niệm và tâm trạng lo âu của thi sĩ.
Mở đầu bài thơ, người đọc đã cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn người thi sĩ. Ta thấy thi sĩ tuy phải sống cuộc đời đầy bi kịch nhưng vẫn khát khao được sống và yêu đời tha thiết.
Khổ thơ thứ hai được mở ra, khiến người đọc cảm nhận được hoài niệm về cảnh sông nước đêm trăng, hòa theo đó là tâm trạng lo âu, phấp phỏng của thi sĩ. Cảnh sông nước đêm trăng được gợi ra:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Dòng sông có nhiều cách hiểu, nhưng dù hiểu theo cách nào thì vẫn gợi ý thức về sông Hương-linh hồn của Huế. Cảnh vật được miêu tả rất nhẹ nhàng, êm ả, gợi đặc điểm riêng của Huế: gió khẽ lay, mây khẽ bay, hoa bắp khẽ đung đưa, chuyển động rất nhẹ nhàng, êm ả, gợi không gian rất thanh bình, rất Huế.
Cảnh vật đượm buồn: buồn thiu, buồn sâu lắng, buồn nhuốm vào không gian, cảnh vật, thường là nỗi buồn từ thế giới bên ngoài tác động. Câu thơ như dài ra, căng ra, khiến nỗi buồn như dằng dặc.
Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật “nhân hóa”, dòng sông đã trở thành một sinh thể, có tâm trạng, có hồn, mang nỗi niềm của con người. Cảnh vật như nhuốm màu chia ly “Gió theo lối gió mây đường mây”. Câu thơ tách nhịp 4/3 chia làm hai nửa: một gió một mây. Từ “gió” được điệp lại ở vế một, đóng khung một thế giới đầy gió, chỉ có gió, chỉ riêng gió.
Từ “mây” điệp ở vế hai, tạo nên một thế giới mây khép kín chỉ có mây. Vậy là hai sự vật vốn dĩ chỉ đi liền với nhau thì nay tác biệt và chia lìa. Gió đóng khung trong gió, mây khép kín trong mây. Câu thơ mang đến một hiện thực phi lý về hiện thực khách quan, nhưng rất có lý về hiện thực tâm trạng.
Thi sĩ đang sống trong cảnh chia ly, cách biệt, sống trong cảnh đời đầy nghịch lý cho nên gió cứ gió, mây cứ mây. Từ “lay” mang một nỗi buồn trong ca dao, chỉ hoạt động rất nhẹ của sự vật hiện tượng khi có gió nhẹ. Nó mang nỗi buồn truyền thống của ca dao, thổi vào nỗi buồn muôn thuở của con người.
Hai câu thơ sau, ta nhận ra được tâm trạng lo âu, phấp phỏng của thi sĩ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Cảnh vật được gợi ra một cách lung linh, huyền ảo, tràn ngập ánh trăng, mang ý nghĩa vừa thực vừa ảo. “Sông trăng” có thể hiểu là dòng sông tràn ngập ánh trăng, cũng có thể là trăng tuôn chảy thành dòng. “Thuyền trăng” là con thuyền chở đầy trăng, cũng có thể hiểu là trăng giống như hình ảnh một con thuyền.
Dù hiểu theo cách nào thì trăng đã tràn ngập cả không gian, vừa thực vừa ảo, tạo nên một cảm giác mơ hồ. Trong thơ của Hàn Mặc Tử có cả một miền trăng, để có một thế giới tri âm, chất chứa tâm sự, giải tỏa những niềm đau, trăng đối với Hàn Mặc Tử là một người bạn tri âm. “Thuyền ai” lại gợi ra một danh từ phiếm chỉ. Hai câu thơ chứa đựng cả những hình ảnh mâu thuẫn.
Câu dưới không có trăng, ý thơ phi lý về hiện thực nhưng chúng ta có thể lý giải được khi dựa vào tâm trạng của chủ thể trữ tình. Trăng lúc có lúc không, mong manh và mờ ảo, người tri kỷ cũng mờ ảo và mong manh nên lo âu, phấp phỏng là thế.
Chờ trăng là chờ sự tri âm, chờ sự đồng điệu, chờ sự sẻ chia và chờ được khát khao, giao cảm với đời, là một con người bình thường mong muốn sự giao cảm. Từ “kịp” thể hiện một tâm trạng lo âu của nhà thơ, tâm trạng đợi chờ, khao khát.
Qua đó thể hiện được quỹ thời gian sống đang bị vơi cạn đi từng ngày, cuộc chia lìa vĩnh viễn có thể đến bất cứ lúc nào. Với một người bình thường nếu không trở về tối nay thì còn nhiều những đêm khác, nhưng với Hàn Mặc Tử nếu thuyền không trở về tối nay, không có sự tri âm thì thi sĩ sẽ ra đi vĩnh viễn trong đau buồn.
Những cảm nhận khổ 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ cho ta thấy được hoài niệm của tác giả về cảnh sông nước đêm trăng, đồng thời cũng hiểu được tâm trạng lo âu, phấp phỏng của nhà thơ. Tác giả cũng đang chờ đợi sự tri âm, sự chia sẻ để dịu bớt nỗi đau trên hành trình trở về thế giới bên kia. Đó hay chăng chính là sự xót xa trong bi kịch cuộc đời của một thi sĩ tài hoa nhưng bạc mệnh.

Tổng kết
Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 15 mẫu phân tích khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 11.