Top 20 mẫu phân tích hình tượng cây xà nu chi tiết nhất

188
Top 20 mẫu phân tích hình tượng cây xà nu chi tiết nhất
Top 20 mẫu phân tích hình tượng cây xà nu chi tiết nhất
4.7/5 - (15 votes)

Tổng hợp các bài mẫu phân tích hình tượng cây xà nu trong bài Rừng xà nu của tác giả Nguyễn Trung Thành một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 20 mẫu phân tích hình tượng cây xà nu chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Xem thêm:

Dàn ý phân tích hình tượng cây xà nu

I. Mở bài

Rừng xà nu là truyện ngắn xuất xắc của Nguyễn Trung Thành (tức Nguyễn Ngọc) cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nền văn học Việt Nam chống Mỹ, cứu nước.

Bên cạnh những anh hùng và tập thể anh hùng, ở Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành còn sáng tạo nên một hình tượng nghệ thuật mang tính biểu trưng cho sức mạnh của dân tộc và nhân dân ta trong cuộc kháng chiến vĩ đại. Đó chính là hình tượng cây xà nu.

II. Thân bài

1. Cây xà nu – biểu tượng về dân làng Xô Man, của người Tây Nguyên:

– Đọc truyện ngắn Rừng xà nu, người ta thấy cây xà nu, rừng xà nu như chính dân làng Xô Man, như người dân Tây Nguyên trên núi rừng trùng điệp. Có lẽ vì thế, nàh văn Nguyễn Trung Thành đã đặt tên cho tác phẩm của mình là Rừng xà nu, đã mở đầu vầ kết thúc tác phẩm cũng chính bằng hình ảnh của cây xà nu:

Làng ở trong tầm đại bác của giặc… hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương…

Và:

Ba người đứng ở đây nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì ngoài những Rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.

Hình ảnh cây xà nu còn xuất hiện ở mọi lúc mọi nơi. Nó hoá thành ngọn lửa trong bếp mỗi gia đình, mỗi nhà, trong đống lửa nhà ưng khi dân làng tập trung lại. Nó làm ánh đèn cho Tnú và Mai học chữ. Nó rần rật cháy trên đường cụ Mết và dân làng vào rừng tìm vũ khí. Nó cháy bừng căm thù trên đôi bàn tan Tnú. Nó hừng hực trong đêm dân làng vùng lên giết giặc… Đấy là một hình tượng nghệ thuật mang tính ẩn dụ. Nhà văn đã nhân cách hoá cây xà nu trở thành một biểu tượng về con người.

2. Cây xà nu – chứng nhân của tội ác quân thù

Mở đầu tác phẩm là hình tượng hàng trăm, hàng ngàn cây xà nu bị những mảnh đạn của giặc giày xéo:

Cả Rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bám lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn.

Rừng xà nu bị tàn hại như vậy vì cũng như dân làng Xô Man của Tnú, nó đang ở trong tầm đại bác của giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở lại gà gáy. Nhà văn có thể không sừng lại miêu tả hết những tội ác của quân giặc đối với dân làng Xô Man, bởi hình ảnh rừng cây kia đã nói lên tất cả. Rừng xà nu cũng như dân làng đều cùng chung số phận!

3. Cây xà nu – biểu trưng về phẩm chất, khát vọng của người dân làng Xô Man.

Vì mang tính biểu trưng nên trong suốt tác phẩm, mỗi khi miêu tả cây xà nu, nhà văn Nguyễn Trung Thành luôn đối sánh nó với dân làng Xô Man.

Cây xà nu có sức sống mãnh liệt Trong rừng ít có loại cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây non mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời… Ngay trong làn đạn hằng ngày, hằng đêm của quân thù, cây xà nu vẫn vương lên, không gì quật ngã đựơc: Có những cây vượt lên đựoc đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Cú thế, lớp này ngã xuống đã có năm bảy lớp cây khác lớn lên, trùng trùng điệp điệp đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời. Rừng xà nu trở thành một dũng sĩ ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng.

Đọc Rừng xà nu không ai không liên tưởng đến sự gắn bó, sóng đôi giữa cây xà nu và những tập thể anh hùng ở làng Xô Man và cả Tây Nguyên. Anh Quyết hy sinh, đã có Tnú cường tráng. Chị Mai ngã xuống lại có cô Dít đầy nhựa sống. Khi Tnú bị bắt, bị hành hạ, tất cả thanh niên trong làng, mỗi người một cây gậy sáng loáng đạp lên sàn nhà ưng ào ạt vượt lên trả thù. Khi Tnú vào quân giải phóng, cậu bé Heng, mới mấy năm, đã khôn lớn nhanh như thổi, thay thế anh làm người liên lạc… Dân làng Xô Man như rừng cây xà nu, dưới làn mưa bom bão đạn của quân thù, như lợi cụ Mết, vẫn sống đấy, không có gì mạnh bằng, cây mẹ ngã, cây con mọc lên, đố nó giết hết rừng xà nu này!

III. Kết bài

Rừng xà nu trong truyện ngắn của Nguyễn Trung Thành không thuần tuý là rừng cây đặc trưng của làng Xô Man trên dải Trường Sơn hùng vĩ. Đó còn là hình tượng ẩn dụ về chính con người ở nơi khác nghiệt của cuộc chiến tranh chống quân xâm lược. Bao con người trong những năm tháng gian lao ấy vẫn còn sống, ngoan cường, bền bỉ và kiêu hãnh. Cho dù cuộc chiến tranh khốc liệt kia đã đi qua, nhưng hình tượng nghệ thuật đó vẫn rất giàu sức sống, vẫn như một lời nhắc nhở về những phẩm giá tốt đựp của con người.

Đọc thêm:

Top 20 mẫu phân tích hình tượng cây xà nu

Số 1: Phân tích hình tượng cây xà nu

Hình tượng nghệ thuật đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung, chủ đề tác phẩm. Trong truyện ngắn Rừng xà nu, nhà văn Nguyên Ngọc cũng đã xây dựng thành công hình tượng nghệ thuật độc đáo là rừng xà nu. Cây xà nu với những biểu trưng rất riêng đã đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.

Nguyên Ngọc được biết đến với tên khai sinh Nguyễn Trung Thành. Ông là nhà văn trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Và đặc biệt gắn bó với mảnh đất, con người Tây Nguyên. Đó cũng là điều kiện tiền đề cho sự thành công của tác phẩm Đất nước đứng lên và Rừng xà nu.

Rừng xà nu được viết năm 1965, khi đế quốc Mĩ bắt đầu dồn quân ồ ạt vào miền Nam, các chiến dịch càn quét được tổ chức với quy mô rầm rộ hơn. Tác phẩm ra đời như một biểu tượng cho tinh thần bất khuất, kiên cường của đồng bào Tây Nguyên nói riêng và dân tộc ta nói chung.

Trong đời thực, xà nu là một loài cây họ thông, mọc khỏe và có nhiều ở mảnh đất Tây Nguyên. Đến với xứ sở cao nguyên này là đến với những cánh rừng xà nu bạt ngàn. Và đối với người dân Tây Nguyên, đây là loài cây rất quen thuộc, gắn bó mật thiết với cuộc sống sinh hoạt của người dân Tây Nguyên.

Rừng xà nu đã trở thành không gian thực, bối cảnh thực của câu chuyện, được xuất hiện trở đi trở lại rất nhiều lần trong tác phẩm, tham gia vào sự phát triển của câu chuyện, trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với các nhân vật. Đó là hình ảnh những cánh rừng xà nu bao bọc quanh làng Xô man. Từ đồi xà nu- nơi bắt nguồn của con nước dẫn vào làng.. đến những công dụng của nó như củi xà nu cháy trong mỗi bếp, đuốc xà nu soi sáng rừng đêm, nhựa xà nu cháy rực trên mười đầu ngón tay Tnú. Rừng xà nu đã chứng kiến bao buồn vui của con người và trở thành những thành viên có mối quan hệ khăng khít với con người Xô man.

Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm không chỉ được hiện lên với những chi tiết miêu tả chân thực, sống động mà còn bằng những hình ảnh nhân hóa, những liên tưởng độc đáo, mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bởi vật mà những cây xà nu và rừng xà nu được hiện lên như thực thể sống, có phẩm chất, số phận như con người thực sự.

Câu chuyện được mở đầu bằng nỗi đau thương của những cây xà nu trong cảnh ác liệt của chiến tranh: “Chúng nó bắn đã thành lệ,… hầu hết đạn đại bác rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn”. Rừng xà nu đã trở thành đối tượng hủy diệt tàn phá của quân xâm lược, phải hứng chịu bao đau thương, mất mát. Trước hết, đó là nỗi đau thương chung của một rừng cây: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. Trong đó lại có những nỗi đau thương riêng của từng cá thể: “Có những cây bị chặt đứt ngang ngửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Rồi có những cây còn non “vừ lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi… năm mười hôm thì cây chết”.

Những trận mưa bom bão đạn của kẻ thù dội xuống những cánh rừng xà nu nhằm hủy diệt sự sống của thiên nhiên và con người nơi đây. Rừng xà nu phải hứng chịu bao tổn thương, mang trên mình đầy thương tích. Nhưng trong đau thương, trong chiến tranh bom đạn khắc nghiệt, cây xà nu, rừng xà nu vẫn hiện lên với bao vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng.

Đó là loài cây sinh sôi nảy nở rất khỏe. Cứ một cây ngã xuống là đã có bốn, năm cây con mọc lên. Đó là loài cây “ham ánh sáng mặt trời”, nhưng không phải là ánh sáng yếu ớt dưới tầng thấp mà đó là những luồng sáng lớn thẳng tắp rọi xuống từ bầu trời cao, rộng. Chính bản năng sinh tồn mạnh mẽ cùng với khát vọng ánh sáng của bầu trời tự do đã tạo cho cây xà nu ngay từ nhỏ một vóc dáng ngay thẳng, kiên cường, một sức mạnh bất tử mà không một trở lực nào có thể ngăn cản được: “ngọn xanh rờn, hình mũi tên lao thẳng  lên bầu trời.. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng…” Cây xà nu còn có một sức chịu đựng phi thường, sức sống nội tại bất diệt. Bởi vậy mà “đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng”. Đối mặt với bom đạn hủy diệt của kẻ thù, rừng xà nu vẫn hiện ra với tư thế hào hùng, hiên ngang, bất khuất như chàng dũng sĩ khổng lồ, ngày ngày “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”.

Chiến tranh và năm tháng, kẻ thù đã dội xuống những cánh rừng xà nu biết bao nhiêu bom đạn, ra sức tàn phá hủy diệt sự sống của thiên nhiên và con người Tây Nguyên. Những đồi xà nu, rừng xà nu vẫn nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Với kết cấu theo kiểu vòng tròn, câu văn kết thúc và câu văn mở đầu được lặp lại gần như nguyên vẹn, chỉ thay thế từ “đồi” bằng từ “rừng”, chữ “hết” bằng chữ “hút”. Minh chứng cho sự trường tồn bất tử, sức sống bất diệt của thiên nhiên nơi đây mà không một sức mạnh  tàn bạo nào có thể ngăn cản và hủy diệt được.

Khi xây dựng hình tượng rừng xà nu, Nguyên Ngọc không chỉ tái hiện một bức tranh thiên nhiên tráng lệ, hào hùng của mảnh đất Tây Nguyên hoang sơ, mà rừng xà nu còn mang ý nghĩa biểu tượng, ẩn dụ cho con người nơi đây. Trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, nhà văn đều gắn bó sâu nặng với mảnh đất Tây Nguyên. Nỗi đau thương của rừng xà nu cũng chính là nỗi đau thương của dân làng Xô man. Biết bao máu và nước mắt, biết bao nỗi đau khổ thể xác và tinh thần đau đớn nhưng cũng giống như cây xà nu, dân làng Xô man luôn nêu cao tinh thần bất khuất, quật cường với tư thế không bao giờ cúi đầu. Những lứa cây nối tiếp nhau trong rừng xà nu là biểu tượng cho các thế hệ nối tiếp nhau của dân làng Xô man, luôn nêu cao truyền thống anh hùng, bất khuất từ quá khứ đến hiện tại.

Hình ảnh rừng xà nu đã được miêu tả bằng nghệ thuật giàu chất thơ. Các biện pháp nghệ thuật  ẩn dụ, so sánh, nhân hóa..cũng được nhà văn sử dụng phối hợp một cách linh hoạt và tài tình. Tất cả đã góp phần tạo nên vẻ đẹp mang đậm chất sử thi của hình tượng rừng xà nu.

Hình tượng rừng xà nu chính là hình ảnh biểu trưng mang ý nghĩa lớn đối với việc thể hiện nội dung tư tưởng và chủ đề tác phẩm. Hình ảnh cây xà nu- ẩn dụ của tinh thần, ý chí sẽ mãi là điểm sáng trên những trang văn và sống mãi với thời gian.

Bài Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành
Bài Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành

Số 2: Cảm nhận hình tượng cây xà nu

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, nếu như Tô Hoài là người có công mở đường cho đề tài viết về miền núi thì Nguyễn Trung Thành được xem là nhà văn tiên phong cho mảng đề tài viết về Tây Nguyên. Và có thể nói, truyện ngắn “Rừng xà nu” là một trong số những sáng tác tiêu biểu nhất của ông về mảng đề tài ấy. Đọc truyện ngắn “Rừng xà nu” ấn tượng sâu đậm trong mỗi người không chỉ là hình ảnh những con người Tây Nguyên bất khuất, kiên cường, thủy chung mà đó còn là hình tượng cây xà nu, rừng xà nu – một hình tượng nghệ thuật độc đáo.

Rừng xà nu, cây xà nu là hình ảnh xuyên suốt toàn bộ tác phẩm – mở đầu và kết thúc tác phẩm đều là hình tượng cây xà nu. Trước hết cây xà nu, rừng xà nu gắn bó với cuộc sống và mọi sinh hoạt hằng ngày của người dân làng Xô Man. Từ xưa đến nay, cây xà nu, rừng xa nu vẫn luôn hiện hữu trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của dân làng. Ngọn lửa xà nu nấu ăn trong mỗi bếp của gia đình người Xô Man, bập bùng trong nhà rông, đuốc xà nu soi sáng đường rừng đêm. “Khói xà nu đen nhẻm thâm hình lũ trẻ”, làm tấm bảng đen cho anh Quyết dạy Mai và Tnú học chữ.

Thêm vào đó, cây xà nu, rừng xà nu còn xuất hiện ngay cả trong những sự kiện trọng đại và ăn sâu vào tiềm thức, suy nghĩ của những người dân làng Xô Man: ngọn đuốc cháy sáng trên tay cụ Mết và cả dân làng Xô Man đi vào rừng sâu lấy giáo mác để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa, “đêm đêm cả dân làng thức mài vũ khí dưới ánh đuốc ngọn xà nu”. Và rồi, cũng chính ngọn lửa của đuốc xà nu đã soi sáng rực cho cả dân làng trong đêm khởi nghĩa. Chắc hẳn, với bấy nhiêu chi tiết ấy cũng đủ để chứng minh cho chúng ta thấy vị trí của cây xà nu trong đời sống của dân làng Xô Man.

Thêm vào đó, cây xà nu còn là hình ảnh biểu tượng cho những đau thương, mất mát của dân làng Xô Man nói riêng, con người Tây Nguyên nói chung. Trong những ngày mưa bom bão đạn, cây xà nu phải quằn mình hứng chịu biết bao nỗi đau thương “hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn, Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương.

Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão.” Không dừng lại ở đó, tác giả còn đi sâu miêu tả những “vết thương” của cây xà nu “nơi chỗ vết thương, nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại, đen và đặc lại quện thành cục máy lớn.” Vâng, có lẽ những cây xà nu kia đã phải gồng mình lên hững chịu tội ác của giặc và chính những thương tích ấy đã gợi lên trong chúng ta biết bao đau thương, mất mát và cả sự hi sinh của những con người Tây Nguyên – là anh Xút bị treo cổ lên cây vả đầu làng, là bà Nhan bị giết, chặt đầu cột tóc treo đầu súng, là mẹ con Mai, là Tnú với mười đầu ngón tay không còn lành lặn,…

Không chỉ là hình ảnh biểu tượng cho những đau thương, mất mát của dân làng Tây Nguyên, cây xà nu còn là hình ảnh tượng trưng cho sức sống bất diệt, mãnh liệt của những con người nơi đây. Miêu tả sức sống của cây xà nu, tác giả Nguyễn Trung Thành “cạnh cây xà nu mới gục ngã đã có bốn năm cây non mọc lên, ngọn cây xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Có lẽ đây chính là hình ảnh đẹp nhất về sức sống bất diệt và tinh thần bất khuất của con người Tây Nguyên. Hình ảnh những cây xà nu vươn thẳng lên bầu trời cũng như các thế hệ dân làng Xô Man cứ lớp này đến lớp khác, thế hệ này đến thế hệ khác nối tiếp nhau đứng lên chiến đấu. Anh Quyết hi sinh thì có Tnú và Mai.

Mai ngã xuống giữa tuổi thanh xuân tràn đầy sức sống như cây xà nu bị chặt đứt giữa thân cây thì có Dít tiếp bước theo dấu chân Mai. Những con người ấy đã nắm chặt lấy tay nhau, làm nên những thế hệ dân làng Xô Man anh dũng, bất khuất trong chiến đấu từ thế hệ này sang thế hệ khác như những cây xà nu kia cứ cây này ngã xuống cây khác lại mọc lên, không bao giờ ngã gục xuống, đúng như nhà thơ Nguyễn Trung Thông từng viết:

Ta lại viết bài thơ trên báng súng

Con lớn lên viết tiếp theo cha

Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống

Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.

Đồng thời, cây xà nu còn là hình ảnh tượng trưng cho khát vọng, ước mơ tự do và niềm tin vào cách mạng của những người dân làng Xô Man. Cây xà nu là loại cây “ham ánh sáng mặt trời. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng.”

Hình ảnh những cây xà nu vươn thật cao, thật xa để đón lấy ánh nắng mặt trời gợi lên trong chúng ta niềm khát khao tự do, ước muốn vươn tới tương lai tươi sáng của những con người Xô Man. Ánh sáng mặt trời mà những cây xà nu đang vươn tới phải chăng là ánh sáng của Đảng, của cách mạng mà những người dân Xô Man nói riêng, nhân dân Tây Nguyên nói chung đang hướng tới và đang bước đi dưới nguồn ánh sáng đó, đúng như nhà thớ Tố Hữu viết:

Lần đêm bước đến khi hửng sáng

Mặt trời kia cờ Đảng giương cao.

Tóm lại, là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Trung Thành, hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu đã đem đến cho tác phẩm chất thơ, chất nhạc thậm chí cả chất điện ảnh hết sức độc đáo và giàu ý nghĩa.

 

Số 3: Cảm nhận về hình tượng cây xà nu

“Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành là một tác phẩm xuất sắc. Yếu tố làm nên sự xuất sắc của tác phẩm này không gì khác là nhà văn đã xây dựng được hình tượng cây xà nu vô cùng chân thực, sống động. Truyện xoay quanh buôn làng Xô Man ở Tây nguyên. Ở đó có loài cây họ thông, gần giống cây Pơ mu, xa mu của miền Bắc, đó là cây xà nu. Xà nu là cây ham ánh sáng mặt trời, sinh sôi nảy nở rất nhanh.

Bằng sự nhạy cảm về nghệ thuật, Nguyễn Trung Thành đã nắm bắt được đặc tính này và đem gắn kết với Tây Nguyên trong bom đạn chiến tranh. Đọc “Rừng xà nu”, ta có cảm giác đang đi giữa cánh rừng xà nu bạt ngàn với hương thơm ngào ngạt như đọng nắng quê hương. Ta đang đi trên con suối ẩn hiện dưới bóng xà nu. Ta thấy đâu đây những mái nhà nép mình dưới tán cây xà nu.

Xà nu là loài cây gắn bó máu thịt với người dân Tây Nguyên. Con người ta sinh ra, lớn lên, dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ cái, việc nhà việc cửa cho tới lúc nhắm mắt xuôi tay đều gắn kết với loại cây này. Vị trí của xà nu trong cuộc sống người dân Tây nguyên phần nào giống với cây tre của đồng bằng Bắc bộ, cây dừa của đồng bằng sông Cửu Long. Mỗi một đất nước, một xứ sở cũng đều có một loại cây đặc trưng.

Còn một khi bạn đến với Tây Nguyên − mảnh đất đỏ bazan, với tiếng cồng chiêng âm vang, hạt bụi vàng lóng lánh thì hãy nhớ tới “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành − một rừng xà nu đã ưỡn tấm ngực lớn của mình để che chở cho buôn làng Xô Man. Để hình tượng cây xà nu trở nên thuyết phục hơn, Nguyên Ngọc đã khéo léo để cho mỗi bước đi của các nhân vật đều thấp thoáng bóng cây xà nu.

Trong tác phẩm này, đã hơn hai mươi lần cây xà nu hiện ra với nhiều diện mạo khác nhau: bốn lần “rừng xà nu”, năm lần “đồi xà nu”, cùng với nó là ngọn xà nu, cây xà nu, dầu xà nu, nhựa xà nu….

Bom đạn có thể phá hủy mọi cơ sở vật chất dù có kiên cố đến đâu nhưng vẫn không bẻ gãy được sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam. Những con người vẫn sống, vẫn chiến đấu, vẫn yêu nhau, vẫn đợi chờ và tin tưởng một ngày toàn thắng. Điều này đã thể hiện rõ ở mỗi Tình của Mai và Tnú − những con người đã góp phần viết nên huyền thoại Việt Nam ở thế kỷ hai mươi.

Để khẳng định sức sống bất diệt của xà nu cũng như đồng bào Tây Nguyên trong chiến tranh, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã khéo léo xây dựng hình ảnh cây xà nu thông qua kết cấu của truyện. Ai đã từng đọc truyện ngắn “Rừng Xà nu” đều nhận thấy có hai câu văn tưởng chừng như trùng lặp nhau.

Mới đọc qua, chúng ta có cảm giác đây là hai câu văn giống nhau nhưng nếu để ý ta sẽ thấy sự thay đổi về số lượng, cũng như chất lượng của những cây xà nu. Đây là một dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Thành Trung. Muốn hiểu được sức sống bền bỉ, dẻo dai của xà nu cũng như tinh thần yêu nước của đồng bào Tây Nguyên qua kết cấu này thì ta phải đặt chúng dưới hai góc độ không gian và thời gian.

Nếu để đồi xà nu thành rừng xà nu chạy tít tới tận chân trời thì cần có một khoảng cách về thời gian. Thời gian ấy được đo bằng 21 năm của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian khổ. Hai mươi mốt năm đó là hai mươi mốt thế hệ xà nu nhã gục, nhưng cùng với đó là hai mươi mốt thế hệ xà nu vươn lên đón lấy ánh sáng mặt trời.

Nhìn rộng ra, đó là hai mươi mốt thế hệ đồng bào Tây Nguyên ra trận. Đó là cuộc chạy tiếp sức của hai mươi mốt thế hệ mang trong mình ngọn lửa sức sống Việt Nam. Cũng như cây xà nu ấy, người Tây Nguyên cũng truyền ngọn lửa sức sống từ đời này sang đời khác, từ lồng ngực của người già sang người trẻ.

Đứng trong chiến tranh khốc liệt nhưng xà nu vẫn bảo toàn, phát triển. Đó là nhờ vào tính liên kết, tinh thần đoàn kết của các thế hệ xà nu, các lớp người Tây Nguyên. Trong cánh rừng xà nu “nối tiếp nhau tới chân trời” ấy, Nguyễn Trung Thành đã nhận ra có ba lứa cây xà nu bện chặt vào nhau để vượt qua bom đạn. Tương ứng với ba lứa cây đó là ba thế hệ người Tây Nguyên.

Nhà văn đã tập trung nhiều bút lực của mình để mô tả lứa cây trưởng thành. Mặc dù mang trên mình đầy thương tích nhưng với sức vóc lớn mạnh đã làm mờ đi vết thương. Những cây xà nu ấy không khác gì những con chim đã đủ lông mao lông vũ, ưỡn tấm ngực lớn của mình che chở cho buôn làng Xô Man. Tương ứng với lứa cây trưởng thành đó chính là thế hệ thanh niên như Tnú và Mai. Bên cạnh lứa xà nu trưởng thành là những cây xà nu đại thụ là chỗ dựa tinh thần của cả cánh rừng xà nu.

Những cây xà nu ấy tương ứng với cụ Mết − vị già bản của buôn làng Xô Man. Thông qua lời nói “Chúng nó cầm súng thì mình phải cầm giáo mác” của cụ Mết, Nguyễn Trung Thành đã truyền tải ánh sáng nghị quyết mười lăm của Đảng. Bên cạnh hai lứa xà nu trên còn có những cây xà nu non, vừa nhú khỏi mặt đất đã nhọn hoắt, kiên cường lao lên bầu trời, tiếp nhận ánh sáng. Đó chính là những thế hệ thiếu niên Xô Man như bé Heng, bé Dít. Không phải ngẫu nhiên khi nhà văn viết “Ba người đứng đó….”

Tình thần đoàn kết toàn dân luôn là thứ vũ khí mạnh nhất chúng ta có được trong bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước. Truyện ngắn “Rừng xà nu” đã khẳng định lại chân lý ấy, đồng thời ngợi ca sức sống bất diệt của con người Việt Nam trong chiến tranh. Như vậy, “Rừng xà nu” xứng đáng là linh hồn của tập “trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Và Nguyễn Trung Thành xứng đáng là người chiến sĩ trên mặt trận văn chương cách mạng.

Số 4: Vẻ đẹp hình tượng cây xà nu

Nguyễn Trung Thành là bút danh của nhà văn Nguyên Ngọc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Truyện Rừng xà nu của ông viết vào năm 1965, là một truyện ngắn xuất sắc. Truyện kể về cuộc “đồng khởi” của dân làng Xô Man ở Tây Nguyên. Cụ Mết, một già làng, một thủ lĩnh quân sự đã lãnh đạo dân làng Xô Man mài giáo, mác, vụ, rựa … quật khởi đứng lên đánh lũ ác ôn, tay sai của đế quốc Mỹ để giải phóng buôn làng và núi rừng thiêng liêng. Họ đã chiến đấu vì sự sống còn, vì chân lí cách mạng ngời chói: “Khi giặc đă cầm súng thì nhân dân phải cầm giáo!”.

Ngoài những nhân vật cho ta nhiều ấn tượng như cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, bé Heng, anh Quyết… thì hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn được tác giả khắc họa và ca ngợi như một dũng sĩ oai hùng.

Ngày ấy, cách mạng miền Nam đang trải qua những năm dài đen tối, đầy thử thách khó khăn. Lũ giặc kéo tới, lùng sục, phục kích, không đêm nào chó và súng của chúng không sủa vang cả rừng. Buôn làng bị bao vây, dân làng bị kèm kẹp và khủng bố dã man. Đầu rơi máu chảy, tang tóc và đau thương: giặc treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng; chúng giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng! Cùng chung số phận, chung chịu đau thương với dân làng Xô Man là rừng  xà nu nằm trong tầm đại bác của giặc.

Chúng bắn ngày, bắn đêm, bắn vào sáng sớm và xế chiều, hoặc lúc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Tang tóc bao trùm Rừng xà nu. Hàng vạn cây “không cây nào không bị thương”. Đạn giặc chặt đứt ngang thân mình, “cây xà nu đổ ào ào như một trận bão”nhựa cậy đọng lại, tụ lại “bầm lại đen và đặc quệt lại thành từng cục máu lớn”. Rừng xà nu chịu bao tổn thất nặng nề như con người. Biết bao cây con trúng đạn giặc, vết thương “cứ loét mãi ra” sau năm, mười hôm thì cây chết!

Gần hai mươi lần, nhà văn nói đến rừng xà nu, đồi xà nu, cây xà nu, cành xà nu, ngọn và lá xà nu, nhựa xà nu, khói và lửa xà nu… Mồi lần xuất hiện, cây xà nu mang một dáng vẻ kỳ lạ, tất cả đều mang ý nghĩa “tượng trưng cho khí phách anh  hùng và sức sống mãnh liệt của dân làng Xô Man, của núi rừng Tây Nguyên kiên cường bất khuất!”

Người Strá đã hiện ngang trong lửa đạn, người trước ngã, người sau tiến lên. Rừng xà nu cũng vậy, cạnh cây bị bắn ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên, sinh sôi nảy nở “ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Nếu như cây Kơ nia có bóng cây tỏa rợp nương rẫy và lòng người, thủy chung tình nghĩa, rễ cây “uống nước nguồn miền Bắc” nên có một sức sống tiềm tàng, thì cây xà nu là một loại cây “ham ánh sáng mặt trời”, hương cây nhựa cây “bay ra thơm mỡ màng”.

Ba lần Nguyễn Trung Thành tạo nên những hình ảnh so sánh độc đáo, kỳ vĩ ca ngợi tầm vóc cây xà nu: lúc thì ngọn cây như một mũi tên lao thẳng lên bầu trời, lúc thì những cây con xà nu mới nhú khỏi mặt đất “ nhọn hoắt như những mũi lê”, lúc thì rừng xà nu “ưỡn tấm lưng trần của mình ra che chở cho làng”. Rõ ràng hình tượng cây xà nu mang tầm vóc và khí phách của một dũng sĩ đích thực trong máu lửa.

Có lúc Rừng xà nu được miêu tả dưới cặp mắt của Tnú trong hai thời điểm chiều và sáng, lúc anh về thăm làng và lúc anh lại ra đi. Sau ba năm trời anh đi “lực lượng”, đi tìm những thằng Dục ác ôn để trả thù, anh về thăm quê, thăm lũ làng, gặp lại rừng xà nu như gặp lại người bạn chiến đấu, anh bồi hồi tự hào và say mê ngắm nhìn: “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”. Và buổi sáng anh lên đường, cùng cụ Mết và Dít còn có rừng xà nu trùng điệp tiễn anh với bao trìu mến và lưu luyến. Anh đã mang theo hình bóng quê hương để ra đi với một sức mạnh mới.

Hình tượng rừng xà nu đem đến cho ta nhiều liên tưởng sâu sắc về thế trận nhân dân, về người người lớp lớp, về sự hy sinh và đóng góp xương máu của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong kháng chiến. Chính vì thế mà trong lúc gặp lại Tnú, cụ Mtl đã hào hùng khẳng định với tất cả niềm kiêu hãnh và thách thức. “Mày có đi qua chỗ rừng xà nu gần con nước lớn không? Nó vẫn sống đấy, không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc tên. Đố nó giết hết rừng xà nu này”.

Nét đặc sắc của truyện ngắn Rừng xà nu là nghệ thuật tả cảnh, tả người rất độc đáo. Rừng xà nu không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, không chỉ là cảnh tượng chiến trường hùng tráng  mà còn là biểu tượng cho chí khí anh hùng của đồng bào Tây Nguyên, của nhân dân miền Nam anh hùng. Cụ Mết chẳng khác nào dũng sĩ trong sử thi “Bài ca Đăm Săn”‘. Là một già làng sáu mươi tuổi, quắc thước, râu dài tới ngực, mắt sáng, vết sẹo của chiến tích sáng bóng, cụ Mết ở trần “ngực căng như một cây xà nu lớn”.

Nói đến hình tượng cây xà nu không thể không nói tới ngọn lửa xà nu. Tác giả đã tạo nên ba nét vẽ về ngọn lửa xà nu, gợi ra một không khí huyền thoại thiêng liêng. Dưới ngọn lửa xà nu, Tnú đã đọc thư “tuyệt mệnh” của anh Quyết gửi dân làng Xô Man trứơc lúc anh hy sinh. Lần thứ hai, hình ảnh ngọn lửa xà nu rực cháy trên mười ngón táy Tnú, đó là ngọn lửa uất hận, căm thù “máu kêu trả máu, đầu van trả dần” (Tố Hữu).

Lần thứ ba, ánh lửa đuốc xà nu bừng sáng đỏ rực, lấp loáng ánh giáo mác, với tiếng hô: “Chém hết!” của cụ Mết, đã soi tỏ xác mười tên giặc, trong đó có thằng Dục ác ôn, nằm sóng soài trên vũng máu trong nhà ưng. Cây xà nu đã chia ngọt sẻ bùi với đồng bào Xô-man trong những năm dài đánh Mỹ và lũ tay sai bán nước!

Nếu như bài thơ Thu Bồn lấy cánh chim Chơ rao, một nhà thơ khuyết danh đã lấy cây Kii nia làm hiểu tượng cho lòng dân và sức mạnh quật khởi cùa nú rừng Tây Nguyên hùng vĩ thì nhà văn Nguyễn Trung Thành đã thành công khắc họa vẻ đẹp tráng lệ của rừng xù nu để nói lên khí phách anh hùng của dân làng Xô-man, của chủ nghĩa anh hùng Việt Nam. Hơi hướng Tây Nguyên, màu sắc thần kỳ, không khí ihiêng liêng, phong vị những sinh hoạt truyền thống của núi rừng và con người Tây Nguyên được thể hiện một cách hào hùng qua hình tượng “Rừng xà nu” là vậy.

Truyện Rừng xà nu là một thành công lớn tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam viết về đề tài chiến tranh, cảnh vật và con người được chiếu sáng dưới ngọn lửa thiêng liêng thần kỳ. Nó đã giúp người đọc sống lại một thời kỳ lịch sử vô cùng đau thương và oanh liệt của dân tộc.

Bài Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành
Bài Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành

Số 5: Hình tượng cây xà nu trong Rừng xà nu

Nguyễn Trung Thành là một nhà văn Tây Nguyên, anh viết rất hay, sâu sắc và chân thành về con người và Tây Nguyên hùng vĩ. Truyện ngắn “Rừng xà nu” là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Trung Thành khi ngợi ca thiên nhiên sử thi của vùng đất Tây Nguyên. Đặc biệt, tác giả đã xây dựng được hình tượng cây xà nu mang cốt cách, bản lĩnh của những con người sống trên mảnh đất này.

Xuyên suốt tác phẩm “Rừng xà nu” là hình ảnh cây sa nu, đây có thể coi là hình tượng trung tâm, làm nền và cũng là nguồn cảm hứng vô tận để tác giả miêu tả thành công từng nhân vật. Sa nu là loài cây phổ biến ở núi rừng Tây Nguyên, dẻo dai, kiên cường, bất khuất. Nhắc đến kho thóc người ta sẽ nghĩ ngay đến những con người Tây Nguyên bất khuất không chịu khuất phục, luôn hăng hái bảo vệ nền độc lập của mình.

Hình ảnh cây xà nu được tác giả lấy làm tên truyện, mở đầu truyện và kết thúc cũng là hình ảnh cây mây khổng lồ. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả chụp được hình ảnh này, đó hẳn là chủ ý của bản thân. Nó vừa thể hiện sự hùng vĩ của thiên nhiên Tây Nguyên vừa khẳng định ý chí quật cường của con người Tây Nguyên.

Trước hết, xà beng là biểu tượng của núi rừng Tây Nguyên, gắn liền với cuộc sống của người dân Tây Nguyên. Cây xà nu gắn liền với cuộc sống của người dân làng Soman, và sự lớn lên của mỗi thế hệ người dân Tây Nguyên đều gắn liền với hình ảnh cao quý này. Họ là Tnu, Mai, Bà Met và Bé Heng. Những người này, để bảo vệ dân làng, bảo vệ vùng cao nguyên, đã phải hy sinh rất nhiều. Xà nu là loài cây mọc thẳng, vươn ra ánh sáng, đúng như con người Tây Nguyên luôn hướng về phía trước, dù khó khăn, thử thách đến đâu. Dường như con rắn là linh hồn của vùng đất Tây Nguyên, nó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người.

Không chỉ vậy, cây còn tham gia ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử của dân làng Soman. Ngọn đuốc của Xà tinh đã dọn đường cho dân làng Tây Nguyên, mười ngón tay của Tnu bị cháy xém bằng nhựa Rắn. Loài cây ấy đã ăn sâu vào tâm trí mỗi người, là biểu tượng cho tinh thần và ý chí của người dân Tây Nguyên. Người ta vẫn nhắc đi nhắc lại trong mỗi câu chuyện rằng “không gì mạnh bằng anh”, dù có cháy xém đến đâu thì anh vẫn chống chọi được với phong ba bão táp.

Xà nu là hình ảnh ẩn dụ để chỉ người dân Tây Nguyên. Hình ảnh rắn rừng bị chặt và đốt cũng giống như hình ảnh dân làng Soman bị áp bức, bóc lột dã man. Sự mất mát, nỗi đau cứ chồng chất khiến những tiếng than khóc kéo dài mãi không dứt. Dù bị đạn tàn phá nhưng cây xà nu vẫn chống chọi và bền bỉ; Cũng giống như hình ảnh của Mai, Tnu dù bị hành hạ nhưng bằng sức sống ngoan cường của mình vẫn có thể vùng vẫy, chiến đấu đến cùng.

Xà nu và con người Tây Nguyên dường như có mối quan hệ hài hòa, gắn bó chặt chẽ với nhau. Đây cũng là dụng ý của tác giả khi xây dựng hình tượng hùng tráng ấy.

Người dân Tây Nguyên luôn mong mỏi hòa bình, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Tác giả đã gửi gắm niềm khát khao ấy qua hình ảnh con suối mênh mông và vô tận.

Xà nu là loại cây có khả năng sinh trưởng tốt, bền bỉ và dẻo dai. Bao thế hệ đồng bào Tây Nguyên ngã xuống, bao thế hệ khác tiếp bước và phát huy tinh thần chiến đấu. Nhiều thế hệ cựu chiến binh như Me, sau đó là Tnu, và cuối cùng là Heng bé bỏng, tất cả đều khao khát tương lai.

Người đọc chắc hẳn sẽ rất chú ý đến hình tượng nhân vật Tnu. Thanh và Tnu là hai hình ảnh song hành, song hành, hỗ trợ và nâng cao cho nhau. Những đặc điểm đặc trưng của đầu rắn cũng là đặc điểm của nhân vật Tnu không lẫn với ai.

Nguyễn Trung Thành, với tình yêu Tây Nguyên và những quan sát tinh tế đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh bụi mâm xôi ám ảnh người đọc từ đầu đến cuối cuốn sách. Xà Nu mang đến cho người nhìn một cái nhìn ngưỡng mộ về mảnh đất và con người Tây Nguyên.

Số 6: Phân tích vẻ đẹp hình tượng cây xà nu

Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là tác phẩm mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, đặc biệt chỉ với hình tượng cây xà nu nhà văn đã gợi lên vẻ đẹp không chỉ của riêng vùng đất Tây Nguyên, mà còn thổi hồn vào hình tượng ấy nét đẹp hào hùng mà cũng đầy đau thương của cả một cộng đồng.

Hình tượng cây xà nu là một trong những hình tượng trung tâm và xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, Nguyễn Trung Thành đầy dụng ý khi cả mở đầu và kết thúc tác phẩm hình ảnh cây xà nu đều xuất hiện, tạo nên một kết cấu đầu cuối tương ứng, biến hình tượng xà nu trở thành một cấu tứ nghệ thuật hoàn hảo.

Trước hết, rừng là nu là hình tượng cho người dân làng Xô Man trong đau thương: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương, có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão, từ miệng vết thương ấy ứa ra thứ nhựa tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh; bầm lại quyện đen thành những cục máu lớn”.

Đó không chỉ là những đau thương, mất mát của rừng xà nu mà cũng là biểu trưng cho thân phận đau thương của người dân làng Xô Man khi làng nằm trong tầm bắn của địch, luôn luôn phải đối mặt với hiểm nguy. Nhưng chính khu rừng xà nu hùng vĩ, lấp lánh ấy đã trở thành người hùng cùng đồng hành, gắn bó và che chở, bảo vệ những người dân nơi đây. Để ý có thể thấy, cây xà nu bị thương đã được nhà văn miêu tả bằng ngôn ngữ đậm chất thơ, và thấm trong từng mạch tả là niềm tự hào, xúc động cũng như sự gắn bó của tác giả với mảnh đất Tây Nguyên.

Nguyễn Trung Thành dường như đã mang cả chất kiêu hùng trong ngòi bút rất riêng của mình để khắc họa về hình tượng rừng xà xà nu. Vì thê cây xà nu cũng đẹp, cũng trở nên lớn lao và mang đậm tính biểu tượng hơn nhờ sự hi sinh và nỗi đau mà nó phải chịu đựng, để từ đó hình tượng về những người dân làng Xô Man vất vả đau thương nhưng vẫn luôn quật cường, hiên ngang, một lòng hướng về cách mạng.

Xà nu trong vất vả đau thương mang vẻ đẹp cao cả, hùng vĩ, nhưng hình tượng xà nu với nét đẹp riêng của loài cây này cũng là biểu trưng cho nét đẹp tâm hồn của cộng đồng người Tây Nguyên. Xà nu là một loài cây khao khát ánh sáng đến lạ kỳ: “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng”. Đưa vẻ đẹp này của xà nu lên trang viết, Nguyễn Trung Thành như đang một lần nữa khẳng định vẻ đẹp của xà nu hay cũng chính là nét tâm hồn người dân Tây Nguyên đằm sâu ở trong đó, mảnh đất với những con người luôn tha thiết với  tình yêu của sự  tự do và mang trong mình sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Mỗi một dân tộc, một cộng đồng người ở từng vùng miền đều tồn tại thẳm sâu trong họ những nét đẹp tâm hồn riêng, để làm nguồn gợi thơ gợi tứ cho biết bao ngòi bút.

Với Nguyễn Trung Thành, người dân Tây Nguyên là những người mà thiên nhiên rộng lớn nơi đại ngàn đã đằm vào tâm hồn họ tình yêu tự do, yêu sự sống và yêu cả những khoảng trời cao lớn mà xiềng xích gông cùm không thể kiềm tỏa được. Thêm nữa, xà nu còn có khả năng sinh sôi mãnh liệt:  Đó là biểu tượng cho sự tiếp nối liên tục và mạnh mẽ của người dân làng Xô Man, thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau sẽ tiếp nối sứ mệnh thiêng liêng mà thế hệ trước đã trao truyền, gửi gắm.

Cứ như thể, thế hệ trước và thế hệ sau nối tiếp nhau, để cùng gồng gánh chặng đường cách mạng. Và chăng, Nguyễn Trung Thành nhìn thấy trong thế hệ ấy, hàng ngàn hàng vạn, lớp lớp những thế hệ người Việt đã hi sinh đầy bất khuất kiên cường như vậy. Đó cũng là biểu hiện sâu sắc cho lòng kiên trung tinh thần đại đoàn kết trước sau như một để đánh đuổi kẻ thù của dân tộc ta. Mượn hình tượng cây xà nu, Nguyễn Trung Thành đã diễn tả một cách sống động vẻ đẹp hào hùng ấy của biết bao nhiêu thế hệ đã hy sinh, đã ngã xuống vì dân tộc, đồng thời làm cho hình ảnh rừng xà nu bỗng mang trong nó linh hồn lớn lao hơn, bởi nó là sự gửi gắm điệu hồn của hàng nghìn thế hệ.

Tiếp tục những dòng miêu tả đầy chất thơ mà cũng đậm chất hùng của Nguyễn Trung Thành, hình tượng xà nu hiện lên mang đậm tính chất biểu tượng,mang đậm vẻ đẹp sử thi lãng mạn: “Có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá xum xuê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng”.

Đó phải chăng cũng là câu chuyện ta nhìn thấy trong sự hi sinh của người dân làng Xô Man vì sự nghiệp chung của cả dân tộc.  Hình ảnh bất diệt của cây xà nu khiến ta lập tức nghĩa đến Tnú – đại diện tiêu biểu cho lớp anh hùng của làng Xô Man, anh chịu biết bao đau đớn thương tật nhưng anh vẫn sống vẫn hoạt động cách mạng một cách hăng hái, nhiệt tình, những chiêu trò hiểm độc của quân địch tàn bạo không uy hiếp được anh, không thể nào làm nguôi ngoai tinh thần cách mạng đang bùng lên như ngọn lửa rực cháy trong anh, cái chết với Tnu không là gì, anh đặt sự nghiệp chung, sự hi sinh cho cả cộng đồng cao hơn mạng sống và an nguy của chính mình. Tnú quả thực là hình tượng đẹp, hùng vĩ cho cánh chim đại ngàn của mảnh đất Tây Nguyên.

Tnú vì thế, chính là hình tượng đại diện cho vẻ đẹp của cả cộng đồng người dân làng Xô man. Ngay cả khi ranh giới giữa cái chết và sự sống quá đỗi mong manh, ngay cả khi trong gang tấc hiểm nguy, tinh thần và ý chí quật cường, bất khuất vẫn là nét đẹp khắc tạc trong tâm hồn từng người con mảnh đất này.  Dù khó khăn, dù gian nan, họ vẫn hướng về tương lai, vẫn khao khát sự sống, sự tự do bằng cả tâm hồn rộng lớn của mình.

Hình ảnh rừng xà xu là hình ảnh xuyên suốt của trong tác phẩm, vì nó không chỉ gắn bó với người dân làng xô man trong đau thương, mà còn  đi vào đời sống sinh hoạt, gắn với hoạt động của người dân làng Xô Man. và vì thế nó mang theo hơi thở của sự sống Tây Nguyên. Cây xà nu bên cạnh Tnú và Mai học con chữ, lửa xà nu đã cháy trên mười đầu ngón tay Tnú, cụ Mết cũng được ví như bóng cây xà nu vĩ đại, và cả khi Tnu quay trở về từ đơn vị, cũng gắn bó với hình ảnh cây xà nu. Vậy nên cây xà nu không chỉ là loài cây của núi rừng, mà còn là linh hồn của mảnh đất anh hùng này, là người bạn thân thiết và khăng khít với người dân làng Xô man.

Bằng tình yêu tha thiết cháy bỏng với mảnh đất và con người nơi đây, cùng lối hành văn bay bổng lãng mạn mang khuynh hướng sử thi, hình tượng xà nu quả thực là hình tượng lưu lại sâu sắc dấu ấn phong cách của Nguyễn Trung Thành.

Số 7: Phân tích hình tượng cây xà nu

Đọc Rừng xà nu, không chỉ những nhân vật như cụ Mết, Tnú, Dít, Mai tạo nên ấn tượng sâu sắc trong chúng ta, mà còn là cây xà nu – một hình đặc sắc bao trùm toàn bộ thiên truyện ngắn này. Chính hình tượng cây xà nu tạo nên vẻ đẹp hùng tráng, chất sử thi lãng mạn cho câu chuyện về làng Xô Man bất khuất, kiên cường. Đó là hình tượng hàm chứa nhiều ý nghĩa tượng trưng.

Qua hình tượng này, người đọc có thể thấy rõ sức sống kiên cường, sức sống mãnh liệt của con người Tây Nguyên nói riêng, của con người Việt nói chung trong những ngày đánh Mĩ. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Trung Thành lại miêu tả thật cụ thể, thật chi tiết rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ giàu chất thơ, bằng những “lời có cánh” với một cảm xúc say mê mãnh liệt như đã thấy trong tác phẩm.

Hình tượng cây xà nu hiện lên trong tác phẩm đầy chất thơ hùng tráng. Mở đầu và kết thúc câu chuyện là hình ảnh “hàng vạn cây xà nu” “sinh sôi nảy nở”,“rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”… “đến hết tầm mắt cùng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”. Rừng xà nu là biểu tượng cho con người. Cây được miêu tả như con người trong sự ứng chiếu với con người, gợi ra những biểu tượng về đời sống, số phận và phẩm cách của con người – các thế hệ dân làng Xô Man đánh Mĩ.

Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời, “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng”, cũng như Tnú, như dân làng Xô Man yêu tự do. Rừng xà nu cũng như làng Xô Man, chịu nhiều đau thương bởi sự tàn ác của giặc: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đúng ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão.

Cây xà nu gắn bó với con người và cuộc sống dân làng. Xà nu không chỉ có mặt trong đoạn mở đầu và kết thúc, nó còn hiện diện trong suốt câu chuyện về Tnú và làng Xô Man của anh. Xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày như đã tự ngàn đời nay của dân làng. Cây xà nu còn là người chứng kiến sự giác ngộ, sự hi sinh thầm lặng, lòng dũng cảm, ý chí quật cường của dân làng Xô Man: “Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn. Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng.”.

Có thể nói hình tượng xà nu là mô típ chủ đạo của tác phẩm. Xà nu trở thành biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất của dân làng Xô Man. Đó là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Trung Thành. Nhà văn đã lựa chọn hình ảnh cây xà nu và đem lại cho nó những ý nghĩa mới, những vẻ đẹp mới để dựng lên bức tranh sử thi chống Mĩ của những con người kiên cường bất khuất nơi núi rừng hùng vĩ Tây Nguyên.

Số 8: Cảm nhận hình tượng cây xà nu

Nguyên Ngọc- Nguyễn Trung Thành được biết tới là người viết nhiều và hay nhất về mảnh đất Tây Nguyên với một loạt những tác phẩm truyện ngắn xuất sắc. Một trong số đó có một câu chuyện thuộc đề tài Tây Nguyên đó là Rừng xà nu – câu chuyện về chân lí cách mạng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên với hình tượng rừng xà nu đã trở thành biểu tượng.

Tác phẩm Rừng xà nu có hai cốt truyện đan cài vào nhau. Đó là chuyện kể về Tnú – người anh hùng dân tộc và cuộc chiến đấu không khuất phục của dân làng Xôman trước sự tàn bạo của đế quốc Mĩ. Nổi bật trong truyện ngắn là hình ảnh cây xà nu được nhắc đến như một điệp khúc và khai thác ở nhiều góc độ.

Vẻ đẹp của cây xà nu từ hiện thực khách quan đến hiện thực chủ quan và đi vào cảm giác đầy độc đáo với mùi thơm ngào ngạt, ánh sáng lung linh.  Với người Tây Nguyên, cây xà nu có một vị trí quan trọng, sống trên mảnh đất quê hương hùng vĩ, mọc thành từng đồi, từng rừng và tạo nên màu xanh bất tận, dựng lên không gian bát ngát cho núi rừng đại ngàn. Chính vì lẽ đó mà ở cả mở đầu và kết thúc, nhà văn đều dụng công đưa hình ảnh cây xà nu nối tiếp để tạo điệp khúc xanh bất tận làm nền cho câu chuyện đậm bản sắc Tây Nguyên.

Thứ hai, cây xà nu luôn có mặt trong thực tế đời sống. Ngọn lửa xà nu mỗi ngày vẫn cháy lên trong từng căn bếp nhỏ, khói xà nu le luốc trên từng gương mặt trẻ thơ. Người dân Xôman sống dưới tán rợp của xà nu và khi về với đất mẹ họ cũng trở lại với bóng mát dưới chân đồi xà nu. Nó hiện lên dưới nhiều góc độ, khi thì trong hoài niệm, khi hiện ra trước mất, lúc là thân là ngọn, khi là nhựa là lửa, có lúc là đồi, là rừng. Rừng xà nu là nơi chuẩn bị vũ khí để chờ đợi tới khi vùng lên quật khởi. Ngọn lửa xà xu như những ngọn đuốc thắp sáng lòng căm thù để rồi hừng hực cháy trong lòng mọi người và đem đến tín hiệu của giờ đồng khởi. Bếp lửa xà nu sáng rực ấm áp là nơi cả dân làng quây quần lắng nghe từng lời cụ Mết.

Không chỉ vậy, cây xà nu vẫn luôn ứng chiếu với con người Tây Nguyên rất tương ứng, hài hòa. Người dân xôman mang nặng nỗi đau thương với xà nu. Qua hình ảnh rừng xà nu bị tàn phá, người đọc như sống lại những trang sử đau thương của người dân xôman và chính đau thương ấy đã trở thành sức mạnh quật khởi của dân làng.

Thứ hai, xà nu là biểu tượng của sự sống và niềm tin tự do. Mỗi cây xà nu vươn mình, xanh rờn là mỗi cây ham sống và vươn ra tìm tự do. Nó là khát vọng vươn lên và lòng trung thành của người dân Xôman. Dù sống trong tầm đại bác của giặc, những cánh rừng vẫn trải dài một màu xanh. Người dân Xôman cũng vậy. Họ có sự kế thừa từ thế hệ này qua thế hệ khác. Sự tàn bạo, độc ác và cả nhẫn tâm của kẻ thù không thể tiêu diệt tinh thần kiên cường, bất khuất của dân làng, kẻ thù càng tàn bạo thì sức mạnh đoàn kết đứng lên càng mạnh mẽ.

Cuối cùng, rừng xà nu biểu tượng cho  những thế hệ người dân Xôman. Rừng xà nu có ba lứa cây: cây cổ thụ, cây trưởng thành và cây non. Chúng luôn có sự kế tục và là biểu tượng cho dân làng Xôman. Bom đạn không thể quật ngã những cây cổ thụ cũng như bom đạn không ngăn cản tinh thần Cụ Mết- luôn vững chắc bám trụ trên mảnh đất quê hương, bao nhiêu thử thách là bấy nhiêu gan dạ và trở thành chỗ dựa cho cả dân làng.

Mỗi cây trưởng thành là soi chiếu của lớp thanh niên đang căng tràn nhựa sống, sẵn sàng đứng dậy và đấu tranh như Tnú, Mai, Dít. Đau thương vẫn tiếp tục nuôi dưỡng ý chí bền bỉ quật cường. Đó là sức mạnh không ngưng trưởng thành, ngày một lớn mạnh, được nuôi dưỡng, ấp ủ bởi tinh thần kiên cường để tạo nên sức mạnh toàn dân mang màu sắc sử thi.

Rừng xà nu là hình tượng nghệ thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Hình tượng cây xà nu với bút pháp lãng mạn, gợi và tả đã hiện lên chân thực, vừa khái quát, vừa cụ thể tạo nên màu sắc sử thi rất đậm nét cho thiên truyện.

Bài Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành
Bài Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành

Số 9: Cảm nhận về hình tượng cây xà nu

Nếu súng là phương tiện đấu tranh của người lính thì nhà văn lại dùng chính ngòi bút của mình để làm vũ khí chống lại giặc ngoại xâm. Trưởng thành từ hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhà văn Nguyễn Trung Thành không chỉ có những trải nghiệm phong phú của một người lính mà còn có nguồn chất liệu hiện thực dồi dào về cuộc chiến tranh. Những tác phẩm của ông đều tái hiện được không khí dữ dội của cuộc kháng chiến và vẻ đẹp anh hùng bên trong mỗi con người Việt Nam. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông có thể kể đến là “Rừng xà nu”. Qua tác phẩm “Rừng xà nu” nhà văn đã khắc họa thành công hình ảnh của cây xà nu, qua đó làm nổi bật vẻ đẹp sử thi của những con người anh hùng làng Xô Man.

Nguyễn Trung Thành (1932) là nhà văn có duyên nợ với đất rừng Tây Nguyên cho nên những sáng tác của ông đều mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Tác phẩm “Rừng xà nu” được sáng tác năm 1965 là tác phẩm nổi tiếng nhất trong số những sáng tác của Nguyễn Trung Thành ở những năm kháng chiến chống Mỹ. Hình tượng cây xà nu là hình tượng xuyên suốt tác phẩm đã mang lại một không khí đậm đà hương vị núi rừng Tây Nguyên.

Xà nu là một loài cây họ thông, nhựa và gỗ của chúng đều đem lại giá trị sử dụng cao, chúng có gắn bó mật thiết với con người Tây Nguyên. Bất cứ cuộc chiến tranh nào đi qua cũng để lại muôn vàn sự đau thương và mất mát. Với cây xà nu cũng vậy, chúng phải hứng chịu hầu hết đạn đại bác nhưng vẫn có sức sống mãnh liệt, kiên cường. Hình ảnh rừng xà nu xuất hiện từ ngay những dòng đầu của tác phẩm và được nhắc lại nhiều lần đã tạo ấn tượng ám ảnh trong lòng người đọc.

Rừng xà nu rộng lớn, đông đảo, hùng vĩ, là nạn nhân của bom đạn nên cả rừng không có cây nào là không cây nào bị thương. Rừng xà nu nằm trong sự hủy diệt tàn bạo của chiến tranh khiến cho “có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”, “ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Bởi vậy cây xà nu không chỉ được biết đến là hiện thân của cái đẹp mà chúng còn phải gánh chịu nhiều đau thương giống như những người lính phải từ bỏ sinh mạng trong chiến tranh.

Đau thương là thế, hi sinh là thế nhưng những cây xà nu vẫn rất mạnh mẽ để vươn lên. Chúng khao khát sống đến mãnh liệt, ham ánh sáng mặt trời đến mức “nó phóng rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng”. Nhờ có sức sống kiên cường, bất khuất, bất diệt mà những thế hệ xà nu cũng vì thế mà chúng cứ nối tiếp nhau. “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Hình ảnh của cây xà nu đã giúp ta gợi nhớ đến hình ảnh cây tre Việt Nam “Chẳng may thân gãy cành rơi/ Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng”.

Từ đó, ta thấy được ý chí chiến đấu bền vững, quật cường của nhân dân ta khi lớp này già đi thì đã có lớp trẻ khác thay thế. Bên cạnh những cây xà nu con không chịu được vết thương thì vẫn có những cây vượt lên được hơn cao đầu người khiến cho bom đạn của kẻ thù không thể nào hạ gục được chúng, chúng lớn nhanh thật nhanh để thay thế cho những cây đã ngã. Hình ảnh cây xà nu chính là hình ảnh ẩn dụ cho niềm ham muốn tự do tha thiết của người dân Tây Nguyên vì họ luôn hướng về phía ánh sáng của Đảng, của cách mạng với niềm tin mãnh liệt vào một ngày giải phóng.

Dù phải hi sinh trước bom đạn chiến tranh nhưng cây xà nu vẫn luôn là bức tường thành vững chắc bảo vệ, che chở cho người dân Tây Nguyên. Rừng xà nu còn là ẩn dụ cho những người lính chiến đấu bảo vệ đất nước: “Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng”. Sự hy sinh thầm lặng của rừng cây xà nu đã khiến cho người đọc có những liên tưởng xa xăm. Để có được hòa bình như ngày hôm nay thì đã có rất nhiều vị anh hùng đã phải đánh đổi cả sự sống và nhiều thứ tình cảm thiêng liêng khác để một lòng đánh bại quân thù.

Nhiều cây xà nu mọc cùng nhau trên một ngọn đồi hết lớp này qua lớp khác tạo thành rừng xà nu chính là vẻ đẹp của sự đông đảo và vững chắc khiến cho không gì có thể đánh bại được chúng: “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chân trời”. Rừng xà nu là biểu tượng của Tây Nguyên nói riêng và của toàn dân tộc Việt Nam nói chung vì chúng có những phẩm chất đáng trân trọng giống như con người Việt Nam vậy.

Cây xà nu là hình tượng thẩm mĩ độc đáo, giàu ý nghĩa tượng trưng đã được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng tất cả niềm say mê , tin yêu và trân trọng. Nghệ thuật dùng từ, các biện pháp tu từ như nhân hóa, ẩn dụ, lời văn giàu sức tạo hình và biểu cảm đã khiến cho cây xà nu trở thành một sinh vật sống động gợi cho người đọc nhiều suy tưởng về lịch sử chống giặc oai hùng của dân tộc. Ẩn sâu sau những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh tốt chính là tinh thần đoàn kết, cùng nhau chiến đấu của buôn làng Tây Nguyên.

Hình tượng cây xà nu ở đoạn đầu truyện ngắn “Rừng xà nu” của tác giả Nguyễn Trung Thành đã đem đến cho bạn đọc những cảm nhận thú vị về thiên nhiên và con người Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu mang giá trị thẩm mĩ độc đáo, giàu ý nghĩa tượng trưng đã được tác giả Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng tất niềm tin yêu thiên nhiên và tổ quốc.

Số 10: Vẻ đẹp hình tượng cây xà nu

Nguyễn Trung Thành là bút danh của nhà văn Nguyên Ngọc trong kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Truyện “Rừng xà nu” của ông viết vào năm 1965, là một truyện ngắn xuất sắc. Truyện kể về cuộc “đồng khởi” của dân làng Xô Man ở Tây Nguyên. Cụ Mết, một già làng, một thủ lĩnh quân sự đã lãnh đạo dân làng Xô Man mài giáo, mác, dụ, rựa… quật khởi đứng lên đánh lũ ác ôn, tay sai của đế quốc Mĩ để giải phóng buôn làng và núi rừng thiêng liêng. Họ đã chiến đấu vì sự sống còn, vì chân lí cách mạng ngời chói: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”. Ngoài những nhân vật cho ta nhiều ấn tượng như cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, bé Heng, anh Quyết,… thì hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn được tác giả khắc họa và ngợi ca như một dũng sĩ oai hùng.

Ngày ấy, cách mạng miền Nam đang trải qua những năm dài đen tối, đầy thử thách khó khăn. Lũ giặc kéo tới, lùng sục, phục kích, không đêm nào chó và súng của chúng không sủa vang cả rừng. Buôn làng bị bao vây, dân làng bị kìm kẹp và khủng bố dã man. Đầu rơi máu chảy, tang tóc và đau thương: giặc treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng; chúng giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng!

Cùng chung số phận, chung chịu đau thương với dân làng Xô Man là rừng xà nu nằm trong tầm đại bác của giặc. Chúng bắn ngày, bắn đêm, bắn vào lúc sáng sớm và xế chiều, hoặc lúc đứng bóng và sẩm tối, hoặc lúc nửa đêm và trở gà gáy. Tang tóc bao trùm rừng xà nu. Hàng vạn cây “không cây nào không bị thương”. Đạn giặc chặt đứt ngang thân mình, “cây xà nu đổ ào ào như một trận bão”; nhựa cây đọng lại, tụ lại “bầm lại đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn”. Rừng xà nu chịu bao tổn thất nặng nề như con người. Biết bao cây non trúng đạn giặc, vết thương “cứ loét mãi ra” sau năm, mười hôm thì cây chết!

Gần 20 lần, nhà văn nói đến rừng xà nu, đồi xà nu, cây xà nu, cành xà nu, ngọn và lá xà nu, nhựa xà nu, khói và lửa đuốc xà nu,… Mỗi lần xuất hiện, cây xà nu mang một dáng vẻ kì lạ, tất cả đều mang ý nghĩa tượng cho phách mãnh liệt của dân làng Xô Man, của núi rừng Tây Nguyên kiên cường bất khuất!

Người Strá đã hiên ngang trong lửa đạn, người trước ngã, người sau tiến lên. Rừng xà nu cũng vậy, cạnh một cây bị bắn ngã gục đã có bốn, năm cây mọc lên, sinh sôi nảy nở “ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Nếu như cây kơ-nia có bóng cây tỏa rợp nương rẫy và lòng người biểu trưng cho sự thủy chung tình nghĩa, thì cây xà nu là một loại cây “ham ánh sáng mặt trời”, hương cây nhựa cây “bay ra thơm mỡ màng”.

Ba lần Nguyễn Trung Thành tạo nên những hình ảnh so sánh độc đáo, kì vĩ ca ngợi tầm vóc cây xà nu: lúc thì ngọn cây như một mũi tên lao thẳng lên bầu trời, lúc thì những cây con xà nu mới nhú khỏi mặt đất “nhọn hoắt như những mũi lê”, lúc thì rừng xà nu “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Rõ ràng hình tượng cây xà nu mang tầm vóc và khí phách của một dũng sĩ đích thực trong máu lửa.

Có lúc rừng xà nu được miêu tả dưới cặp mắt của Tnú trong hai thời điểm chiều và sáng, lúc anh về thăm làng và lúc anh lại ra đi. Sau ba năm trời anh đi “lực lượng”, đi tìm những thằng Dục ác ôn để trả thù, anh về thăm quê, thăm lũ làng, gặp lại rừng xà nu như gặp lại người bạn chiến đấu, anh bồi hồi tự hào và say mê ngắm nhìn: “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”.

Và buổi sáng anh lên đường, cùng cụ Mết và Dít còn có rừng xà nu trùng điệp tiễn anh với bao trìu mến và lưu luyến. Anh đã mang theo hình bóng quê hương để ra đi với một sức mạnh mới: “Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”.

Hình tượng rừng xà nu đem đến cho ta nhiều liên tưởng sâu sắc về thế trận chiến tranh nhân dân, về người người lớp lớp, về biểu tượng rừng một về sự hi sinh và đóng góp xương máu của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong kháng chiến. Chính vì thế mà trong lúc gặp lại Tnú, cụ Mết đã hào hùng khẳng định với tất cả niềm kiêu hãnh và thách thức: “Mày có đi qua chỗ rừng xà nu gần con nước lớn không? Nó vẫn sống đấy, không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này!”.

Nét đặc sắc của truyện ngắn “Rừng xà nu” là nghệ thuật tả cảnh, tả người rất độc đáo. Rừng xà nu không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, không chỉ là cảnh tượng chiến trường bi tráng, mà còn là biểu tượng cho chí khí anh hùng của đồng bào Tây Nguyên, của nhân dân miền Nam anh hùng. Cụ Mết chẳng khác nào dũng sĩ trong sử thi “Bài ca chàng Đam Săn“! Là một già làng 60 tuổi, quắc thước, râu dài tới ngực, mắt sáng vết sẹo của chiến tích sáng bóng, cụ Mết ở trần “ngực căng như một cây xà nu lớn”.

Nói đến hình tượng cây xà nu không thể không nói tới ngọn lửa xà nu. Tác giả đã tạo nên ba nét vẽ về ngọn lửa xà nu, gợi ra một không khí huyền thoại thiêng liêng. Dưới ngọn lửa xà nu, Tnú đã đọc thư “tuyệt mệnh” của anh Quyết gửi dân làng Xô Man trước lúc anh hi sinh. Lần thứ hai, hình ảnh ngọn lửa xà nu rực cháy trên mười ngón tay Tnú, đó là ngọn lửa uất hận, căm thù “máu kêu trả máu, đầu van trả đầu” (Tố Hữu).

Lần thứ ba, ánh lửa đuốc xà nu bừng sáng đỏ rực, lấp loáng ánh giáo mác, với tiếng hô: “Chém! Chém hết!” của cụ Mết, đã soi tỏ xác mười tên giặc, trong đó có thằng Dục ác ôn, nằm sóng soài giữa vũng máu trên nhà ưng. Cây xà nu đã chia ngọt sẻ bùi với đồng bào Xô Man trong những năm dài đánh Mĩ và lũ tay sai bán nước!

Nếu như nhà thơ Thu Bồn lấy cánh chim chơ-rao, một nhà thơ khuyết danh đã lấy cây kơ-nia làm biểu tượng cho lòng dân và sức mạnh quật khởi của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ thì nhà văn Nguyễn Trung Thành đã thành công khắc họa vẻ đẹp tráng lệ của rừng xà nu để nói lên khí phách anh hùng của dân làng Xô Man, của chủ nghĩa anh hùng Việt Nam. Hơi hướng Tây Nguyên, màu sắc thần kì, không khí thiêng liêng, phong vị những sinh hoạt truyền thống của núi rừng và con người Tây Nguyên được thể hiện một cách hào hùng qua hình tượng rừng xà nu vậy.

Truyện “Rừng xà nu” là một thành công lớn tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam viết về đề tài chiến tranh. Cảnh vật và con người được chiếu sáng dưới ngọn lửa thiêng liêng thần kì. Nó đã giúp người đọc sống lại một thời kì lịch sử vô cùng đau thương và oanh liệt của dân tộc.

Số 11: Hình tượng cây xà nu trong Rừng xà nu

Mỗi một nhà văn thường khẳng định vị trí của mình trên diễn đàn văn chương bằng một mảnh đất nghệ thuật. Khi bắt gặp mảnh đất nghệ thuật này, ngòi bút của người nghệ sĩ sẽ thực sự thăng hoa. Nếu như Tây Bắc được xem là một “miền đất hứa” với biết bao văn sĩ như Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, Nguyễn Khải… thì Nam Bộ lại là mảnh đất nghệ thuật của Nguyễn Thi, Đoàn Giỏi.

Nhưng sẽ thật là thiếu sót nếu ta không nhắc tới Nguyên Ngọc, nhà văn cả đời “trung thành” với mảnh đất đỏ bazan, với tiếng cồng chiêng âm vang, hạt bụi vàng lóng lánh. Ông bén duyên với mảnh đất này từ năm 1954 với tác phẩm “Đất nước đứng lên”. “Đất nước đứng lên” kể về cuộc nổi dậy của buôn làng Kông Hoa trong những năm kháng chiến chống Pháp. Qua tác phẩm này, Nguyên Ngọc hứa hẹn là một cây bút xuất sắc viết về đề tài Tây Nguyên. Ông tỏ ra am hiểu mảnh đất này từ thiên nhiên cho tới những phong tục tập quán. Mười năm sau, ông lại có dịp trở lại mảnh đất này và viết nên truyện ngắn nổi tiếng “Rừng xà nu”.

Ở một phương diện nào đó, ta có thế thấy “Rừng xà nu” là sự thu nhỏ, cô đặc, chưng cất của tiểu thuyết “Đất nước đứng lên”. Điều gì giúp cho nhà văn thể hiện được cả trăm trang tiểu thuyết chỉ trong vài mươi trang truyện ngắn. Đó là việc Nguyễn Trung Thành đã xây dựng được hình tượng cây xà nu − một loài cây chỉ có ở Tây Nguyên, một loại cây ham ánh sáng đến lạ kỳ.

Có những người suốt đời lặn lội với văn chương mà chẳng để lại cho đời một áng văn hay, một bài thơ đẹp. Phải chăng họ đã không thể xây dựng một hình tượng nghệ thuật vô cùng sống động. Việc xây dựng nghệ thuật mang ý nghĩa sống còn với một người cầm bút chân chính vì họ thường chỉ sống và nói bằng hình tượng.

Một sự vật, hiện tượng ở ngoài đời muốn bước vào thơ văn thì phải chân thực như ngoài đời bởi có ý kiến cho rằng: “Nhân vật trong văn học đôi khi thật hơn cả con người thật, nhân vật trong văn học mang đôi cánh của văn học bước ra ngoài đời thật lại là con người thật”. Nhưng chân thực thôi thì chưa đủ, nhà văn phải nâng nó lên một tầm cao mới để mang tính ám chỉ, tính tượng trưng. Đây mới là cái đích của văn chương nghệ thuật. Ta có thể kể tới hình tượng con tàu tượng trưng cho khát khao lên đường của biết bao thế hệ nhà thơ

“Lũ chúng con đầu thai nhầm thế kỷ

Cả một đời u uất bơ vơ”

Trong bài “tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên. Hay như hình tượng “sóng” trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh tượng trưng cho khát vọng tình yêu, hạnh phúc của người phụ nữ. Trong tác phẩm “Rừng xà nu, việc nhà văn xây dựng hình tượng cây xà nu cũng không nằm ngoài quy luật đó.

“Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành là một tác phẩm xuất sắc. Yếu tố làm nên sự xuất sắc của tác phẩm này không gì khác là nhà văn đã xây dựng được hình tượng cây xà nu vô cùng chân thực, sống động. Truyện xoay quanh buôn làng Xô Man ở Tây nguyên. Ở đó có loài cây họ thông, gần giống cây Pơ mu, xa mu của miền Bắc, đó là cây xà nu. Xà nu là cây ham ánh sáng mặt trời, sinh sôi nảy nở rất nhanh. Bằng sự nhạy cảm về nghệ thuật, Nguyễn Trung Thành đã nắm bắt được đặc tính này và đem gắn kết với Tây Nguyên trong bom đạn chiến tranh.

Đọc “Rừng xà nu”, ta có cảm giác đang đi giữa cánh rừng xà nu bạt ngàn với hương thơm ngào ngạt như đọng nắng quê hương. Ta đang đi trên con suối ẩn hiện dưới bóng xà nu. Ta thấy đâu đây những mái nhà nép mình dưới tán cây xà nu. Xà nu là loài cây gắn bó máu thịt với người dân Tây Nguyên. Con người ta sinh ra, lớn lên, dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ cái, việc nhà việc cửa cho tới lúc nhắm mắt xuôi tay đều gắn kết với loại cây này.

Vị trí của xà nu trong cuộc sống người dân Tây nguyên phần nào giống với cây tre của đồng bằng Bắc bộ, cây dừa của đồng bằng sông Cửu Long. Mỗi một đất nước, một xứ sở cũng đều có một loại cây đặc trưng. Sang nước Nga, Ba Lan ta lại bị ám ảnh bởi loài cây Bạch Dương:

“Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan

Đường bạch dương sương trắng nắng tràn

Anh đi nghe tiếng người xưa vọng

Một giọng thơ ngâm, một giọng đàn”

Đến với Nhật Bản,ta lại choáng ngợp với cây hoa anh đào tươi thắm. Còn một khi về tới Việt Nam − đất nước thiên nhiên nơi đâu cũng hóa hồn người.

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”

Nếu bạn có dịp ra đồng bằng Bắc bộ, bạn sẽ bắt gặp hình ảnh “lũy tre làng” ở khắp mọi nơi. Cây tre gắn bó khăng khít trong cuộc sống nhân dân, từ chiếc đũa tre bình dị cho đến những cây gậy tầm vông, cây chông đánh giặc. Chả thế mà Thép Mới đã từng viết “tre ăn ở đời đời kiếp kiếp với người”…Còn khi vào thăm Nam bộ − “thành đồng Tổ Quốc” chúng ta lại có ấn tượng đầu tiên về rặng dừa nơi đây

“Đất quê hương nát bầm vết đạn.

Đã nuôi dừa năm tháng xanh tươi.

Ôi phải chăng dừa nuốt bao cay đắng!

Để trổ ra những trái ngọt cho đời”

Còn một khi bạn đến với Tây Nguyên − mảnh đất đỏ bazan, với tiếng cồng chiêng âm vang, hạt bụi vàng lóng lánh thì hãy nhớ tới “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành − một rừng xà nu đã ưỡn tấm ngực lớn của mình để che chở cho buôn làng Xô Man. Để hình tượng cây xà nu trở nên thuyết phục hơn, Nguyên Ngọc đã khéo léo để cho mỗi bước đi của các nhân vật đều thấp thoáng bóng cây xà nu.

Trong tác phẩm này, đã hơn hai mươi lần cây xà nu hiện ra với nhiều diện mạo khác nhau: bốn lần “rừng xà nu”, năm lần “đồi xà nu”, cùng với nó là ngọn xà nu, cây xà nu, dầu xà nu, nhựa xà nu…. Mỗi lần hình ảnh cây xà nu xuất hiện là một lần tính cách của người dân Tây nguyên được bộc lộ. Nắm bắt được các đặc tính của xà nu phần nào đó ta cũng hiểu được tinh thần yêu nước bất khuất của ông cha ta, từ đó ta tự giáo huấn lòng mình. Rất có lý khi có ý kiến cho rằng: “Mỗi tác phẩm văn học chân chính là một lời đề nghị về cách sống”. “Mỗi một tác phẩm văn học chân chính đều có khả năng nhân đạo hóa con người”. “Rừng xà nu” là một tác phẩm như vậy.

Văn học xuất phát từ cuộc đời mà đích đến của văn chương là cuộc sống. Chẳng thế mà Nguyễn Minh Châu đã từng nói: “Văn chương và cuộc đời là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm của nó là con người”. Hay như M.Gorki cũng nói “văn học là nhân học”. Văn học từ xưa cho tới mãi về sau cũng chỉ viết về con người mà thôi. Để phản ánh sức sống bất diệt, bền bỉ của con người Việt Nam trong chiến tranh, mỗi một người nghệ sĩ lại tự đi tìm một hình tượng khác nhau.

Nếu nhà thơ Phạm Tiến Duật có “Vầng trăng và quầng lửa” thì Nguyễn Minh Châu lại có “mảnh trăng thượng tuần”. Và Nguyễn Trung Thành đã chọn hình ảnh cây xà nu. Cây xà nu trong tác phẩm này biểu trưng cho tập thể Tây Nguyên anh hùng, bất khuất. Và ở tác phẩm này, nhà văn đã mô tả cây xà nu qua nhiều phương diện.

Ban đầu, nhà văn tập trung mô tả những hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà xà nu phải gánh chịu. Điều này chính là dụng ý nghệ thuật của tác giả. Đặt xà nu dưới làn mưa bom bão đạn của kẻ thù chính là làm nổi bật lên sức sống mãnh liệt, bất diệt của xà nu. Đầu tiên, hiện lên trong mắt ta là cảnh rừng xà nu dưới tầm đại bác của giặc. “Làng nằm trong tầm đại bác của đồn giặc.

Chúng bắn đã thành lệ, ngày hai lần: hoặc sáng sớm, hoặc chiều tối… Cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Có những cây nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh gay gắt dưới ánh nắng hè, đen đặc rồi bầm quyện lại thành từng cục máu lớn”. Ở đoạn văn này, Nguyễn Trung Thành chủ yếu sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa. Nhà văn đã mô tả những thiệt hại mà rừng xà nu phải gánh chịu trong mưa bom bão đạn của quân thù.

Đây cũng chính là những hi sinh, mất mát mà đồng bào Tây Nguyên nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng phải gánh chịu trong những năm chiến tranh khốc liệt. Viết về chiến tranh, Nguyên Ngọc đã không hề né tránh viết về cái chết. Đó là anh Xút bị chúng treo cổ lên cây vả đầu làng. Đó là bà Nhan bị chúng chặt đầu treo ở mũi súng. Đó là vợ con Tnú bị chúng dùng gậy sắt tra tấn đến chết. Tất cả là minh chứng cho tội ác chiến tranh của quân xâm lược, lũ bán nước.

Nếu thiếu đi hiện thực khốc liệt này thì “Rừng xà nu” chỉ còn là một sự tích đẹp về chiến tranh theo lời nói nhà văn Đỗ Kim Hồi. Mặc dù đứng trong làn mưa bom bão đạn là vậy nhưng rừng xà nu vẫn xanh tốt, như thách thức bom đạn kẻ thù: “đạn đại bác không giết nổi chúng”. “Bên cạnh những cây mới ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn như mũi tên vươn thẳng lên bầu trời tiếp lấy ánh sáng”. Đây chính là dụng ý nghệ thuật của nhà văn làm nổi bật lên sức sống mãnh liệt của xà nu. Nếu có ngã gục thì đó chính là điều kiện sống, tiền đề để thế hệ xà nu tiếp theo mọc lên. Người Tây Nguyên cũng vậy.

Trong chiến tranh, họ hi sinh rất nhiều, họ phải sống rất khổ cực, khó khăn nhưng trong lòng những người dân nơi đây chỉ có hai chữ “trung thành” với cách mạng mà thôi. Cụ Mết cũng đã khẳng định chắc chắn: “Đảng còn thì núi nước này còn”. Càng gần bom đạn thì xà nu lại càng coi thường bom đạn. Bom đạn hiện ra như một hoàn cảnh thách thức bản lĩnh cứng cỏi, anh hùng của người Việt Nam trong chiến tranh. Đó là những con người

“Đẹp như hoa hồng, cứng như sắt thép

Xa nhau không hề rơi nước mắt

Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt”

Bom đạn có thể phá hủy mọi cơ sở vật chất dù có kiên cố đến đâu nhưng vẫn không bẻ gãy được sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam. Những con người vẫn sống, vẫn chiến đấu, vẫn yêu nhau, vẫn đợi chờ và tin tưởng một ngày toàn thắng. Điều này đã thể hiện rõ ở mỗi Tình của Mai và Tnú − những con người đã góp phần viết nên huyền thoại Việt Nam ở thế kỷ hai mươi. Không phải ngẫu nhiên khi nhà văn Nga Ni-cu-lin đã thốt lên rằng: “Người Việt Nam trong chiến tranh họ đẹp hơn ra thì phải?”.

Chúng ta may mắn được sinh ra trong thời bình nên không thể chứng kiến được thời kỳ “tiếng hát át tiếng bom”. Nhưng có ý kiến cho rằng: “Những gì chưa đọng lại trong đời thì đọng lại trong văn chương”. Hãy trở về với thơ ca thời kỳ lửa cháy để bắt gặp một rừng xà nu xanh tốt, bạt ngàn chạy tít tới tận chân trời. ta còn bắt gặp “Tiếng bom ở Seng Phan” của Phạm Tiến Duật

“Tôi đứng giữa Seng Phan

Cao hơn tiếng bom là tiếng suối tiếng đàn

Tiếng mìn công binh đánh đá

Tiếng điếu cày rít lên thong thả

Tiếng oai nghiêm xe rú máy trên đường

Thế đấy!

Giữa chiến trường

Tiếng bom nghe rất nhỏ”

Đứng giữa cánh rừng xà nu mãnh liệt sức sống như vậy thì bom đạn của kẻ thù cũng nhỏ như thế mà thôi.

Để khẳng định sức sống bất diệt của xà nu cũng như đồng bào Tây Nguyên trong chiến tranh, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã khéo léo xây dựng hình ảnh cây xà nu thông qua kết cấu của truyện. Ai đã từng đọc truyện ngắn “Rừng Xà nu” đều nhận thấy có hai câu văn tưởng chừng như trùng lặp nhau. Đó là câu văn phần đầu tác phẩm:

“Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp nhau tới chân trời”

Mặc dù hàng ngày, cánh rừng xà nu ấy phải gánh chịu hai trận pháo kích của quân thù nhưng vẫn xanh tốt đến lạ kỳ. Để đến cuối tác phẩm, nhà văn tự hào viết:

“Ba người đứng đó nhìn ra xa, đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp tới tận chân trời”.

Mới đọc qua, chúng ta có cảm giác đây là hai câu văn giống nhau nhưng nếu để ý ta sẽ thấy sự thay đổi về số lượng, cũng như chất lượng của những cây xà nu. Đây là một dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Thành Trung. Muốn hiểu được sức sống bền bỉ, dẻo dai của xà nu cũng như tinh thần yêu nước của đồng bào Tây Nguyên qua kết cấu này thì ta phải đặt chúng dưới hai góc độ không gian và thời gian.

Nếu để đồi xà nu thành rừng xà nu chạy tít tới tận chân trời thì cần có một khoảng cách về thời gian. Thời gian ấy được đo bằng 21 năm của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian khổ. Hai mươi mốt năm đó là hai mươi mốt thế hệ xà nu nhã gục, nhưng cùng với đó là hai mươi mốt thế hệ xà nu vươn lên đón lấy ánh sáng mặt trời. Nhìn rộng ra, đó là hai mươi mốt thế hệ đồng bào Tây Nguyên ra trận.

Đó là cuộc chạy tiếp sức của hai mươi mốt thế hệ mang trong mình ngọn lửa sức sống Việt Nam. Cũng như cây xà nu ấy, người Tây Nguyên cũng truyền ngọn lửa sức sống từ đời này sang đời khác, từ lồng ngực của người già sang người trẻ.

“Lớp cha trước, lớp con sau

Cũng thành đồng chí chung câu quân hành”

Lớp lớp người Tây Nguyên ra trận ào ào như gió thổi mà ở tác phẩm này ta thấy ngọn lửa truyền từ tay anh Quyết − một Đảng viên tới tay Tnú và Mai. Rồi cuộc đời Tnú lại là tấm gương sáng cho thế hệ sau như Dít, Heng noi theo. Đó là những con người viết lên bản hùng ca của Tây Nguyên bất khuất.

“Tôi muốn viết bài thơ trên báng súng

Con lớn lên để viết tiếp thay cha

Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống

Người hôm nay viết tiếp người hôm qua”

Nếu nhìn từ góc độ không gian, ta nhận thấy nhà văn Nguyễn Trung Thành đã chọn buôn làng Xô Man để dùng bút lực của mình viết về tập thể Tây Nguyên anh hùng. Tương ứng với làng Xô Man là những đồi xà nu cạnh con nước lớn. Tuy nhiên, càng đi sâu vào cuộc chiến tranh thì tinh thần yêu nước của đồng bào Tây nguyên không chỉ bó hẹp trong phạm vi làng Xô Man nữa mà mà như sức vươn xa của cây xà nu lan rộng khắp Tây Nguyên.. Nó lan rộng ra cả miền Nam “thành đồng Tổ Quốc”. Truyện ngắn ra đời năm 1965, cũng là năm bàn tay độc ác, đen tối của đế quốc Mĩ vươn ra miền Bắc.

Chúng định dùng những “bóng ma”, “pháo đài bay” nhằm đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá. Với kết cấu truyện như vậy, nhà căn đã khẳng định tinh thần “đồng khởi” của dân tộc Việt Nam với mục đích dập tắt cuộc chiến tranh phi nghĩa, tàn bào của đế quốc Mỹ và tay sai. Do vậy, “Rừng xà nu” đã phản ánh một cách trung thực tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên khi có một ý kiến cho rằng: “Rừng xà nu” là sự thu nhỏ, cô đặc của tiểu thuyết “Đất nước đứng lên”.

Tuy nhiên, để hiểu sâu kết cấu này, ta nhận thấy “đồi xà nu” ở câu văn thứ nhất so với “rừng xà nu” của câu văn thứ hai thiếu đi sự liên kết. Nhà văn đã mượn hình ảnh này để phản ánh tinh thần đấu tranh từ tự phát cá nhân sang tự giác cách mạng. Khoảng thời gian và không gian ấy chính là đồng bào Tây Nguyên đã giác ngộ nghị quyết mười lăm của Đảng”.

Đứng trong chiến tranh khốc liệt nhưng xà nu vẫn bảo toàn, phát triển. Đó là nhờ vào tính liên kết, tinh thần đoàn kết của các thế hệ xà nu, các lớp người Tây Nguyên. Trong cánh rừng xà nu “nối tiếp nhau tới chân trời” ấy, Nguyễn Trung Thành đã nhận ra có ba lứa cây xà nu bện chặt vào nhau để vượt qua bom đạn. Tương ứng với ba lứa cây đó là ba thế hệ người Tây Nguyên.

Nhà văn đã tập trung nhiều bút lực của mình để mô tả lứa cây trưởng thành. Mặc dù mang trên mình đầy thương tích nhưng với sức vóc lớn mạnh đã làm mờ đi vết thương. Những cây xà nu ấy không khác gì những con chim đã đủ lông mao lông vũ, ưỡn tấm ngực lớn của mình che chở cho buôn làng Xô Man. Tương ứng với lứa cây trưởng thành đó chính là thế hệ thanh niên như Tnú và Mai. Bên cạnh lứa xà nu trưởng thành là những cây xà nu đại thụ là chỗ dựa tinh thần của cả cánh rừng xà nu. Những cây xà nu ấy tương ứng với cụ Mết − vị già bản của buôn làng Xô Man.

Thông qua lời nói “Chúng nó cầm súng thì mình phải cầm giáo mác” của cụ Mết, Nguyễn Trung Thành đã truyền tải ánh sáng nghị quyết mười lăm của Đảng. Bên cạnh hai lứa xà nu trên còn có những cây xà nu non, vừa nhú khỏi mặt đất đã nhọn hoắt, kiên cường lao lên bầu trời, tiếp nhận ánh sáng. Đó chính là những thế hệ thiếu niên Xô Man như bé Heng, bé Dít. Không phải ngẫu nhiên khi nhà văn viết “Ba người đứng đó….”

Tình thần đoàn kết toàn dân luôn là thứ vũ khí mạnh nhất chúng ta có được trong bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước. Truyện ngắn “Rừng xà nu” đã khẳng định lại chân lý ấy, đồng thời ngợi ca sức sống bất diệt của con người Việt Nam trong chiến tranh. Như vậy, “Rừng xà nu” xứng đáng là linh hồn của tập “trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Và Nguyễn Trung Thành xứng đáng là người chiến sĩ trên mặt trận văn chương cách mạng.

Số 12: Phân tích vẻ đẹp hình tượng cây xà nu

Tây Nguyên, vùng núi rừng hùng vĩ, đầy bí ẩn mà thơ mộng với cánh chim Ling, chim Chơ rao rực rỡ sắc màu, với âm thanh trầm hùng ngân vang cưa đờn Gông, đàn Tơ Rưng đã đi vào “Đất nước đứng lên” của Nguyên Ngọc để làm nên cái không khí sử thi của tiểu thuyết thời chống Pháp. Đến thời chống Mỹ, mảnh đất cực Tây của Tổ quốc này lại một lần nữa khơi nguồn cảm hứng lãng mạn cho Nguyễn Trung Thành viết nên truyện ngắn “Rừng Xà nu” – một truyện ngắn xuất sắc của nền văn học hiện đại về đề tài chiến tranh Cách mạng, ra đời 1965.

Chỉ vài chục trang giấy mà tác giả đã làm sống lại cả một vùng đất khét nồng lửa cháy, với những con người của làng Xô Man dũng cảm hy sinh để thực hiện khát vọng tự do độc lập. Rừng Xà nu, nơi cư trú của làng Xô Man, đã trở thành nguồn cảm hứng đầy chất thơ và cũng là điểm tựa đề từ đó nhà văn khắc họa nên gương mặt những người anh hùng. Cây Xà nu đã tỏa bóng vào những trang văn, thành một hình tượng nghệ thuật hoàn chỉnh và làm nên một giọng điệu cho tác phẩm.

Cũng như cây tre Việt Nam, Xà nu, ăn đời ở kiếp, thủy chung son sắc với con người. Xà nu cũng lam làm, cũng hội hè đình đám và cùng chia sẻ nỗi buồn vui với con người. Không ở đâu có mặt con người mà vắng bóng Xà nu. Mỗi cây Xà nu trong rừng lớn cùng gắn bó với kỷ niệm riêng tư của mỗi người dân Xô Man. Cây cứ lặng lẽ đứng đấy như đón đợi người. Ai từ đây đi, bước đầu tiên là gặp cây rừng và ai đó từ xa về, trước hết phải gặp mặt rừng cây. Cây Xà nu lớn, lối vào “rừng lách” đã từng là chứng nhân cho mối tình của Tnú và Mai. “Chính ở đây, anh đã gặp Mai lần đầu”, và chính ở đây “lần đầu tiên sau khi ở tù về. Tnú gặp lại Mai. Mai cầm tay anh khóc “không phải như một đứa trẻ nữa mà như một người con gái đã lớn, vừa xấu hổ vừa thương yêu”.

Mới hôm nào còn ngây thơ mà giờ đây đã làm cho người ta bối rối. Giờ đây, Mai bị giặc giết, cái cây cũng bị đạn cắt ngã với những kỷ niệm. Xà nu đã đi vào mối tình của đôi lứa với cái màu xanh mơ mộng của nó để cho mối tình thêm vẻ mộng mơ. Khi hạnh phúc bị chà đạp, nó cũng ngã xuống với những kỷ niệm, chỉ để lại cho đời cái gốc cắm vào mọi nỗi thương đau. Cây Xà nu, như vậy đâu còn là loài cây vô cảm nữa mà đã mang bóng dáng của linh hồn của con người.

Ai bảo Xà nu mang hình bóng người để rồi phải chịu chung số phận với con người. Khi Xô Man bước vào cuộc chiến đấu thì Xà nu cũng phải đương đầu với lửa đạn. “Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi Xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng Xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương…” Có những cây bị đạn giặc chặt ngang thân, đổ ào ào như bão, ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại quyện thành từng cục máu lớn”.

Nếu như nỗi đau của cây làm đau đến cả lòng người thì sức mạnh của người cũng truyền được cho cây để cây có thể trụ vững trên mảnh đất này.

Tuy chịu nhiều thương đau nhưng Xà nu đã trở thành chỗ dựa của con người. Rừng Xà nu trùng điệp đã hóa thành chiến lũy kiêu hãnh “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng”. Nằm giữa cánh rừng ấy, làng Xô Man có khác nào cái nôi dũng sĩ, cái nôi đại bàng giữa núi cao trời rộng tây nguyên.

Cũng như con người, cây này ngã xuống, cây khác lại tiếp nối đứng lên, quật khởi vượt qua thương đau. “Cạnh một cây Xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng thẳng tắp, lóng lánh về vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng…” Xà nu hướng về phía nắng trời hay là khát vọng của người dân Xô Man hướng về cuộc sống tươi đẹp tràn đầy ánh sáng, chứ không chịu khuất mình trong bóng tối đây? Cứ thế, cây lặng lẽ vút lên trời.

Cái màu xanh tươi đẹp như tiếng nói yên lặng mà thiết tha và đầy kiêu hãnh, thể hiện một sức sống mãnh liệt bất khuất mà không một bạo lực nào có thể đè bẹp: “Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã ngã”. Nhìn cây Xà nu sinh sôi vượt lên sự đau thương chết chóc, người Xô Man không khỏi tự hào về vùng đất quê hương – một vùng đất mà đất hết lòng với cây, còn cây cũng trọn tình với đất với người: “Không có cây gì mạnh bằng cây Xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng Xà nu này!”.

Hình tượng Xà nu có khi hiện ra cả rừng, có khi là đồi, có khi là cây và nhựa rồi lửa Xà nu. Bọn Mỹ ngụy có lần đã tẩm nhựa Xà nu vào giẻ, quấn đốt mười đầu ngón tay Tnú “Không có gì đượm bằng nhựa Xà nu, lửa bắt rất nhanh. Mười đầu ngón tay đã trở thành mười ngọn đuốc. Kẻ thù đã dùng ngọn lửa Xà nu để đốt lòng đốt dạ những con người gắn bó thân thiết với ngọn lửa ấy.

Song ngọn lửa như có tình, nó đã truyền sức mạnh của hơi nóng vào bên trong để đốt cháy lòng Tnú: “Trời ơi! Cha mẹ ơi! anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Tnú thét lên một tiếng. Cái tiếng thét mang lửa ấy đã đốt cháy lòng người Xô Man để rồi hóa thành nhiều tiếng thét, tiếng “giết” và tiếng chân đạp ào ào lên đầu giặc.

Lửa tắt trên mười đầu ngón tay Tnú nhưng đám lửa Xà nu giữa nhà vẫn cháy, soi rõ xác giặc ngổn ngang.

Thế đó! Những kẻ cả gan dùng lửa Xà nu để gieo vạ lại bị thiêu đốt bởi chính lửa Xà nu. Đúng là:

“Cả gan cầm đuốc đốt trời

Trời cao không cháy lửa rơi cháy mình”

Lửa Xà nu đã cháy to lên rồi. Từ một ngón tay lan ra hai, ba rồi mười đầu ngón tay. Từ mười đầu ngón tay cháy vào trong bụng và cháy trên mặt người bập bùng lửa cháy đã đốt lên một rừng lửa để thiêu sống quân thù: “Đứng trên đồi Xà nu gần con nước lớn, suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng”.

Cây Xà nu là một hình tượng thực, nhưng cũng chính là hình ảnh gợi lên sự liên tưởng so sánh hai chiều. Nói đến Xà nu là ta nghĩ đến con người và nói đến con người là liên tưởng đến Xà nu: “Lưng Tnú thêm một vết dao nữa. Trên tấm lưng chưa rộng bằng bề ngang cái xà lét mẹ để lại đó, ứa một giọt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quện lại, tím thâm như nhựa Xà nu”. Nếu Tnú là một “cây Xà nu” nhỏ trong rừng người thì Cụ Mết một già làng, có “thân hình vạm vỡ ấy trông kỳ ảo như một anh hùng trong bài hát dài suốt đêm…” lại mang hơi thở của một cây Xà nu lớn: “Ông ở trần, ngực căng như một cây Xà nu lớn”.

Hình tượng Xà nu là hình thực, đồng thời cũng là biểu trưng cho sức sống bất diệt của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc đấu tranh Cách mạng. Dù kẻ thù hung bạo đến mấy chăng nữa cũng không thể giết hết được cây rừng và càng không thể diệt được những con người trong rừng cây ấy.

Bài Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành
Bài Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành

Số 13: Phân tích hình tượng cây xà nu

Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên. Qua hai cuộc kháng chiến cùng vào sinh ra tử với những người dân nơi đây đã cung cấp cho Nguyễn Trung Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về mảnh đất âm vang rộn tiếng cồng chiêng trong mùa lễ hội, nơi có những người con trung dũng, kiên cường. Nếu trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Trung Thành – bút danh Nguyên Ngọc nổi tiếng cùng “Đất nước đứng lên”; thì trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là những năm 1965 khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam đang diễn ra gay go ác liệt thì Nguyễn Trung Thành cho ra mắt người đọc truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm này đã là một bản hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con người Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật hơn cả trong tác phẩm chính là hình tượng cây xà nu.

Tác phẩm Rừng xà nu có hai cốt truyện đan cài vào nhau. Đó là chuyện kể về Tnú – người anh hùng dân tộc và cuộc chiến đấu không khuất phục của dân làng Xôman trước sự tàn bạo của đế quốc Mĩ. Nổi bật trong truyện ngắn là hình ảnh cây xà nu được nhắc đến như một điệp khúc và khai thác ở nhiều góc độ.

Cây xà nu là một hình tượng nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Xuyên suốt trong tác phẩm ta bắt gặp những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Cây xà nu là một loài cây quen thuộc, có mặt trong cuộc sống hàng ngày của người dân Tây Nguyên. H ình tượng rừng xà nu đem đến cho ta nhiều liên tưởng sâu sắc về thế trận chiến tranh nhân dân, về người người lớp lớp, về biểu tượng “một rừng cây, một rừng người”, về sự hi sinh và đóng góp xương máu cùa đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong kháng chiến.

Chính vì thế mà trong lúc gặp lại Tnú, cụ Mết đã hào hùng khẳng định với tất cả niềm kiêu hãnh và thách thức: “Mày có đi qua chỗ rưng xà nu gần con nước lớn không?” Nó vẫn sống đấy, không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này!”. Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, cũng như bao cánh rừng khác của Việt Nam, rừng xà nu đã bị tàn phá rất dữ dội, có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão.

Tuy vậy, bất chấp mọi sự tàn phá huỷ diệt của chiến tranh, cây xà nu vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt. Tư thế vươn lên mạnh mẽ ấy của cây xà nu như để thách thức với bom đạn của chiến tranh “đố chúng nó giết được cây xà nu đất ta”. Sức sống mãnh liệt đã giúp những cánh rừng xà nu vươn lên trong một màu xanh, hiện lên hiên ngang, kiêu dũng như một tráng sĩ “cứ thế hai ba năm sau, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng Xô man”.

Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, Nguyễn Trung Thành đã dựng lên thật thành công và rõ nét, ấn tượng về hình tượng cây xà nu. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trung Thành còn đặt hình tượng cây xà nu vào trong quan hệ đối chiếu sóng đôi với con người mảnh đất Tây Nguyên. Nếu cây xà nu là một loại cây ham ánh sáng và khí trời, thì người dân Tây Nguyên yêu tự do, tin vào Đảng, đi theo bước chân cách mạng như muôn cây vẫn hướng vào ánh sáng mặt trời. Nếu cây xà nu bị tàn phá, huỷ diệt bởi đạn bom, khói lửa thì những người dân Tây Nguyên phải chịu bao đau thương mất mát do chính kẻ thù gây ra.

Bao nhiêu người bị giặc giết chết như những cây xà nu bị chặt đứt ngang nửa thân mình, bao nhiêu người còn sống mà phải mang trong mình bao nỗi thương đau. Bằng cách miêu tả hình ảnh cây và người trong quan hệ sóng đôi như thế, Nguyễn Trung Thành đã khắc sâu tội ác dã man của kẻ thù để qua đó tác giả giúp ta hình dung rõ hơn những thảm cảnh dân ta phải chịu do bọn giặc gây ra. Cũng giống như những cánh rừng quê hương, như những con người Việt Nam vẫn ý thức được rằng:

“Gươm nào chia được dòng Bến Hải

Lửa nào thiêu được dãy Trường Sơn

Căm hờn lại giục căm hờn

Máu kêu trả máu đầu van trả đầu”

Các thế hệ nhân dân Tây Nguyên đã thay nhau tiếp nối đứng lên. Đó là tất cả vẻ đẹp hình tượng cây xà nu. Để đạt được thành công trong tác phẩm này, tác giả đã kết hợp rất nhiều nghệ thuật. Nghệ thuật miêu tả kết hợp với so sánh, đối chiếu cùng với giọng văn vô cùng biểu cảm với những cụm từ được lặp đi lặp lại gây cảm tưởng đoạn văn giống như một đoạn thơ trữ tình.

Nguyễn Trung Thành đã miêu tả một cách xuất sắc và thành công về hình tượng cây xà nu. Cây xà nu đã trở thành linh hồn của tác phẩm, là hiện thân cho tinh thần chiến đấu bất khuất của người dân Tây Nguyên. Nhà văn đã thổi hồn cho loài cây ấy trường tồn mãi mãi, không bao giờ khuất phục trước mưa bom bão đạn, khiến kẻ thù phải nghiêng mình kính nể. Chắc chắn dù mười năm hay ngàn năm sau đi nữa loài cây mang tên xà nu ấy còn tồn tại mãi mãi trong trái tim độc giả.

Số 14: Cảm nhận hình tượng cây xà nu

Ngay từ tác phẩm đầu tay “Đất nước đứng lên”, Nguyên Ngọc đã cho thấy ông luôn có khuynh hướng vươn đến những vấn đề có ý nghĩa lớn lao với cộng đồng, dân tộc. Ở truyện “Rừng xà nu” cũng vậy. Tác giả đã nghiền ngẫm, lý giải, cắt nghĩa bằng hình tượng nghệ thuật về con đường mà dân tộc ta phải đi trong hoàn cảnh giặc đã cầm vũ khí uy hiếp, hủy hoại gia đình, quê hương.

Đặc biệt, hình tượng rừng xà nu trong truyện được xây dựng vô cùng đặc sắc, trở thành một trong những biểu tượng tiêu biểu nhất trong cả tác phẩm nói riêng và các tác phẩm viết về Tây Nguyên thời chống Mỹ nói chung. “Rừng xà nu” là truyện ngắn ra đời vào mùa hè năm 1965 khi đế quốc Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ. Tác phẩm được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Bối cảnh của thiên truyện là mảnh đất Tây Nguyên với những con người anh hùng, kiên trung, bất khuất.

Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn lại chọn cây xà nu, rừng xà nu làm hình tượng xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm. Trước hết, vì đây là loài cây phổ biến ở vùng đất Tây Nguyên, là biểu tượng của thiên nhiên Tây Nguyên hùng vĩ. Nguyễn Trung Thành đã từng nói về loài cây này bằng những lời đắm say, ngưỡng mộ: “Tôi yêu say mê cây xà nu, ấy là một cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch.

Mỗi cây cao vút, vạm vỡ ứa nhựa,…”. Bằng việc mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu, tác giả đã gợi lên một bức tranh thiên nhiên hoang dại, nguyên sơ, giàu sức sống. Mặc khác, trong tác phẩm, nhà văn còn gần hai mươi lần nói đến “rừng xà nu”, “cây xà nu”, “nhựa xà nu”, “lửa xà nu”, “đuốc xà nu”… điều này cho thấy hình tượng cây xà nu chính là mạch nguồn xuyên suốt cả tác phẩm.

Cánh rừng xà nu trong đoạn văn được miêu tả là một cánh rừng “trong tầm đại bác”, ngày nào cũng bị bắn hai lần. Như vậy, ngay trong câu đầu tiên của tác phẩm, Nguyên Ngọc đã dựng nên một sự sống trong tư thế đối mặt với cái chết, một sự sinh tồn đang đứng trước mối đe dọa của sự diệt vong.

Cây xà nu, rừng xà nu trong tác phẩm vì thế còn là biểu tượng cho đau thương chứ không chỉ là hiện thân của vẻ đẹp. Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù cũng tượng trưng cho những mất mát, đau thương mà dân làng Xô man và đồng bào Tây Nguyên phải chịu đựng trong chiến tranh.

Tuy nhiên, cảm hứng chủ yếu của những trang viết về cánh rừng xà nu ấy vẫn không phải là cảm hứng thương đau. Tác giả muốn cái cuối cùng còn lại trong tâm trí người đọc về rừng xà nu là ấn tượng về một rừng cây mà dù đại bác có không ngừng bắn phá vẫn kiên cường sống và hướng về ánh sáng. Cây xà nu trong truyện ngắn có vẻ đẹp và sức sống vô cùng mãnh liệt.

Sức sống mãnh liệt của lớp lớp cây xà nu cũng chính là sức sống dẻo dai, kiên cường của biết bao thế hệ dân làng Xô Man thời chiến. Họ có thể hi sinh như anh Xút, bà Nhan, như Mai, có thể chịu nhiều tổn thương như Tnú nhưng cuối cùng, họ vẫn nối nhau đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù, hướng về mục tiêu bảo về buôn làng, đất nước, quê hương.

Xà nu có cây già, cây trẻ, cây non thì người làng Xô Man cũng có ba thế hệ: thế hệ cụ Mết, thế hệ Tnú, Mai và thế hệ của bé Heng. Ba thế hệ với ba vẻ đẹp khác nhau nhưng đều mang một nét chung: vẻ đẹp của khát vọng tự do và ý chí kiên cường, bất khuất.

Có thể nói, hình tượng cây xà nu trong tác phẩm là một sáng tạo độc đáo của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Nó nổi bật, xuyên suốt tác phẩm, vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Hình tượng cây xà nu cho thấy tác phẩm của Nguyên Ngọc thiết tha hướng về sự sống. Miêu tả về những tổn thương mà cây xà nu nói riêng, cộng đồng người Tây Nguyên nói chung phải chịu đựng chẳng qua chỉ để bày tỏ lòng khẩm phục và ca ngợi sức sống nồng nàn, bất khuất, bất diệt. Đấy là điều làm nên chất nhân văn sâu đậm trong thiên truyện ngắn.

Số 15: Cảm nhận về hình tượng cây xà nu

Nguyên Ngọc- Nguyễn Trung Thành được biết tới là người viết nhiều và hay nhất về mảnh đất Tây Nguyên với một loạt những tác phẩm truyện ngắn xuất sắc. Một trong số đó có một câu chuyện thuộc đề tài Tây Nguyên đó là Rừng xà nu – câu chuyện về chân lí cách mạng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên với hình tượng rừng xà nu đã trở thành biểu tượng.

Gần 20 lần, nhà văn nói đến rừng xà nu, đồi xà nu, cây xà nu, cành xà nu, ngọn và lá xà nu, nhựa xà nu, khói và lửa đuốc xà nu,… mỗi lẩn xuất hiện, cây xà nu mang một dáng vẻ kì lạ, tất cả đều mang ý nghĩa tượng trưng cho khí phách anh hùng và sức sổng mãnh liệt của dân làng Xô Man, của núi rừng Tây Nguyên kiên cường bất khuất! Tất cả mọi hoạt động dù lớn dù nhỏ của người dân Tây Nguyên đều có sự góp mặt của cây xà nu. Sự sống của dân làng Xô Man đều gắn liền với những cánh rừng xà nu.

Khi Nguyễn Trung Thành viết : “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc, chúng nó bắn đã thành lệ, ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn”, nhà văn đã phản ảnh không khí căng thẳng của thời đại, gợi lên sự đối mặt quyết liệt giữa sự sống và cái chết. Nổi bật trên nền bối cảnh ấy, Nguyễn Trung Thành đã đi sâu miêu tả những đặc điểm nổi bật của câu xà nu. Cũng như bao loài cây khác, cây xà nu là một loài cây ham ánh sáng và khí trời “trong rừng ít có loài cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ đến vậy… ít có loài cây nào ham ánh sáng đến thế” cũng có nghĩa là ham sống, khao khát muốn được vươn lên giữa bầu trời cao rộng.

Cây xà nu luôn có mặt trong thực tế đời sống. Ngọn lửa xà nu mỗi ngày vẫn cháy lên trong từng căn bếp nhỏ, khói xà nu le luốc trên từng gương mặt trẻ thơ. Người dân Xôman sống dưới tán rợp của xà nu và khi về với đất mẹ họ cũng trở lại với bóng mát dưới chân đồi xà nu. Nó hiện lên dưới nhiều góc độ, khi thì trong hoài niệm, khi hiện ra trước mất, lúc là thân là ngọn, khi là nhựa là lửa, có lúc là đồi, là rừng. Rừng xà nu là nơi chuẩn bị vũ khí để chờ đợi tới khi vùng lên quật khởi. Ngọn lửa xà xu như những ngọn đuốc thắp sáng lòng căm thù để rồi hừng hực cháy trong lòng mọi người và đem đến tín hiệu của giờ đồng khởi. Bếp lửa xà nu sáng rực ấm áp là nơi cả dân làng quây quần lắng nghe từng lời cụ Mết.

Không chỉ vậy, cây xà nu vẫn luôn ứng chiếu với con người Tây Nguyên rất tương ứng, hài hòa. Người dân xôman mang nặng nỗi đau thương với xà nu. Qua hình ảnh rừng xà nu bị tàn phá, người đọc như sống lại những trang sử đau thương của người dân xôman và chính đau thương ấy đã trở thành sức mạnh quật khởi của dân làng. Xà nu là biểu tượng của sự sống và niềm tin tự do. Mỗi cây xà nu vươn mình, xanh rờn là mỗi cây ham sống và vươn ra tìm tự do. Nó là khát vọng vươn lên và lòng trung thành của người dân Xôman.

Dù sống trong tầm đại bác của giặc, những cánh rừng vẫn trải dài một màu xanh. Người dân Xôman cũng vậy. Họ có sự kế thừa từ thế hệ này qua thế hệ khác. Sự tàn bạo, độc ác và cả nhẫn tâm của kẻ thù không thể tiêu diệt tinh thần kiên cường, bất khuất của dân làng, kẻ thù càng tàn bạo thì sức mạnh đoàn kết đứng lên càng mạnh mẽ. Cuối cùng, rừng xà nu biểu tượng cho  những thế hệ người dân Xôman. Rừng xà nu có ba lứa cây: cây cổ thụ, cây trưởng thành và cây non. Chúng luôn có sự kế tục và là biểu tượng cho dân làng Xôman.

Bom đạn không thể quật ngã những cây cổ thụ cũng như bom đạn không ngăn cản tinh thần Cụ Mết- luôn vững chắc bám trụ trên mảnh đất quê hương, bao nhiêu thử thách là bấy nhiêu gan dạ và trở thành chỗ dựa cho cả dân làng. Mỗi cây trưởng thành là soi chiếu của lớp thanh niên đang căng tràn nhựa sống, sẵn sàng đứng dậy và đấu tranh như Tnú, Mai, Dít. Đau thương vẫn tiếp tục nuôi dưỡng ý chí bền bỉ quật cường. Đó là sức mạnh không ngưng trưởng thành, ngày một lớn mạnh, được nuôi dưỡng, ấp ủ bởi tinh thần kiên cường để tạo nên sức mạnh toàn dân mang màu sắc sử thi.

Câu chuyện về một Tây Nguyên xa xôi trong nỗi ám ảnh của Nguyễn Trung Thành đã dần ta đến một thế giới của một mảnh đất tuy đau thương mà ngát thơm căng trào sự sống. Hình tượng xà nu vừa mang được cái man dại mãnh liệt của vẻ đẹp thiên nhiên vừa mang nét linh diệu, ấm áp hào hùng của hơi thở cuộc đời. Vẻ đẹp tác phẩm được kết tụ trong những ánh sắc núi rừng hấp dẫn và thăng hoa trong ý nghĩa biểu tượng rất chân thực, rất cao đẹp.

Số 16: Vẻ đẹp hình tượng cây xà nu

Tây Nguyên – mảnh đất hùng vĩ và thơ mộng, với những con người nồng hậu yêu thương mà kiên cường bất khuất, từ lâu đã là nguồn cảm hứng cho biết bao văn nhân nghệ sĩ. Mỗi người đều tìm thấy ở mảnh đất này một biểu tượng đẹp cho tâm hồn cất cánh, ngòi bút thăng hoa. Ngọc Anh có Bóng cây Kơnia như nỗi lòng thổn thức thiết tha của tình yêu thủy chung son sắt, Thu Bồn có Bài ca chim Chơ-rao, ngân vang khúc hát trong trẻo nồng đượm tình người chiến thắng… Còn Nguyễn Trung Thành lại đem đến cho ta hình tượng những Rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời như sức sống bền và bất diệt của nhân dân Tây Nguyên trong công cuộc chống Mĩ cứu nước.

Đọc Rừng xà nu, không chỉ những nhân vật như cụ Mết, Tnú, Dít, Mai tạo nên ấn tượng sâu sắc trong chúng ta, mà còn là cây xà nu – một hình tượng đặc sắc bao trùm toàn bộ thiên truyện ngắn này. Chính hình tượng cây xà nu tạo nên vẻ đẹp hùng tráng, chất sử thi lãng mạn cho câu chuyện về làng Xô Man bất khuất, kiên cường. Đó là hình tượng hàm chứa nhiều ý nghĩa tượng trưng.

Qua hình tượng này, người đọc có thể thấy rõ sức sống kiên cường, sức sống mãnh liệt của con người Tây Nguyên nói riêng, của con người Việt nói chung trong nhừng ngày đánh Mĩ. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Trung Thành lại miêu tả thật cụ thể, thật chi tiết rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ giàu chất thơ, bằng những “lời có cánh” với một cảm xúc say mê mãnh liệt như đã thấy trong tác phẩm. Gần hai mươi lần nhà văn đã viết về xà nu, dường như cây xà nu tham dự vào tất cả những sinh hoạt, những tâm tình, những buồn vui của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến đấu anh dũng của họ.

Cả một câu chuyện dài, đau thương, bất khuất như một bản anh hùng ca về cuộc đời Tnú, cuộc đời dân làng Xô Man được kể trên nền chính của hình tượng cây xà nu. Cây xà nu, rừng xà nu như những con người, những tâm hồn, vừa là nhân chứng, vừa tham gia vào bản anh hùng ca, cũng vừa chịu đựng mọi gian nan, vất vả, đau thương do tội ác của kẻ thù, nhưng bất chấp tất cả, rừng xà nu vẫn vươn mình cường tráng, vẫn tồn tại bất chấp mọi đau thương: nó tượng trưng cho khát vọng tự do, khát vọng giai phóng, cho phẩm chất anh hùng và sức sống mãnh liệt của dân làng Xô Man, của nhân dân Tây Nguvên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

Hình tượng cây xà nu hiện lên trong tác phẩm đầy chất thơ hùng tráng. Mở đầu và kết thúc câu chuyện là hình ảnh “hàng vạn cây xà nu” “sinh sôi nảy nở”,“rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”… “đến hết tầm mắt cùng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”. Rừng xà nu là biểu tượng cho con người. Cây được miêu tả như con người trong sự ứng chiếu với con người, gợi ra những biểu tượng về đời sống, số phận và phẩm cách của con người – các thế hệ dân làng Xô Man đánh Mĩ.

Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời, “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng”, cũng như Tnú, như dân làng Xô Man yêu tự do. Rừng xà nu cũng như làng Xô Man, chịu nhiều đau thương bởi sự tàn ác của giặc: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đúng ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”.

Nhưng xà nu có sức sống thật mãnh liệt, không gì tàn phá nổi: “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn cây xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng trên bầu trời”, cũng như các thế hệ làng Xô Man, lớp này tiếp lớp khác đứng lên. Anh Quyết hi sinh thì có Tnú, Mai: Mai ngã xuống giữa tuổi tràn đầy sức sống, thì Dít lớn lên rất nhanh đến không ngờ, trở thành bí thư chi bộ, chính trị viên xã đội: rồi những bé Heng, thế hệ tiếp theo của Dít cũng đang lớn lên, tiếp tục cuộc chiến đấu. Đồng thời, ngược lại, nhiều chỗ miêu tả con người, nhà văn đã so sánh với cây xà nu.

Cụ Mết thì “ngực căng như một cây xà nu lớn”, vết thương trên lưng Tnú do giặc tra tấn thì “ứa ra một giọt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quyện lại, tím thâm như nhựa xà nu”. Thủ pháp ấy trong miêu tả tạo nên một sự hòa nhập, tương ứng giữa con người và thiên nhiên trong một chất thơ hào hùng, tráng lệ. Nhà văn đã ví cụ Mết “như một cây xà nu lớn” bởi cụ là người hơn ai hết hiểu sự gắn bó của cây xà nu và mảnh đất đang sống, hiểu được sức mạnh tiềm tàng bất khuất của rừng cây cũng như dân làng Xô Man: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này!…”.

Cây xà nu gắn bó với con người và cuộc sống dân làng. Xà nu không chỉ có mặt trong đoạn mở đầu và kết thúc, nó còn hiện diện trong suốt câu chuyện về Tnú và làng Xô Man của anh. Xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày như đã tự ngàn đời nay của dân làng: Ngọn lửa xà nu trong mối bếp; đống lửa ở nhà rông tập hợp cả dân làng, ngọn đuốc xà nu cháy sáng soi những đoạn rừng đêm; khói xà nu hun tấm bảng đen cho anh Quyết đạt Tnú và Mai học chữ…; xà nu cũng tham dự vào những sự kiện quan trọng của cuộc kháng chiến chống Mĩ: ngọn đuốc xà nu cháy sáng trong tay cụ Mết và tất cả dân làng vào rừng lấy dao, mác, dụ, rựa đã giấu kĩ, chuẩn bị cho cuộc nổi dậy, và đêm đêm làng Xô Man thức, dưới ánh đuốc xà nu, mài vũ khí; giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu…; cũng ngọn lửa từ các đuốc xà nu soi sáng rực cái đêm cả làng nổi dậy, soi rõ xác mười tên lính giặc bị giết ngổn ngang quanh đống lửa lớn giữa sân làng…

Cây xà nu còn là người chứng kiến sự giác ngộ, sự hi sinh thầm lặng, lòng dũng cảm, ý chí quật cường của dân làng Xô Man: “Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn. Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng.”. Ánh lửa xà nu soi sáng lời căn dặn của anh Quyết: “Người còn sống phải chuyển dáo, mác, dụ, rựa, tên, ná… sẽ có ngày dùng tới”. Lửa xà nu thử thách ý chí cũng như lòng can đảm của Tnú: “không có gì đượm bằng nhựa xà nu… Mười đầu ngón tay đã thành mười ngọn đuốc… Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi…”. Căm thù trong anh cháy giần giật như nhựa xà nu bén nhạy để “bàn tay hận thù” thành “bàn tay trả thù” bóp chết tên ác ôn dưới ngách hầm.

Câu chuyện cụ Mết kể phảng phất phong vị anh hùng ca. Đêm kể chuyện dưới ánh lửa xà nu chắc cũng giống như đêm già làng thường kể về các bài: anh hùng ca truyền thống của Tây Nguyên. Giọng điệu sử thi của Rừng xà nu bắt nguồn từ đó. Cây xà nu gắn với quá khứ, hiện tại anh hùng, gắn bó với mọi sinh hoạt, phong tục và đời sống văn hóa của dân tộc Tây Nguyên, khiến cho câu chuyện làng Xô Man đánh Mĩ lung linh sắc màu huyền thoại như Đam San, Xinh Nhã thuở nào…

Có thể nói hình tượng xà nu là mô típ chủ đạo của tác phẩm. Xà nu trở thành biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất của dân làng Xô Man. Đó là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Trung Thành. Nhà văn đã lựa chọn hình ảnh cây xà nu và đem lại cho nó những ý nghĩa mới, những vẻ đẹp mới để dựng lên bức tranh sử thi chống Mĩ của những con người kiên cường bất khuất nơi núi rừng hùng vĩ Tây Nguyên.

Bài Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành
Bài Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành

Số 17: Hình tượng cây xà nu trong Rừng xà nu

Viết về mảnh đất gắn bó với một phần cuộc sống của mình không phải là đề tài hiếm gặp trong các tác phẩm văn học.Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành là một tác phẩm như vậy. Đây có thể coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất viết về thiên nhiên Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu trở thành biểu tượng của mảnh đất và con người tây Nguyên.

Trong tác phẩm này, những cây xà nu đóng một vai trò vô cùng quan trọng, bản thân cây xà nu và những biến thể của nó đã lặp lại hai mươi lần trong tác phẩm. Bởi vậy nó trở thành một hình tượng quan trọng trong câu chuyện.

Cây xà nu hiện lên qua lời văn của tác giả hiện lên thật hùng vĩ, tràn đầy nhựa sống, chúng có sức sống vô cùng kiên cường, dẻo dai, mãnh liệt, không gì có thể hạ gục chúng. Cây này ngã xuống đã có cây khác lớn lên, không ngừng sinh trưởng, phát triển. Những cây xà nu sống trong tầm đại bác của giặc, thường phải chịu sư công kích dữ dội của bom đạn giặc .

Nhưng rừng xà nu vẫn kiên trì đứng vững bảo vệ cho con người . Và điều đó khiến rừng xà nu rộng lớn là vậy nhưng hầu hết cây nào cũng bị thương: “ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt”. Cái chết không thể đàn áp sự sống của rừng xà nu, chúng vẫn mạnh mẽ vươn lên. Cạnh những cây đã ngã xuống lại có bốn năm cây lớn vươn lên: “từng luồng lớn thẳng tắp, long lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mơ màng”. Rừng xà nu kiên cường, bất khuất “đạn đại bác không giết nổi chung, cây vẫn vươn mình lớn ưỡn tấm ngực che chở cho làng…”. Rừng xà nu chinh là biểu tượng cho mảnh đất Tây Nguyên.

Rừng xà nu còn là biểu tượng cho số phận của con người Tây Nguyên. Những gì mà rừng xà nu phải hứng chịu, những làn mưa bom bão đạn ngày ngày dội xuống rừng xa nu cùng chính là những gì con người nơi phải đối mặt hàng ngày. Mỗi một nhành cây ngọn cỏ, mỗi lứa cây xà nu đều là biểu tượng cho con người nơi đây. Nhưng trước bao nhiêu đau thương, mất mát con người nơi đây vẫn không bao giờ gục gã, họ vẫn tin tưởng vào Đảng vào cách mạng, vẫn kiên cường, bền bỉ chiến đấu, không ngừng kế tiếp truyền thống vẻ vang của cha anh.

Cụ Mết là biểu tượng cho những cây xà nu lớn, vươn mình ưỡn thân bảo vệ dân làng. Cụ cũng là biểu tượng quật khởi của truyền thống đánh giặc hào hùng. Cụ Mết là người đã chỉ huy, lãnh đạo dân làng đối kháng với địch. Cụ là người đã đem đến chân lí, chúng nó đã cầm súng thì ta phải cầm giáo. Phải sử dụng bạo lực cách mạng để đấu tranh lại bạo lực phản cách mạng.

Cụ là người truyền và giữ truyền thống cho thế hệ mai sau. Vẻ đẹp của cụ cũng là vẻ đẹp được hun đúc từ núi rừng Tây Nguyên, từ những cây xà nu, đó là cái ngực căng “như một cây xà nu lớn, là nét từng trải của đôi bàn tay” , giọng nói hùng vĩ mang âm thanh của núi rừng: “ồ ồ thanh âm quen thuộc dội vang trong long ngực”.. Mỗi lời cụ nói không chỉ là mệnh lệnh mà còn là đuchs kết kinh nghiệm, sự từng trải trong cuộc sống: “không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta, cây mẹ ngã, cây con mọc lên”.

Những cây con mọc lên cũng chính là hình ảnh của Tnú, Mai, Dít, của Heng – thế hệ tiếp bước cha anh. Từng cây xà nu không ngừng ngày đêm bảo vệ dân làng, cũng như những đứa trẻ kia, sự khôn lớn, dũng cảm của chúng cũng chính là đem sức lực để bảo vệ dân làng, để bảo vệ nơi họ được sinh ra.

Tnú là người sinh ra và lớn lên trong sự bao bọc, bảo vệ của dân làng. Tnú coi người làng như chính người thân ruột thịt của mình, anh gắn bó mật thiết với con người và mảnh đất nơi đây. Sớm được Đảng giác ngộ cách mạng, từ nhỏ Tnú đã góp sức mình vào nhiệm vụ cứu nước bằng cách nuôi giấu cán bộ trong rừng, tìm được khó mà đi thay vì đường bằng, sẵn sang nuốt thư vào bụng. Lớn lên cả gia đình nhỏ của anh bị giặc giết hại, bản thân bị bắt giam, bị hành hạ nhưng như một cây xà nu không bao giờ chịu khuất phục, Tnú đã vượt ngục, hoạt động cách mạng. và dung chính đôi bàn tay của mình để giết chết quân thù.

Rừng xà nu mang trong mình vẻ đẹp bất diệt, không bao giờ lụi tàn, cũng như con người Tây Nguyên kiên cường, không bao giờ gục ngã. Hình tượng câu xà nu là hình tượng nổi bật xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, làm nên vẻ đẹp mạnh mẽ của thiên nhiên và con người nơi đây.

Với hình tượng cây xà nu, Nguyễn Trung Thành đã mang đến cho bạn đọc những xúc cảm mới mẻ về con người Tây Nguyên. Rừng xà nu là biểu tượng đẹp đẽ về con người Tây Nguyên, về cuộc đời anh dũng, kiên cường của họ. Rừng xà nu và những người anh hùng Tây Nguyên mãi tỏa rạng vẻ đẹp muôn đời.

Số 18: Phân tích vẻ đẹp hình tượng cây xà nu

Tây Nguyên – mảnh đất hùng vĩ và thơ mộng, với những con người nồng hậu yêu thương mà kiên cường bất khuất, từ lâu đã là nguồn cảm hứng cho biết bao văn nhân nghệ sĩ. Mỗi người đều tìm thấy ở mảnh đất này một biểu tượng đẹp cho tâm hồn cất cánh, ngòi bút thăng hoa. Ngọc Anh có Bóng cây Kơnia như nỗi lòng thổn thức thiết tha của tình yêu thủy chung son sắt, Thu Bồn có Bài ca chim Chơ-rao, ngân vang khúc hát trong trẻo nồng đượm tình người chiến thắng… Còn Nguyễn Trung Thành lại đem đến cho ta hình tượng những Rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời như sức sống bền và bất diệt của nhân dân Tây Nguyên trong công cuộc chống Mĩ cứu nước.

Đọc Rừng xà nu, không chỉ những nhân vật như cụ Mết, Tnú, Dít, Mai tạo nên ấn tượng sâu sắc trong chúng ta, mà còn là cây xà nu – một hình đặc sắc bao trùm toàn bộ thiên truyện ngắn này. Cả một câu chuyện dài, đau thương, bất khuất như một bản anh hùng ca về cuộc đời Tnú, cuộc đời dân làng Xô Man được kể trên nền chính của hình tượng cây xà nu.

Cây xà nu, rừng xà nu như những con người, những tâm hồn, vừa là nhân chứng, vừa tham gia vào bản anh hùng ca, cũng vừa chịu đựng mọi gian nan, vất vả, đau thương do tội ác của kẻ thù, nhưng bất chấp tất cả, rừng xà nu vẫn vươn mình cường tráng, vẫn tồn tại bất chấp mọi đau thương: nó tượng trưng cho khát vọng tự do, khát vọng giai phóng, cho phẩm chất anh hùng và sức sống mãnh liệt của dân làng Xô Man, của nhân dân Tây Nguvên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

Vẻ đẹp của cây xà nu từ hiện thực khách quan đến hiện thực chủ quan và đi vào cảm giác đầy độc đáo với mùi thơm ngào ngạt, ánh sáng lung linh.  Với người Tây Nguyên, cây xà nu có một vị trí quan trọng, sống trên mảnh đất quê hương hùng vĩ, mọc thành từng đồi, từng rừng và tạo nên màu xanh bất tận, dựng lên không gian bát ngát cho núi rừng đại ngàn.

Chính vì lẽ đó mà ở cả mở đầu và kết thúc, nhà văn đều dụng công đưa hình ảnh cây xà nu nối tiếp để tạo điệp khúc xanh bất tận làm nền cho câu chuyện đậm bản sắc Tây Nguyên. Với bút pháp tượng trưng, hình ảnh cây xà nu lại là biểu tượng cho số phận và phẩm chất của người dân Tây Nguyên. Nói về số phận của người dân làng Xô Man, mở đầu tác phẩm Nguyễn Trung Thành viết “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương” ấy là một cảnh tượng ám ảnh về một rừng cây tan hoang bởi đại bác của quân thù, trầy trợt đầy những thương tích.

Đến gần hơn, hình ảnh tang thương của cây xà nu càng thêm rõ ràng, “Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”, từ miệng vết thương ấy ứa ra thứ nhựa “tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh”, “bầm lại quyện đen thành những cục máu lớn”, như vậy đối với tác giả xà nu cũng giống như một con người cũng có máu thịt, cây cũng bị thương, nhựa cây chảy ra được ví là máu huyết của sinh thể, những hòn máu đọng đem lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc về loài cây anh hùng, bất khuất.

Nhưng đấy là những cây may mắn, kiên cường còn có thể lành miệng và tiếp tục sinh dưỡng, xấu số hơn có những cây con mới đến ngang tầm ngực người, đã bị đại bác nã phải gãy làm đôi “nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết”.

Không chỉ là biểu tượng cho số phận của con người Tây Nguyên, cây xà nu còn là biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của người dân nơi đây. Xà nu là một loài cây khao khát ánh sáng đến lạ kỳ “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng”, đó cũng chính là biểu tượng cho tình yêu tự do, sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người Tây Nguyên. Thêm nữa, xà nu còn có khả năng sinh sôi mãnh liệt “cạnh một cây mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên , ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên trời”. Đó là biểu tượng cho sự tiếp nối liên tục và mạnh mẽ của người dân làng Xô Man

Hình ảnh bất diệt của cây xà nu khiến ta lập tức nghĩa đến Tnú tiêu biểu cho lớp anh hùng của làng Xô Man, anh chịu biết bao đau đớn thương tật nhưng anh vẫn sống vẫn hoạt động cách mạng một cách sôi nổi, giặc không bắt được anh, không giết được anh, người anh hùng của vùng đất Tây nguyên. Trong sự khốc liệt, tàn bạo của chiến tranh thì sự sống vẫn vươn lên và chiến thắng cái chết, sức sống mãnh liệt, bất tử của rừng xà nu đã đại diện cho tinh thần bất khuất, kiên cường của người dân Tây Nguyên trong những năm tháng chiến tranh ác liệt.

Rừng xà nu là hình tượng nghệ thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Hình tượng cây xà nu với bút pháp lãng mạn, gợi và tả đã hiện lên chân thực, vừa khái quát, vừa cụ thể tạo nên màu sắc sử thi rất đậm nét cho thiên truyện.

Số 19: Phân tích hình tượng cây xà nu

Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu, còn có bút danh khác là Nguyên Ngọc, ông sinh năm 1932, quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Ông gia nhập quân đội vào năm 1950, lúc đang còn là học sinh trung học, có mặt tại chiến trường Tây Nguyên trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nguyễn Trung Thành sáng tác nhiều thể loại từ truyện ký, tiểu thuyết, đến truyện ngắn, tùy bút,…

Các sáng tác của ông mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, nội dung chủ đề tập trung viết về 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, về những vấn đề mang tính trọng đại lịch sử của dân tộc, đặc biệt ông viết rất nhiều về vùng đất Tây Nguyên đầy nắng và gió. Rừng xà nu nằm trong tập truyện ký Trên quê hương những anh hùng Điện ngọc, viết vào năm 1965, khi quân Mỹ Diệm tràn vào miền Nam càn quét bắn phá ác liệt.

Hình tượng rừng cây xà nu xuất hiện nổi bật và xuyên suốt chiều dài tác phẩm, mở ra là rừng xà nu bạt ngàn và kết thúc tác phẩm cũng là hình ảnh rừng xà nu chạy dài đến tận chân trời. Không những thế, hình ảnh cây xà nu còn trải kín cả tác phẩm, có đến hơn 20 lần trong toàn tác phẩm, điều ấy đã tái hiện lại những vẻ đẹp kỳ thú đặc trưng của mảnh đất Tây Nguyên, đồng thời mang ý nghĩa biểu tượng về sức sống và vẻ đẹp của những con người Tây Nguyên.

Bằng bút pháp tả thực, Nguyễn Trung Thành đã cho thấy hình ảnh cây xà nu trở đi trở lại và gắn bó mật thiết với cuộc sống của con người Tây Nguyên, có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân nơi đây, ngọn lửa xà nu “dần dật cháy” trong bếp của mỗi ngôi nhà, khói xà nu làm bảng học cho Tnú và Mai. Hình ảnh cả cánh rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn ra để che chở cho làng Xô Man bởi “Làng nằm trong tầm đại bác của giặc”, giống như người cha che chở cho đứa con nhỏ của mình, như nhà thơ Tố Hữu đã viết trong bài thơ Việt Bắc rằng: “Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”, gắn bó, ân tình.

Không chỉ có mặt trong cuộc sống hằng ngày mà cây xà nu còn tham dự vào trong những sự kiện trọng đại của dân làng Xô Man. Trong đêm mà vợ con Tnú bị giặc bắt giữ, đống lửa xà nu đã để Tnú nhìn rõ ràng cảnh kẻ thù hành hạ vợ con, rồi thì chính nhựa xà nu lại thiêu đốt 10 ngón tay của Tnú như mười ngọn đuốc, điều ấy đã trở thành giọt nước tràn ly, cổ vũ dân làng Xô Man đứng lên đấu tranh giết mười tên giặc ác ôn để giải cứu Tnú và lập lên chiến công đầu tiên trong cuộc chiến chống lại kẻ thù của dân làng.

Từ đây người làng Xô Man đã mạnh mẽ đứng lên, không còn do dự chần chừ, bởi chỉ có đấu tranh chỉ có cách dùng vũ lực thì mới có thể có một cuộc sống tốt hơn, mới có thể bảo vệ được dân làng và đất nước. Hình ảnh của cây xà nu cũng trở lại trong đêm Tnú về thăm làng, đuốc xà nu lại dẫn đường cho người dân khắp làng Xô Man cùng tụ tập về nghe cụ Mết kể về cuộc đời của Tnú, câu chuyện một đời người kể trong một đêm, ánh lửa xà nu càng trở nên thiêng liêng và đậm tính sử thi.

Thêm vào đó hình ảnh xà nu còn thấm vào nếp cảm, nếp nghĩ thấm vào cả lối tư duy và cách nói của người dân Tây Nguyên, những tính chất vẻ đẹp của cây đã trở thành thước đo để khắc họa lần lượt hình ảnh của cụ Mết, của Tnú, Mai, và nhiều người dân làng Xô Man khác.

Với bút pháp tượng trưng, hình ảnh cây xà nu lại là biểu tượng cho số phận và phẩm chất của người dân Tây Nguyên. Nói về số phận của người dân làng Xô Man, mở đầu tác phẩm Nguyễn Trung Thành viết “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương” ấy là một cảnh tượng ám ảnh về một rừng cây tan hoang bởi đại bác của quân thù, trầy trợt đầy những thương tích.

Không chỉ là biểu tượng cho số phận của con người Tây Nguyên, cây xà nu còn là biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của người dân nơi đây. Xà nu là một loài cây khao khát ánh sáng đến lạ kỳ “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng”, đó cũng chính là biểu tượng cho tình yêu tự do, sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người Tây Nguyên.

Thêm nữa, xà nu còn có khả năng sinh sôi mãnh liệt “cạnh một cây mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên , ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên trời”. Đó là biểu tượng cho sự tiếp nối liên tục và mạnh mẽ của người dân làng Xô Man, anh Quyết hy sinh đã có Tnú về thay thế, anh Xút bị giết đã có bà Nhan thay công việc nuôi bộ đội, bà Nhan chết thì đã có lớp trẻ con thay thế, Mai chết thì đã có em gái của Mai tiếp bước chị, và còn cả chú bé Heng. Thế hệ trước luôn có sự chuẩn bị là bước đệm cho thế hệ sau được vươn lên mạnh mẽ và tiến xa hơn trong con đường cách mạng.

Cây xà nu còn mang trong mình một sức sống bất diệt, mạnh mẽ vô cùng “có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá xum xuê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng”.

Hình ảnh bất diệt của cây xà nu khiến ta lập tức nghĩa đến Tnú tiêu biểu cho lớp anh hùng của làng Xô Man, anh chịu biết bao đau đớn thương tật nhưng anh vẫn sống vẫn hoạt động cách mạng một cách sôi nổi, giặc không bắt được anh, không giết được anh, người anh hùng của vùng đất Tây nguyên. Trong sự khốc liệt, tàn bạo của chiến tranh thì sự sống vẫn vươn lên và chiến thắng cái chết, sức sống mãnh liệt, bất tử của rừng xà nu đã đại diện cho tinh thần bất khuất, kiên cường của người dân Tây Nguyên trong những năm tháng chiến tranh ác liệt.

Nguyễn Trung Thành với nghệ thuật xây dựng hình tượng xuất sắc, điểm nhìn đậm chất điện ảnh khiến cho hình tượng cây xà nu hiện lên một cách thật chân thực và sắc nét. Đôi lúc tác giả đã không kìm được mà bộc lộ những cảm xúc cá nhân thật mạnh mẽ, niềm bất ngờ, tự hào về loài cây đặc sắc. Bằng bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn nhà văn đã gây dựng thật xuất sắc vẻ đẹp của cây rừng xà nu biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Tây Nguyên, mở một cánh cửa dẫn người đọc vào thế giới của con người nơi đây, tiêu biểu là nhân vật Tnú.

Số 20: Cảm nhận hình tượng cây xà nu

Theo tâm sự của nhà văn Nguyễn Trung Thành, điều để lại cho ông ấn tượng sâu đậm nhất khi đặt chân đến mảnh đất Tây Nguyên chính là hình ảnh những rừng xà nu bạt ngàn. Với tình yêu đặc biệt với loài cây này, ông đã lấy nó đặt nhan đề cho tác phẩm nổi tiếng của mình “Rừng xà nu”. Và vượt lên trên ý nghĩa về vẻ đẹp tự nhiên, thì rừng xà nu đã trở thành hình tượng trung tâm, chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng, tác phẩm mở đầu và kết thúc đều bằng hình ảnh của những rừng xà nu bạt ngàn. Với kết cấu đầu cuối tương ứng đã tạo nên tính logic cho tác phẩm. Không chỉ vậy, hình ảnh cây xà nu còn xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, với những biến thể khác nhau: gỗ, nhựa,… tạo nên bộ khung vững chắc để liên kết toàn bộ tác phẩm thành một thể thống nhất. Như vậy, rừng xà nu có vai trò chủ đạo trong việc tạo nên tính logic, mạch lạc cho tác phẩm.

Hình tượng cây xà nu vừa là chứng nhân, nạn nhân của chiến tranh, vừa là biểu tượng cho những đau thương mà người dân Tây Nguyên phải gánh chịu. Trước hết, rừng xà nu là chứng nhân, nạn nhân của chiến tranh. Mở đầu tác phẩm, tác giả đã mở ra khung cảnh bất bình thường “làng trong tầm đại bác của đồn giặc” tức làng liên tục bị giặc ném bom phá hoại.

Nhưng điều không bình thường ấy đã trở thành bình thường quen thuộc với con người nơi đây: “Chúng nó bắn đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và buổi xế chiều hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy”. Đặt trong hoàn cảnh bất thường ấy tác giả đã ghi lại hình ảnh đầy sức ám ảnh về những đau thương mà rừng xà nu phải gánh chịu: “Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn.

Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. Với con mắt quan sát tinh tường, Nguyễn Trung Thanh đã bao quát được những đau thương, mất mát mà rừng xà nu phải oằn mình gánh chịu. Đó không chỉ dừng lại ở nỗi đau riêng lẻ, cá thể mà đó là nỗi đau của cả tập thể, cộng đồng. Sau khi đã quan sát toàn cảnh ông dùng cái nhìn cận cảnh để ghi lại những hình ảnh đau xót, kinh hoàng nhất: “Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão” hình ảnh vô cùng đau đớn, xót xa. Cây xà nu đang sinh sôi, phát triển mạnh mẽ bỗng bị bom đạn chiến tranh chặn đứng lại.

Đặc biệt ông nhấn mạnh vào hình ảnh: “Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Bằng hình ảnh hết sức chân thực, cụ thể, tác giả đã biến rừng xà nu thành những sinh thể sống. Chúng phải gánh chịu nỗi đau đớn như con người. Chỉ bằng những chi tiết ít ỏi mà đắt giá tác giả đã làm cho nỗi đau, những mất mát mà rừng xà nu phải gánh chịu được thể hiện rõ ràng cả trên bề mặt và bề sâu. Dường như không chỉ con người mà thiên nhiên Tây Nguyên của phải gồng mình để chống trọi lại bom đạn chiến tranh.

Không chỉ vậy rừng xà nu còn là biểu tượng cho những đau thương mà người dân Tây Nguyên phải gánh chịu. Tất cả những đau đớn mà rừng xà nu phải gánh chịu, hoàn toàn đồng điệu với những đau thương, mất mát mà dân làng Xô Man phải trải qua. Đó là bà Nhan bị chặt đầu treo lên cây xà nu, Mai và đứa con chết dưới sự tra tấn của kẻ thù, là mười đầu ngón tay Tnú bị đốt bằng nhựa cây xà nu,… Chiến tranh đã tàn phá tất cả, không trừ một ai, từ người già đến trẻ nhỏ, chồi non bé nhỏ, chưa kịp được sống đã phải chết dưới sự tra tấn của kẻ xâm lăng.

Rừng xà nu vừa là chứng nhân vừa là nạn nhân trực tiếp của chiến tranh, đồng thời cũng là biểu tượng cho những đau thương mà tội ác kẻ thù gây ra. Tác giả đã khắc họa đau thương này ngay từ đầu tác phẩm tạo nên sự đồng điệu và chuẩn bị cho sự xuất hiện, làm nổi bật những đau thương của dân làng Xô man được tác giả khắc họa sau đó. Việc đi sâu miêu tả cây xà nu, là bản cáo trạng đanh thép, tố cáo tội ác của kẻ thù.

Nhấn mạnh vào nỗi đau của rừng xà nu, tác giả không chỉ dừng lại ở phê phán, tố cáo tội ác của chúng mà mục đích là dùng những đau thương đó để làm nổi bật vẻ đẹp sức mạnh của thiên nhiên, con người Tây Nguyên. Rừng xà nu đã trở thành biểu tượng đầy đủ, toàn vẹn nhất cho vẻ đẹp của con người nơi đây.

Dựa vào khả năng sinh sôi, nảy nở mạnh mẽ của cây xà nu, “trong rừng ít có loài cây sinh sôi, nảy nở khỏe như vậy, cảnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình mũi tên, lao thẳng lên bầu trời”. Tác giả đã vẽ được cả chiều dài đấu tranh bền bỉ, hào hùng và vô cùng kiên cường, bất khuất của nhân dân Tây Nguyên, người này ngã xuống đã có thể hệ sau tiếp bước đứng lên ngăn bước chân kẻ thù.

Có sự tương ứng kì lạ giữa thế hệ các cây xà nu với thế hệ dân làng Xô Man: Bà Nhan như một cây xà nu lớn bị bị giết hại đã có Dít, Heng tiếp bước. Bởi vậy, đồi xà nu nối nhau chạy tới tận chân trời không chỉ là hình ảnh của thiên nhiên bạt ngàn mà còn là biểu tượng của truyền thống anh hùng của người dân Tây Nguyên.

Đặc biệt tác giả còn sử dụng hình ảnh cây xà nu với tất cả đặc điểm của nó để biểu tượng cho sức mạnh, khả năng chịu đựng phi thường, sự kiên cường của người dân Tây Nguyên. Bởi vậy, bên cạnh những cây ngã xuống, có những cây khác trỗi dậy mạnh mẽ, vượt cao hơn đầu người, cành lá sum suê mà đạn đại bác cũng không giết nổi chúng.

Hình ảnh cây xà nu trưởng thành với sức sống dẻo dai, mãnh liệt như thách thức của bom đạn kẻ thù cũng như hình ảnh Tnú, mặc dù bàn tay đã bị nhựa xà nu đốt cháy, nhưng anh vẫn tiếp tục tham gia cách mạng, dùng chính bàn tay đó giết chết kẻ thù. Cây xà nu đã viết lên bản anh hùng ca về sức sống cũng như sự kiên cường, bất khuất của con người Tây Nguyên

Đặc điểm, dáng vẻ, tính chất của cây xà nu đã thể hiện đầy đủ cuộc đời cũng như phẩm chất của người dân Tây Nguyên. Đó là vẻ đẹp của sự anh dũng, kiên cường, bền bỉ, chống lại bom đạn kẻ thù. Có thể nói cây xà nu là hình tượng quan trọng, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất trong tác phẩm này.

Bài Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành
Bài Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành

Tổng kết

Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 20 mẫu phân tích hình tượng cây xà nu chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 12.

0/5 (0 Reviews)
Chúng tôi tạo ra Top10timkiem.vn nhằm mục đích cung cấp cho người đọc những thông tin, liệt kê một cách chi tiết nhất về mọi lĩnh vực trong cuộc sống.