Top 10 mẫu phân tích giá trị nhân đạo của Vợ nhặt chi tiết nhất

88
Top 10 mẫu phân tích giá trị nhân đạo của Vợ nhặt chi tiết nhất
Top 10 mẫu phân tích giá trị nhân đạo của Vợ nhặt chi tiết nhất
4.8/5 - (13 votes)

Tổng hợp các bài mẫu phân tích giá trị nhân đạo của Vợ nhặt của tác giả Kim Lân một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 10 mẫu phân tích giá trị nhân đạo của Vợ nhặt chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Xem thêm:

Dàn ý phân tích giá trị nhân đạo của Vợ nhặt

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm+ Kim Lân ( 1921 – 2007 ) là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học Nước Ta đương đại .

+ Truyện ngắn Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Kim Lân viết về thời kỳ xảy ra nạn đói năm 1945.

– Giới thiệu khái quát giá trị nhân đạo của tác phẩm : ” Vợ nhặt ” của Kim Lân đã thổi làn gió mát, đem hy vọng vào tương lai tươi đẹp cho người đọc bằng giá trị nhân đạo thâm thúy .

II. Thân bài

* Khái quát về tác phẩm

– Hoàn cảnh sáng tác: Vợ nhặt in trong tập Con chó xấu xí, tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư

– được Kim Lân viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (năm 1954), ông dựa vào một phần truyện cũ để viết truyện ngắn này.

– Nội dung chính : Truyện ngắn viết về tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói kinh khủng năm 1945, đồng thời biểu lộ thực chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ ngay trên bờ vực của chết .

* Luận điểm 1: Xót xa thương cảm với cuộc sống bi thảm của người dân nghèo trong nạn đói năm 1945.

+ ) Nạn đói kinh khủng năm 1945- Cái đói bao trùm khắp nơi và tràn đến cái xóm nghèo của dân ngụ cư .

– Những mái ấm gia đình từ Tỉnh Nam Định, Tỉnh Thái Bình lũ lượt đội chiếu, dắt díu bồng bế nhau lên, xám lại như những bóng ma .

– Buổi sáng nào cũng có vài người chết còng queo bên đường, tỏa mùi gây gây của xác chết .

– Toàn bộ câu truyện của Tràng diễn ra trên cái cảnh đói khổ và tang tóc ấy : Cảnh xóm ngụ cư vào buổi chiều Tràng đưa người vợ theo về ; tiếng hờ khóc trong đêm, mùi đốt đống rấm .

+ ) Tình cảnh của mái ấm gia đình Tràng

– Tràng : nghèo, không lấy nổi vợ .

– Vợ Tràng : Vì đói mà phải theo không về làm vợ, không có cưới cheo gì .

– Tình cảm xót xa của bữa cơm đón nàng dâu mới ( nồi cháo loãng và bát cám ) .

+ ) Sự nuôi nấng, niềm hy vọng của người lao động nghèo nàn

– Truyện đã làm sáng lên trên cái nền đen tối ảm đạm ấy sức sống, khát vọng : mái ấm mái ấm gia đình và sự phụ thuộc, che chở cho nhau của những người lao động bần hàn, sáng lên niềm tin kỳ vọng của họ .

– Tình huống Tràng có vợ, “ nhặt ” được vợ : Thái độ của Tràng từ lúc chỉ coi là chuyện tầm phào đến lúc xem đó là chuyện nghiêm chỉnh của đời mình ( Dẫn và phân lích những lời nói, hành vi của Tràng khi mới gặp người đàn bà và trong cảnh đưa chị ta về nhà ) .

– Cái đói khổ đã khiến cho con người bị rẻ rúng, mất đi giá trị :

+ Điển hình là nhân vật người vợ nhặt, vì quá túng quẫn thị không chăm sóc đến danh dự cứ vin vào lời nói đùa của Tràng mà “ cong cớn đòi ăn ”, còn gật đầu theo không Tràng về làm vợ .

+ Chính Tràng cũng vậy, vì quá nghèo nàn mà khó hoàn toàn có thể lấy vợ, đến khi lấy được vợ cũng là nhờ thực trạng éo le .

* Luận điểm 2: Gián tiếp tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân phát xít đối với nhân dân ta

– “ đằng thì chúng bắt nhổ lúa trồng đay, đằng thì chúng bắt đóng thuế ”, chúng không cho nhân dân ta con đường sống, đẩy nhân dân đến bước đường cùng .

– Trong đoạn cuối truyện, khi nghe tiếng trống thúc sưu thuế, bà cụ Tứ cũng vô vọng kêu lên rằng : “ Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu những con ạ ” .

* Luận điểm 3: Trân trọng những khát vọng nhân văn của con người

– Ngợi ca khát vọng sống mãnh liệt của con người : Một mặt ta thấy người vợ nhặt như mất nhân cách trong cảnh đói khổ, nhưng mặt khác đó lại là khát vọng sống mãnh liệt của thị, thị không từ bỏ bất kỳ thời cơ nhỏ nhoi nào để được sống tiếp, ngay cả việc theo không người ta về làm vợ .

– Ở Tràng ta thấy có một khát vọng niềm hạnh phúc chân thành, không phải vì ngờ nghệch mà anh dẫn người vợ nhặt về, sâu thẳm bên trong là khát khao có một mái ấm gia đình như bao người thông thường khác .

– Vẻ đẹp của lòng thương người : vì tình thương người chân thành mà Tràng sẵn sàng chuẩn bị mời thị ăn dù không dư dả, vì thương người mà bà cụ Tứ gật đầu người con dâu được nhặt về dù trong cảnh đói khổ .

– Dù bị đẩy đến bước đường cùng, con người vẫn luôn có niềm tin vào đời sống :

+ Người vợ nhặt nhắc đến cảnh đoàn người phá kho thóc để tạo niềm tin cho bà cụ Tứ và Tràng, bà cụ Tứ cũng dự trù những chuyện tương lai, khuyên bảo những con .

* Luận điểm 4: Chỉ ra lối thoát để con người hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn.

– Từ câu truyện phá kho thóc mà người vợ nhặt kể và hình ảnh đám người đói, lá cờ đỏ trong tâm lý của Tràng là những tín hiệu của cuộc cách mạng, khiến người đọc hoàn toàn có thể tin cậy vợ chồng Tràng sẽ xuất hiện trong đoàn người vùng lên tổng khởi nghĩa .=> Tư tưởng nhân đạo hướng về quần chúng lao động, chứng minh và khẳng định phẩm chất và sức sống bền chắc của họ, đặt niềm tin vào những khát vọng bình dị mà chân chính để sống, khát khao tình thương và sự gắn bó, lệ thuộc vào nhau đã cho họ niềm tin để sống .

III. Kết bài

– Khái quát giá trị nhân đạo trong truyện Vợ nhặt- Nêu cảm nhận, nhìn nhận, nhận xét của bản thân .

Top 10 mẫu phân tích giá trị nhân đạo của Vợ nhặt

Số 1: Phân tích giá trị nhân đạo của Vợ nhặt

Vợ nhặt là truyện ngắn viết về nạn đói khủng khiếp năm 1945, tuy nhiên mục đích mà nhà văn Kim Lân hướng đến không phải là phơi bày hiện thực đau thương, bi thảm của con người mà nhằm khẳng định sức sống mạnh mẽ bên trong con người. Sức sống đó có thể vượt qua ranh giới của sự sống và cái chết và làm cho bức tranh xã hội trong nạn đói trở nên ấm áp lạ thường.  Đây cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc mà nhà văn Kim Lân thể hiện trong tác phẩm của mình.

Có thể nói, Vợ nhặt là một trong những tác phẩm hay nhất, đặc sắc nhất và cũng cảm động nhất viết về nạn đói năm 1945. Cảm hứng nhân đạo đã chi phối ngòi bút của Kim Lân nên từng chi tiết, sự kiện trong tác phẩm đều thể hiện được sự thương yêu, đồng cả trân trọng của tác giả đối với số phận của con người. Và cũng chính trong bức tranh nạn đói u ám, nặng nề ấy, ánh sáng của tình người vẫn tỏa rạng.

Truyện ngắn Vợ nhặt đã thể hiện chân thực đến mức ám ảnh hiện thực của nạn đói, cái nghèo cái đói vây hãm cuộc sống của con người. Đó là hình ảnh của những đoàn người đói từ Thái Bình, Nam Định bồng bế, dắt díu nhau mà trong miêu tả của Kim Lân thì dường như sức sống của họ đã bị vắt kiệt đến nỗi “xanh xám như những bóng ma”.

Không gian của nạn đói cũng thật khủng khiếp với những người sống nằm ngổn ngang khắp lều chợ, người chết đói như ngả rạ, mùi gây của xác người tràn ngập trong không gian, những con quạ đen dấu hiệu của sự chết chóc cũng xuất hiện càng làm cho bức tranh nạn đói trở nên ám ảnh khủng khiếp.

Là những người sống tại xóm Ngụ cư, cuộc sống của mẹ con Tràng cũng bị cái đói, cái nghèo vắt kiệt sự sống. Hình ảnh ngôi nhà lụp xụp với tấm phên rách, niêu bát, quần áo bừa bộn. Cái nghèo, cái đói không chỉ thể hiện trong gia cảnh mà dường như còn ám ảnh trên chính khuôn mặt “bủng beo u ám” của bà cụ Tứ.

Chị vợ  nhặt cũng là một nạn nhân của nạn đói, hình hài tiều tụy, khuôn mặt lưỡi càu xám xịt của chị cũng hiện lên thật đáng thương. Chị trốn tránh cái nghèo bằng cách theo không một người đàn ông mới hai lần gặp mặt nhưng gia cảnh nghèo khó của anh ta ít nhiều làm chị thất vọng, tiếng thở dài cố nén, khuôn mặt khi xám lại.

Bên cạnh những miêu tả chân thực có phần trần trụi về nạn đói,nhà văn Kim Lân cũng thể hiện được thái độ thương yêu, trân trọng đối với sự sống của con người.  Anh Tràng tuy ngờ nghệch nhưng lại là người giàu lòng yêu thương và khát khao hạnh phúc. Đối với hạnh phúc “nhặt” được,  anh Tràng không những không coi thường người đàn bà chấp nhận đi theo mình mà còn bỏ ra hai hào dầu để thắp sáng trong đêm đầu tiên vợ về nhà. Hành động ngỡ như bình thường của anh Tràng trong nạn đói khủng khiếp được coi là vô cùng “hào phóng” vì khi cái đói, cái nghèo vây hãm, nhu cầu trước hết của con người là miếng ăn thì anh Tràng lại để dành tiền mua dầu như sự trân trọng đối với hạnh phúc bất ngờ mà anh vừa có được.

Bà cụ Tứ là một người mẹ thương con với tấm lòng ấm áp. Trước sự xuất hiện của cô vợ nhặt bà cụ Tứ đã niềm nở đón nhận như dâu con trong nhà,. Không những thế trong bữa ăn đầu tiên mà còn khuyên bảo các con việc làm ăn, động viên và hướng các con về một tương lai tươi sáng.

Chị vợ nhặt gây ấn tượng với anh Tràng cũng như độc giả bởi vẻ đanh đá, chua ngoa nhưng sâu trong bản chất đây lại là người phụ nữ hiền lành với những phẩm chất đáng quý. Những gì chị thể hiện ra bên ngoài như cách để phản ứng lại với xã hội đen tối, dữ dội đẩy con người vào bất hạnh. Chứng kiến gia cảnh nghèo khó của anh Tràng, dù thất vọng nhưng chị vẫn cố nén tiếng thở dài. Trong buổi sáng đầu tiên về làm vợ chị cũng dậy sớm cùng bà cụ Tứ quét dọn và chuẩn bị bữa cơm sáng. Có thể thấy người đàn bà này đã dành sự trân trọng trân thành nhất cho hạnh phúc bất ngờ này của mình.

Như vậy, qua truyện ngắn Vợ nhặt, tác giả Kim Lân đã cho người đọc thấy được sự dữ dội, khủng khiếp của nạn đói. Tuy nhiên bằng tấm lòng nhân văn cao cả, nhà văn đã cho người đọc thấy được ánh sáng của tình thương vẫn tỏa rạng, tình người vẫn ấp áp ngay cả khi cái chết cận kề, thứ tình cảm thiêng liêng ấy thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao.

Bài Vợ nhặt của Kim Lân
Bài Vợ nhặt của Kim Lân

Số 2: Phân tích giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt

Vợ nhặt có tiền thân là truyện dài Xóm ngụ cư được tác giả hoàn thành khá lâu sau Cách mạng tháng Tám theo đơn đặt hàng của tờ báo Văn. Vợ nhặt là một trong những tác phẩm đặc sắc của Kim Lân viết về nông thôn và người dân nông thôn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Một trong những giá trị cơ bản làm nên sự thành công của tác phẩm kể đến chính là giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Tác phẩm lấy bối cảnh của truyện là khung cảnh nông thôn Việt Nam trong cái năm mà những người lớn tuổi vẫn quen gọi là năm đói – đó là nạn đói khủng khiếp năm 1945 – khiến cho hơn hai triệu đồng bào ta từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ chết đói. Có thể nói, đến bây giờ nhắc lại chúng ta cũng không khỏi cảm thấy rùng mình.

Truyện bắt đầu bằng khung cảnh “tối sầm lại vì đói khát (…) không khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” ở cái xóm ngụ cư khi cái đói bắt đầu tràn đến: những đứa trẻ con nhà nghèo “ngồi ủ rũ dưới những xó tường không buồn nhúc nhích”, những người sống thì “xanh xám” dật dờ lặng lẽ đi lại như những bóng ma dưới những gốc gạo, còn người chết thì vô số “Không buổi sáng nào người đi chợ, đi làm đồng mà không gặp ba bốn cái thây nằm cong queo bên đường”, những ngôi nhà thì “úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn lửa”.

Một cảnh tượng thật thê lương, ảm đạm, tối tăm, ngột ngạt. Đặc sắc nghệ thuật của nhà văn ở đây là không hề có một dòng nào tố cáo trực tiếp tội ác của bọn thực dân, phát xít (chúng bắt dân ta nhổ lúa trồng đay) nhưng những tội ác dã man của bọn chúng vẫn hiện lên trong từng trang viết.

Trong hoàn cảnh đó cuộc sống của người dân lao động luôn luôn bị cái chết rình rập, đe dọa và có lẽ khó có ai có thể thoát ra khỏi cái chết. Tính mạng của họ lúc này thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể “nhặt” được vợ như nhặt được một thứ gì đó ở ngoài đường, người ta có thể bỏ qua cả nhân phẩm để mà có được cái ăn.

Qua tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ, Kim Lân đã phản ánh một cách rõ nét thực trạng xã hội nước ta những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945, đồng thời cũng phản ánh một cách chân thực thân phận của người dân lao động xã hội cũ. Tràng chỉ cần hai bận tầm phơ tầm phào và bốn bát bánh đúc cùng với một bữa cơm no nê ngoài chợ mà có được vợ.

Còn “thị” vì cái đói, vì miếng ăn mà “thị” trở nên cong cớn và sẵn sàng đánh đổi cả nhân phẩm của mình để được ăn và chấp nhận theo Tràng về nhà cũng chỉ vì miếng ăn mà thôi.

Đáng chú ý là hình ảnh bữa cơm trong buổi sáng đầu tiên tại nhà Tràng, bữa cơm ra mắt của nàng dâu mới “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo” mà mỗi người chỉ được có hai lưng lưng đã hết và “món tráng miệng” là một nồi “chè khoán” (cháo cám) với vị đắng chát trong cổ.

Đó là sự đồng cảm, thương xót của nhà văn trước cuộc sống tăm tối của người dân lao động trong nạn đói, thông qua đó nói lên tiếng nói tố cáo tội ác dã man của bọn thực dân phát xít đối với nhân dân ta.

Vợ nhặt thể hiện ra bản chất tốt đẹp của người dân lao động trong sự đói túng quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào, “người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm, mà để vui, mà hy vọng”.

Bài Vợ nhặt của Kim Lân
Bài Vợ nhặt của Kim Lân

Số 3: Phân tích giá trị nhân đạo của bài Vợ nhặt

Năm 1945 đã trở thành dấu ấn lịch sử không thể phai mờ đối với mỗi con người Việt Nam, thời điểm đó không chỉ đánh dấu sự huy hoàng của thắng lợi Việt Nam đánh đổ phát xít, thực dân và lật đổ chế độ phong kiến 1000 năm. Đưa nước ta trở thành một nước tự do dân chủ. Đó còn là giai đoạn ghi nhận những đau thương mất mát của dân tộc ta dưới họa xâm lăng. Sự bóc lột dã man tàn bạo của bọn phát xít thực dân và bọn phong kiến tay sai đã đẩy hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

Trong hoàn cảnh ấy nhà văn Kim Lân đã dựng lên một tình huống nhặt được vợ. Tình huống ấy vừa để tố cáo tội ác của bọn bóc lột, vừa thể hiện niềm cảm thông với nỗi đau khổ của con người, vừa bày tỏ niềm tin vào con người: ”dù cuộc sống có đau khổ đến đâu, nhưng con người vẫn thể hiện niềm yêu thương đùm bọc lẫn nhau vẫn không nguôi về khát vọng hạnh phúc, vẫn hướng đến một tương lai tươi sáng”. Đó chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Trước hết ta phải hiểu giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản trong tác phẩm văn học chân chính, nó được tạo nên bởi tình yêu thương của con người, niềm cảm thông thâm thúy với nỗi khổ của con người, sự nâng niu trân trọng những nét đẹp của con người hơn thế còn là lòng tin năng lực vươn dậy của nó .

Tác phẩm “Vợ nhặt” đã bộc lộ được niềm xót xa thương cảm đối với cuộc sống bi đát của người dân nghèo trong nạn đói. Nạn đói được ví như một trận đại hồng thủy có sức tàn phá dữ dội. Những dãy phố úp sụp tối om: “những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”, “không khí vẩn lên mùi ẩm mốc thối của rác rưởi và mùi gây gây của xác người” và đặc biệt hơn là âm thanh của tiếng quạ gào thê thiết. Bằng những hình ảnh đau thương của nạn đói, tác giả đã tố cáo được tội ác của bọn thực dân phát xít cùng bọn phong kiến tay sai. Chúng đã dồn người dân đến mức đường cùng của cuộc sống, làm cho bao người chết trong cảnh đói rách..

Tác phẩm còn đi sâu mày mò nâng niu trân trọng khát vọng sống và khát vọng niềm hạnh phúc của con người. Tràng luôn khao khát khô cứng phúc, ẩn sau hình ảnh người đàn ông thô kệch chỉ biết làm lụng kia là con người cũng khao khát yêu thương. Trong thực trạng kéo xe thóc mà anh vẫn buông lời trêu đùa để làm cho đời sống thêm vui tươi, anh đùa có ai đẩy xe cùng thì mời bữa cơm xôi giò. Tưởng chỉ là lời trêu đùa vu vơ mà có cô ra đẩy cùng, sau một hồi ăn hai chập bánh đúc thì người đàn bà ấy theo về làm vợ.

Anh cũng nghĩ đến cái đói đang kinh khủng kia liệu mình có vượt qua được không mà còn thêm cô vợ, nhưng anh “ chậc kệ ”. Niềm khao khát niềm hạnh phúc khiến anh vượt qua cái đói cái chết sắp tới. Trên đường về nhà khuôn mặt anh vui quái đản .Thậm chí Kim Lân còn đẩy trường hợp truyện đến đỉnh điểm khi miêu tả sự kinh ngạc của Tràng. Bản thân anh cũng không ngờ rằng việc lấy vợ của mình lại thuận tiện đến thế, chỉ có bốn bát bánh đúc mà thành vợ thành chồng.

Cho nên khi dẫn vợ về nhà, nhìn thấy vợ giữa nhà Tràng vẫn không khỏi ngỡ ngàng. Đến giờ đây hắn còn ngờ ngợ không phải ” ra hắn đã có vợ rồi đấy ư … ”. Đến sáng hôm sau nhìn thấy ngôi nhà lâu nay đã được thu dọn thật sạch bởi bàn tay người vợ. Hắn không hết bàng hoàng kinh ngạc việc hắn đã có vợ đến ngày hôm nay hắn vẫn ngỡ ngàng như không phải. Điều đó còn được bộc lộ ở ý thức bám lấy sự sống rất can đảm và mạnh mẽ biểu lộ ngay ở nhân vật người vợ nhặt. Chỉ có một câu tầm phơ tầm phào mà cô gật đầu theo không người đàn ông lạ lẫm ấy để làm vợ, cô bỏ lỡ cả ý thức về danh dự và nhân phẩm của bản thân mình .

Không chỉ vậy mà Kim Lân còn đi sâu vào ý thức vun đắp cho đời sống mái ấm gia đình của từng nhân vật. Với Tràng thì anh đã nhận ra được nghĩa vụ và trách nhiệm và bổn phận của mình với hai người phụ nữ trong mái ấm gia đình. Còn nhân vật thị thì hôm sau đã trọn vẹn biến hóa trở nên hiền hậu, đúng mực “ nhà cửa, sân vườn thời điểm ngày hôm nay đều được quét tước, thu gọn thật sạch ngăn nắp. Mấy chiếc quần áo rách nát như tổ đỉa vẫn vắt khươm, mươi niên ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp .

Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch ”. Đó là sự đổi khác ngỡ ngàng của thị và quang cảnh nhà sáng hôm sau. Còn bà cụ Tứ thì tạo thêm niềm tin cho những con về những dự tính trong tương lai, việc nuôi gà, khuyên răn con ai giàu ba họ ai khó ba đời, có ăn lên làm ra thì con cháu sau này mới sung sướng. Và sau cuối có lẽ rằng tình thương bà dành cho đứa con trai và con dâu được biểu lộ rõ nhất ở hình ảnh bát cháo cám. Người mẹ già không có gì trong thực trạng này, bà lật đật chạy xuống nhà bếp với khuôn mặt vui vẻ bê nồi cháo cám lên ăn .Kim Lân đã thắp lên cho mái ấm gia đình bà cụ Tứ niềm tin kỳ vọng vào sự thay đổi. Trong bóng tối đau thương tấm lòng cao đẹp của người mẹ vẫn tỏa sáng.

Dẫu biết rằng việc lấy vợ lấy chồng là việc không nên diễn ra vào lúc đói khát như lúc này nhưng bà cụ Tứ vẫn vui tươi gật đầu “ thôi thì những con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng ”. Kim Lân đã khéo tìm cho người mẹ già đau khổ ấy một câu nói chứa đựng sự từng trải của người già, sự bao dung của người mẹ và ý niệm đẹp tươi của người Nước Ta : ” dù có đắng cay cực khổ như thế nào vẫn mừng lòng tiếp đón con người, luôn luôn trân trọng con người ” .Vì vậy lúc nhìn lại người vợ nhặt bà không thấy cô ta lạ lẫm nữa mà đã trở thành người thân thuộc : ” bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót nó giờ đây là dâu là con trong nhà rồi ”.

Trái tim người mẹ lan rộng ra đảm nhiệm người phụ nữ lạ lẫm, tiếp đón người ấy là con, là người thân trong gia đình, là con dâu. Bà còn nuôi dưỡng niềm tin kỳ vọng cho những đứa con : ” biết thế nào hả con ? Ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Có ra thì con cháu chúng mày về sau … ”. Bà an ủi con dâu : ” kể có ra làm dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo cũng chả ai người ta chấp chi cái lúc này. Cốt làm thế nào chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá ” .Câu nói tận tình và bao dung của người mẹ đã làm vơi đi bao tủi cực bẽ bàng của người vợ nhặt.

Chỉ một câu nói ấy thôi cũng đủ làm cho người phụ nữ Tràng nhặt về hoàn toàn có thể ngẩng cao đầu bước vào ngôi nhà này với tư cách là một người vợ, một người con dâu .Nếu như trong tác phẩm “ Chí Phèo ”, ” Lão Hạc ” nhân vật chính muốn giữ được nhân phẩm thì phải chết, cái chết đau đớn nhưng làm lòng họ cảm thấy thanh thản hơn. Hay chị Dậu trong “ Tắt đèn ” của Ngô Tất Tố cùng quẫn bởi sưu cao thuế nặng phải bán sữa mình cho ông cụ già 80 tuổi và cái kết là chị chạy ra ngoài trời tối không biết sẽ ra sao … những tác phẩm viết trước cách mạng tháng Tám thường chưa tìm thấy lối thoát cho nhân vật của mình .

Không những vậy Kim Lân đã biểu lộ được niềm tin thâm thúy vào phẩm giá, lòng nhân hậu của con người. Nhân vật Tràng chỉ là một người trẻ tuổi làm thuê nuôi mẹ, nhưng sẵn sàng chuẩn bị bỏ tiền cho người đàn bà lạ lẫm bốn bát bánh đúc. Anh độ lượng, bao dung hào phóng và rất chu đáo với mẹ già. Anh sống luôn có tình nghĩa có nghĩa vụ và trách nhiệm. Niềm tin ấy còn được biểu lộ ở người vợ nhặt, sự đổi khác từ khi bước vào nhà. Nếu lúc trước người đàn bà này chua chát, chỏm lỏm thì giờ lại hiền hậu cư xử đúng mực lễ phép. Lúc mới gặp bà cụ Tứ thì chào hỏi, e thẹn. Sáng hôm sau thì đảm đang quét dọn nhà cửa .

Đặc biệt trong bữa cơm sáng, mặc dầu là bát cháo cám nhưng cô vẫn và vào miệng mặc dầu mắt hơi nheo, bởi cô không lỡ làm mất đi niềm vui của người mẹ già khốn khổ kia. Có lẽ bộc lộ thâm thúy niềm tin vào đời sống phải được trải qua bà cụ Tứ. Bà hết lòng yêu thương con cháu, hết mực cảm thông với nàng dâu trong thực trạng này. Không những thế bà còn trăn trở những tháng ngày tiếp theo đứa con trai và con dâu bà sẽ sống ra làm sao. Nhưng vượt lên thực trạng ở trước mắt bà vẫn luôn tạo niềm vui trong mái ấm gia đình bằng những lời khuyên răn .

Bằng cái nhìn mới lạ về đời sống của người dân sau cách mạng tháng Tám, Kim Lân đã vẽ lên một bức tranh hiện thực về nạn đói và cái chết đầy bi thương của những năm tháng này. Qua đó bộc lộ giá trị nhân đạo thâm thúy góp thêm phần tạo nên thành công xuất sắc trong tác phẩm. Từ đó ta thấy được chiều sâu so với những tác phẩm văn học hiện thực trước đó .

Số 4: Phân tích giá trị nhân đạo Vợ nhặt

“Vợ nhặt” là 1 trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và của văn chương Việt Nam sau 5 1975. Truyện được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Truyện “Vợ nhặt” có trị giá nhân đạo và trị giá hiện thực thâm thúy. Thông qua cảnh huống “nhặt vợ” tác giả đã cho ta thấy nhiều điều về cuộc sống tăm tối của những công nhân trong nạn đói 5 1945 cũng như khát vọng sống mãnh liệt và tinh thần về phẩm giá rất cao ở họ.

Giá trị nhân đạo là 1 trị giá căn bản của những tác phẩm văn chương chân chính, được hình thành bởi niềm thông cảm thâm thúy đối với nỗi đau của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào bản lĩnh trỗi dậy ở họ.

Trước hết tác phẩm biểu lộ niềm xót xa đối với cuộc sống thê thảm của người dân nghèo trong nạn đói 5 1945. Qua ấy tố giác tội ác tày đình của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói. Bối cảnh chính của truyện “vợ nhặt” diễn ra ở 1 xóm cư ngụ, ở ấy cái đói đang hành tội mọi người, cái đói thấm tới tận cái nhìn vào cảnh vật. Con đường từ trong xóm chợ vào trong bến thì “ngẳng nghiu”, cái thứ ánh sáng trước tiên hắt vào truyện là thứ ánh sáng chạng vạng lờ mờ, ko ra ánh sáng nhưng cũng ko ra tối hẳn của buổi chiều tà “nhập nhoạng”. Trên tuyến đường và thứ ánh sáng lèo tèo đấy hiện lên vật vờ ủ rũ những bóng người đói “xanh xám như những bóng ma”.

Người sống nằm bộn bề khắp lều chợ, ngay cạnh là những “cái thây nằm còng queo bên đường”. Trên ngọn cây là hình ảnh bầy quạ “cứ gào lên từng hồi thê thiết”, vang vọng bên tai là tiếng trống thúc thuế dập dồn, những đứa trẻ thì ngồi ở xó đường, ko buồn động đậy…1 cuộc sống ngấp nghé bên bờ cái chết với cái ko khí “vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.

Thứ 2, tác phẩm đi sâu khám phá và trân trọng nâng niu khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống của con người, trước tiên là Tràng. Khi nhặt được vợ về Tràng chẳng phải ko biết “chợn”, “thóc gạo này tới cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi ko lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi anh ta “tắc lưỡi”: “Chậc, kệ!”. Sau tiếng ấy mọi sự bỡn cợt ngay lập tức khép lại nhường chỗ cho sự trang nghiêm và anh ta đã được bồi hoàn: “Trong 1 khi Tràng nghe đâu quên hết những cảnh sống ê chề […], 1 cái gì ấy mới mẻ, xa lạ chưa từng thấy ở người con trai nghèo khó đấy, nó ấp ôm mơn man khắp da thịt Tràng, tợ hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”. Cuộc đời cùng khốn tới mức việc sắm có 2 hào dầu cũng là cái gì ấy phí phạm lắm “2 hào ấy, đắt quá”, “vợ mới vợ miếc thì cũng phải cho nó lạc quan 1 tí chứ, chẳng nhẽ chưa tối đã súc ngay vào”. Bữa nay là 1 ngày khác hẳn, 1 sự kiện của đời Tràng, ngày Tràng có vợ và nhà cần phải sáng.

Tiếp ấy là tinh thần bám lấy sự sống rất mạnh bạo ở đối tượng người vợ nhặt. Thị chấp thuận bỏ dở tinh thần về danh dự để theo ko Tràng. Như vậy tình cảnh ai oán 1 mặt đẩy con người vào chỗ quên cả danh dự để còn đó, mặt khác nó lại làm biểu lộ lòng ham sống mãnh liệt của những con người hầu dưới đáy xã hội như thị. Tất cả mọi người đều có tinh thần vun vén cho cuộc sống mới. Ngẫm nghĩ về đối tượng bà cụ Tứ ta còn thấy hóa ra chính bà lão gần đất xa trời này lại là người đề cập chờ đợi, tới mai sau nhiều hơn tất cả: từ việc đan cái phên ngăn riêng chỗ của vợ chồng đứa con cho bí ẩn, truyện “lúc nào có tiền ta sắm lấy đôi gà”… “Mẹ chồng nàng dâu dọn dẹp cửa nhà, sáng hôm sau thị dậy từ sớm dọn dẹp nhà cửa cho gọn ghẽ, ngăn nắp” nghe đâu người nào nấy đều nghĩ rằng “thu xếp cửa nhà cho quang đãng, nề nếp thì cuộc đời họ có thể sẽ khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”. Qua tác phẩm ta còn thấy niềm chờ đợi về 1 cuộc đổi đời của các đối tượng được trình bày qua hình ảnh lá cờ đỏ bay phơi phới vương vấn trong tâm não Tràng.

Giá trị nhân đạo của truyện còn được trình bày ở lòng tin thâm thúy vào sự đổi đời, vào lòng nhân từ của con người. Tràng tuy có vẻ vẻ ngoài xấu xí mà cái đẹp tiềm tàng bên trong của Tràng ấy là sự thông cảm, lòng thương người, sự phóng khoáng tỷ mỉ. Tràng đãi thị 4 bát bánh đúc, sắm 1 chai dầu và sắm cho thị 1 cái thúng con, ấy là hành động rất phổ biến mà nó trình bày nghĩa tình và thái độ phận sự của Tràng.

Còn về người “vợ nhặt” thì đã có sự chuyển đổi về tính cách, trước lúc về làm vợ Tràng, thị hiện lên với 1 vẻ chao chát, chỏng lỏn. Trước câu hò của Tràng thị cong cớn nói “có khối cơm trắng mấy giò ấy”, lần thứ 2 gặp Tràng thị sưng sỉa nói: “Điêu! Người thế nhưng điêu”…Nhưng người phụ nữ đấy sau lúc về làm vợ Tràng đã chỉnh sửa, vẻ chao chát chỏng lỏn thuở đầu mất tích, thay vào ấy là sự hiền lành đúng đắn, sự ý tứ trong cách cư xử: Thị đi theo Tràng với dáng bộ đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tang, nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt, lúc về tới nhà thị chỉ dám ngồi mớm ở mép giường.

Sáng hôm sau dậy từ sớm dọn dẹp nhà cửa…. Còn về bà cụ Tứ, bà thương con rất đỗi, thông cảm cho hoàn cảnh của nàng dâu mới “có gặp bước gieo neo đói khổ này người ta mới lấy tới con mình, nhưng con mình mới có được vợ”, bà quan tâm trong cách hành động với con dâu “con ngồi xuống đây, ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Bà luôn trằn trọc về bổn phận làm mẹ của mình “chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là khi trong nhà ăn nên làm nổi…còn mình thì”, trong kẽ mắt lèm nhèm của bà rỉ xuống 2 dòng nước mắt. Bà luôn cố tạo thú vui cho gia đình giữa cảnh sống thê thảm. Người mẹ đấy sống vì con và tìm thấy ý nghĩa của đời mình trong sự chăm lo vun đắp cho con.

Nổi trội nhất trong trị giá nhân đạo của tác phẩm ấy là niềm tin cậy thâm thúy vào con công nhân, vào bản năng sống, khát vọng sống mạnh bạo của họ. Tình cảm nhân đạo của tác phẩm có nét mới mẻ hơn so với tình cảm nhân đạo được trình bày trong nhiều tác phẩm văn chương hiện thực trước cách mệnh.

Bài Vợ nhặt của Kim Lân
Bài Vợ nhặt của Kim Lân

Số 5: Phân tích giá trị nhân đạo của Vợ nhặt

Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Kim Lân , in trong tập Con chó xấu xí. Vợ nhặt có tiền thân là truyện Xóm ngụ cư viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Bản thảo chưa in thì bị thất lạc, sau này được tác giả viết lại.

Đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Kim Lân trong tác phẩm Vợ nhặt là mặc dù không có một dòng nào tố cáo trực tiếp tội ác của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật, hình ảnh của chúng cũng không một lần xuất hiện, nhưng tội ác của chúng vẫn hiện lên một cách rõ nét. Khung cảnh làng quê ảm đạm, tối tăm. Những căn nhà úp súp . Những xác chết nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người…

Cuộc sống của người nông dân bị đẩy đến bước đường cùng. Tính mạng của con người lúc này thật rẻ rúng, người ta “ nhặt” được vợ giống như nhặt cái rơm, cái rác ở bên đường. Thông qua tình huống truyện lấy vợ của Tràng, Kim Lân không chỉ nói lên được thực trạng đen tối của xã hội Việt Nam trước Cách mạng , mà còn thể hiện được thân phận đói nghèo, bị rẻ rúng của người nông dân trong chế độ xã hội cũ.

Kim Lân đã viết về cuộc sống của người nông dân Việt Nam trước cách mạng với một niềm đồng cảm, xót xa, day dứt. Nếu không có một tình cảm gắn bó thực sự với người nông dân , không trải qua những năm tháng đen tối ấy, không dễ gì viết nên được những trang sách xúc động và thấm thía đến thế.

Giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện ở chỗ, nhà văn đã phát hiện và miêu tả những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Mặc dù bị xô đẩy đến bước đường cùng, mấp mé bên cái chết, nhưng những người nông dân vẫn cưu mang, giúp đỡ nhau, chia sẻ cho nhau miếng cơm, manh áo. Hiện thực cuộc sống càng đen tối bao nhiêu.

Kim Lân cũng thể hiện một sự trân trọng đối với khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và mái ấm gia đình của người nông dân.

Trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng bà cụ Tứ và vợ chồng Tràng vẫn luôn hướng tới một cuộc sống gia đình đầm ấm, hạnh phúc ( cần chú ý những chi tiết diễn tả tâm trạng bà cụ Tứ, thái độ của Tràng, vợ Tràng trong bữa ăn, rồi nhà cửa , sân vườn đều được quét tước , thu dọn sạch sẽ, gọn ghẽ).Một cái gì mới mẻ, khác lạ đang đến với mỗi thành viên trong gia đình bà cụ Tứ và hé mở trước họ một niềm tin về tương lai.

Vợ nhặt là một tác phẩm thành công của nhà văn Kim Lân. Qua tác phẩm này, chúng ta không chỉ nhận thấy tài năng của nhà văn, sự hiểu biết sâu sắc, cặn kẽ của ông về cuộc sống của người nông dân, mà điều quan trọng hơn đó chính là cái tâm, cái tấm lòng gắn bó thiết tha, sâu nặng của Kim Lân đối với những người lao động nghèo khó trước Cách mạng.

Số 6: Phân tích giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt

“Vợ nhặt” là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của Kim Lân. Truyện kể về chuyện anh cu Tràng nhà nghèo ở xóm ngụ cư đã nhặt được vợ khi trận đói đang diễn ra kinh khủng, người chết đói đầy đường.

Truyện ngắn đã phản ánh nỗi đau khổ và niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc của người nghèo, qua đó nói lên số phận con người trong xã hội cũ, cái đêm trước khi cách mạng bùng nổ. Giá trị lớn nhất của truyện “Vợ nhặt” là giá trị nhân đạo.

Cho đến nay trong nền văn học văn minh Nước Ta chưa có tác phẩm nào viết về trận đói năm Ất Dậu – 1945 thật hay, thật xúc động như truyện ngắn ” Vợ nhặt ” của Kim Lân. Cảm hứng nhân đạo dào dạt từ đầu truyện đến cuối truyện .Truyện đã phản ánh nỗi đau khổ tột cùng của nhân dân ta, của người nghèo trong trận đói năm Ất Dậu. Đoàn người từ những vùng Tỉnh Nam Định, Tỉnh Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau lên ” xanh xám như những bóng ma ” nằm bộn bề khắp những lều chợ. Quạ đen đậu trên những ngọn cây bay vù lên ” như những đám mây đen ” trên nền trời.

Mùi gây của xác người vẩn lên khắp xóm chợ. Người chết đói như ngả rạ. Sáng nào cùng ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường !Đói và chết đói đâu chỉ riêng ai ! Mẹ con Tràng, cái nhà ” vắng teo đứng rúm ró ” trên mảnh vườn đầy cỏ dại. Của nhà là một tấm phên rách nát. Niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất. Cơ ngơi ấy đã làm cho nàng dâu mới tuyệt vọng tiếng thở dài “. Bà cụ Tứ ” mặt bủng beo sầm uất “. Anh cu Tràng ” bước căng thẳng mệt mỏi “, cái đầu ” trọc nhẵn chúi về đằng trước ” với bao lo ngại chật vật.

Đám trẻ con xóm chợ, trước đây tinh nghịch thế, giờ đây chúng nó ” ngồi ủ rủ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích “. Trước nhà kho trên tỉnh có mấy chị con gái ” ngồi vêu ra ” .Đặc biệt nhân vật ” thị “, cái đói đã cướp đi tổng thể. Không họ tên, tuổi tác, không mái ấm gia đình, bạn bè. Không quê nhà bản quán. Hình hài tiều tụy, xơ xác đáng thương. Áo quần ” tả tơi như tổ đỉa “. Thị ” gầy sọp hẳn đi “, khuôn mặt lưỡi cày ” xám xịt “, chỉ còn thấy hai con mắt. Con đường phía trước của thị là vực thẳm, là chết đói. Cái đói đã cướp đi của thị tổng thể. Chị nghe Tràng nói ” muốn ăn gì thì ăn “, thấy anh ta vỗ vỗ vào túi khoe ” rích bố cu “, hai con mắt ” trũng hoáy ” của thị tức thì ” sáng lên “.

Tình tiết thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, trông có vẻ như thô lỗ, nhưng không đáng chê, trái lại rất đáng thương. Thị đang đói, thị đã nhịn đói nhiều ngày, thị cần được ăn, thị cần được sống. Kim Lân rất nhân hậu khi nói về thị, khi nói về sự đói khát của người nghèo .Cái xóm ngụ cư càng về chiều ” càng xơ xác, heo hút ” nhà cửa ” úp súp, tối om “, những khuôn mặt ” hốc hác u tối “. Bữa cơm đón nàng dâu mới của bà cụ Tứ là một nồi cháo cám.

Người con gái giữa trận đói như một thứ vứt đi, hoàn toàn có thể ” nhặt ” được. Thị lấy chồng không một quả cau, không một lá trầu, chẳng có ” quan tám tiền cheo, quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau “. Về nhà chồng, đứng trước mẹ chồng, nàng dâu mới ” khép nép “, ” cúi mặt xuống tay vân vê tà áo đã rách nát bợt “. Tối tân hôn, ” tiếng khóc tỉ tê ” của những mái ấm gia đình có người mới chết đói vọng đến thô thiết não nùng .Sáng tinh mơ tiếng trống thúc thuế dội lên từng hồi ” dồn dập, vội vã “. Bằng những chi tiết cụ thể rất hiện thực, rất nổi bật, Kim Lân đã biểu lộ tình cảm xót thương, lo âu cho số phận của người nghèo nàn trước hoạn nạn, trước nạn đói đang hoành hành.

Đáng quý hơn nữa, ông đã đứng về phía nhân dân, về phía người nghèo vạch trần và tố cáo tội ác của Nhật – Pháp bắt nhổ lúa trồng đay, bắt đóng thuế, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, gây ra trận đói năm Ất Dậu làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói .Truyện ” Vợ nhặt ” đã biểu lộ một tấm lòng trân trọng so với niềm hạnh phúc của con người. Cách kể của Kim Lân rất hóm hỉnh về trường hợp anh cu Tràng nhặt vợ và những diễn biến xoay quanh nàng dâu mới. Chỉ một vài câu ” tầm phơ tầm phào “, Tràng đãi thị 4 bát bánh đúc thế mà hắn nhặt được vợ ! Nhặt được vợ nhưng hắn cũng phải liều : ” Chặc, kệ ! “.

Hắn nghĩ thóc gạo này nuôi thân còn khó, lại còn ” đèo bòng “. Trên đường dẫn vợ mới nhặt được về nhà xin phép mẹ già, anh cu Tràng vui như mở cờ trong bụng. Kim Lân tả đôi mắt và nụ cười của anh con trai cục mịch này để làm điển hình nổi bật niềm niềm hạnh phúc mới nhặt được vợ. Tràng ” phởn phơ khác thường “. Hắn ” tủm tỉm cười nụ “. Hai mắt ” sáng lên lấp lánh lung linh “. Có lúc cái mặt hắn ” cứ vênh lên tự đắc với mình ” .Hình ảnh Tràng và thị đi bên nhau trông ” hay đáo để “. Tràng khoe hai hào dầu, rồi cười hì hì, bị thị ” phát đánh đét ” vào sống lưng với câu mắng yêu : ” Khỉ gió “.

Tràng nghển cổ thổi tắt phụt ngọn đèn con, bị thị mắng : ” Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ ! “. Những diễn biến ấy rất hay nói lên tình yêu mạnh hơn cái chết .Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới thật vô cùng cảm động. Vượt qua phong tục tập quán ăn hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba mâm, bà cụ Tứ thương người đàn bà lạ lẫm, thương con và thương mình, bà nhận nàng dâu mới : ” Ừ thôi thì những con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng “. Tình thương của bà bát ngát, bà nghĩ ” Người ta có gặp bước khó khăn vất vả, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được … “.

Bà êm ả dịu dàng yêu thương gọi nàng dâu mới là ” con “. Lòng đầy thương xót, bà nói với hai con : ” Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá … ” .Qua đó, ta càng hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao động nghèo nàn đứng trước tai hoạ, họ đã dựa vào nhau, san sẻ tình thương, san sẻ vật chất cho nhau để vượt qua mọi thử thách, hướng tới ngày mai với niềm tin và hy vọng : ” Ai giàu ba họ, ai khó ba đời … “. Người đọc cảm thấy ngọn đèn ” vàng đục ” chiếu sáng trong mái lều đêm tân hôn của vợ chồng Tràng là ngọn đèn hy vọng và niềm hạnh phúc ấm no .Bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết cụ thể mang giá trị nhân đạo tiêu biểu vượt trội nhất trong truyện ” Vợ nhặt “.

Bà cụ Tứ gọi là ” chè khoán … ngon đáo để “. Bà tự hào nói với hai con là ” xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy “. Trong bữa cháo cám, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cảnh mái ấm gia đình mẹ con vô cùng ” đầm ấm hòa hợp ” niềm hạnh phúc. Sau này, vợ chồng con cháu Tràng hoàn toàn có thể có những bữa cơm nhiều thịt cá ngon lành hơn, nhưng họ không khi nào hoàn toàn có thể quên được bữa cháo cám buổi sáng hôm ấy .Vị cháo cám ” đắng chát ” mà lại ngọt ngào tiềm ẩn bao tình thương của mẹ. Kim Lân sống thân thiện người nhà quê, ông hiểu thâm thúy tâm lí, tình cảm của họ.

Ông đã làm cho những thế hệ mai hậu biết cái đắng chát trong cuộc sống của ông cha, cảm nhận được cái hương đời, cái tình thương của lòng mẹ, … mà không một thứ cao lương mĩ vị nào hoàn toàn có thể sánh tày ?Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất về sự đổi đời của người dân cày Nước Ta. Mừng cho anh cu Tràng có vợ, bọn trẻ con tinh nghịch reo lên : ” Chông vợ hài “. Việc Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm chợ cảm thấy ” có một cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào đời sống đói khát, tăm tối của họ “. Bà cụ Tứ vui sướng vì con trai đã có vợ, bà như trẻ lại, nhẹ nhõm, tươi tỉnh ” rạng rỡ hẳn lên “. Vợ Tràng trở thành người đàn bà ” hiền hậu đúng mực “. Tràng như từ một giấc mộng bước ra. Anh ngủ dậy cảm thấy ” êm ái lửng lơ “. Hạnh phúc đến quá giật mình. Việc hắn có vợ sau một ngày một đêm mà hắn ” vẫn ngỡ ngàng như không phải ” .

Sự đổi đời còn được biểu lộ ở cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước thu dọn lại nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạt. Hai cái ang nước được kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hót sạch. Mẹ chồng, nàng dâu mới, con trai, ai cũng muốn góp thêm phần sửa sang tổ ấm mái ấm gia đình niềm hạnh phúc. Họ không nghĩ đến cái chết mà hướng về sự sống, về niềm hạnh phúc và sự đổi đời.

Tràng cảm thấy hắn đã ” nên người “, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo ngại cho vợ con sau này !Một chi tiết cụ thể rất hay là vợ Tràng sau khi nghe tiếng trống thúc thuế đã báo tin ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Còn anh cu Tràng thấy trong óc mình ” lá cờ đỏ bay phấp phới “. Cách mạng sắp đến. Nạn đói sẽ bị đẩy lùi. Hình ảnh lá cờ đỏ cuối truyện không chỉ tô đậm giá trị nhân đạo mà còn tạo nên âm hưởng sáng sủa đầy chấn động, như một dự cảm về ngày mai ấm no, niềm hạnh phúc .

Hạnh phúc của Tràng và niềm vui của mẹ già tuy muộn mằn nhưng đáng quý và đáng trân trọng biết bao ! Cổ kim đông tây đã có ai nhặt được vợ ? Cái đói do bọn Nhật, Pháp gây ra đã cướp đi toàn bộ tính mạng con người và phẩm giá con người. Một thực sự được chứng minh và khẳng định : niềm khao khát tình yêu và niềm hạnh phúc, khao khát sống mạnh hơn cái chết. Cái vị đời ngọt ngào và tình người ấm cúng đã tỏa sáng giá trị nhân đạo truyện ” Vợ nhặt ” mà ta trân trọng .

Bài Vợ nhặt của Kim Lân
Bài Vợ nhặt của Kim Lân

Số 7: Phân tích giá trị nhân đạo của bài Vợ nhặt

“Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và của văn học Việt Nam sau năm 1975. Truyện được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Truyện “Vợ nhặt” có giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực sâu sắc. Thông qua tình huống “nhặt vợ” tác giả đã cho ta thấy nhiều điều về cuộc sống tối tăm của những người lao động trong nạn đói năm 1945 cũng như khát vọng sống mãnh liệt và ý thức về nhân phẩm rất cao ở họ.

Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng trỗi dậy ở họ.

Trước hết tác phẩm bộc lộ niềm xót xa đối với cuộc sống thê thảm của người dân nghèo trong nạn đói năm 1945. Qua đó tố cáo tội ác tày trời của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói. Bối cảnh chính của truyện “vợ nhặt” diễn ra ở một xóm ngụ cư, ở đó cái đói đang hành hạ mọi người, cái đói thấm đến tận cái nhìn vào cảnh vật. Con đường từ trong xóm chợ vào trong bến thì “khẳng khiu”, cái thứ ánh sáng đầu tiên hắt vào truyện là thứ ánh sáng nhập nhoạng mù mờ, không ra ánh sáng mà cũng không ra tối hẳn của buổi chiều tà “chạng vạng”.

Trên con đường và thứ ánh sáng leo lét ấy hiện lên vật vờ ủ rũ những bóng người đói “xanh xám như những bóng ma”. Người sống nằm ngổn ngang khắp lều chợ, ngay cạnh là những “cái thây nằm còng queo bên đường”. Trên ngọn cây là hình ảnh bầy quạ “cứ gào lên từng hồi thê thiết”, văng vẳng bên tai là tiếng trống thúc thuế dồn dập, những đứa trẻ thì ngồi ở xó đường, không buồn nhúc nhích…một cuộc sống mấp mé bên bờ cái chết với cái không khí “vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.

Thứ hai, tác phẩm đi sâu khám phá và trân trọng nâng niu khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống của con người, trước hết là Tràng. Khi nhặt được vợ về Tràng không phải không biết “chợn”, “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi anh ta “tặc lưỡi”: “Chậc, kệ!”. Sau tiếng đó mọi sự đùa cợt lập tức khép lại nhường chỗ cho sự nghiêm trang và anh ta đã được đền bù: “Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề […], một cái gì đó mới mẻ, lạ lẫm chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”. Cuộc đời cùng khốn đến mức việc mua có hai hào dầu cũng là cái gì đó hoang phí lắm “hai hào đấy, đắt quá”, “vợ mới vợ miếc thì cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chẳng nhẽ chưa tối đã súc ngay vào”. Hôm nay là một ngày khác hẳn, một sự kiện của đời Tràng, ngày Tràng có vợ và nhà cần phải sáng.

Tiếp đó là ý thức bám lấy sự sống rất mạnh mẽ ở nhân vật người vợ nhặt. Thị chấp nhận bỏ qua ý thức về danh dự để theo không Tràng. Như vậy hoàn cảnh bi đát một mặt đẩy con người vào chỗ quên cả danh dự để tồn tại, mặt khác nó lại làm bộc lộ lòng ham sống mãnh liệt của những con người ở dưới đáy xã hội như thị. Tất cả mọi người đều có ý thức vun đắp cho cuộc sống mới.

Ngẫm nghĩ về nhân vật bà cụ Tứ ta còn thấy hóa ra chính bà lão gần đất xa trời này lại là người nói đến hy vọng đến ngày mai nhiều hơn tất cả: từ việc đan cái phên ngăn riêng chỗ của vợ chồng đứa con cho kín đáo, truyện “khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà”… “Mẹ chồng nàng dâu thu dọn cửa nhà, sáng hôm sau thị dậy từ sớm quét dọn nhà cửa cho ngăn nắp, gọn gàng” hình như ai nấy đều nghĩ rằng “thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể sẽ khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”. Qua tác phẩm ta còn thấy niềm hy vọng về một cuộc đổi đời của các nhân vật được thể hiện qua hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới vấn vương trong tâm trí Tràng.

Giá trị nhân đạo của truyện còn được thể hiện ở lòng tin sâu sắc vào sự đổi đời, vào lòng nhân hậu của con người. Tràng tuy có vẻ bề ngoài xấu xí nhưng cái đẹp tiềm ẩn bên trong của Tràng đó là sự cảm thông, lòng thương người, sự hào phóng chu đáo, Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc, mua một chai dầu và mua cho thị một cái thúng con, đó là hành động rất bình thường nhưng nó thể hiện tình nghĩa và thái độ trách nhiệm của Tràng. Còn về người “vợ nhặt” thì đã có sự biến đổi về tính cách, trước khi về làm vợ Tràng, thi hiện lên với một vẻ chao chát, chỏng lỏn.

Trước câu hò của Tràng thị cong cớn nói “có khối cơm trắng mấy giò đấy”, lần thứ hai gặp Tràng thị sưng sỉa nói: “Điêu! Người thế mà điêu”…Nhưng người đàn bà ấy sau khi về làm vợ Tràng đã thay đổi, vẻ chao chát chỏng lỏn ban đầu biến mất, thay vào đó là sự hiền hậu đúng mực, sự ý tứ trong cách cư xử: Thị đi theo Tràng với dáng điệu đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tang, nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt, khi về đến nhà thị chỉ dám ngồi mớm ở mép giường. Sáng hôm sau dậy từ sớm quét dọn nhà cửa…. Còn về bà cụ Tứ, bà thương con hết mực, cảm thông cho tình cảnh của nàng dâu mới “có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ”, bà ân cần trong cách hành động với con dâu “con ngồi xuống đây, ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”.

Bà luôn trăn trở về nghĩa vụ làm mẹ của mình “chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi…còn mình thì”, trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt. Bà luôn cố tạo niềm vui cho gia đình giữa cảnh sống thê thảm. Người mẹ ấy sống vì con và tìm thấy ý nghĩa của đời mình trong sự chăm lo vun vén cho con.

Nổi bật nhất trong giá trị nhân đạo của tác phẩm đó là niềm tin tưởng sâu sắc vào con người lao động, vào bản năng sống, khát vọng sống mạnh mẽ của họ. Tình cảm nhân đạo của tác phẩm có nét mới mẻ hơn so với tình cảm nhân đạo được thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học hiện thực trước cách mạng.

Số 8: Phân tích giá trị nhân đạo Vợ nhặt

Nhà văn Kim Lân (sinh 5 1920), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, người làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Kim Lân viết ko nhiều, mà được coi là thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn chương Việt Nam đương đại. Ông rất sành về cảnh quê, người quê và toàn cầu của hương đồng gió nội này cùng với 1 tấm lòng tha thiết hiếm có đã hình thành những trang viết thâm thúy, cảm động nhất của ông.

Con người có 1 đời văn hóa khá dài đấy (trên 5 mươi 5) ko hiểu kĩ tính thế nào mới trình làng vẻn vẹn có 2 tập truyện ngắn: Nên vợ nên chồng (1955) và Con chó xấu xí (1962). Nhưng nghệ thuật ko quen đo đếm ở số lượng. Chỉ 1 truyện như Vợ nhặt (rút từ tập Con chó xấu xí) – vốn được coi là truyện ngắn tuyệt vời nhất của Kim Lân – cũng có thể là niềm ước mong của nhiều người cầm bút. Thiên truyện có 1 giai đoạn sáng tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu thuyết Xóm cư ngụ (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở thời gian trước Cách mệnh). Hoà bình lập lại, do đơn đặt hàng của báo Văn nghệ, Kim Lân mới viết lại. Riêng điều ấy thôi đã thấy Vợ nhặt mang dấu ấn của cả 1 giai đoạn nghiền ngẫm dài lâu về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật.

Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim lân muốn biểu lộ 1 ý kiến nhân đạo thâm thúy của mình. Đấy là lúc nhà văn phát xuất hiện vẻ đẹp diệu kì của công nhân trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì tình cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn mến thương nhau và hi vọng vào mai sau. Không phải trùng hợp. Vợ nhặt trước tiên là thiên truyện về cái đói. Chỉ mấy chữ “Cái đói đã tràn tới…” đủ gợi lên hoài niệm thất kinh cho người xứ Việt về 1 hiểm hoạ mập của dân tộc đã quét đi xấp xỉ gần 1 phần mười dân số trên quốc gia này. Đúng như chữ nghĩa Kim Lân, hiểm hoạ đấy “tràn tới”, nghĩa là mạnh như thác dữ.

Cách tả của nhà văn càng gây 1 ám ảnh thê lương qua 2 loại hình ảnh: con người 5 đói và ko gian 5 đói. Ông đặc tả thực dung người 5 đói “gương mặt hốc hác tối tăm”, mà đáng sợ nhất là có đến 2 lần ông so sánh người với ma: “Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ vận động âm thầm như những bóng ma”. Kiểu so sánh đấy trình bày 1 giác quan đặc thù của Kim Lân về cái thời kinh rợn: ấy là cái thời nhưng ranh giới giữa người và ma, cái sống và cái chết chỉ mỏng manh như sợi tóc, cõi âm nhoà vào cõi dương, trần giới ngấp nghé mồm vực của âm cung.

Trong ko gian của toàn cầu bộn bề người sống kẻ chết đấy, cái tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cộng với “mùi gây của xác người” càng tô đậm cảm giác tang thương thê lương. Quả là cái đói đã lộ cực kỳ mạnh huỷ diệt cuộc sống đến mức kinh khủng. Trong 1 bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào ấy 1 mối thực tâm là táo tợn. Chao ôi, toàn những chuyện cười ra nước mắt: 4 bát bánh đúc ngày đói nhưng làm nên 1 mối tình, nồi cám ngày đói đủ làm cỗ tân hôn… Ngòi bút khắc khổ của Kim Lân ko tránh né nhưng săn đuổi hiện thực tới đáy, tạo cho thiên truyện 1 cái “phông” đặc thù, nhàu nát, u ám, tối tăm và phải nói là có phần nghiệt ngã.

Nhưng ân cần chính của nhà văn chẳng phải là dựng lên 1 bản cáo trạng trong Vợ nhặt , nhưng dồn về phía khác, quan trọng hơn. Từ trong bóng tối của tình cảnh Kim Lân muốn rạng ngời 1 chất thơ đặc thù của hồn người. Mảng tối của bức tranh hiện thực đau buồn là 1 phép đòn bẩy cho mảng sáng của tình người tỏa ra ánh hào quang đặc thù của 1 chủ nghĩa nhân bản thiết tha, cảm động. Trong văn học người ta thường nhấn mạnh chữ tâm hơn chữ tài. Song nếu cái tài ko đạt tới 1 mức nào ấy thì cái tâm kia làm sao biểu lộ ra được. Ở Vợ nhặt cũng thế: tấm lòng tha thiết của Kim Lân sở dĩ biến chuyển người đọc trước tiên là nhờ tài dựng truyện và sau ấy là tài dẫn truyện.

Tài dựng truyện ở đây là tài hình thành 1 cảnh huống lạ mắt. Ngay cái đầu đề Vợ nhặt đã bao chứa 1 cảnh huống như thế. Trong 1 bài giải đáp phỏng vấn, Kim Lân háo hức giảng giải:”nhặt nghĩa là lượm lặt, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói 5 1945, người dân lao động hình như khó người nào thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm thôn. Trong tình cảnh đấy, trị giá 1 con người thật cực kỳ rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ có mấy bát bánh đúc ngoài chợ – đúng là “nhặt” được vợ như tôi nói trong truyện”. Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã biến thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng cảnh huống truyện còn có 1 mạch khác: chủ thể của cái hành động “nhặt” kia là Tràng, 1 gã trai nghèo, xấu xí, dân cư ngụ, đang thời đói khát nhưng tự dưng lấy được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ.

Lạ đến mức nó hình thành hàng loạt những ngạc nhiên cho láng giềng, bà cụ Tứ – mẹ Tràng và chính bản thân Tràng nữa: “tới hiện thời hắn vẫn còn ngờ ngợ như chẳng phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi ấy ư?”. Cảnh huống trên gợi ra 1 hiện trạng tinh tế của lòng người: hiện trạng cheo leo khó nói – cái gì cũng chợp chờn, như có, như ko. Đây là thú vui hay buồn? Nụ cười hay nước mắt?… Cái thế đặc thù của tâm cảnh này đã khiến ngòi bút truyện ngắn của Kim Lân mang dáng dấp của thơ ca.

Dựng truyện hay chưa đủ. Tài dựng truyện giống như tài của anh châm ngòi pháo. Có lửa tốt, châm đúng ngòi mà dây pháo có nhiều quả điếc thì vẫn cứ xịt như thường. Cho nên tài dựng truyện, phải gắn với tài dẫn truyện nữa mới tạo sự thâm thúy, lôi cuốn. Tài dẫn truyện của Kim Lân trình bày qua lối sử dụng tiếng nói dân cày đặc thù thành công, qua lời văn áp sát vào tận cái lõi của đời thực khiến mỗi câu chữ như được “bứng” ra từ chính cái chất liệu ngồn ngộn của cuộc sống. Song quan trọng nhất vẫn là ở văn pháp hiện tình thực lí. Phcửa ải nói, cảnh huống truyện trên kia thật đắc địa cho Kim Lân trong việc khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh tế ở mỗi đối tượng. Rất đáng chú tâm là 2 trường hợp: bà cụ Tứ và Tràng. Đây là 2 kiểu phản ứng tâm lí trước 1 tình thế giống hệt, song ko người nào giống người nào.

Anh cu Tràng cục súc, ngù ngờ, có nào ngờ lại là 1 chàng trai thực thụ hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc mập quá, đột ngột quá, khiến Tràng hết mực ngỡ ngàng. Cơn say hạnh phúc thăng hoa trong tâm linh, khiến Tràng mất trọng lượng, lửng lơ trong cõi ảo, cõi mơ. Ngòi bút thực của Kim Lân từng tỉnh thế, hiện thời ngòi bút trữ tình của ông cũng sao nhưng say thế. Nói đúng hơn, nhà văn phải đứng giữa cái say/tỉnh đấy mới “cảm thụ” đến tận đáy cuộc đời, mới tạo ra được những áng “thần bút” như văn Kim Lân trong “Vợ nhặt”. Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng mau chóng đẩy thành thú vui hữu hình chi tiết. Đấy là thú vui về hạnh phúc gia đình – 1 thú vui giản dị mà mập lao ko gì sánh nổi. Chẳng thế nhưng 1 người lừng danh như Secnưsepxki từng ước mong: “Tôi chuẩn bị đánh đổi cả sự nghiệp nếu biết rằng trong 1 căn phòng bé ấm áp nào ấy, có 1 người phụ nữ đang ngóng đợi tôi về bữa ăn tối”.

Chàng thanh niên nghèo đói của Kim Lân đã thực thụ đạt được 1 thú vui như thế: “Tự dưng hắn thấy hắn thương mến gắn bó với cái nhà của hắn lạ đời. Hắn đã có 1 gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở ấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. 1 nguồn vui sướng, phấn khởi đột ngột tràn trề trong lòng”. 1 thú vui thật cảm động, lộn lạo cả hiện thực lẫn giấc mơ. Điều này thì anh Tràng của Kim Lân may mắn hơn Chí Phèo của Nam Cao: hạnh phúc đã nằm gọn trong tay Tràng.Còn Thị Nở mới chập chờn tầm tay Chí Phèo thì đã bị cái xã hội ám muội cướp mất. Có 1 cụ thể rất đắc của Kim Lân: “Hắn phăm phăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm 1 việc gì để dự phần sửa chữa lại căn nhà”.

So với cái dáng “ngật ngưỡng” khởi đầu tác phẩm, hành động “phăm phăm” này của Tràng là 1 đột biến quan trọng, 1 bước đột phá thay đổi cả số mệnh lẫn tính cách của Tràng: từ đau khổ sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang tinh thần. Chẳng thế nhưng Kim Lân đã thấy đủ điều kiện đặt vào dòng nghĩ suy của Tràng 1 tinh thần phận sự thâm thúy: “Hiện thời hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có phận sự lo âu cho vợ con sau này”. Tràng thật sự “phục sinh tâm hồn” ấy là trị giá mập lao của hạnh phúc.

Bình luận truyện Vợ nhặt, ko hiểu sao có 1 câu rất quan trọng của Kim Lân nhưng nhiều người hay bỏ dở. Đấy là cấu kết truyện “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phơi phới…”. 1 cấu kết như thế, chứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là dấu hiệu thật mới mẻ về 1 sự thay đổi xã hội rất mập lao, có ý nghĩa quyết định với sự thay đổi của mỗi số mệnh con người. Đây là điều nhưng các tác phẩm văn chương hiện thực công đoạn 1930 – 1945 ko nhận ra được. Số mệnh con người trong văn chương hiện thực đồng nghĩa với tuyệt vọng. Nền văn chương mới sau Cách mệnh tháng 8 đã đặt vấn đề và khắc phục vấn đề số mệnh con người theo 1 cách khác, sáng sủa hơn, nhiều hi vọng hơn.

Quá trình tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp hơn đối tượng Tràng. Nếu ở đứa đàn ông, thú vui làm chủ, tâm lí tăng trưởng theo chiều thẳng đứng thích hợp với 1 chàng rễ trẻ tuổi đang tràn ngập hạnh phúc thì ở bà mẹ, tâm lí đi lại theo kiểu gấp khúc hợp với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của người già trải đời và nhân từ. Cũng như đàn ông, mở màn tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng. Anh đàn ông ngỡ ngàng trước 1 cái đã biết, còn bà mẹ ngỡ ngàng trước 1 cái hình như ko hiểu được. Cô gái hiện ra trong nhà bà phút đầu là 1 hiện tượng lạ.

Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi vấn: “Quái sao lại có người phụ nữ nào ở trong nhà đấy nhỉ ? Người phụ nữ nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục nhưng. Ai thế nhỉ?” Rồi lại:”Ơ hay, thế là thế nào nhỉ?”. Trái tim người mẹ có đàn ông vốn rất mẫn cảm về điều này, vậy vì sao Kim Lân lại để cho đối tượng người mẹ ngờ ngạc lâu tới thế? 1 chút quá trớn, 1 chút “kịch” trong ngòi bút Kim Lân chăng? Không, nhà văn của đồng nội vốn ko quen tạo dáng. Đây là nỗi đau của người viết: chính là sự cùng quẩn của tình cảnh đánh mất ở người mẹ sự mẫn cảm ấy.

Nếu ở Tràng, sự ngỡ ngàng đi thẳng đến thú vui thì bà cụ Tứ, sự đi lại tâm lý phức tạp hơn. Sau lúc hiểu ra mọi chuyện, bà lão”cúi đầu nín lặng”. Sự nín lặng đầy nội tâm. Đấy là nỗi niềm xót xa, lo, thương lộn lạo. Tình thương của bà mẹ nhân từ mới bao dong làm sao: “… chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này ko?”. Trong chữ “chúng nó” người mẹ đã đi từ lòng thương đàn ông sang con dâu. Trong chữ cúi đầu, bà mẹ tiếp thu hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của 1 chuỗi đời vất vả, bằng tinh thần thâm thúy trước tình cảnh, khác hẳn đàn ông tiếp thu hạnh phúc bằng 1 nhu cầu, bằng 1 ước mong ý thức phất phới.

Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành 1 hiện trạng tâm lí miên man day dứt. Tác giả xoáy vào dòng ý tưởng của bà mẹ: nghĩ tới phận sự làm mẹ chưa tròn, nghĩ tới ông lão, tới con gái út, nghĩ tới nỗi khổ đời của mình, nghĩ tới mai sau của con…, để dồn tụ bao lo âu, mến thương trong 1 câu nói giản dị:”chúng mày lấy nhau khi này, u thương quá…” Trên bộn bề những nỗi buồn lo, thú vui của mẹ vẫn cố ánh lên. Cảm động thay, Kim Lân lại để cái ánh sáng kỳ diệu ấy tỏa ra từ… nồi cháo cám. Hãy nghe người mẹ nói: “chè đây – Bà lão múc ra 1 bát – chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chữ “ngon”này cần phải cảm thụ 1 cách đặc thù.

Đấy chẳng phải là cảm xúc về vật chất, (cảm xúc về cháo cám) nhưng là cảm xúc về ý thức: ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chính mình cho cái chất người: trong bất cứ tình cảnh nào, nghĩa tình và hi vọng chẳng thể bị xoá sổ, con người muốn sống cho ra sống, và cái chất người trình bày ở cách sống nghĩa tình và hi vọng. Nhưng Kim Lân chẳng phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là thú vui khổ thân, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với miếng cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ”.

Thành công của nhà văn là thấu hiểu và phân tách được những hiện trạng tâm lí khá tinh tế của con người trong 1 tình cảnh đặc thù. Biết vượt lên tình cảnh vẫn là 1 vẻ đẹp ý thức của những người nghèo khó. Cái thế vượt tình cảnh đấy hình thành nội dung nhân đạo lạ mắt và cảm động của tác phẩm.

Thông điệp của Kim Lân là 1 thông điệp mang ý nghĩa nhân bản. Trong tiểu thuyết lừng danh Thép đã tôi thế ấy, nhà văn Nga Nhicôlai Oxtrôpxki đã để cho đối tượng Paven Coocsaghin ngẫm nghĩ: “Hãy biết sống cả những lúc cuộc đời phát triển thành chẳng thể chịu được nữa”. Vợ nhặt là bài ca về tình người hầu những người nghèo khó đã “biết sống” như con người ngay giữa thời túng đói quay quắt.

Thông điệp này đã được Kim Lân chuyển hóa thành 1 thiên truyện ngắn tuyệt vời với cách dựng cảnh huống truyện và dẫn truyện lạ mắt, nhất là ngòi bút mô tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và lôi cuốn.

Bài Vợ nhặt của Kim Lân
Bài Vợ nhặt của Kim Lân

Số 9: Phân tích giá trị nhân đạo của Vợ nhặt

Tác phẩm ” Vợ nhặt ” của nhà văn Kim Lân có giá trị nhân đạo vô cùng thâm thúy trải qua trường hợp truyện độc lạ đó chính là trường hợp nhặt được vợ. Tác giả cho tất cả chúng ta thấy đời sống tối tăm của người dân lao động trong nạn đói lịch sử dân tộc năm 1945 và những khát khao mãnh liệt của họ. Giá trị nhân đạo là một giá trị tạo nên thành công xuất sắc của tác phẩm văn học chân chính. Nó tạo nên bởi niềm cảm thông thâm thúy của tác giả với những nhân vật của mình.

Những người nông dân khốn khổ, bần hàn trong đời sống .Tác phẩm thể hiện rõ những xúc cảm xót xa so với kiếp người thê thảm trong nạn đói lịch sử vẻ vang làm chết hai triệu người. Thông qua đó, tác giả muốn tố cáo tội ác của thực dân Pháp đã gây ra nạn đói này làm cho dân ta khốn khổ.

Câu chuyện được viết trong một xóm ngụ cư, toàn những người dân tứ xứ về ở chung tập hợp thành một xóm ngụ cư mới, trong sự nghèo nàn đến tận cùng của cảnh vật xung quanh và những nếp nhà lụp sụp .Trên con đường về xóm ngụ cư ấy ánh sáng hiện lên vô cùng sầm uất, leo lét những con người đi lại như những bóng ma. Xác người chết chưa kịp chôn cất nằm bộn bề, bên cạnh những người sống vật vờ không có nơi cư trú, mùi xác thối bốc lên, rồi từng bầy quạ đến cứ gào lên thê thiết.

Bên cạnh đó văng vẳng là tiếng trống thúc thuế, những đứa trẻ thì ngồi trong những xó đường không buồn nhúc nhích bởi chúng quá đói và căng thẳng mệt mỏi nên không còn sức lực lao động để vui đùa chạy nhảy nữa .Trong toàn cảnh nghèo khó ấy một người xấu xí như nhân vật Tràng, hai con mắt ti hí, quai hàm bạnh ra, đường nét thô kệch làm nghề kéo xe thuê, nghèo khó sống cảnh mẹ góa con côi lại nhặt được vợ. Giá trị nhân đạo của truyện ngắn còn biểu lộ trong lòng tin thâm thúy vào việc những nhân vật trong tác phẩm tin cậy vào tương lai, sự đổi đời.

Nhân vật anh cu Tràng tuy có vẻ bên ngoài xấu xí nhưng tiềm ẩn bên trong là sự cảm thông biết thương mến người khác, che chở trợ giúp người khác trong cảnh khốn khổ .Trong thực trạng nghèo khó nhưng Tràng vẫn hào phóng đãi thị bốn bát bánh đúc, rồi lần sau gặp Tràng cũng quan sát người phụ nữ này có vẻ như thị gầy hơn, cái áo rách nát tả tơi cắp cái thúng con. Có lẽ từ tích tắc đó Tràng đã nổi lên sự trắc ẩn trong lòng, muốn cho người phụ nữ kia phụ thuộc vào mình cả hai cùng lệ thuộc vào nhau, để nỗ lực qua cơn đói khổ này. Đó chính là sự nhân đạo trong con người Tràng.

Trong khi nạn đói đang hoành hành, người chết như ngả rạ, thêm một người là thêm một miệng ăn, nhưng Tràng vẫn sẵn sàng chuẩn bị nuôi nấng thị, đưa thị về nhà cùng chung sống .Bà cụ Tứ mẹ của anh cu Tràng cũng là người có tấm lòng nhân văn, nhân đạo. Bà thương mến con hết mực. Bà cụ Tứ Open với dáng người đã già cả sống lưng còng, mắt kèm nhèm, nhìn từ xa bà thấy trong nhà mình có một người phụ nữ bà tưởng mình trông gà hóa cuốc. Nhưng khi lại gần tới nhà thấy người phụ nữ kia chào mình bằng u, rồi nghe anh cu Tràng ra mắt ” Đây là nhà con ” thì bà cụ Tứ không còn hoài nghi gì nữa .

Bà thoáng chút thương xót cho số phận của mình và con trai, người ta cưới vợ trong lúc ăn nên làm ra, còn mình thì cưới nhau trong lúc nghèo khó, túng quẫn. Nhưng rồi bà lại vui tươi gật đầu bà nghĩ rất tích cực ” Có gặp thực trạng khốn khó như lúc này thì người ta mới lấy tới con mình, mà con mình mới có vợ “. Bà cụ Tứ nhìn mọi chuyện vô cùng thấu đáo tích cực. Bà thấy nhiều niềm vui hơn là nỗi buồn trong việc anh cu Tràng nhặt được vợ trong thời kỳ đói khổ .

Chính người mẹ khốn khổ này đã luôn tạo không khí vui tươi cho mái ấm gia đình để con trai và con dâu của bà vui tươi mà cố gắng nỗ lực phấn đấu vượt qua thời kỳ đói khổ này. Người mẹ già khốn khổ ấy luôn miệng động viên con trai con dâu của mình. Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời, siêng năng làm ăn biết đâu nhờ trời thương lại cho khấm khá .Sáng hôm sau, mái ấm gia đình anh cu Tràng từ khi lấy vợ đã đổi khác hẳn nhà cửa ngăn nắp, vườn tược được nhổ sạch cỏ, mọi thứ thật sự là một mái ấm gia đình dù còn nhiều đơn sơ nghèo khó. Nhưng nó vẫn bộc lộ đó là một mái ấm gia đình, đầm ấm sum vầy.

Trong bữa cơm mái ấm gia đình, hình ảnh nồi cháo cám đã ám ảnh người đọc vô cùng, nhưng trong mâm cơm đạm bạc nghèo nàn ấy ai cũng nói tới tương lai, nói tới chuyện vui. Họ cùng nhau kỳ vọng vào đời sống mới .Giá trị nhân đạo của tác phẩm tạo ra sự niềm tin cho những con người lao động nghèo nàn, khốn khó. Nó chính là bản năng sống, khát khao được niềm hạnh phúc của mỗi con người. Nó biểu lộ sự nhân văn, nhân đạo của tác giả Kim Lân khi đồng cảm với người nông dân, nhân vật của mình .

Số 10: Phân tích giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt

“Vợ nhặt” là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của Kim Lân. Truyện kể về chuyện anh cu Tràng nhà nghèo ở xóm ngụ cư đã nhặt được vợ khi trận đói đang diễn ra kinh khủng, người chết đói đầy đường. Truyện ngắn đã phản ảnh nỗi đau khổ và niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc của người nghèo, qua đó nói lên số phận con người trong xã hội cũ, cái đêm trước khi cách mạng bùng nổ. Giá trị lớn nhất của truyện “Vợ nhặt” là giá trị nhân đạo.

Cho đến nay trong nền văn học hiện đại Việt Nam chưa có tác phẩm nào viết về trận đói năm Ất Dậu – 1945 thật hay, thật xúc động như truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. Cảm hứng nhân đạo dào dạt từ đầu truyện đến cuối truyện.

Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới thật vô cùng cảm động. Vượt qua phong tục tập quán ăn hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba mâm, bà cụ Tứ thương người đàn bà xa lạ, thương con và thương mình, bà nhận nàng dâu mới: “Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Tình thương của bà mênh mông, bà nghĩ “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”.

Bà dịu dàng yêu thương gọi nàng dâu mới là “con”. Lòng đầy thương xót, bà nói với hai con: “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá…”.

Qua đó, ta càng hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao động nghèo khổ đứng trước tai hoạ, họ đã dựa vào nhau, san sẻ tình thương, san sẻ vật chất cho nhau để vượt qua mọi thử thách, hướng tới ngày mai với niềm tin và hi vọng: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời…”. Người đọc cảm thấy ngọn đèn “vàng đục” chiếu sáng trong mái lều đêm tân hôn của vợ chồng Tràng là ngọn đèn hi vọng và hạnh phúc ấm no.

Bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất trong truyện “Vợ nhặt”. Bà cụ Tứ gọi là “chè khoán… ngon đáo để”. Bà tự hào nói với hai con là ” xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Trong bữa cháo cám, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này.

Cảnh gia đình mẹ con vô cùng “đầm ấm hòa hợp” hạnh phúc. Sau này, vợ chồng con cái Tràng có thổ có những bữa cơm nhiều thịt cá ngon lành hơn, nhưng họ không bao giờ có thể quên được bữa cháo cám buổi sáng hôm ấy.

Vị cháo cám “đắng chát” mà lại ngọt ngào chứa đựng bao tình thương của mẹ. Kim Lân sống gần gũi người nhà quê, ông hiểu sâu sắc tâm lí, tình cảm của họ. Ông đã làm cho những thế hệ mai hậu biết cái đắng chát trong cuộc đời của ông cha, cảm nhận được cái hương đời, cái tình thương của lòng mẹ,… mà không một thứ cao lương mĩ vị nào có thể sánh tày?

Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất về sự đổi đời của người dân cày Việt Nam. Mừng cho anh cu Tràng có vợ, bọn trẻ con tinh nghịch reo lên: “Chông vợ hài”. Việc Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm chợ cảm thấy “có một cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ”.

Bà cụ Tứ vui sướng vì con trai đã có vợ, bà như trẻ lại, nhẹ nhõm, tươi tỉnh “rạng rỡ hẳn lên”. Vợ Tràng trở thành người đàn bà “hiền hậu đúng mực”. Tràng như từ một giấc mộng bước ra. Anh ngủ dậy cảm thấy “êm ái lửng lơ”. Hạnh phúc đến quá bất ngờ. Việc hắn có vợ sau một ngày một đêm mà hắn “vẫn ngỡ ngàng như không phải”.

Sự đổi đời còn được thể hiện ở cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước thu dọn lại nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạt. Hai cái ang nước được kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hót sạch. Mẹ chồng, nàng dâu mới, con trai, ai cũng muốn góp phần sửa sang tổ ấm gia đình hạnh phúc. Họ không nghĩ đến cái chết mà hướng về sự sống, về hạnh phúc và sự đổi đời. Tràng cảm thấy hắn đã “nên người”, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này!

Một chi tiết rất hay là vợ Tràng sau khi nghe tiếng trống thúc thuế đã báo tin ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Còn anh cu Tràng thấy trong óc mình “lá cờ đỏ bay phấp phới”. Cách mạng sắp đến. Nạn đói sẽ bị đẩy lùi. Hình ảnh lá cờ đỏ cuối truyện không chỉ tô đậm giá trị nhân đạo mà còn tạo nên âm hưởng lạc quan đầy chấn động, như một dự cảm về ngày mai ấm no, hạnh phúc.

Hạnh phúc của Tràng và niềm vui của mẹ già tuy muộn mằn nhưng đáng quý và đáng trân trọng biết bao! cổ kim đông tây đã có ai nhặt được vợ? Cái đói do bọn Nhật, Pháp gây ra đã cướp đi tất cả tính mạng và phẩm giá con người. Một sự thật được khẳng định: niềm khao khát tình yêu và hạnh phúc, khao khát sống mạnh hơn cái chết. Cái vị đời ngọt ngào và tình người ấm áp đã tỏa sáng giá trị nhân đạo truyện “Vợ nhặt” mà ta trân trọng.

Bài Vợ nhặt của Kim Lân
Bài Vợ nhặt của Kim Lân

Tổng kết

Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 10 mẫu phân tích giá trị nhân đạo của Vợ nhặt chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 12.

0/5 (0 Reviews)
Chúng tôi tạo ra Top10timkiem.vn nhằm mục đích cung cấp cho người đọc những thông tin, liệt kê một cách chi tiết nhất về mọi lĩnh vực trong cuộc sống.