Tổng hợp các bài mẫu phân tích giá trị hiện thực trong Vào phủ chúa Trịnh tác giả Lê Hữu Trác một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 10 mẫu phân tích giá trị hiện thực trong Vào phủ chúa Trịnh chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!
Dàn ý phân tích giá trị hiện thực trong Vào phủ chúa Trịnh
I. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Lê Hữu Trác và đoạn trích tiêu biểu Vào phủ chúa Trịnh: Không chỉ là một danh y mà còn là một nhà văn, nhà thơ. Vào phủ chúa Trịnh là một đoạn trích tiêu biểu trong Thượng kinh kí sự
– Khái quát giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh: Đoạn trích mang giá trị hiện thực sâu sắc
II. Thân bài
- Giá trị hiện thực là gì?
– Hiện thực: Sự thật đời sống
– Giá trị hiện thực trong tác phẩm văn học: sự phản ánh hiện thực đời sống một cách chân thực, rõ nét, tạo nên ý nghĩa cho tác phẩm
– Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là đoạn trích mang giá trị hiện thực rõ nét bởi Thượng kinh kí sự được viết theo thể kí với đặc điểm ghi chép câu chuyện, sự kiện có thật tương đối hoàn chỉnh mà tác giả trực tiếp chứng kiến
- Giá trị hiện thực được biểu hiện trong đoạn trích
a) Phản ánh bức tranh hiện thực về quang cảnh nơi phủ chúa
– Vào phủ phải trải qua nhiều cửa gác, những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau
+ Vườn hoa: “cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”
+ Khuôn viên: có điếm “Hậu mã quân túc trực” để chúa sai phái đi truyền lệnh
– Trong phủ:
+ Những nhà: “Đại đường”, “Quyền bổng”, “Gác tía” với kiệu son võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy
+ Đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là mâm vàng, chén bạc
– Nội cung thế tử:
+ Phải qua năm sáu lần trướng gấm
+ Trong phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm, màn là che ngang sân, “xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”
⇒ Quang cảnh nơi phủ chúa vô cùng sa hoa, giàu sang và thâm nghiêm, đây là quang cảnh thường thấy trong lịch sử bởi vua chúa là những người đứng đầu cai trị đất nước
b) Phản ánh hiện thực cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa
Cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa với rất nhiều những nhiều lễ nghi, khuôn phép, đầy quyền uy, sa hoa nhưng thiếu sinh khí cúng được tác giả phản ánh chân thực:
– Phủ chúa là nơi sa hoa, thâm nghiêm và cũng là nơi đầy uy quyền: Tiếng quát tháo, truyền lệnh, quy tắc lễ nghi được thực hiện nghiêm ngặt:
+ Khi tác giả được cáng vào phủ: “tên đầy tớ chạy đàng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”
+ Khi xem bệnh không được thấy mặt thế tử, chỉ làm theo mệnh lệnh do quan chánh đường truyền tới, trước khi vào xem bệnh cho thế tử phải lạy bốn lạy, muốn xem thân hình của thế tử phải có viên quan nội thần đến xin phép
+ Lắm kẻ hầu người hạ: ChúaTrịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh, Thế tử bị bệnh có đến 7, 8 thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có mấy người đứng hầu hai bên
– Phủ chúa là nơi thiếu sinh khí:
+ Sự thâm nghiêm kiểu mê cung làm tăng ám khí, lối sống cung cấm khiến con người: Tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi, gân thòi xanh, chân tay gầy gò…”, “Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”
+ Phản ánh sự thật vị chú nhỏ Trịnh Cán sống trong sự sa hoa nhưng điều cơ bản nhất lại thiếu, đó là sức sống
⇒ Cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa được tác giả khắc họa chân thực phù hợp với cung cách sinh hoạt của vua chúa thời kì bấy giờ, đồng thời cho thấy được uy quyền và sự lộng hành của chúa Trịnh lấn át cả cung vua
⇒ Phản ánh sự lộng hành của chúa Trịnh
- Nét nghệ thuật thể hiện thành công giá trị hiện thực của đoạn trích
– Thể kí: ghi chép sự thật
– Ghi chép tỉ mỉ, chi tiết, chân thực sự việc
– Kết hợp ghi chép sự việc một cách chính xác với bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc
III. Kết bài
– Khẳng định giá trị hiện thực tiêu biểu của đoạn trích
– Nhận định vai trò và tầm quan trọng của giá trị hiện thực đối với thành công của đoạn trích và toàn bộ tác phẩm: Góp một phần không nhỏ làm nên thành công, đưa tác phẩm Thượng kinh kí sự trở thành tác phẩm kí nghệ thuật đích thực đầu tiên ở Việt Nam
Top 10 mẫu phân tích giá trị hiện thực trong Vào phủ chúa Trịnh
Số 1: Phân tích giá trị hiện thực trong Vào phủ chúa Trịnh
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, vẽ nên bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền thế của phủ chúa Trịnh. Tố Hữu sử dụng lối kể trực tiếp ngôi thứ nhất, tiếp cận lối sống xa hoa của chúa Trịnh, qua đó nhà văn phản ánh, phê phán lối sống xa hoa vô cùng cũng như sự lạm quyền của nhà Chúa.
Chính Hữu đã miêu tả bức tranh cuộc sống xa hoa trong phủ chúa, cảnh phủ chúa hiện lên vô cùng xa hoa, tráng lệ và cũng rất trang nghiêm. dãy hành lang uốn lượn, nối tiếp nhau, không gian xung quanh được bao bọc bởi cây cối tươi tốt, chim hót líu lo, hoa nở, gió thổi hương hoa ”, bên trong Phủ Chúa gồm có: Hậu cung. đồn quân đang sử dụng, kiến trúc tinh xảo, đẹp đẽ, sảnh lớn lầu tía, sách cao, rộng, đồ ăn ngon, mâm bát thếp vàng … Cho nội.
Cung điện của thái tử, bạn phải vượt qua 5 hoặc 6 chướng ngại vật để vào được một căn phòng rất lớn Được trang trí sang trọng, ở giữa phòng có một cái bẫy bằng vàng, bên hông hang có một chiếc ghế rồng sơn son thếp vàng màu đỏ son, trên ghế được trang trí bằng đệm gấm … Qua đây có thể thấy được bài trí của hoàng cung là một nơi vô cùng xa hoa và lộng lẫy, không nơi nào có thể sánh được.
Không chỉ có vẻ ngoài xa hoa, tráng lệ mà lễ nghi, nếp sống trong phủ Chúa cũng không kém phần trang nghiêm, ngay cả đi đứng, nói năng cũng vô cùng tao nhã. Trong phủ Chúa có một số loại quan lại và nhiều người hầu, mỗi người có một nhiệm vụ. Chính Hữu Trác đã phải trải qua rất nhiều thủ tục để có thể vào viện thăm thái tử, “muốn vào hoàng cung thì phải có thẻ, chỉ có thánh mới được vào”, phải qua mấy lần, bạn phải đợi một đơn đặt hàng để nhập.
Khi bước vào, vào nơi muốn khám bệnh cho thái tử phải làm lễ lạy bốn lạy. Máy móc phục vụ trong phủ Chúa đều đông đúc nhộn nhịp “người gác cửa lập tức báo hiệu động, người trong tiếng quan làm việc như mắc cửi, vệ sĩ canh giữ cửa cung, các vị danh y của 6 cung, hai viện., trầu cau đứng quanh thánh nhân ”, đám người hầu và người trong cung xúm xít quanh thái tử.
Tất cả những chi tiết trên cho thấy phủ chúa Trịnh lộng lẫy, xa hoa, uy nghi và có cách tiếp cận rất lịch sự, tôn nghiêm. Chúa Trịnh Sâm được tôn làm thánh, “thánh ở đấy”, chúa Trịnh can được tôn làm thái tử, “phục vụ huyết mạch trong cung cho thái tử”, cuộc khám bệnh của thái tử được tổ chức rất nhanh chóng, rất nhanh Thúc thúc và phải tuân theo một loạt các quy tắc, nếp sống với lễ tiết, quân luật trong cung nghiêm cho ta thấy sự cao quý, quyền uy tối thượng, cũng như sự lạm quyền của nhà trang nghiêm.
Qua việc tái hiện quang cảnh và nếp sống chốn hoàng cung, Lê Hữu Trác cũng thể hiện thái độ, tâm trạng của mình khi vào phủ chúa. Tác giả phê phán, mỉa mai lối sống xa hoa vật chất thái quá này. Nó được thể hiện gián tiếp qua việc tái hiện bức tranh cung đình, hơn thế nó còn được thể hiện trực tiếp qua những nhận xét, nhận xét của chính tác giả. “Vào đây hay của cải vua chúa, khác người thường”; Tác giả đã viết một bài thơ để ca ngợi khi xem xét hình thức của chữ.
Tác giả thể hiện thái độ phê phán, mỉa mai, qua ngoại hình và bệnh tình của hoàng tử được tác giả miêu tả hết sức chăm chút. Người đọc có thể liên tưởng đến tình trạng suy tàn của triều đình phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ, “hoàng tử núp dưới trướng, tướng quân ăn no mặc ấm nên nội tạng suy nhược, lâu ngày lại ốm đau, thực chất khô, mặt khô, rốn rộng, thời chân tay gầy, đó là nguyên khí ăn mòn quá hư, chế độ phong kiến đã tồn tại hàng nghìn năm, khó chữa khỏi các việc.
Trong 6 phủ, hai viện đã lần lượt khám và chữa bệnh cho thái tử nhưng không hiệu quả, tác giả phê phán những thầy thuốc không đủ năng lực, thiếu bản lĩnh. anh thấy mình rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, nếu chữa khỏi bệnh này, anh sẽ bị danh lợi ràng buộc, không thể trở về Hương Sơn, không thể tiếp tục sống tự do, tự tại. và ẩn dật mà anh ấy yêu thích, nếu không được điều trị, nó không phù hợp với nhận thức về người nổi tiếng của anh ấy.
Hữu Trác là một người thông minh, sáng suốt, ông quyết tâm gác lại lợi ích cá nhân để làm tròn trách nhiệm của một người thầy thuốc, y đức, trách nhiệm nghề nghiệp, lương tâm và tấm lòng đối với cha ông cũng như phẩm chất lương thiện của người bác sĩ được ưu thế. sở thích cá nhân.
Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác mang giá trị hiện thực sâu sắc. Bằng kỹ năng quan sát tinh tế và những ghi chép chi tiết chân thực, tác giả đã để lại bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời cũng bộc lộ thái độ, thái độ khinh bỉ danh Chúa Ba Ngôi. lợi ích riêng của mình.

Số 2: Giá trị hiện thực trong Vào phủ chúa Trịnh
Là công dân Việt Nam tất cả chúng ta đều biết về một vị danh y nổi tiếng thời chúa Trịnh. Tên của là Lê Hữu Trác hay còn được biết đến với cái danh Hải Thượng Lãn Ông. Nếu như còn ngờ ngợ chưa nhớ đến cái tên lừng lẫy trong ngành y này thì chúng ta hãy ngược dòng thời gian với tác phẩm “Vào phủ chúa Trịnh” để có thể biết rõ về một hiện thực của thời đại ấy cũng như phong cách sống của vị danh y một đời vì dân vì nước này.
Trong bút ký của ông thì phủ chúa Trịnh được miêu tả một cách thật xa hoa. Có vẻ như sự xa hoa này là cách mà chúa Trịnh chứng minh cho cuộc sống quyền quý không dung kẻ phàm tục khinh nhờn của bậc vua chúa thời xưa.
Nhưng trong cái bức tranh sống động ấy thì Hải Thượng Lãn Ông lại lạc mình bởi sự khẩn trương gấp gáp từ cái nhìn của người trong cuộc. Có thể nói, ông đã mở đầu cho cuốn hồi ký của mình bằng việc mỉa mai, châm biếm sự lộng quyền của chúa Trịnh thời bấy giờ.
Quang cảnh trong phủ chúa rộng rãi, có những kiến trúc độc đáo cùng thiên nhiên kỳ thú đều được bày biện dọc ngang trong phủ chúa. Dẫu không đi sâu vào việc miêu tả phân tích nhưng bản thân của việc miêu tả đã mang theo một hàm ý phê bình kín đáo về vị chúa mà ông đang phụng hiến.
Tuy nhiên việc xa hoa ấy không dừng lại ở việc miêu tả cảnh tượng trong phủ chúa mà còn làm bản thân nhân vật cảm thấy thật nhỏ bé như việc chúa Trịnh sủng nịnh thần và xa cách kẻ có tài. Đây chính là sự thất vọng và có cả chê trách một hệ thống quan lại bất tài, vô dụng, chỉ biết ăn bám chúa qua góc nhìn của nhân vật.
Và khi ông tiến vào tẩm cung của Thái tử thì nhận định của ông trở nên sắc bén hơn. Bởi chính sự tù túng, sự u tối trong chốn thâm cung là căn nguyên bệnh tật của Thái tử. Một người mang trên mình trang phục gấm vóc, căn phòng được trang trí nạm vàng ròng nhưng bản thân lại mang theo một cổ tử khí trầm trọng.
Cuộc sống xa hoa có ý nghĩa gì nếu như không thể hưởng thụ? Cuộc sống xa hoa đem lại gì nếu như nó không khiến ta thoải mái? Khi đối diện với tử thần thì tất cả chúng ta đều bình đẳng. Chẳng ai có thể dùng vàng bạc, quyền thế mà thỏa thuận với tử thần cả. Bởi vậy những giá trị phù phiếm bên ngoài cũng như cách sống của những con người trong phủ chúa Trịnh đều mang theo tính chất giả tạo, mang theo một cổ thối nát của xã hội cổ đại thời bấy giờ.
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” của Lê Hữu Trác đã vô cùng thành công khi ông mô tả nên một bức tranh xã hội vô cùng chân thực và ngầm phê phán sự rối ren cũng như xa hoa của vị chúa ham quyền thế nhưng vô năng của thời đại này. Đồng thời cũng phê phán một thời đại cường quyền mà nhân dân trở nên thật hèn mọn và ti tiện.

Số 3: Nêu giá trị hiện thực trong Vào phủ chúa Trịnh
“Công danh trước mắt trôi như nước
Nhân nghĩa trong lòng chẳng đổi phương”
Hai câu thơ đó là tâm niệm một đời của một thầy thuốc nổi tiếng vì tài năng và đức độ – Hải Thượng Lãn Ông. Suốt cuộc đời của mình, Hải Thượng Lãn Ông đã luôn sống và hành nghề y theo tâm niệm đó, để không bao giờ bị trói buộc bở danh lợi tầm thường. Sự nghiệp của ông được lưu giữ trong bộ “Hải Thượng y tông tâm lĩnh”. Đặc biệt, phần phụ lục “Thượng kinh kí sự” của tác phẩm không chỉ có giá trị y học mà còn có giá trị về mặt văn học. Một trong những giá trị đó là giá trị về mặt hiện thực. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” rất tiêu biểu cho giá trị hiện thực đó của tác phẩm.
“Thượng kinh kí sự” được viết theo thể kí – thể loại nhằm ghi chép những sự việc, câu chuyện có thật tương đối hoàn chỉnh. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” kể lại việc Lê Hữu Trác được cho vời gấp vào cung để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán – con trai của chúa Trịnh Sâm. Chính ở đây, Lê Hữu Trác đã có dịp quan sát và miêu tả lại chân thực quang cảnh ở kinh đô cũng như cung cách sinh hoạt đầy xa hoa trong phủ Chúa.
Giá trị hiện thực của tác phẩm trước hết được thể hiện qua những chi tiết chân thực, sinh động về cuộc sống trong phủ chúa. Đường vào phủ chúa được bài trí cầu kì, hoa lệ với mấy lần cửa, một vườn hoa với nhiều kì trân dị thảo, tiếng chim hót ríu rít, cùng với một dãy hành lang quanh co. Phủ chúa còn là một nơi uy nghiêm với các điếm Hậu mã luôn túc trực, qua cửa luôn phải trình báo mới được vào.
Cửa ra vào luôn rộn ràng kẻ ra người vào với những viên nội giám giữ cửa và thông truyền, càng nhộn nhịp bởi những kẻ có việc quan đông như mắc cửi. Tất cả đồ dùng bên trong đều bằng sơn son thếp vàng. Trong xã hội phong kiến xưa, chỉ có bậc đế vương mới được quyền dùng màu vàng tươi để biểu hiện quyền lực tột đỉnh của mình.
Chi tiết này đã phản ánh sự thật lịch sử: Quyền lực thực tế giờ đã rơi vào tay chúa Trịnh, vua Lê chỉ còn là vua bù nhìn không hơn không kém. Quang cảnh bên trong nội cung với những màn là, trướng gấm, sập vàng, ghế rồng, hương trầm ngào ngạt lan tỏa là đỉnh cao của sự xa hoa tột bậc. Chỉ bằng một vài chi tiết miêu tả, Lê Hữu Trác đã giúp người đọc hình dung ra một quang cảnh tột đỉnh xa hoa với những cách bài trí cầu kì, mĩ lệ.
Sinh hoạt trong phủ chúa cũng hiện lên với những chi tiết đắt giá. Thế tử Cán vốn là một cậu bé khoảng năm, sáu tuổi nhưng đã có đến bảy tám thầy thuốc hầu bệnh, xung quanh lúc nào cũng có người hầu phục dịch. Nơi ở của thế tử được miêu tả là một chốn “tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả” và phải đi qua độ “năm, sáu lần trướng gấm”. Chỉ một chi tiết nhỏ, Lê Hữu Trác đã giúp người đọc hình dung ra nơi ở của thế tử: tuy xa hoa nhưng lại thiếu sinh khí, không được tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.
Thế tử ngồi trên sập vàng để chờ người thầy thuốc già Lê Hữu Trác quỳ lạy bốn lạy, thăm mạch xong lại phải quỳ lạy bốn lạy nữa mới được lui ra. Khi thầy thuốc lạy xong, thế tử còn khen ngợi: “Ông này lạy khéo”. Một chi tiết tuy nhỏ nhưng cho thấy tài quan sát của Lê Hữu Trác: chỉ là một đứa trẻ nhưng thế tử Cán đã có dáng vẻ của con cháu đế vương với thân phận tôn quý, chỉ chờ người khác hành lễ với mình. Chi tiết đã lột tả được uy quyền tối thượng của nhà chúa và thân phận bé nhỏ, hèn mọn của người thầy thuốc.
Lê Hữu Trác tuy vào cung nhưng cũng không được thấy mặt rồng, tất cả mọi việc làm đều phải thông qua quan Chánh đường và xin mệnh lệnh của các viên nội quan mới được tiến hành. Tất cả đều khắc họa chân thực một chốn cung đình với những lễ nghi, quy tắc thật gò bó, rườm rà, không hề có một chút thoải mái, tự do.
Đối với những quang cảnh và cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa, Lê Hữu Trác chỉ quan sát mọi cảnh vật, ngõ ngách để ghi lại những ghi chép chân thực, chi tiết nhất mà ít trực tiếp bày tỏ thái độ của mình.
Qua những quang cảnh cùng sinh hoạt đó, tác giả ngầm bày tỏ thái độ với cuộc sống trong phủ chúa: ông cảm thấy đây là “quang cảnh khác hẳn người thường”, chẳng khác gì “ngư phủ đào nguyên thuở nào”. Món ăn trong phủ chúa cũng toàn những của ngon vật lạ hiếm thấy, đồ đựng thức ăn toàn những mâm vàng chén bạc cho thấy mức độ xa xỉ quá mức, khác hẳn với cảnh sống lầm than của dân chúng.
Lê Hữu Trác cho rằng căn bệnh của thế tử bắt nguồn từ cuộc sống “trong màn che, trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm” nên thân thể bị suy yếu đi. Tác giả bộc lộ rõ thái độ không đồng tình với một cuộc sống xa hoa, sung sướng tột bậc song lại không có tự do, thoải mái, không có chút sinh khí nào để con người được “sống” thực sự.
Như vậy, giá trị hiện thực sâu sắc của “Vào phủ chúa Trịnh” được tạo nên bởi những chi tiết được ghi chép chân thực, tỉ mỉ song lại có sức mạnh tố cáo, phê phán sâu sắc cuộc sống xa hoa, vương giả, đối lập với cuộc sống lầm than khổ cực của nhân dân khi triều đình phong kiến đã mục ruỗng. Tài năng của Lê Hữu Trác – vị danh y đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn đã được chứng minh qua đoạn trích này.
Số 4: Phân tích giá trị hiện thực trong Vào phủ chúa Trịnh
Hải Thượng Lãn Ông không chỉ là một danh y nổi tiếng mà còn là một nhà văn, nhà thơ lỗi lạc với những đóng góp đáng ghi nhận cho văn học nước nhà. Ông để lại cho đời sự nghiệp y học đồ sộ, nổi bật hơn cả là bộ “Hải thượng Y tông Tâm Lĩnh”, công trình nghiên cứu y học xuất sắc nhất trong thời kì trung đại Việt Nam.
Thượng kinh ký sự và tập ký sự nổi tiếng trong cuộc đời LHT, được xếp ở Quốc bộ “Hải thượng y tông tâm lĩnh”, như một quyển phụ lục bằng tài năng và tấm lòng của mình, LHT đã vén bức màn lịch sử xưa vô cùng đen tối, cho chúng ta thấy được cuộc sống xa hoa khi quyền nơi phủ chúa phản ánh và phê phán hiện thực được thể hiện xuất sắc qua đoạn trích “Vào phủ Chúa Trịnh”.
Mở đầu đoạn trích, bằng cách miêu tả trực tiếp qua việc quan sát và miêu tả gián tiếp qua qảm nhận, tác giả đã mở ra trước mắt chúng ta khung cảnh giàu sang, đẹp đẽ hiếm có của Phủ Chúa Trịnh, “tôi ngẩng đầu lên đâu đâu cũng là cây cối um tùm chim kêu ríu rít danh hoa đua thắm gió đưa thoang thoảng mùi hương”.
Tuy được mời nhưng vị danh y cũng chỉ được đưa vào phủ bằng lối cửa sau, mỗi bước đi đều có người của phủ chúa đi theo. Đi đến đâu tác giả cũng tỉ mỉ để ý, ghi nhận từng sự việc, đi được vào trăm bước qua mấy lần cửa mới đến cái điếm, Hậu mã quân túc trực. Điếm nằm bên cái hồ có những cái cây lạ lùng và hòn đá kỳ lạ, trong điếm cột và bao lớn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp. Càng vào sâu bên trong tác giả càng thêm ngạc nhiên ngỡ ngàng. “ Qua dãy hành lang phía tây đến một cái nhà thật lớn là cao và rộng hai bên là hai cái triệu để vua chúa đi đồ ghi tượng đều sơn son thiếp vàng ở giữa đặt một cái sập thếp vàng.
Trên sập mắc một cái vòng điều. Trước sập là hai bên bày bàn ghế, những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy, đúng là cảnh lầu son gác tía, cung bậc màu vàng tráng lệ, cực điểm mà nhân dân chỉ có thể thấy trong chuyện thần tiên, hoặc trong tưởng tượng. Tức cảnh, LTH khái quát khung cảnh phủ chúa qua mấy câu thơ.
“Lính nghìn cửa gác đòng nghiêm ngặt,
cả trời Nam sang nhất là đây,
Lầu từng gác vẽ tầng mây,
Rèm châu, hiên ngọc bóng mai ánh vào”.
Quang cảnh trong Phủ Chúa quả là một nơi xa hoa, tráng lệ, cực điểm không đâu sánh bằng.
Cung cách sinh hoạt trong phủ Chúa càng khác xa so với chốn dân gian, vào phủ chúa phải có thẻ, có thánh chỉ mới được vào. Guồng máy phục vụ đông đảo, tất lập, người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi, vệ sĩ canh giữ cửa cung, quan truyền chỉ, Hậu mã quân túc trực, các danh y ở 6 cung, hai viện, các phi tần chầu chực xung quanh thánh Thượng, những người hầu và cung tần đứng xúm xít quanh Thế thử. Cách xưng hô trong phủ Chúa vô cùng lễ phép, kính cẩn, “Chúa Trịnh Sâm”, được tôn sùng là thánh, “thánh thượng đang Ngự ở đây”, còn trịnh cán được tôn sùng là thế Tử.
Qua đây ta mới thấy được sự lộng hành của nhà chúa, để tiếp tục tái hiện cung cách xa hoa nơi phủ chúa, Lê Hữu Trác đã tường tận lại một cách chi tiết, lần đầu tiên trong đời với tư cách là khách mời ông được tiếp đại một cách tử tế, được dùng cơm bằng mâm vàng, chén bạc và đồ ăn toàn của ngon, vật lạ… không một lời bình luận, không một lời chê bai, phê phán, tác giả để các chi tiết chỉ toát lên ý nghĩa hiện thực sâu xa của nó và thời kỳ này xã hội phong kiến lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng
Vua Lê nhu nhược chỉ đóng vai trò là bù nhìn, mọi quyền lực đều rơi vào tay Chúa Trịnh và Chúa Trịnh thì lộng hành, ăn chơi sa đọa, không chăm lo đến đời sống của nhân dân, khiến đời sống nhân dân rơi vào cảnh lầm than, cơ cực, nhân dân bất bình, tiếng oan thán vang lên khắp mọi nơi trên đất nước. Khởi nghĩa nông dân nổi lên khắp nơi, nhận thức được sự thối nát của triều đình phong kiến, Lê Hữu Trác đã vượt qua khỏi sự cám dỗ của quyền thế, danh lợi, phú quý.
Ông thấu hiểu được nỗi cơ cực, khó nhọc của nhân dân mà hành y chữa bệnh cứu giúp rất nhiều người.
Là một danh y nổi tiếng, nên ông được mời vào cung chữa bệnh cho thế tử. Vào phủ Chúa Trịnh trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa hoa, vương giả hơn là thăm bệnh, chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử cảm tưởng chỉ như một cái cớ, một dịp may để Lê Hữu Trác phơi bày ra trước mặt chúng ta sự thật đắng lòng, sự ăn chơi xa xỉ, xa đoạ của bọn quan lại.
Chúa Trịnh Sâm ở trong phủ Chúa, trong khi đó ngoài kia có biết bao kiếp người nghèo khổ đang cần tới sự cưu mang giúp đỡ, tới đây lòng ta như nghẹn lại, càng thêm căm hận, phẫn uất.
Quá trình khám bệnh cho thế tử diễn ra rất nhanh, rất gấp, phải tuân theo một lọat các phép tắc. Bằng con mắt quan sát tinh tế của mình, tác giả đã miêu tả nơi Cung cấm một cách khá tỉ mỉ, vừa có giá trị hiện thực sát sao, vừa ngầm chứa thái độ giễu cợt nhẹ nhàng.
“ Đi qua độ 5, 6 lần trướng gấm như vậy đến một cái phòng rộng, ở giữa phòng có một cái sập thếp vàng. Một người ngồi trên sập độ năm, 6 tuổi mặc áo lụa đỏ… nay người rút lại vào màn để tôi xem mạch, Đông cung cho thật kỹ”, qua hình dáng và bệnh t
ình của Đông cung Thế tử được tác giả miêu tả khá kỹ, người đọc có thể liên tưởng đến tình trạng suy thoái của triều đình phong kiến Việt Nam thời đó. Thế từ ở trong trốn màn che trướng phủ ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi và lại bệnh mắc đã lâu, tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò, đó là vì nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức.
Là một người thầy thuốc thông minh Lê Hữu Trác đã cân nhắc, đắn đo rất kỹ trong việc chữa bệnh cho thế tử, để thực trạng bệnh tình và thể lực của Thế Tử ông luận giải bệnh một cách rõ ràng, phê phán cuộc sống quá thừa thãi về vật chất, nhưng lại thiếu khi trời.
Sau khi bắt bệnh xong, ông tin vào khả năng chữa bệnh của mình, còn các danh y của 6 cung, hai viện lúc nào cũng túc trực luân phiên nhau khám chữa bệnh cho thế tử, nhưng không có hiệu quả, từ đó phê phán thầy thuốc hoặc là thiếu năng lực hoặc là thiếu bản lĩnh. Khá biết rõ tình hình căn bệnh của Thế Tử, Lê Hữu Trác lại bị đặt vào tình thế khó xử. Nếu ông chữa khỏi bệnh ngay thì ông sẽ bị danh lợi ràng buộc, sẽ không được trở về Hương Sơn, Hà Tĩnh, sẽ không thể tiếp tục cuộc sống tự do, tự tại, ẩn dật mà ông yêu thích nữa.
Nhưng nếu như không chữa thì sẽ không đúng với lương tâm của một người lương y, ông sẽ cảm thấy vô cùng day dứt, cuối cùng Lê Hữu Trác vẫn quyết định gạt bỏ sở thích cá nhân để làm tròn trách nhiệm của một lương y.
Từ đây ta thấy được cuộc sống ăn chơi, hưởng lạc, xa xỉ, nhưng lại chẳng có tự do, sinh khí. Đó cũng là nguyên nhân gây ra sự ốm yếu của Trịnh cán, qua cách nói mỉa mai, châm biếm của tác giả, ta thấy sự lộng quyền của nhà chúa ăn chơi, hưởng thụ cuộc sống xa hoa, cuộc sống vật chất đầy đủ, giàu sang, nhưng phẩm chất tinh thần, ý chí, nghị lực trống rỗng.
Đó cũng chính là hình ảnh suy yếu, mục rỗng của tập đoàn phong kiến Lê, Trịnh trong những năm cuối thế kỷ 18. Qua cách miêu tả người tả cảnh rất khách quan, trung thực, tác giả phê phán cảnh giàu sang, xa hoa, uy quyền của Chúa Trịnh, đồng thời thể hiện tâm hồn cao thượng, khát khao cuộc sống tự do, không màng danh lợi của danh y Hải Thượng Lãn Ông.
Qua đoạn trích “Vào phủ Chúa Trịnh”, tác giả Lê Hữu Trác đã khắc họa một bức tranh hiện thực về cuộc sống xa hoa, thối nát nơi phủ chúa. Đồng thời bày tỏ thái độ phê phán, lên án, tố cáo hiện thực bất công, phi lý trong xã hội phong kiến đương thời.

Số 5: Giá trị hiện thực trong Vào phủ chúa Trịnh
Được biết đến là một vị danh y giàu lòng bác ái, Lê Hữu Trác còn được giới văn học biết đến với danh xưng Hải Thượng Lãn Ông với những đóng góp xuất sắc của ông trong nền văn học nước nhà. “Thượng kinh ký sự” là một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất của ông đồng thời cũng mang theo góc nhìn lịch sử về một xã hội thối nát trong chế độ cũ.
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” của Lê Hữu Trác được trích từ quyển vĩ bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh nhân sự kiện chúa Trịnh Sâm mời ông ra kinh chữa bệnh cho Thái tử Trịnh Cán. Dưới góc nhìn của người y sư có tâm có tài, ông đã đã mô tả lại bức tranh xa hoa tột độ của giai cấp thống trị, lên án chế độ đã đẩy nhân dân vào cảnh khốn cùng.
Khi bước vào phủ chúa, ông choáng ngợp bởi “cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đưa thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. Tiếp theo đó là những dãy hàng lang quanh co nối tiếp nhau cùng cảnh người qua lại tấp nập, nhộn nhịp. Những điều đó khiến Lê Hữu Trác phải mở rộng tầm mắt về cảnh giàu sang, xa hoa hơn người của vua chúa. Tưởng chừng như những thiên nhiên kỳ thú, hoa thơm cỏ lạ đều tụ hội về đây làm người những tưởng là bồng lai tiên đảo.
Tuy nhiên, tất cả những vẻ đẹp phù phiếm ấy hoàn toàn đối lập khi bước chân vào chốn thâm cung. Nào là đình đài, lầu các được sơn son thếp vàng đầy uy nghiêm nhưng thực chất lại vô cùng ngột ngạt như ở trong một nhà tù nạm vàng. Bởi chính sự xa hoa, rực rỡ đó đã khiến cho nơi đây mất đi vẻ tự nhiên, mất đi sinh khí của con người. Và có lẽ bởi chính điều đó là căn nguyên cho căn bệnh của Thái tử Trịnh Cán.
Một căn bệnh do cái lối sống sung sướng, xa hoa nhưng đầy tù túng khiến nhìn nơi hắn ở tử khí trầm trầm. Thật không ngờ rằng chính màn che trướng phủ, chính những sơn hào hải vị lại là nguyên nhân chủ yếu khiến người ta mắc bệnh nặng.
Đoạn trích này đã lên án gay gắt lối sống xa hoa, hoang dâm vô đạo của chúa Trịnh đồng thời tố cáo tội ác sưu cao thuế nặng của vua chúa quan lại khi bóc lột sức lao động của người nông dân. Đối lập với cảnh xa hoa, phù phiếm, rực rỡ của phủ chúa là cảnh nhân dân sống trong lầm than, khốn cùng tột độ mà phải bán vợ bán con để cầm cự qua ngày. Trong cái hiện thực có cái nhân đạo là một trong những bút pháp tinh tế nhất mà Lê Hữu Trác đã sử dụng trong cuốn ký sự những gì tâm đắc nhất trong y học, trong cuộc đời ẩn cư tị thế, đức cao vọng trọng của mình.
Số 6: Nêu giá trị hiện thực trong Vào phủ chúa Trịnh
Đoạn trích “ Vào phủ chúa Trịnh” vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa quyền quý của chúa Trịnh. Lê Hữu Trác sử dụng người trần thuật ngôi thứ nhất,trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo.
Mở đầu đoạn trích là một sự kiện cụ thể, chân thực. Tính chất kí trong bút pháp của Lê Hữu Trác thể hiện rõ ở cách ghi tỉ mỉ sự việc, thời gian .Nhà văn kết hợp biện pháp kể khách quan với nghệ thuật gợi không khí nhằm làm nổi bật hành động khẩn trương,gấp gáp của nhân vật: “ Mồng một tháng 2. Sáng tinh mơ, tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Tôi chạy ra mở cửa . Thì ra một người đầy tớ quan Chánh đường….” . ở đây “trong việc có người”, người gắn chặt với cảnh,với môi trường hoạt động cụ thể.
Câu văn của Lê Hữu Trác ngắn gọn, giàu thông tin, được viết ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên,không một chi tiết thừa .Lời văn giản dị, chắc mà bay bổng, vừa “truyền cảm” vừa truyền nhận thức .Người đọc có thể hình dung được rất rõ một cảnh huống đặc biệt đang xảy ra.
Lần theo mạch tự sự, người đọc có cảm giác hồi hộp lo âu rồi bất ngờ nhận ra một con người gần gũi, quen thuộc như cảm nhận của nhân vật “ Tôi” trong tác phẩm này. Trước mắt ta : hình ảnh nhân vật tôi đã dừng bước với tâm trạng ngạc nhiên, thoáng một chút thất vọng. Nhịp kể đột ngột chậm lại để ghi người, ghi việc rõ nét hơn, đầy đủ hơn. Hai chữ “thì ra” vừa tạo ấn tượng về sự khám phá, vừa gọi ra được người thật,việc thật .
Nhân vật “tôi” không hiện ra qua hình dáng cụ thể. Trước hết anh ta xuất hiện qua giọng nói, qua cảm nhận về âm thanh, và rõ hơn ở hành động. Nhân vật “tôi”” xuất hiện với tư cách một người trong cuộc, trực tiếp tham gia vào sự việc được miêu tả trần thuật. Vì thế ngay từ đầu truyện người đọc đãcó cảm giác đây không phải câu chuyện hư cấu, mà chính là bức tranh cuộc sống đang hiện hữu .
Khi kể việc, tả người Lê Hữu Trác không vay mượn những khuôn mẫu, chất liệu có sẵn,tác giả hướng tới khai thác chất liệu đời thường, đời tư. Chẳng hạn lời đối thoại của nhân vật người đầy tớ được thể hiện một cách tự nhiên, đúng với vị thế chức phận của hắn: “có thánh chỉ triệu cụ vào. Quan truyền mệnh hiện đang ở nhà cụ lớn con,con vâng mệnh chạy đến đây báo tin…”.
Lê Hữu Trác coi trọng việc kể lại có ngọn ngành. Nhà văn ưa sắp xếp sự việc cho đầy đủ mạch lạc có đầu có cuối, nên dường như cứ một đoạn hay một câu nói về hành động của tên đầy tớ lại tiếp đoạn tự thuật về hành động, cảm nhận của Lê Hữu Trác. “Nghe tiếng gõ cửa…..tôi chạy ra…” , “người đầy tớ nói…..tôi bèn” , “tên đầy tớ chạy…tôi bị xóc một mẻ,khổ không nói hết”. Mạch văn chặt chẽ nhờ sự thể hiện thành công cái lô gíc nhân quả của sự kiện, hành động .Ban đầu ta tưởng như nhân vật “tôi” chủ động, nhưng càng đọc càng thấy nhân vật “tôi” bị cuốn vào hết sự việc này đến sự việc khác.
Mở đầu đoạn trích cấu trúc câu văn ngắn gọn. Mỗi câu văn tương ứng với một tâm tình, một sự việc, hành động. Người đọc vừa đồng cảm với nỗi vất vả và hành động bất đắc dĩ của nhân vật tôi vừa đồng tình với Lê Hữu Trác ở thái độ mỉa mai châm biếm sự lộng quyền ,tiếm lễ của chúa Trịnh Sâm lúc bấy giờ.
Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một thầy thuốc lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ. Không gian nghệ thuật của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước chân, và cách nhìn của nhân vật xưng “tôi” .Bức tranh toàn cảnh về phủ chúa Trịnh không chỉ có bề rộng mà còn có chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ.
Theo nhân vật “tôi” quanh cảnh ở phủ chúa cực kì xa hoa, tráng lệ- không ở đâu sánh bằng: Khi vào phủ phải qua nhiều lần cửa với những hành lang quanh co nối tiếp nhau,ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác. Khuôn viên phủ chúa rộng, có trạm dừng chân được kiến trúc thật kiểu cách, với cảnh trí thiên nhiên kì lạ. Trong vườn, chim kêu ríu rít,danh hoa đua thắm,gió đưa thoang thoảng mùi hương.
Bên trong là những Đại đường, gác tía với kiệu son, võng điều. Đồ dùng của chúa được son son thiếp vàng, đồ dùng tiếp khách ăn uống cũng đều là mâm vàng, chén bạc, của ngon vật lạ…. Đến nội cung của thế tử phải trải qua 6 lần trướng gấm. Nơi ở của thế tử rất sang trọng,có sập thếp vàng, ghế rồng bày nệm ấm ,xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt…
Lê Hữu Trác khéo kết hợp tả tập trung với điểm xuyết, chọn lọc được những chi tiết đắt, nói lên quyền uy tối thượng cùng nếp sống hưởng thụ cực kì xa xỉ của gia đình chúa Trịnh Sâm. Giọng kể khách quan, trang nghiêm, đan xen với thái độ ngạc nhiên và hàm ý phê phán kín đáo chúa Trịnh .Nhà văn khéo kết hợp giữa văn xuôi và thơ ca. Bài thơ vịnh cảnh, tả việc của Lê Hữu Trác ý tứ sâu xa, lời thơ hóm hỉnh ,ẩn giấu một nụ cười châm biếm, mỉa mai.
Lời nhận xét trong văn phẩm khá đa dạng: Trước tiên Lê Hữu Trác đánh giá khái quát vẻ đẹp. Tiếp theo nhận xét về cảnh giàu sang. Tiếp nữa nêu ấn tượng về cách bày trí, kiến trúc kiểu cách. Nhà văn dừng lại bình giá tỉ mỉ,sắc sảo các đồ dùng xa hoa từ nhà Đại đường đến Gác tía. Lời đánh giá nào của lê Hữu Trác cũng đích đáng,tinh tế và có chừng mực. Nói tác phẩm giàu chất trữ tình vì thế.
Tác giả quan sát các công trình kiến trúc, cảnh trí thiên nhiên qua hình khối, dáng vẻ kích cỡ, tả khuôn viên chủ yếu qua những ấn tượng về hương thơm âm thanh, kể về mức độ xuất hiện của thị vệ, quân sĩ để nhấn mạnh vẻ trang nghiêm của nơi đây. Lê Hữu Trác đặc biệt ưa tả đường đi, lối vào phủ chúa. Ta có cảm tưởng đằng sau mỗi cánh cửa là một bức tranh .Đoạn trích gồm nhiều bức tranh với những mảnh màu tối sáng, nhạt đậm khác nhau, nối liền nhau .
Qua mấy lần cửa đầu tiên, trước mắt tác giả giống như một cảnh tiên huyền ảo, cây cối um tùm, hương hoa thơ mộng. Đi tiếp, cảnh giàu sang của phủ chúa được bày ra chân thật,đầy đủ hơn. Càng đi sâu vào trong, Lê Hữu Trác càng có dịp quan sát không gian nội thất, không gian cao rộng của lầu gác với các đồ nghi trượng sơn son thếp vàng, nhất là được biết cái phong vị của nhà đại gia.
“Vào phủ chúa Trịnh” trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa hoa vương giả hơn là thăm bệnh,chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ như một cái cớ, một dịp may giúp người viết kí hoàn thiện bức tranh về cuộc sống thâm nghiêm, giàu sang đầy uy quyền.
Lê Hữu Trác tổ chức điểm nhìn trần thuật linh hoạt. Có đoạn sự việc được kể theo quan sát của nhân vật xưng tôi. Có đoạn nhà văn để cho nhân vật quan truyền chỉ miêu tả,giới thiệu. Người đọc có cảm tưởng không chỉ có Lê Hữu Trác dẫn ta vào phủ chúa để tự do quan sát ngắm nhìn mà cả những kẻ hầu cận chúa cũng đưa ta thâm nhập, khám phá sự thật ở “Đông cung”.
Những đoạn nhân vật tôi độc thoại toát lên cái nhìn sắc sảo và sự cảm nhận tinh tế. Những đoạn kể tả, cho thấy nhân vật tôi bao quát được một không gian rộng lớn, nắm bắt được thần thái, bản chất của sự vật hiện tượng. Trong tư cách một người thầy thuốc quê mùa, nhân vật tôi luôn tỏ ra là một người hoà nhã kính nhường, ham học hỏi y thuật của đồng nghiệp .
Sự đối lập về vị thế so với các vị lương y của sáu cung hai viện,không khiến nhân vật tôi trở nên nhỏ bé, trái lại càng tôn cao hơn nhân cách và tài năng của nhân vật này . Vẻ đông đúc của lương y nơi triều đình tự phơi bày hết sự thực ở phú chúa đang tồn tại một hệ thống quan lại bất tài, ăn bám .
Các nhà nho xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong đoạn trích này,tác giả đã không ngần ngại để cái “Tôi”đóng một vai trò quan trọng. “Vào phủ chúa Trịnh” thể hiện trực tiếp cái tôi cá nhân người cầm bút. Qua đoạn trích ta thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm. Bên cạnh tài năng ông còn là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc vô cùng thiêng liêng cao quí,người làm thuốc phải nối tiếp lòng trung của cha ông mình,phải luôn giữ đức cho trong, giữ lòng cho sạch .
Lê Hữu Trác yêu thích tự do, nếp sống thanh đạm. Vượt lên trên những danh lợi tầm thường ông trở về hành đạo cứu đời với quan niệm : “Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu/ Biết vui, nghèo cũng hơn giàu/ Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn”.

Số 7: Phân tích giá trị hiện thực trong Vào phủ chúa Trịnh
“Vào phủ chúa Trịnh” được trích từ “Thượng kinh kí sự” của tác giả Lê Hữu Trác. Qua ngòi bút tinh tế, sắc sảo, con mắt quan sát tinh tường tác giả đã vẽ lên bức tranh hiện thực cuộc sống trong phủ chúa. Qua đó toát lên giá trị hiện thực, phê phán sâu sắc của tác phẩm.
Trước hết đó là bức tranh về cuộc sống đầy xa hoa nơi phủ chúa. Khi được triệu vào kinh thành để khám bệnh cho Thế tử, Lê Hữu Trác – “vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng từng biết” vậy mà ông cũng phải kinh ngạc khi đứng trước khung cảnh phủ chúa: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của chúa thực chẳng khác người thường”.
Cảnh vật trong phủ chúa hết sức lạ lẫm, những cái cây lạ lùng những hòn đá kì lạ phô ra trước mắt tác giả. Trong phủ chúa đâu đâu cũng thấy cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, từng cơn gió thoang thoảng đưa hương. Thực “cả trời Nam sang nhất là đây”.
Cách bài trí, trang trí trong phủ hết sức tráng lệ, cầu kì: “Qua dãy hành lang phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, nhưng đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”. Khung cảnh cực kì sa hoa, lộng lẫy mà không ở đâu có thể sánh nổi.
Nhưng đằng sau khung cảnh ấy tác giả cũng ngầm báo hiệu một điều chẳng lành ở phía trước, bởi khi cuộc sống trong phủ chúa còn xa hoa hơn nơi ở của vua thì hẳn triều đại đó đã có nhiều biến động, chúa tiếm quyền vua. Qua đó tác giả kín đáo phê phán lối sống xa hoa, trụy lạc của phủ chúa Trịnh.
Bên cạnh đó, khi miêu tả khung cảnh giàu sang, phú quý này tác giả còn ngầm báo hiệu sự suy vong và bị tiêu diệt tất yếu. Cuối tác phẩm, khi Lê Hữu Trác đã về đến Hương Sơn thì nghe tin nhà quan chánh đường bị hại, bấy giờ ông có viết: “Tôi nghe chuyện than rằng: – Giàu sang như mây nổi, những nơi đàn sáo lâu đài trước đây bỗng chốc thành gò hoang cồn vắng.
Lại mừng thầm rằng mình đã ẩn thân nơi núi rừng, chẳng đoái hoài gì tới chuyện công danh thành đạt….”. Như vậy việc miêu tả kĩ lưỡng khung cảnh quyền quý, cao sang nơi phủ chúa ở trích đoạn này chính là bước đệm để tác giả nên lên triết lí ở cuối bài: “giàu sang như mây nổi” chẳng mấy chốc rồi cũng gặp cảnh bại vong.
Không chỉ miêu tả khung cảnh quyền quý, xa hoa, tác giả còn cho thấy cung cách sinh hoạt trong phủ chúa. Vào phủ chúa, có tên đầy tớ chạy phía trước thét đường, cáng chạy như ngựa lồng, cho thấy nhịp độ hết sức nhanh chóng, khẩn trương. Đến phủ chúa để đi tới nơi khám bệnh cho thế tử phải đi qua nhiều lần cửa, mỗi lần cửa cần phải có thẻ mới được đi tiếp.
Các danh y chữa bệnh cho thế tử đều là những người tài giỏi, nổi tiếng ở sáu cung, hai viện ngày đêm túc trực, chờ sẵn để chữa bệnh cho thế tử. Thủ tục rườm rà, nghiêm ngặt, phải hết sức kính cẩn: Thế tử bị bệnh có đến 7,8 thầy thuốc phục dịch. Khi vào xem bệnh, tác giả – một cụ già – phải quỳ lạy thế tử – một đứa trẻ. Muốn xem thân hình của thế tử phải có một viên quan nội thành đến xin phép được cởi áo cho thế tử. Khám xong phải lạy 4 lạy mới được ra về.
Trước khi được vào khám bệnh cho thế tử, Lê Hữu Trác đã được ngự bữa cơm sáng với: “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại già” cuộc sống xa hoa quyền quý choán đầy phủ chúa từ nơi ở, vật dụng, quang cảnh cho đến đồ ăn thức uống. Qua đó ta thấy được quyền uy tột đỉnh cùng với cuộc sống xa hoa và sự lộng quyền của nhà chúa.
Đặc biệt, ngòi bút hiện thực của tác giả còn được thể hiện trong việc miêu tả các chi tiết liên quan đến thế tử. Thế tử ngồi trên sập chỉ độ năm sáu tuổi, nhưng Lê Hữu Trác – một người già cả, phải lạy bốn lạy trước cậu bé này và còn được thế tử cười khen: “Ông này lạy khéo!”.
Ngoài ra tác giả còn miêu tả hết sức kĩ lưỡng về thế tử mặc áo lụa đỏ, ngồi trong căn phòng tối om không có cửa ngõ, phải qua năm sáu lần trướng gấm mới xuất hiện thế tử. Nơi ở của thế tử đều được sơn son thếp vàng, trên ghế bày đệm gấm, đây đều là những vật dụng đắt tiền. Qua ánh nến mờ ảo, Lê Hữu Trác nhận thấy “màu mặt phấn và màu áo đỏ”. Nơi ở của thế tử hế sức ngột ngạt, tù túng, thiếu sinh khí và đây chính là nguyên nhân khiến thể trạng thêm phần ốm yếu.
Một đứa bé đang độ tuổi ăn, tuổi chơi, đáng nhẽ phải được chạy nhảy chơi đùa cùng chúng bạn, được hòa cùng thiên nhiên để phát triển một cách khỏe mạnh, thì thế tử Cán lại bị giam hãm, cầm tù nơi lầu son, gác tía với trướng rủ màn che thiếu sinh khí, ngột ngạt, chính cảnh tù túng đó đã khiến bệnh của thế tử ngày một nặng hơn: “Tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, chân tay gầy gò. Đó là vì nguyên khí đã hao mồm, thương tổn quá mức”. Chỉ bằng một vài nét phác họa, những câu miêu tả khách quan tác giả đã cho thấy hình ảnh thế tử Cán gầy gò, ốm yếu cả về cở thể lẫn ý chí, nghị lực.
Để miêu tả hiện thực trong chủ chúa Trịnh, Lê Hữu Trác đã vận dụng khả năng quan sát tinh tường, khung cảnh bài trí trong phủ chúa được miêu tả chi tiết kĩ lưỡng: quang cảnh thiên nhiên, sự vật, cung cách sinh hoạt, thế tử Cán. Không chỉ vậy sự kết hợp giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm, cùng những câu nhận xét, bình luận đã phô bày rõ hơn sự xa hoa trong phủ chúa. Giọng điệu châm biếm, mỉa mai một cách nhẹ nhàng thể hiện thái độ của tác giả trước lối sống quyền quý đó.
Dù chỉ là một trích đoạn vô cùng ngắn ngủi, nhưng với ngòi bút tài hoa của Lê Hữu Trác đã phô bày một cách chân thực và đầy đủ nhất hiện thực cuộc sống trong phủ chúa, cũng là hiện thức xã hội lúc bấy giờ. Đằng sau bức tranh ấy là lời phê phán với lối sống xa hoa, hưởng lạc, đồng thời cũng dự báo về sự suy vong tất yếu của nơi đây.
Số 8: Giá trị hiện thực trong Vào phủ chúa Trịnh
Lê Hữu Trác xuất thân trong một gia đình qúy tộc, giỏi binh thư, võ nghệ. Làm quan dưới thời chúa Trịnh được một thời gian, ông nhận thấy xã hội thối nát, cương thường lỏng lẻo, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất (1746), ông liền viện cớ cáo quan về nuôi mẹ già. Từ đó ông chuyên nghiên cứu y học vừa chữa bệnh cứu đời, vừa soạn sách và mở trường dạy học truyền bá y đức, y lí, y thuật.
Ngày 12 tháng Giêng năm Cảnh Hưng 43(1782), Lê Hữu Trác nhận được lệnh chúa triệu về kinh xem mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Sau đó một thời gian thì chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm. Những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong nhiều chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long đã thôi thúc ông cầm bút.
Năm 1783 ông viết xong tập “Thượng kinh kí sự” bằng chữ Hán. Tập kí sự này là một tác phẩm văn học đích thực, đặc sắc, có giá trị sử liệu cao. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” đã thể hiện được đầy đủ những nét độc độc đáo trong bút pháp kí sự của Lê Hữu Trác.
Như ta biết: Kí là là tên gọi chung cho một nhóm thể loại có tính giao thoa giữa báo chí với văn học. Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật. Người viết kí miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học. Mẫu hình tác giả kí gần gũi với nhà sử học. Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh.
Kí bao gồm nhiều thể văn như: Bút ký, phóng sự, du kí, hồi kí, nhật kí,… Trong số đó kí tự thiên về ghi chép chi tiết, tỉ mỉ sự việc câu chuyện có thật. Tất nhiên đan xen vào mạch tự sự còn có những đoạn thể hiện nhận xét chân thực, tinh tường của nhà văn trước sự việc.
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa quyền quý của chúa Trịnh. Lê Hữu Trác sử dụng người trần thuật ngôi thứ nhất, trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo.
Mở đầu đoạn trích là một sự kiện cụ thể, chân thực. Tính chất kí trong bút pháp của Lê Hữu Trác thể hiện rõ ở cách ghi tỉ mỉ sự việc, thời gian. Nhà văn kết hợp biện pháp kể khách quan với nghệ thuật gợi không khí nhằm làm nổi bật hành động khẩn trương, gấp gáp của nhân vật: “Mồng một tháng 2.
Sáng tinh mơ, tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Tôi chạy ra mở cửa. Thì ra một người đầy tớ quan Chánh đường….”. Ở đây “trong việc có người”, người gắn chặt với cảnh, với môi trường hoạt động cụ thể. Câu văn của Lê Hữu Trác ngắn gọn, giàu thông tin, được viết ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên,không một chi tiết thừa. Lời văn giản dị, chắc mà bay bổng, vừa “truyền cảm” vừa truyền nhận thức. Người đọc có thể hình dung được rất rõ một cảnh huống đặc biệt đang xảy ra.
Lần theo mạch tự sự, người đọc có cảm giác hồi hộp lo âu rồi bất ngờ nhận ra một con người gần gũi, quen thuộc như cảm nhận của nhân vật “Tôi” trong tác phẩm này. Trước mắt ta: Hình ảnh nhân vật tôi đã dừng bước với tâm trạng ngạc nhiên, thoáng một chút thất vọng. Nhịp kể đột ngột chậm lại để ghi người, ghi việc rõ nét hơn, đầy đủ hơn. Hai chữ “thì ra” vừa tạo ấn tượng về sự khám phá, vừa gọi ra được người thật, việc thật.
Nhân vật “tôi” không hiện ra qua hình dáng cụ thể. Trước hết anh ta xuất hiện qua giọng nói, qua cảm nhận về âm thanh, và rõ hơn ở hành động. Nhân vật “tôi”” xuất hiện với tư cách một người trong cuộc, trực tiếp tham gia vào sự việc được miêu tả trần thuật. Vì thế ngay từ đầu truyện người đọc đã có cảm giác đây không phải câu chuyện hư cấu, mà chính là bức tranh cuộc sống đang hiện hữu.
Khi kể việc, tả người Lê Hữu Trác không vay mượn những khuôn mẫu, chất liệu có sẵn, tác giả hướng tới khai thác chất liệu đời thường, đời tư. Chẳng hạn lời đối thoại của nhân vật người đầy tớ được thể hiện một cách tự nhiên, đúng với vị thế chức phận của hắn: “có thánh chỉ triệu cụ vào. Quan truyền mệnh hiện đang ở nhà cụ lớn con, con vâng mệnh chạy đến đây báo tin…”.
Lê Hữu Trác coi trọng việc kể lại có ngọn ngành. Nhà văn ưa sắp xếp sự việc cho đầy đủ mạch lạc có đầu có cuối, nên dường như cứ một đoạn hay một câu nói về hành động của tên đầy tớ lại tiếp đoạn tự thuật về hành động, cảm nhận của Lê Hữu Trác. “Nghe tiếng gõ cửa…tôi chạy ra…”, “người đầy tớ nói…tôi bèn”, “tên đầy tớ chạy…tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết”.
Mạch văn chặt chẽ nhờ sự thể hiện thành công cái lôgíc nhân quả của sự kiện, hành động. Ban đầu ta tưởng như nhân vật “tôi” chủ động, nhưng càng đọc càng thấy nhân vật “tôi” bị cuốn vào hết sự việc này đến sự việc khác.
Mở đầu đoạn trích cấu trúc câu văn ngắn gọn. Mỗi câu văn tương ứng với một tâm tình, một sự việc, hành động. Người đọc vừa đồng cảm với nỗi vất vả và hành động bất đắc dĩ của nhân vật tôi vừa đồng tình với Lê Hữu Trác ở thái độ mỉa mai châm biếm sự lộng quyền, tiếm lễ của chúa Trịnh Sâm lúc bấy giờ.
Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một thầy thuốc lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ. Không gian nghệ thuật của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước chân, và cách nhìn của nhân vật xưng “tôi”. Bức tranh toàn cảnh về phủ chúa Trịnh không chỉ có bề rộng mà còn có chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ.
Theo nhân vật “tôi” quanh cảnh ở phủ chúa cực kì xa hoa, tráng lệ không ở đâu sánh bằng: Khi vào phủ phải qua nhiều lần cửa với những hành lang quanh co nối tiếp nhau, ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác. Khuôn viên phủ chúa rộng, có trạm dừng chân được kiến trúc thật kiểu cách, với cảnh trí thiên nhiên kì lạ. Trong vườn, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương.
Bên trong là những Đại đường, gác tía với kiệu son, võng điều. Đồ dùng của chúa được son son thiếp vàng, đồ dùng tiếp khách ăn uống cũng đều là mâm vàng, chén bạc, của ngon vật lạ… Đến nội cung của thế tử phải trải qua 6 lần trướng gấm. Nơi ở của thế tử rất sang trọng,có sập thếp vàng, ghế rồng bày nệm ấm,xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt…
Lê Hữu Trác khéo kết hợp tả tập trung với điểm xuyết, chọn lọc được những chi tiết đắt, nói lên quyền uy tối thượng cùng nếp sống hưởng thụ cực kì xa xỉ của gia đình chúa Trịnh Sâm. Giọng kể khách quan, trang nghiêm, đan xen với thái độ ngạc nhiên và hàm ý phê phán kín đáo chúa Trịnh.Nhà văn khéo kết hợp giữa văn xuôi và thơ ca. Bài thơ vịnh cảnh, tả việc của Lê Hữu Trác ý tứ sâu xa, lời thơ hóm hỉnh, ẩn giấu một nụ cười châm biếm, mỉa mai.
Lời nhận xét trong văn phẩm khá đa dạng: Trước tiên Lê Hữu Trác đánh giá khái quát vẻ đẹp. Tiếp theo nhận xét về cảnh giàu sang. Tiếp nữa nêu ấn tượng về cách bày trí, kiến trúc kiểu cách. Nhà văn dừng lại bình giá tỉ mỉ,sắc sảo các đồ dùng xa hoa từ nhà Đại đường đến Gác tía. Lời đánh giá nào của lê Hữu Trác cũng đích đáng,tinh tế và có chừng mực. Nói tác phẩm giàu chất trữ tình vì thế.
Tác giả quan sát các công trình kiến trúc, cảnh trí thiên nhiên qua hình khối, dáng vẻ kích cỡ, tả khuôn viên chủ yếu qua những ấn tượng về hương thơm âm thanh, kể về mức độ xuất hiện của thị vệ, quân sĩ để nhấn mạnh vẻ trang nghiêm của nơi đây. Lê Hữu Trác đặc biệt ưa tả đường đi, lối vào phủ chúa. Ta có cảm tưởng đằng sau mỗi cánh cửa là một bức tranh. Đoạn trích gồm nhiều bức tranh với những mảnh màu tối sáng, nhạt đậm khác nhau, nối liền nhau.
Qua mấy lần cửa đầu tiên, trước mắt tác giả giống như một cảnh tiên huyền ảo, cây cối um tùm, hương hoa thơ mộng. Đi tiếp, cảnh giàu sang của phủ chúa được bày ra chân thật, đầy đủ hơn. Càng đi sâu vào trong, Lê Hữu Trác càng có dịp quan sát không gian nội thất, không gian cao rộng của lầu gác với các đồ nghi trượng sơn son thếp vàng, nhất là được biết cái phong vị của nhà đại gia.
“Vào phủ chúa Trịnh” trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa hoa vương giả hơn là thăm bệnh, chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ như một cái cớ, một dịp may giúp người viết kí hoàn thiện bức tranh về cuộc sống thâm nghiêm, giàu sang đầy uy quyền.
Lê Hữu Trác tổ chức điểm nhìn trần thuật linh hoạt. Có đoạn sự việc được kể theo quan sát của nhân vật xưng tôi. Có đoạn nhà văn để cho nhân vật quan truyền chỉ miêu tả, giới thiệu. Người đọc có cảm tưởng không chỉ có Lê Hữu Trác dẫn ta vào phủ chúa để tự do quan sát ngắm nhìn mà cả những kẻ hầu cận chúa cũng đưa ta thâm nhập, khám phá sự thật ở “Đông cung”.
Những đoạn nhân vật tôi độc thoại toát lên cái nhìn sắc sảo và sự cảm nhận tinh tế. Những đoạn kể tả, cho thấy nhân vật tôi bao quát được một không gian rộng lớn, nắm bắt được thần thái, bản chất của sự vật hiện tượng.
Trong tư cách một người thầy thuốc quê mùa, nhân vật tôi luôn tỏ ra là một người hoà nhã kính nhường, ham học hỏi y thuật của đồng nghiệp. Sự đối lập về vị thế so với các vị lương y của sáu cung hai viện, không khiến nhân vật tôi trở nên nhỏ bé, trái lại càng tôn cao hơn nhân cách và tài năng của nhân vật này. Vẻ đông đúc của lương y nơi triều đình tự phơi bày hết sự thực ở phú chúa đang tồn tại một hệ thống quan lại bất tài, ăn bám.
Các nhà nho xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong đoạn trích này, tác giả đã không ngần ngại để cái “Tôi” đóng một vai trò quan trọng. “Vào phủ chúa Trịnh” thể hiện trực tiếp cái tôi cá nhân người cầm bút. Qua đoạn trích ta thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm. Bên cạnh tài năng ông còn là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc vô cùng thiêng liêng cao quí, người làm thuốc phải nối tiếp lòng trung của cha ông mình,phải luôn giữ đức cho trong, giữ lòng cho sạch. Lê Hữu Trác yêu thích tự do, nếp sống thanh đạm. Vượt lên trên những danh lợi tầm thường ông trở về hành đạo cứu đời với quan niệm:
“Thiện tâm cốt ở cứu người.
Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu
Biết vui, nghèo cũng hơn giàu
Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn”.

Số 9: Nêu giá trị hiện thực trong Vào phủ chúa Trịnh
Thượng kinh kí sự (Kí sự lên kinh) là một tập kí sự bằng chữ Hán nổi tiếng vào loại bậc nhất trong văn học dân tộc thế kỷ XVIII. Tác phẩm đã ghi lại một cách chân thực những điều mắt thấy tai nghe nhân một lần, tác giả quyển sách này – danh y Lê Hữu Trác – được mời lên chốn kinh kì để chữa bệnh cho nhà chúa. Có lẽ, đây là lần đầu tiên trong văn học ta, những bí mật về một phủ chúa sang giàu, quyền uy, xa xỉ mới được phơi bày một cách tường tận đến từng chi tiết nhỏ. Phía sau cái vẻ ngoài khách quan của loại văn kí sự, người đọc nhận ra một bậc lương y nhân hậu, trong sáng nhưng cũng hết sức nghiêm khắc lên án “thói đời” xa xỉ, vương giả mà tàn tạ, trái với tự nhiên.
Là một thầy thuốc lừng danh nhưng cũng là người mang trong mình một trái tim nghệ sĩ, chuyến lên kinh đô có phần gấp gáp và “quan trọng” này âu cũng là dịp Lê Hữu Trác hiểu thêm về đời sống kiêu sa, vương giả của chúa Trịnh. Nhưng con đường đến phủ chúa sao mà dài dặc thế! Hết cửa này lại đến cửa khác, hết hành lang này lại đến hành lang khác “quanh co nối tiếp”. Cái thâm cung nơi chúa ngự xem ra cũng chẳng khác gì con đường dẫn đến một âm cung tách biệt cõi trần. Để hoàn thành bức tranh về phủ chúa, tác giả kể lần lượt từng cảnh một theo trình tự không gian, thời gian. Chỗ nào đến trước thì kể trước, chỗ nào đến sau thì kể sau.
Sự giàu sang của phủ chúa trước hết được thể hiện qua cảnh vật: “Tôi ngẩng đầu lên đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đung đưa thoang hoảng mùi hương”. Đồ đạc của chúa tất thảy đều được sơn son thiếp vàng. Sự quý giá của chúng có thể được nhìn thấy qua lời nhận xét của bậc lương y: đó là “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”. Bữa ăn trong phủ chúa cũng là bữa ăn sang trọng, mang đúng “phong vị của nhà đại gia”: mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ.
Tất cả những điều đó khiến cho tác giả cảm thấy mình trở thành kẻ “quê mùa”, trở thành “ngư phủ” trước “đào nguyên” nơi trần thế. Quả thật, với một kẻ xuất thân từ tầng lớp bình dân, nếu có ngạc nhiên về quy mô, to lớn và sự sang trọng của phủ chúa thì cũng là điều dễ hiểu. Đằng sau tác giả “vốn con quan, sinh trưởng ở chôn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết” nay trở thành kẻ “lạc điệu” trước phủ chúa thì quả không phải là chuyện bình thường.
Nhưng “Cả trời Nam sang nhất là đây” trên thực tế đó lại là điều bình thường bởi trước đó, hẳn ông cũng đã từng, được nghe về sự giàu sang của phủ chúa, nay tận mắt chứng kiến, mới hay đúng là “danh bất hư truyền”.
Nhưng phủ chúa không chỉ giàu sang, phủ chúa còn là nơi nghiêm cẩn, kín cổng cao tường. Ai muốn vào phủ chúa phải có thẻ. Lại nữa, biết bao nhiêu vệ sĩ, lính canh ngày đêm túc trực, sẵn sàng bảo vệ cho Trịnh phủ được bình yên. Bình yên mà hưởng cái giàu, cái sang, cái xa xỉ, phù phiếm. Cũng phải thôi, vua Lê giờ đây chỉ là bù nhìn, là con rối. Chính chúa Trịnh mới là chủ nhân thực sự của “muôn dân”.
Vậy nên, sự nghiêm ngặt ở đây thực chất là sự nghiêm ngặt, bề thế của một triều đình! Chính cái sang, cái giàu, cái nghiêm ấy đã góp phẩn tăng thêm cái quyền cái uy của phủ chúa. Một khi lệnh chúa ban ra, lập tức có người “vừa nói, vừa thở hổn hển” chạy đến báo tin. Bất kể ai, một khi bước vào phủ chúa thì phải “nín thở”, “khúm núm”, “lạy tạ” đi đứng thì phải “cúi đầu”, “chỉ dám liếc mắt”, nếu có hỏi nhau thì cũng chỉ được phép “hỏi nhỏ” mà thôi. Bấy nhiêu chi tiết đã làm hiện lên một bức biếm họa về phủ chúa.
Nhân vật trung tâm của bức biếm họa ấy không ai khác là thế tử Trịnh Cán. Trong khi chúa cha đang vui vầy, mải mê với phi tần thì chúa con lại hệt như một cái mầm con bệnh hoạn, ốm yếu. Để chăm lo sức khỏe cho ông chúa tí hon này, tất cả các lương y của sáu cung hai viện phải suốt ngày đêm chầu chực, lo lắng. Có thể nói, những trang viết về Trịnh Cán giống như những thước phim đặc tả. Nhận được bốn lạy của người chữa bệnh cho mình, chúa con khoái chí: “ông này lạy khéo”. Đây là sự khoái chí của con trẻ mỗi khi chúng vừa ý. Định đem trao cơ đồ, xã tắc vào tay một kẻ như thế, xem ra ít có thời nào liều mình đến vậy.
Thế tử vẫn còn đó, bên chiếc sập thiếp vàng, đầy kẻ xúm xít, nhưng âm khí đã lộ nguyên hình: rốn lồi, gân xanh, nguyên khí hao mòn. Nguyên nhân gây bệnh cho thế tử, suy cho cùng, có thể thu gọn vào một chữ quá: ăn quá no, mặc quá ấm, ở quá nhiều màn che trướng phủ, sống quá nhiều kẻ hầu người hạ. Nhìn Lê Hữu Trác bắt mạch, kê đơn cho Thế tử, người đọc có cảm giác ông đang bắt mạch cho một “người bệnh” là cái giai cấp phong kiến “bên ngoài thì cổ trướng, bên trong thì trống” khí dương bị tiêu diệt, âm hỏa nhân đấy mà “đi càn”.
Đến đây, bức tranh hiện thực phủ chúa đã được hoàn tất một cách thành công. Tính chân thực của bức tranh này toát ra từ một giọng kể khách quan, tôn trọng sự thật. Tuy nhiên, là một lương y chân chính quen với nếp sống thanh bần nơi thôn dã, Lê Hữu Trác đã kín đáo thể hiện thái độ của mình. Lúc được triệu vào kinh thì gấp gáp: “Cáng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết”, nhưng khi vào đến phủ chúa thì lại được lệnh ngồi chờ. Sở dĩ như vậy bởi Thánh thượng đang được các cung nhân “xúm xít”.
Thế mới biết trong phủ chúa, lo bệnh không bằng lo vui. Lại nữa, dẫu là một lương y cứu người (mà chuyện cứu nhân lại như cứu hoả) song đã vào đến phủ chúa thì phải “nhập gia tuỳ tục” nghĩa là phải chầu chực, chờ đợi, nín thở, khúm núm, lạy tạ… Trước tình thế này, Lê Hữu Trác đã chọn lựa một cách chữa bệnh hợp lí.
Một mặt, ông giữ đúng lương tâm thầy thuốc “trị bệnh cứu người”. Mặt khác, ông phải kê đơn làm sao cho chính mình thoát khỏi vòng danh lợi. Sự băn khoăn này của Lê Hữu Trác giúp ta hiểu hơn về một nhân cách lớn. Nhân cách ấy, cách xử thế ấy một khi viết ra những dòng kí sự trên đây chắc chắn giữ được sự trung thực “hai năm rõ mười”. Thái độ chân thực của người viết làm cho ta càng tin cậy độ chính xác của bức tranh phủ chúa, và đó cũng là sự hấp dẫn cơ bản của Thượng kinh kí sự.
Đoạn trích Vào Trịnh phủ, do biết kết hợp một cách khéo léo sự quan sát tinh tế, khả năng lựa chọn chi tiết sắc sảo, giọng kể khách quan, linh hoạt và những lời bình luận hàm ý mỉa mai kín đáo đã thực sự trở thành một áng văn có giá trị lớn. Nhưng không chỉ có thế, những trang viết này còn có ý nghĩa như những thước phim tư liệu về một phủ chúa giàu sang, oai nghiêm song lại bạc nhược, tàn tạ mà bình thường ít người được biết đến. Đây là một đóng góp hết sức quý báu mà Lê Hữu Trác đã để lại cho tất cả chúng ta.
Số 10: Phân tích giá trị hiện thực trong Vào phủ chúa Trịnh
Không chỉ là một danh y lỗi lạc của một thời đại mà còn là một tác giả nổi tiếng của cuốn “Thượng kinh kí sự”, Hải Thượng Lãn Ông được biết đến rộng rãi từ những người trong ngành và lọt vào mắt xanh của chúa Trịnh. Tuy nhiên, cũng chính trong chuyến đi chữa bệnh cho Thái tử Trịnh Cán này mà ông đã khắc sâu được quang cảnh xa hoa cũng như sự lộng quyền, lộng thế của bộ máy xã hội phong kiến do chúa Trịnh cầm đầu.
Đầu tiên đó là một vườn hoa với ngang dọc cây cối um tùm và cả những loài chim muôn màu muôn sắc. Tiếp đó là những đại đường, gác tía cùng những kiệu son, đồ đạc được thếp vàng, được nạm bạc nhằm tô điểm thêm sự lộng lẫy, xa hoa của phủ chúa. Nhưng không dừng lại ở đó mà chính là cách xử sự trong phủ chúa. Đó là những tên đầy tớ không hiểu phép tắc, hét lớn và chạy như ngựa rộn ràng khắp phủ. Còn đâu uy nghiêm của bậc vua chúa khi kẻ làm tôi tớ lại có thể nghênh ngang khắp nơi như thế?
Ngoài ra tác phẩm còn lên án, tố cáo căn bệnh hoạn vô cùng phù phiếm của bậc vua chúa cũng như của con em qua lại đương thời. Bệnh của vị Thái tử này là do “sinh trưởng ở nơi màn the trướng gấm, ấm nó quá sức, tạng phủ kém yếu, lại thêm bị ốm lâu nên tinh huyết hao kiệt,…”. Có thể nói việc chẩn đoán này đã đồng thời lên án đám thầy thuốc ngu dốt, ham hư vinh và đố kỵ lẫn nhau nhằm bộc lộ nên chế độ nịnh thần trong xã hội thối nát này.
Từng việc, từng việc một đã làm nên tính chân thực của tác phẩm “Thượng kinh kí sự”. Có thể nói bằng chính ngòi bút tỉ mỉ cùng ghi chép chân thực cái hiện thực thối nát của xã hội ấy đã làm nên cái thần của cảnh và người, làm nên giá trị lịch sử của thời đại. Bên trong cái hiện thực ấy còn ẩn chứa những giá trị nhân đạo sâu sắc.
Ở nơi thượng kinh ấy, ở cái nơi mà người người sống xa hoa, dư thừa vật chất ấy thì cũng có những con người lầm than, những đứa trẻ bơ vơ, lang thang, những căn nhà lụp xụp, những con người không có bữa ăn no dẫu làm lụng vất vả ra sao. Bởi lẽ công sức của họ đã bị giới cầm quyền ấy bóc lột hết cả rồi, đã bị giới cầm quyền ấy lộng vào để tô điểm cho cuộc sống xa hoa của chính mình.
Tác phẩm của Hải Thượng Lãn Ông như một lời than thở về một chế độ thối nát ấy. Đồng thời cũng lí giải vì sao ông lựa chọn ẩn cư tị thế mà không ra làm quan. Cuộc sống của ông thật bình dị và giàu lòng thương người khi ông xuất hiện ở khắp nơi để cứu chữa bệnh tật cho những con người ốm yếu, những người dân đen cấu thành nên xã hội thời bấy giờ.

Tổng kết
Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 10 mẫu phân tích giá trị hiện thực trong Vào phủ chúa Trịnh chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 11.