Top 5 mẫu phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ chi tiết nhất

188
Top 5 mẫu phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ chi tiết nhất
Top 5 mẫu phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ chi tiết nhất
4.8/5 - (13 votes)

Tổng hợp các bài mẫu phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong bài Vợ nhặt của tác giả Kim Lân một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 5 mẫu phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Xem thêm:

Dàn ý phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+ Kim Lân (1920 – 2007) là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ 19.

+ Vợ Nhặt là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, viết về cuộc sống ngột ngạt của nhân dân ta mà tiêu biểu là gia đình bà cụ Tứ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.

– Giới thiệu nhân vật bà cụ Tứ:

+ Trong ba nhân vật của truyện, bà cụ Tứ (mẹ Tràng) là nhân vật có tâm trạng phức tạp mà nhân hậu vô cùng, thể hiện nổi bật giá trị nhân đạo sâu sắc, cảm động trong tác phẩm Vợ Nhặt.

II. Thân bài

* Giới thiệu về nhân vật bà cụ Tứ

– Là một bà mẹ nghèo, già nua (lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già), là dân ngụ cư.

– Ngoại hình: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.

=> Bà cụ Tứ là hiện thân của người nông dân nghèo và có diễn biến tâm trạng khá phức tạp.

* Luận điểm 1: Sự ngạc nhiên đến sững sờ khi thấy người đàn bà lạ trong nhà.

– Tình huống đặc biệt làm cho bà cụ Tứ ngạc nhiên, ấy là việc con trai mình lấy vợ. Bà cụ ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư lại đang thời buổi đói khát, nuôi thân chẳng xong.

– Khi bà cụ đi làm về muộn, thấy người đàn bà ngồi ở đầu giường con mình rất ngạc nhiên, càng ngạc nhiên hơn khi được người đàn bà chào bằng u và được Tràng giới thiệu: “Kìa nhà tôi nó chào u”. ”Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”.

* Luận điểm 2: Vừa mừng vừa tủi khi hiểu mọi chuyện.

– Khi đã vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình “nhặt” được vợ, bà “cúi đầu nín lặng”. Bà liên tưởng đến bao cơ sự “oái ăm” “ai oán” “xót thương” cho số kiếp của đứa con mình. Bà liên tưởng đến người chồng quá cố, đến đứa con gái đã qua đời, lòng bà trĩu nặng tủi buồn, xót xa.

– Bà cụ Tứ mừng cho con từ nay yên bề gia thất, tủi thân làm mẹ không lo nổi vợ cho con. Giờ đây giữa lúc người chết đói “như ngả rạ” lại có người theo con trai bà về làm vợ. Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn. Biết lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng khi con đã có vợ. Bà cụ Tứ khóc vì mừng con có vợ, khóc vì thương con dâu không biết làm sao vượt qua nổi khó khăn này.

– “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”. “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá!…” “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Bao nhiêu tình yêu thương chân thành tha thiết của người mẹ thể hiện trong những lời giản dị mộc mạc ấy.

– Bà cụ xót xa thương dâu, thương con, tủi phận mình: “bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Bao nhiêu lo lắng ngổn ngang trong lòng.

* Luận điểm 3: Nỗi lo lắng về tương lai của các con.

– Bà cụ Tứ lo lắng thực sự cho con trai, con dâu, lo cho cái gia đình nghèo túng của bà giữa lúc đói kém này liệu có nuôi nổi nhau? Tương lai rồi sẽ ra sao…

– Ngẫm cái phận nghèo bà tự nhủ: “Có gặp bước khó khăn, đói khổ này người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Bà chỉ biết khuyên con, khuyên dâu thương yêu nhau, ăn ở hoà thuận với nhau để cùng vượt qua cơn khốn khó.

=> Đó là nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng sâu thẳm đối với mình. Trong sự lo lắng tủi hờn vẫn nhen nhóm một niềm tin.

* Luận điểm 4: Niềm tin, hi vọng vào tương lai, cuộc sống gia đình.

– Trong cái mừng, cái tủi, cái lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui của cụ. Một niềm vui tội nghiệp không sao cất cánh lên được, cứ bị cái buồn, cái lo níu kéo xuống. Nhưng bà cụ Tứ cố vui và gắng làm cho con, cho dâu vui.

+ Vui trong ý nghĩ tốt đẹp về tương lai: “Rồi ra may mà ông giời cho khá…” ai giàu ba họ ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau. Bà cụ “nói toàn: chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này”.

+ Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa. Bà cụ giẫy cỏ cho sạch vườn. “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa”.

+ Vui trong bữa cơm sáng, bữa cơm đầu tiên có con dâu đó là một bữa “tiệc” với món cháo loãng và món “chè khoán” đắng chát – một bữa ăn ngày đói rất thảm hại nhưng bà cụ cố tạo ra niềm vui để động viên an ủi con trai, con dâu.

– Mặc dù cuộc sống khắc nghiệt, ngặt nghèo đến tàn bạo đã đầy đọa mẹ con bà. Bà vẫn cố tạo không khí hoà thuận ấm cúng trong gia đình và kể chuyện làm ăn, nuôi gà… tươi cười đon đả múc cho con dâu những bát cháo cám.

– Tuy nhiên cái vui ấy, dù là rất nhỏ bé mà vẫn mong manh, vẫn chìm đi trong cái tăm tối hiện tại: Tiếng khóc, mùi đốt đống rơm ở những nhà có người chết đói. Bà cụ nghĩ đến ông lão, đến đứa con út, đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình, đến cái “đói to” trước mắt. Bà cụ phấp phỏng nghĩ về con trai, về con dâu.

– Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ, với “cái mặt bủng beo, u tối”, ”bà vẫn nung nấu một ý chí sống mãnh liệt. Bà là hiện thân của những người mẹ nghèo khổ mà từng trải, hiểu biết: hết lòng thương yêu con, yêu thương những cảnh đời tội nghiệp, oái oăm. Bà nung nấu một khát vọng về cuộc sống gia đình hạnh phúc.

* Đặc sắc nghệ thuật

– Xây dựng tình huống truyện độc đáo

– Miêu tả tâm lí nhân vật nhuần nhuyễn

– Ngôn ngữ giản dị, gần gũi

III. Kết bài

– Khái quát tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ

– Nêu cảm nhận của em.

Top 5 mẫu phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ

Số 1: Phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm 1945 để diễn tả được cái đói có sức nặng như thế nào, nhưng ngụ ý của tác giả chính là việc dựa trên nạn đói để lột tả tính cách “trong như ngọc sáng ngời” của những con người, những mảnh đời lầm thân. Nhân vật bà cụ Tứ là một hình tượng điển hình cho người đàn bà nghèo khổ đến cùng cực nhưng có tình yêu thương con đến vô bờ bến. Hẳn rằng người đọc sẽ không bao giờ quên những lời mà Kim Lân đã dành cho bà.

Kim Lân rất khôn khéo khi lựa chọn thời điểm thích hợp để bà cụ Tứ xuất hiện, tại sao không phải là đầu câu chuyện mà lại ở giữa câu chuyện. Tác giả muốn gợi lên cái nghèo đói đến thê lương của xóm ngụ cư này, lấy nó làm nền, làm đòn bẩy để đi sâu vào phân tích diễn biến tâm lý, nội tâm của người đàn bà này.Bà Tứ xuất hiện từ khi Tràng đưa vợ về nhà, và diễn biến tâm lý của bà cụ thay đổi liên tục từ khi có một người đàn bà khác xuất hiện trong ngôi nhà của mình.

Như những bà mẹ Việt Nam nghèo khổ khác trong thời kỳ cách mạng tháng tám, bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ nghèo, bị cái đói làm cho cùng cực, suy nghĩ quá nhiều. Bà cụ Tứ xuất hiện thật rõ nét qua lời kể tác giả “Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng hôm nay khác, thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi ới vào trong nhà: U đã về đấy! Anh con trai lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn”. Một bà cụ dáng dấp đã không còn nhanh nhẹn, tháo vát nữa mà phải “lọng khọng” đi vào nhà gợi nên một thảm cảnh thê lương đến não lòng.

Đặc biệt sự thay đổi bất ngờ khi bà nhìn thấy người đàn bà lạ ngồi ngay giữa nhà mình “Bà cụ Tứ phấp phỏng bước vào theo con vào nhà. Phấp phỏng vì ling tính cho bà biết trong nhà hẳn xảy ra chuyện gì. Mà quả đúng như vậy. Mới đến giữa sân, bà đứng sững lại và càng ngạc nhiên hơn. Trong nhà bà có người, lại là đàn bà. Người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Bà chưa gặp, bà không quen bao giờ. Người ấy lại đướng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?.. Ai thế nhỉ? Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu bà lão. Hay bà già rồi, trông gà hoá cuốc.

Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải.. Không phải bà trông gà hoá cuốc, không phải mắt bà nhoèn. Đúng là có người rồi. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.”. Người mẹ nghèo một đời khốn khó như vậy làm sao có thể không ngạc nhiên cho được khi bà đã hiểu ra cơ sự này. Bà thương mình, thương con và thương cho người đàn bà lạ kia. Giữa cảnh chết choc như ngả rạ, nạn đói hoành hành, cái ăn chẳng có, lại còn rước thêm người như thế này bà không lo, không buồn sao được.

Bà nghĩ đến cái cảnh người ta dựng vợ gả chồng cho con cái trong lúc ăn nên làm ra, đằng này con trai bà lấy vợ trong cảnh bần hàn, thiếu thốn đủ đường thế này. Bà thương mình bao nhiêu thì thương cho con gấp bội phần, bà cảm thấy tủi nhục khi không thể mang lại ấm no và hạnh phúc cho đứa con trai tội nghiệp. Bà thương cho người đàn bà héo hon kia cũng vì đói, vì không còn gì nên mới theo Tràng về làm vợ. Chao ôi những suy nghĩ của bà cụ Tứ thật khiến người ta đau lòng, não nề, khiến người ta xót thương nhưng chẳng biết cách nào có thể thương lấy bà, thương lấy những con người trong thời đại này.

Kim Lân đã rất thành công khi phác họa hình ảnh bà cụ Tứ đầy ám ảnh trong lòng người đọc đến như vậy.

Hơn hết diễn biến tâm lý của bà cụ Tứ thay đổi rất đột ngột, nhưng sự thay đổi đó là tín hiệu đáng mừng chứng tỏ rằng bà đã chấp nhận người vợ “nhặt” của đứa con, cũng giống như việc chấp nhận sẽ gánh thêm cái khổ, cái đói, cái nghèo cùng với các con. Cái cách bà cụ Tứ dặn dò đôi vợ chồng trẻ thật khiến con người ta cảm phục “ Nhà ta nghèom liệu mà bảo nhau làm ăn.

Khi anh Tràng bước dài ra sân, bà động viên nàng dâu: Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Rồi ra thì con cái chúng mày về sau.”. Sự ân tình, chu đáo của người mẹ nghèo khiến đôi vợ chồng trẻ cảm động, không biết nói gì hơn, bà đã chấp nhận “người vợ mới” của đứa con, chấp nhận cả cái đói nghèo mà gia đình bà mang.

Ôi chao, cái đói nghèo hoành hành, con người không lo sao được. Thương cho bà cụ Tứ, thương cho người đàn bà nghèo và thương cho những người sống trong cảnh khốn đốn đó.

Hình ảnh “nồi cháo cám” sau đêm tân hôn của con mà người mẹ này mang đến thực sự khiến chúng ta cảm động đến rơi nước mắt. Nồi cháo cám ấy không còn nguyên giá trị thực như nó vẫn mang, nó là hiện thân của tình yêu thương con vô bờ bến, đức hi sinh lớn lao của người mẹ nghèo dành cho những đứa con. Nồi cháo cám là chi tiết cực kỳ đắt giá của câu chuyện, nhân phẩm và lòng vị tha, yêu thương của bà cụ Tứ cũng từ chi tiết này mà được nhân lên gấp bội, gấp vạn lần.

Hẳn người đọc sẽ không bao giờ quên đi hình ảnh bà cụ Tứ gắn với nồi cháo cám ở cuối truyện, bà kể toàn chuyện vui cho các con nghe với hi vọng có một tương lai đỡ khổ, đỡ nhọc nhằn hơn. Một tình yêu đáng ngưỡng mộ trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Hiện thực dường như không thể đánh gục được tình yêu thương giữa con người với con người với nhau.

Bằng bút pháp khắc họa diễn biến tâm lý sâu sắc, Kim Lân đã để lại trong lòng người đọc những dư âm khó phai về hình ảnh bà cụ Tứ nghèo đó nhưng vẫn ánh lên tình yêu thương đáng ngưỡng mộ. Bà cụ Tứ là hiện thân của những gì cao đẹp nhất của một con người, một nhân cách.

Bài Vợ nhặt của Kim Lân
Bài Vợ nhặt của Kim Lân

Số 2: Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ

Kim Lân sáng tác không nhiều nhưng tác phẩm nào của ông cũng rất xuất sắc. Kim Lân thường viết về người nông dân Việt Nam bằng ngôn ngữ gợi hình, mang đậm sắc thái Bắc bộ. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của Kim Lân là “Vợ nhặt”, một truyện ngắn được viết từ ngay sau Cách mạng tháng Tám 1945, lấy bối cảnh nạn đói, sau được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Trong truyện, người đọc nhớ mãi hình tượng bà Cụ Tứ – một trong những biểu tượng rất chân thật cho vẻ đẹp tâm hồn của người mẹ Việt Nam giàu lòng nhân hậu, hết lòng lo lắng cho hạnh phúc của con.

Trong truyện “Vợ nhặt”, Kim Lân đã sáng tạo được một tình huống truyện độc đáo. Trong tình cảnh đói khát khủng khiếp, người chết đói đầy đường, bản thân gia đình cụ Tứ cũng đang đói kém, sống ngụ cư, khó khăn trong việc nuôi thân. Bỗng nhiên con trai cụ – Anh Tràng lại có vợ theo không về. Tình huống con trai mình nhặt được vợ vừa lạ vừa hết sức éo le, là đầu mối cho sự phát triển của truyện. Xung quanh tình huống Tràng “nhặt vợ”, hoàn cảnh, số phận và phẩm chất của nhân vật cụ Tứ được khắc họa rõ nét, tự nhiên, cảm động. Mặc dù ngạc nhiên và ngỡ ngàng nhưng bà cụ Tứ vẫn vui vẻ chấp nhận nàng dâu mới và vun vén cho hạnh phúc của con.

Bà cụ Tứ là người nông dân nghèo khổ. Góa chồng từ thời còn trẻ, bà phải thay chồng tần tảo nuôi dạy con cái. Tuổi cao, sức yếu, bà cậy nhờ vào người con trai duy nhất với nghề kéo xe thóc cho Liên đoàn tỉnh. Cảnh nhà neo đơn, nghèo khó, hai mẹ con sống thoi thóp giữa nạn đói trong một túp lều xiêu vẹo, rúm ró ở xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ xuất hiện ở phần cuối tác phẩm, trên nền câu chuyện nhặt vợ của người con trai duy nhất. “Ngoài đầu ngõ có tiếng người hắng hó, một bà già từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào.” Xuất hiện với tiếng ho hung hắng và dáng người lọng khọng từ ngoài ngõ đi vào, bà cụ Tứ đã cảm thấy có điều gì đó bất thường khi thấy Tràng chạy ra vồn vã đón mẹ: “U đã về đấy”, “sao hôm nay u về muộn thế”. Chi tiết chân thật khắc họa hình ảnh một bà lão già yếu, nghèo khổ và tảo tần vì con cái.

Lúc đầu, bà lão rất ngạc nhiên. “Bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân, bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn”. Bà lão tỏ ra ngạc nhiên đến sửng sốt, không tin vào mắt mình vì thấy sự xuất hiện của một người đàn bà lạ mặt trong nhà, lại đứng ngay ở đầu giường của Tràng. Bà không tin vào tai mình khi nghe người đàn bà chào hỏi lễ phép: “U đã về đấy ạ”. Bà cụ Tứ ngạc nhiên vì nhiều lẽ: Giữa cảnh đói khát, người chết như ngả rạ, con trai bà lại xấu xí, cảnh nhà nghèo khó, làm sao Tràng dám lấy vợ. Bà cụ xót xa, buồn tủi. Khi được Tràng giới thiệu, “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ!”, bà cụ Tứ đã hiểu: “Bà lão cúi đầu nín lặng”.

Trong lòng người mẹ nghèo khổ chứa đựng bao nỗi tủi hờn và xót thương. Bà xót thương đôi trẻ lấy nhau giữa cảnh đói khát. Bà cảm thấy ân hận vì thiên chức làm mẹ chưa tròn, cảm thấy có lỗi đối với người chồng quá cố: “Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này”. Bổn phận làm mẹ, bà chẳng lo nổi cho con một đám cưới, dù chỉ làm một mâm cơm báo hiếu với tổ tiên. Nỗi đau khổ ấy lặn vào trong dòng nước mắt: “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Bà cụ cảm thấy đau khổ vì không làm tròn trách nhiệm của một người mẹ. Nhà văn Kim Lân đã thấu hiểu cho tâm tư và tình cảm của bà cụ Tứ nói riêng và những người mẹ nói chung.

Bà chấp nhận con dâu. “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Con mình mới có vợ được.. Ừ, thì các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Bà cụ Tứ tỏ rõ sự đồng cảm, xót thương người đàn bà. “Ánh mắt của bà lúc thì đăm đăm, lúc thì trìu mến, xót thương”. Chỉ cần một thoáng tự ái hay một chút ích kỉ, bà mẹ sẽ mắng mỏ con trai và xua đuổi người đàn bà xa lạ.

Những lời độc thoại như những đợt sóng trào dâng trong lòng người mẹ nghèo khổ. Nhưng người mẹ nhân hậu ấy đã nhận ra lẽ đời: Trong cái rủi có cái may, bà vui đón nhận nàng dâu mới, bỏ qua mọi nghi lễ truyền thống: “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Bà cụ Tứ từng trải, vị tha và yêu thương con cái. Bà dặn dò con. “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau mà làm ăn. Rồi ra may mà ông trời cho khá.. Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá..”.

Người ta sống được nhờ có ăn, muốn có ăn thì phải làm. Dạy con làm ăn phải cần cù, chăm chỉ yêu lao động. Có như thế mới biết quý trọng thành quả lao động. Đó là nền tảng hạnh phúc gia đình. Điều này chứng tỏ bà cụ Tứ là một người từng trải. Bảo nhau vợ chồng phải hòa thuận. Cổ nhân từng dạy: Tiết kiệm để lập gia, cần cù để khởi gia, hòa thuận để trường gia, làm theo đạo lí để tồn gia. Bà lão đang hướng các con về tương lai tươi sáng, tạo cho các con niềm tin vào cuộc đời, thể hiện tinh thần lạc quan, tiếp thêm sức mạnh vượt qua ranh giới của cái chết. Bà cụ Tứ thương yêu và lo lắng cho các con.

Bà vun vén hạnh phúc cho con: “Trong phút chốc, bà cụ Tứ như thấy cả cuộc đời nhọc nhằn, cay đắng của mình, của người chồng quá cố hiện lên trước mặt. Cuộc sống của đôi trẻ liệu có hơn cuộc đời bố mẹ?” Bà lo lắng cho tương lai của đôi trẻ “không biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói khát này không”. Bà cụ Tứ không hề rẻ rúng người con dâu mới dù biết rằng gặp cảnh đói khát chị mới chấp nhận theo Tràng về làm vợ. Bà đón nhận người phụ nữ xa lạ bằng tấm lòng bao dung của người mẹ: “Nó bây giờ là dâu con trong nhà rồi”. Bà tỏ rõ sự lo lắng: “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Bà tâm sự với người con dâu về gia cảnh “nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng mày liệu mà bảo nhau làm ăn”.

Bà phân trần với người con dâu về cảnh nhà khốn khó, không có nổi vài ba mâm cơm để báo hiếu tổ tiên, mời họ hàng, làng xóm. Người mẹ nghèo khổ nhưng thấu hiểu lẽ đời này đã dạy các con phải biết xây đắp mái nhà hạnh phúc từ tình thương yêu và sự hòa thuận. Bà cụ Tứ thắp sáng niềm tin và hi vọng cho các con. Bà dùng triết lí dân gian để động viên các con: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì con cái chúng mày về sau”. Điều quan trọng để có được hạnh phúc là sự hòa thuận: “Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi”. Một người mẹ có ý thức vun đắp cuộc sống và niềm tin vào sự đổi đời.

Sáng hôm sau, bữa ăn đầu tiên có con dâu. Lúc sáng sớm: “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời của họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”. Bà có sức sống mãnh liệt giúp các con có niềm tin, hy vọng vào tương lai tươi sáng hơn. Bữa cơm ngày đói: “Giữa cái mẹt rách có độc một lùm chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo”. Bữa cơm ngày đói thật thảm hại.

Trên cái mẹt chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một niêu cháo loãng, một đĩa muối nhưng cả nhà đều ăn rất ngon miệng. Bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, bà còn bàn bạc với đôi trẻ về chuyện nuôi gà để phát triển kinh tế gia đình. Cái chái bếp, qua dự tính của người mẹ trở thành cái chuồng gà với bao hy vọng về cuộc sống tương lai sẽ khấm khá. “Bà cụ vừa ăn cơm vừa kể chuyện làm ăn.. Bà lão toàn nói chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”.

Chi tiết nồi chè khoán ở phần cuối tác phẩm để lại cho bạn đọc niềm xúc động sâu xa. “Niêu cháo lõng bõng đã hết. Bà mẹ thương con đã chuẩn bị một nồi chè để các con ấm bụng. Bà lễ mễ bưng nồi chè nghi ngút khói, nét mặt tươi tắn, nụ cười rạng rỡ trên môi: Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem”. Bà tự tay múc bát chè đưa cho nàng dâu. Nồi chè khoán đắng chát, nghẹn bứ nhưng tình mẹ thật ngọt ngào, thơm thảo. Bà cố gắng xua đi cái không khí ảm đạm, chết chóc đang bủa vây sự sống thoi thóp của con người bằng những lời động viên, an ủi: “Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đâu đấy”. Tiếng trống thúc thuế vang lên, lòng mẹ quặn thắt những âu lo, căm hận kẻ thù: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế”. Bà lão quay đi giấu những giọt nước mắt.

Bà không nỡ phá vỡ giây phút hạnh phúc của các con. Kim Lân dường như đã thấu hiểu và nâng niu những giọt châu ấy vì khám phá tấm lòng nhân hậu, vị tha rất mực đáng quý của người mẹ quê mùa nghèo khổ. Bà có suy nghĩ mộc mạc của người dân lao động nghèo, luôn cần mẫn chăm chỉ, luôn có niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống. Đó cũng là vẻ đẹp chung của người dân lao động Việt Nam

“Chớ than phận khó ai ơi

Còn da lông mọc còn chồi nảy cây” (Ca dao)​

Diễn biến tâm trạng và hành động của cụ Tứ được nhà văn miêu tả chi tiết, tỉ mỉ, tinh tế và cảm động. Cách kể chuyện sinh động, tự nhiên, mạng đặc trưng khẩu ngữ miền Bắc bộ rất gợi hình, gợi cảm. Hình tượng bà cụ Tứ được khắc họa khá thành công với vẻ đẹp tâm hồn chân chất, mộc mạc của một người mẹ giàu lòng nhân ái, giàu đức hi sinh, hết lòng vì các con, trân trọng hạnh phúc của con. Bà cụ Tứ mang những vẻ đẹp tâm hồn, tính cách tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam giàu lòng nhân hậu, vị tha, sẵn sàng cưu mang người bất hạnh dù trong hoàn cảnh khó khăn nhất.

Qua tình huống liên quan đến bà cụ Tứ và câu chuyện Tràng nhặt được vợ, tác giả không chỉ tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945, mà còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của con người Việt Nam. Đó là ngay trên bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng về sự sống, khao khát tổ ấm gia đình, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, cùng hướng về tương lai tươi sáng. Câu chuyện về mẹ con Tràng thấm đẫm giá trị hiện thực và tính nhân văn sâu sắc.​

Số 3: Phân tích diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ

Bà cụ Tứ vốn là một nông dân từng trải, trung hậu. Cụ xuất hiện, muộn nhất trong tác phẩm nhưng lại là nhân vật kết đọng những giá trị về tình người, về đạo lý. Thiếu nhân vật này, tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân sẽ thiếu hẳn sức nặng.

Mở đầu, hình ảnh bà cụ Tứ xuất hiện với cái dáng “lọng khọng”, với tiếng ho “húng hắng” từ ngõ vọng vào. Hai từ láy, một từ tượng hình và một từ tượng thanh, đã phần nào khắc họa hình ảnh một người mẹ nghèo khổ, lam lũ, cơ cực, bị gánh nặng cuộc đời đè nặng thêm mãi tưởng chừng không bao giờ dứt. Tâm trạng của bà cụ Tứ là vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy một người đàn bà ở đầu giường con trai mình: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà nhỉ? (…) Sao lại chào mình bằng u (…) Ai thế nhỉ? (…) ô hay, thế là thế nào nhỉ?”. Cái đói đã đánh mất sự nhạy cảm vốn có của người mẹ này. Thậm chí Tràng đã phải nhắc đi nhắc lại thì bà cụ Tứ “im lặng”. Cái im lặng của một người đã trải qua biết bao cái đau khổ túng quẫn của đời, cái thấm thía cho cảnh ngộ, cái chấp nhận cho người đàn bà xa lạ kia và cả nỗi xúc động đến nghẹn lời.

Nếu tâm trạng cua Tràng chỉ phát triển theo đường thẳng, từ đầu đến cuối tác phẩm chỉ là những cung bậc cảm xúc thì ở bà cụ Tứ, tâm trạng phức tạp hơn. Khi nghĩ đến cảnh túng thiếu, đói khát của gia đình mình, cụ Tứ thấy tủi thân, tủi phận. Làm người mẹ, cụ biết trách nhiệm của mình đối với con: “người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”. Riêng suy nghĩ đó đã gợi ra cả một kiếp người và cả một hoàn cảnh éo le mà bà cụ Tứ đã và đang trải qua. Cụ tủi phận mình rồi thương con đẻ, thương đến cả con dâu, Lòng bao dung đã khiến cụ nhận ra cảnh ngộ và duyên cớ mà người đàn bà kia đến với con mình: “Người ta có gặp lúc khó khăn, đói khổ này, người ta mới theo đến con mình”.

Nếu người dân xóm ngụ cư thấy thị là món nợ đèo bòng, bà cụ Tứ cũng có giây phút nghĩ đến nhà thêm một miếng ăn nhưng cảm xúc chủ đạo mà bà dành cho người vợ của Tràng là Sự “thương xót”, thông cảm, và không hề xa lánh. Câu nói của bà vang lên là tiếng lòng của một người mẹ: “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Những dòng nước mắt xót xa cứ lăn dài trên gương mặt người mẹ ấy: “bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt chảy xuống ròng ròng”. Bởi bà cụ nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út, nghỉ đến cuộc đời khổ cực của mình, nghĩ đến tương lai của con trai và con dâu… và chẳng thể thoát ra khỏi không khí chết khốc đang bủa vây xung quanh.

Hoàn cảnh bất ngờ đã khiến bà cố giấu đi giọt nước mắt của mình một cách vụng về. Nếu trong hoàn cảnh đói khát, có lẽ người đàn bà nghèo khổ ấy không khóc và cố giấu nước mắt đến thế, bởi cái đói chỉ khiến con người chai lì đi chứ không thể đau khổ hơn được nữa. Nhưng đây là hạnh phúc hiện hình từ cái đói nên giọt nước mắt ấy là sự tủi hờn, cảm động không kìm nén được. Người mẹ ấy nhận tất cả vào mình để nói với “chúng mày” những lời lẽ ôn tồn, những lời lẽ như chứa đựng cả triết lý sống ngàn đời của nhân dân ta: “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, “vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn, rồi may ra ông trời cho khá”. Đó cũng là sự hi sinh của người mẹ rất mực thương con.

Bà không chỉ cảm thấy có lỗi với con, không lo được cho con mà còn cảm thấy có lỗi với hàng xóm khi không làm được mâm cơm cho tử tế để mời “Kể có ra là được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt cái lúc này”. Nói như Kim Lân: “Những người đói ngày ấy cũng có đạo lý riêng của họ” và cái đói không thể tiêu diệt được cái mầm lễ nghĩa trong chính những con người đang tối sầm lại vì đói khát kia.

Việc Tràng “nhặt” được vợ vừa là nỗi buồn rầu lo lắng, vùa là niềm vui mừng của bà lão tội nghiệp này. Hạnh phúc cũng hồi sinh nơi bà cụ Tứ, gương mặt “tươi tỉnh khác hẳn ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn quét tước nhà cửa”. Sự hớn hở và ý thức về một cuộc sống mới không chỉ có ở đôi vợ chồng trẻ mà nó cũng hiện diện trên gương mặt và điệu bộ xăm xắn của bà. Đến bữa ăn, bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này.

Cụ cố giấu cái lo, động viên các con “nhà ta thì còn nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông trời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì con cái chúng mày về sau”. Bà cụ cố khơi lên niềm vui từ nồi cháo cám. Nồi cháo cám là sự gắng gỏi của người mẹ phụ thêm vào xuất ăn ít ỏi của mỗi người, là biểu hiện của tình yêu thương ở người mẹ đối với những đứa con. Hãy nghe người mẹ nói: “chè đây -Bà lão múc ra một bát – chè khoán đây, ngon đáo để cơ”.

Chữ “ngon” này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt: niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào. Chi tiết nồi cháo cám là điều mà nhà văn Kim Lân muốn gửi gắm đến người đọc một thông điệp: dù đói khát khốn cùng đến đâu, con người cũng sẽ không bao giờ đánh mất cái chất người của mình. Họ muốn sống cho ra sống, và còn sống là còn lạc quan, như dân tộc ta ngàn đời nay luôn lạc quan mà bước tiếp vậy: “Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống”. Chỉ đến khi tiếng trống thúc thuế vang vọng vào bữa ăn, bà cụ Tứ mới thốt lên tâm trạng thực của minh: “Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ”.

Qua diễn biên tâm trạng của bà cụ Tứ. Chúng ta có thể nhận thấy biệt tài phát hiện và miêu tả tâm lí một cách chân thật và sắc sảo của Kim Lân. Nhà văn không chỉ khắc họa tâm trạng ấy thông qua hành động, lời lẽ, cử chỉ bề ngoài mà còn nhập thân vào nhân vật. Nhờ vậy, hình ảnh bà cụ Tứ hiện lên chân thực hơn. Quá trình tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp hơn nhân vật Tràng, tâm lí vận động theo kiểu gấp khúc hợp với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của người già từng trải và nhân hậu.

Thể hiện thành công diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ, Kim Lân đã bộc lộ niềm cảm thông sâu sắc trước cuộc đời những con người bất hạnh. Nhà văn cũng trân trọng nâng niu từng vẻ đẹp tâm hồn của họ. Điều này có tác dụng to lớn, khắc hoạ rõ nét chủ đề của tác phẩm: cho dù phải sống trong một tình thế hết sức bi đát, bà cụ Tứ nói riêng và những người lao động nói chung vẫn hướng tới tương lai, vẫn khao khát một mái ấm gia đình. Giá trị nhân đạo toát lên từ tình người gắn bó bao bọc lẫn nhau trong hoàn cảnh khốn cùng ấy.

Bài Vợ nhặt của Kim Lân
Bài Vợ nhặt của Kim Lân

Số 4: Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ

Kim Lân là cây bút chuyên viết về đề tài nông thôn. Sáng tác của ông phản ánh một cách chân thực và xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông am hiểu sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lí của họ. Một trong những sáng tác xuất sắc của Kim Lân là truyện ngắn “Vợ nhặt”. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp vừa là bài ca ca ngợi về sức sống và niềm tin của con người Việt Nam. Truyện ngắn “Vợ nhặt” đã dựng lên một tình huống độc đáo: anh cu Tràng nghèo khổ, xấu xí, ế vợ bỗng dưng lại nhặt được vợ giữa nạn đói khủng khiếp. Tình huống dở khóc, dở cười, vui mà tội nghiệp, mừng mà vừa tủi vừa lo đã làm nổi bật tâm trạng của các nhân vật trong truyện, trong đó có tâm trạng bà cụ Tứ – một người mẹ nghèo khổ nhưng nhân hậu, bao dung.

Trong một lần nói về truyện ngắn của mình, nhà văn Kim Lân đã phát biểu “Nạn đói năm 1945 thật khủng khiếp. Nhiều gia đình vừa có người chết đói vừa có người bỏ đi, dần dần mất hẳn. Tôi tận mắt chứng kiến người chết đói nằm rải rác khắp nơi. Khi con người bị đẩy đến bờ vực cuối cùng của cuộc sống thì toàn bộ số phận và tính cách con người họ sẽ biểu lộ ra hết. Chết đói là một thực tế khốc liệt. Đó là cái chết từ từ, hao mòn dần, quằn quại dần. Tôi được biết nhiều chuyện qua năm tháng đó. Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức sống đơn sơ của tâm hồn họ.

Nó vừa đắng cay vừa đớn đau, đồng thời lóe lên những tia sáng về đạo đức và danh dự” (Sách tìm hiểu một số tác giả và tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại, NXB Giáo Dục, 2001). Trong truyện ngắn Vợ Nhặt, có lẽ vẻ đẹp của “sức sống đơn sơ vừa đắng cay vừa đớn đau nhưng lại lóe lên những tia sáng đạo đức và danh dự” mà Kim Lân để cho người đọc cảm động nhất chính là hình tượng nhân vật bà cụ Tứ – một người mẹ nông dân chịu nhiều đắng cay thiệt thòi trong cuộc sống nhưng lại tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn Việt với tấm lòng nhân ái, bao dung.

Trong thời khắc khủng khiếp của nạn đói mà nói như thi sĩ Bàng Bá Lân: “Trên thân mình còn dính một chút da /Dù chưa chết đã bốc mùi tử khí”. Gia cảnh bà cụ Tứ cũng chẳng khá gì, hai mẹ con chỉ sống dựa vào đồng phu xe ít ỏi của Tràng; cuộc sống đang ngấp nghé bên bờ vực của cái chết. Việc con trai bà lấy vợ quả thật là khó tin, điều này gây nên sự xáo trộn rất lớn trong tâm trí người mẹ. Miêu tả quá trình thay đổi tâm trạng của người mẹ ngòi bút Kim Lân đã làm cho người đọc xúc động mãnh liệt.

Bà xuất hiện ở giữa thiên truyện với hình ảnh của một người mẹ đã già, sức cùng lực kiệt. Trong cái u ám của ngày đói, cái chạng vạng của chiều hôm tê tái, dáng đi “lọng khọng” và tiếng ho “húng hắng” của bà đã ám ảnh người đọc. Bà là một người mẹ nghèo khổ, góa bụa, chồng và con gái đều đã chết, bà ở vậy nuôi con, gia cảnh thì nghèo khổ; anh con trai thì luống tuổi, hai mẹ con nương tựa vào nhau mà sống. Anh Tràng, con của bà xấu xí thô kệch. Đã vậy, tính cách lại còn gàn dở, khó ưa thế mà bỗng nhiên hôm nay lại về với một người đàn bà nữa.

Chính sự xuất hiện của người đàn bà lạ trong nhà đã làm cho người mẹ ấy ngổn ngang bao tâm trạng, vừa ngạc nhiên, vừa tủi thân, mừng vừa lo.

Bà ngạc nhiên vì sự đon đả khác lạ của Tràng, ngạc nhiên vì người đàn bà lạ ở trong nhà. Bởi thế đôi chân bà theo con mà cứ “đứng sững lại”, có lúc cứ “phấp phỏng”. “Phấp phỏng” có nghĩa là tâm lý bất an, lo lắng, băn khoăn, không biết điều gì đón đợi mình phía trước. Nếu như anh cu Tràng sau những giây phút “Chợn” thì anh ta đi thẳng vào niềm vui, tâm lý phát triển theo chiều thẳng đứng. Còn bà cụ Tứ thì sau giây phút ngạc nhiên của bà là một tâm lý phức tạp, tâm lý phát triển theo đường cong.

Căn nhà tuềnh toàng rách nát của bà bấy lâu nay chỉ có bà và anh con trai, họ mạc thì đã thất tán nên sự xuất hiện của người đàn bà lạ kia quả là một sự kiện. Hàng loạt những câu hỏi nghi vấn dồn dập trong óc bà “Quái! Sao có người đàn bà nào đứng trong nhà mình thế nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng U? Không phải con cái Đục mà ai đấy nhỉ?”. Thực ra sự ngạc nhiên của bà cụ Tứ cũng là sự ngạc nhiên của biết bao người, từ xóm ngụ cư đến Tràng vẫn không tin nổi.

Nhưng thực sự mà nói, một người từng trải như bà sống mấy chục năm trên cõi đời này, bà là người giàu kinh nghiệm. Hơn nữa việc con cái lớn lên, muốn thành thất thành gia thì không người mẹ nào lại không nhạy cảm trước chuyện hệ trọng đó của con. Nhưng ở đây ta thấy nạn đói đã làm cho người mẹ mất đi sự nhạy cảm ấy. Chính vì vậy sự ngạc nhiên đó kéo dài rồi đến lúc bà không dám tin đó là sự thật, bà khẽ “hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn nhưng hình như nó lại nhoèn ra mãi”. Tuy nhiên thái độ của Tràng cùng không khí thiêng liêng của gia đình và câu mở lời của Tràng “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” thì bà cụ mới hiểu ra cơ sự, bà không ngạc nhiên nữa cũng không giận dữ lại càng không vui mừng mà lòng bà càng trở nên trăm mối tơ vò.

Khi hiểu ra cơ sự, bà cụ Tứ “cúi đầu nín lặng”. Kim Lân dùng hai chữ “Cúi đầu” mang đến cho người đọc một cảm nhận xót xa: đằng sau cái cúi đầu ấy có gì đó vừa uất nghẹn, vừa xót xa, vừa cay đắng. Lòng người mẹ đa cảm ấy bỗng thấy xót xa, tủi thân tủi phận. Bà buồn vì tự thấy mình chưa làm tròn bổn phận của người mẹ. Bởi cuộc đời của một người mẹ không chỉ sinh con ra, nuôi con lớn lên mà còn có trách nhiệm gầy dựng gia đình cho con, chăm lo cháu chắt, còn bà chỉ có hai bàn tay trắng: “Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì …”. Nhà văn đã bỏ lửng suy nghĩ của bà bằng ba dấu chấm. Ba dấu chấm như là những nốt lặng trong tâm hồn người mẹ mà ở đó sự tủi thân tủi phận dâng trào hơn bao giờ hết. Nhà văn đã để nhân vật của mình khóc: “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà đã rỉ xuống hai dòng nước mắt”, đó là dòng nước mắt cơ cực của cuộc đời và cũng là những giọt nước mắt đã cạn kiệt vì cuộc đời mẹ đã khóc quá nhiều.

Từ đó tâm lý bà cụ chuyển nỗi tủi thân thành lòng xót thương. Xót thương vì “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Bà thừa hiểu có nằm mơ thì thằng con mình cũng chẳng cưới được vợ. Mà người ta có cưới vợ thì cũng phải cưới một cách hiển hách, còn Tràng lại đi nhặt vợ. Nói như vậy không có nghĩa là bà khinh thường người con dâu mà ngược lại trái tim của người mẹ ấy bao dung hơn bao giờ hết. Bà tỏ ra rất gần gũi và chân tình “Nhìn người đàn bà đứng vân vê tà áo đã rách bợt”, mà “lòng đầy xót thương”. Chính tình cảm ấy đã xóa đi rất nhiều mặc cảm cho người con dâu. Trả lại danh dự cho người phụ nữ “mang tội theo trai” (Kim Lân).

Trái tim nhân ái của người mẹ đã mách bảo bà phải đồng ý cho cuộc tình duyên ấy: “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”.

Ca dao Việt Nam có câu:

Trồng cây những muốn cây xanh

Nuôi con những muốn con thành thất gia

Chuyện con cái thành thất thành gia là điều vui, sao mẹ chỉ “mừng”! Phải chăng ám ảnh về nạn đói đã lấn át đi niềm vui của mẹ? Đó cũng là câu nói chân thành chứa đựng những tình cảm sâu sắc của người mẹ làm cho không khí gia đình đã thiêng liêng lại càng thiêng liêng hơn. Câu nói đó còn bao chứa vẻ đẹp của tấm lòng nhân hậu, sự yêu thương cưu mang đùm bọc của bà dành cho người con dâu. Bà an ủi cô con dâu: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá…”. Tấm lòng nhân ái bao la và cao thượng đó của mẹ thật đáng quý biết bao!

Trong tình cảm người mẹ, sự yêu thương và vui mừng lại đi kèm nỗi lo lắng. Làm sao không lo cho được khi mà nạn đói đang diễn ra, cái chết đang cận kề. Đời bà thì đã già, có chết cũng chẳng tiếc nuối gì, nhưng còn các con dù sao thì cuộc đời vẫn còn dài nhưng liệu chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói này không? Rồi bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của bà, ông lão, cô con gái út, bóng tối như trùm lên hai con mắt của bà.

Bằng tấm lòng nhân đạo bao dung của mình, nhà văn không cho phép nhân vật của mình tuyệt vọng. Người mẹ là chỗ dựa tinh thần cho người con, bà cụ Tứ không giúp gì được cho đôi vợ chồng son về vật chất nhưng bà là chỗ dựa tinh thần cho các con. Tục ngữ Việt Nam có câu “Người sống đống vàng”, còn Kim Lân khi viết truyện ngắn này đã nung nấu: “Khi viết về con người năm đói, người ta thường viết về con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết về con người không nghĩ đến cái chết mà chỉ nghĩ đến cái sống. Đã sống thì phải sống cho ra cuộc sống con người”.

Có lẽ vì vậy mà Kim Lân đã để bà cụ Tứ thổi sức sống vào các con bằng triết lý dân gian: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Triết lý ấy cũng là kinh nghiệm sống của bà, sự từng trải của một người mẹ đã kinh qua bao khó nhọc trong đời. Chính triết lý ấy đã làm bừng lên sức sống, bừng lên tia hi vọng và làm ấm lòng đôi vợ chồng son. Đó cũng là lời động viên chí tình, chí nghĩa mà bà muốn nhen lên trong lòng con sức mạnh vượt qua nạn đói.

Tâm lý của bà cụ Tứ đổi thay tích cực sau đêm tân hôn của đôi vợ chồng son. Bà dậy sớm cùng con dâu thu dọn nhà cửa như để đón chào một cuộc sống mới tươi vui hơn “làm ăn có cơ khấm khá hơn” đang mở ra ở phía trước. Dáng vẻ, tâm thế của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn ngày thường. Tràng nhận rõ sự biến chuyển khác thường đó “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”.

Bữa ăn ngày đói được Kim Lân miêu tả thật thê thảm: “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Bữa cơm đầu đón nàng dâu không có sơn hào hải vị, không của ngon vật lạ mà chỉ có những gì thê thảm nhất của sự khốn cùng: mẹt rách, rau chuối, muối, cháo… Nhưng sự thiếu thốn về vật chất ấy lại được bù đắp về mặt tinh thần bởi cả gia đình ấy đang có thêm một thành viên mới, một hạnh phúc mới. Bởi vậy “cả nhà đều ăn rất ngon lành”.

Trong không khí gia đình vui vẻ, đầm ấm, hạnh phúc, bà cụ Tứ đã thêm một lần truyền động lực sống cho các con. Bao trùm không khí bữa ăn vẫn dào dạt tình người. Bà cụ Tứ chắt chiu từng chút niềm vui, cố gắng tạo ra không khí hòa hợp, vui vẻ. Bà vừa là người thắp lửa và cũng là người truyền lửa. Thắp lên những niềm vui, lạc quan vào cuộc sống và truyền cho con cái những lạc quan ấy để các con hướng về tương lai. “Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”. Điều này chứng tỏ người mẹ ấy rất lạc quan, có niềm tin vào tương lai tươi sáng. Đói khát không thể quật ngã được người mẹ nông dân có niềm tin sắt đá “ai giàu ba họ ai khó ba đời” ấy.

Câu chuyện đàn gà mà mẹ mang đến trong bữa ăn như một luồng sinh khí mới làm bữa ăn càng trở nên đầm ấm: “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà… Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”. Từ “đôi gà”, thành “đàn gà” là sự lạc quan, niềm tin mãnh liệt của người mẹ vào tương lai. Bà tin vào sự sinh sôi sẽ lấn át sự hủy diệt, sự sống sẽ lấn át cái chết. Cũng như chúng ta luôn tin vào đôi vợ chồng son này, rồi họ cũng sẽ tự sinh tồn và vượt qua nạn đói để sinh con đàn cháu đống cho giống nòi Việt Nam mãi mãi xanh tươi. Đây chính là chi tiết thể hiện niềm tin của bà cụ vào tương lai, tin vào một tương lai tốt đẹp của đôi vợ chồng son. Và cũng chính câu chuyện này đã thổi hồn vào cuộc đời của Tràng và người vợ nhặt một luồng sinh khí mới, đưa họ vượt qua “ranh giới giữa sự sống và cái chết” để tiếp tục một cuộc đời mới trên cái nền u ám của nạn đói.

Bà tự hào vì nồi “chè khoán” mà thực ra là nồi cháo cám để đãi nàng dâu mới đã khiến người đọc cảm động đến ứa nước mắt vì tình cảm của người mẹ nghèo khổ ấy. Bà tự hào bởi “xóm ta khối nhà chả còn cám mà ăn đấy”. Vậy là nhà bà “sang” nhất xóm, “giàu có” hơn nhà người. Niềm tự hào ấy sao nghe chân thành mà đáng thương làm sao. Bà cụ tươi tỉnh trù tính câu chuyện làm ăn, gắng hết sức để thắp lên cho hai con ngọn lửa của niềm tin, lạc quan yêu sống. Về điều này, Kim Lân khẳng định “Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống”. Tinh thần nhân bản của tác phẩm tỏa sáng ở đây.

Thành công của việc xây dựng tâm lý bà cụ Tứ nói riêng và tác phẩm Vợ nhặt nói chung là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn; Miêu tả tâm lý nội tâm nhân vật sắc sảo; Tạo tình huống truyện độc đáo để các nhân vật bộc lộ phẩm giá của mình. Tất cả đã tạo nên giá trị hiện thực và nhân đạo sắc sảo. Một mặt tác giả tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân, phong kiến và phát xít đã đẩy dân tộc ta vào nạn đói khốn cùng làm chết hơn hai triệu con người. Một mặt tác giả ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn Việt, dù trong hoàn cảnh nào, con người Việt Nam vẫn luôn yêu thương, cưu mang đùm bọc nhau hướng vào tương lai, hi vọng trông chờ.

Bà cụ Tứ là một người nông dân, là bà mẹ đại diện cho những gì khốn khổ nhất, cùng cực nhất của năm đói và nhân vật này đã được nhà văn thể hiện qua giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm, đó chính là vẻ đẹp tình người. Bà là hiện thân của vẻ đẹp về tấm lòng nhân hậu của người phụ nữ Việt Nam kết tinh từ bao đời nay.

Số 5: Phân tích tâm trạng của bà cụ Tứ

“Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc của nhà văn Kim Lân, viết về cuộc sống ngột ngạt của nhân dân ta mà tiêu biểu là gia đình bà cụ Tứ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Ngòi bút nhân đạo của Kim Lân vừa thể hiện ở sự thông cảm cho những số phận cùng khổ, vừa thể hiện ở sự phát hiện, khẳng định vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu sau cái bề ngoài xác xơ vì đói khổ của nhân vật. Trong ba nhân vật chính của truyện (bà cụ Tứ, Tràng và người đàn bà vợ Tràng), bà cụ Tứ, mẹ Tràng là nhân vật có tâm trạng phức tạp mà nhân hậu vô cùng đã thể hiện nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động trong tác phẩm. Sau đây, bài viết sẽ đi sâu phân tích đoạn trích: “.. Thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ…” đến: “ có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.. góp phần làm sáng tỏ thành công của ngòi bút tài hoa Kim Lân trong việc miêu tả trạng thái tâm lí nhân vật bà cụ Tứ.

Trước tiên, ta cần hiểu bối cảnh truyện hay chính là hoàn cảnh gia đình nhà cụ Tứ. Ấy là vào năm Ất Dậu, cái năm vẫn được nhiều người lớn tuổi quen gọi là năm “đói”. Cái nạn đói của năm Ất Dậu không bao giờ quên được có lẽ là tai họa thảm khốc nhất của một dân tộc mà số phận vốn đã lắm tại nhiều họa. Bởi lẽ chưa có một thủy tai, hỏa hoạn nào, chưa có một dịch bệnh nào và thậm chí chưa có một cuộc chiến tranh nào đã có thể… như cái nạn đói khủng khiếp kia – cướp đi của nước Việt Nam ngót một phần mười dân số. “Vợ nhặt” được hoàn thành khá lâu sau năm đó.

Nhưng cảm quan về cái đói, có thể nói, đã thấm đến tận cái nhìn vào cảnh vật của tác giả. Tràng, nhân vật chính của “Vợ nhặt” đã được Kim Lân cho xuất hiện trên nền khung cảnh đó. Một con người hoang sơ, ngất ngưỡng bước đi trong ánh chiều tàn của cuộc sống không ra cuộc sống. Tràng, qua cách miêu tả của Kim Lân, như kết tinh cái phần hoang dã trong con người, cái phần xa lạ hẳn với mọi kiểu cách trau chuốt của xã hội văn minh.

Chưa kể, Tràng lại là một kẻ ngụ cư, một loại người lúc bấy giờ vẫn bị coi khinh, ruồng bỏ, một thứ cỏ rác của hương thôn. Nhưng: “ Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều, người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa”. Tràng có vợ. Người như Tràng mà lại có vợ: Mà lại có vợ một cách hiển hách, oanh liệt, cứ y như một anh chàng tốt số, đào hoa: chỉ buông ra có một lời ỡm ờ tán tỉnh mà “cô nàng” đã vội vã theo không. Hạnh phúc đột ngột đã khiến cho anh cu Tràng rất đỗi ngỡ ngàng.

Quá trình tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp hơn so với nhân vật Tràng. Nếu ở đứa con trai, niềm vui làm chủ, tâm lí phát triển theo “chiều thẳng đứng, phù hợp với một chàng rể trẻ tuổi đang tràn trề hạnh phúc thì ở bà mẹ, tâm lí vận động theo kiểu “gấp khúc”, hợp với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu của người già từng trải và nhân hậu. S Cũng như con trai, khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên đến sững sờ. Anh con trai ngỡ ngàng bởi một cái đã biết, còn bà mẹ ngỡ ngàng như một cái dường như không hiểu được. Tình huống đặc biệt làm cho bà cụ Tứ ngạc nhiên, ấy là việc con trai mình đã lấy vợ. Bà cụ ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, lại đang thời buổi đói khát, nuôi thân chẳng xong lại dám lấy vợ và có người đồng ý làm vợ. Khi bà cụ Tứ đi làm về, bà đã không khỏi sững sờ khi thấy một cô gái lạ xuất hiện trong nhà bà.

Trạng thái ngỡ ngàng ấy được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi vấn: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong đấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đừng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?”. Rồi lại: “Ô hay, thế là thế nào nhỉ?”. Trái tim người mẹ có con trai lớn vốn rất nhạy cảm về điều này, vậy tại sao Kim Lân lại để cho nhân vật người mẹ ngơ ngác lâu đến thế? Một chút quá đà, một, chút “kịch” trong ngòi bút Kim Lân chăng? Không, nhà văn của của đồng nội vốn” không quen tạo dáng. Đây là nỗi đau của người viết: chính sự cùng quẫn của hoàn cảnh đã đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm đó.

Nếu ở Tràng, sự ngỡ ngàng đi thẳng tới niềm vui, thì ở bà cụ Tứ, sự vận động tâm lí phức tạp hơn. Từ sự ngỡ ngàng, tâm trạng cụ Tứ chuyển tới nỗi lòng éo le vừa mừng, vừa tủi. Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão “cúi đầu nín lặng”. Sự nín lặng đầy nội tâm. Đó là nỗi niềm xót xa, lo, thương lẫn lộn. Khi đã vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình “nhặt” được vợ, bà liên tưởng đến bao cơ sự “oái oăm”, “ai oán”, “xót thương” cho số kiếp của đứa con trai mình. Bà liên tưởng đến người chồng quá cố, đến đứa con gái đã qua đời, long bà trĩu nặng tủi buồn, xót xa. đ Bà cụ Tứ mừng cho con từ nay yên bề gia thất, tủi thân làm mẹ không lo nổi vợ cho con. Giờ đây, giữa lúc người chết đói “như ngả rạ” lại có người theo con trai bà về làm vợ. Rồi bà nghĩ đến bổn phận cha mẹ sinh thành, dưỡng dục, tạo lập hạnh phúc cho con: “Trồng cây những muốn cây xanh Nuôi con những muốn mang thành thất gia” Nhưng bà chẳng làm được.

Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn. Biết lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng khi con đã có vợ. Chừng ấy năm sống trên đời mách bảo bà lão rằng mối duyên kiếp trớ trêu hình như không nên có: “Chao ôi, người ta dựng nợ, gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Bà cụ Tứ khóc vì mừng con có vợ, khóc vì thương con dâu không biết làm sao vượt qua nỗi khốn khó này. Dễ thấy nhân vật bà cụ Tứ không mang nhiều nét hài hước như vợ chồng Tràng.

Điều đó có thể được lí giải bởi nhà văn kính trọng người mẹ, kính trọng tuổi già, kính trọng nỗi khổ đau suốt một đời đã đè nặng lên đôi vai của con người. Và chăng, với nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn còn có dịp nhìn việc lấy vợ của Tràng từ một góc độ khác. Con người già cả ấy đánh giá sự việc bằng kinh nghiệm và từng trải, lòng đầy ám ảnh của một quá vãng nặng trĩu những đắng cay. LA “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?” Bao nhiêu tình yêu chân thành tha thiết của người mẹ thể hiện trong những lời giản dị, mộc mạc ấy. Bà cụ xót xa thương dâu, thương con, tủi phận mình. Bao nhiêu lo lắng cứ ngổn ngang trong lòng.

Bà cụ Tứ thực sự lo lắng cho con trai, con dâu, lo cho cái gia đình nghèo túng của bà giữa lúc đói kém này liệu có nuôi nổi nhau? Tương lai rồi sẽ ra sao. Bà chấp nhận cái “hạnh phúc” oái oăm, éo le của gia đình mình. Đó là nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời, có tấm lòng sâu thẳm đối với gia đình mình.

Tình thương của bà mẹ nhân hậu mới bao dung làm sao: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?” Trong chữ “chúng nó”, người mẹ đã đi từ lòng thương con trai sang con dâu. Trong chữ “cúi đầu”, bà mẹ tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh, khác hẳn anh con trai, tiếp nhận hạnh phúc bằng một nhu cầu, bằng một ước mơ tinh thần phơi phới. B Không dừng lại ở đó, ngòi bút của Kim Lân tiếp tục hướng tới thứ ánh sáng kì diệu tỏa ra từ đức tin của người mẹ già đã ở cái độ gần đất, xa trời. Sẽ thật thiếu sót nếu không nhắc tới tinh thần lạc quan mà người mẹ già đã truyền cho những đứa con ở phần sau của câu chuyện. Trong cái mừng, cái tủi, cái lo người đọc vẫn thấy được niềm vui của bà cụ.

Một niềm vui tội nghiệp không sao cất cánh lên được, cứ bị cái buồn, cái lo níu kéo xuống. Nhưng bà cụ Tứ cố vui và cố làm cho con trai, con dâu vui. Vui trong ý nghĩ tốt đẹp về tương lai, vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa, vui trong bữa cơm đầu tiên có con dâu với món cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ”.Mặc dù cuộc sống khắc nghiệt, ngặt nghèo đến tàn bạo đã đầy đọa mẹ con bà. Bà vẫn cố tạo không khí hòa thuận, ấm cúng trong gia đình và kể chuyện làm ăn, nuôi gà… tươi cười đon đả cho con dâu khỏi ngậm ngùi.

Thành công của nhà văn là đã thấu hiểu và phân tích được tâm lí khá tinh tế của con người trong một hoàn cảnh đặc biệt. Ở trích đoạn này, nhân vật bà cụ Tứ đã thể hiện được chiều sâu nội tâm phong phú, phức tạp nhưng phù hợp với quy luật khách quan. Cũng không thể phủ nhận, để có được thành công trong việc miêu tả tâm lý nhân vật, nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một tình huống truyện vô cùng độc đáo và lí thú. Từ tài dựng truyện và tài dẫn truyện, Kim Lân đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo rồi cũng chính từ đó mà khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh tế ở mỗi nhân vật, đặc biệt là nhân vật bà cụ Tứ.

Qua việc khám phá chiều sâu tâm lí nhân vật bà cụ Tứ trong trích đoạn cũng như toàn thiên truyện, ta thấy nổi bật quan điểm nhân đạo sâu sắc mà nhà văn Kim Lân muốn gửi gắm. Ấy là khi nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt. Trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Thông điệp của Kim Lân là một thông điệp mang ý nghĩa nhân văn.

Trong tiểu thuyết nổi tiếng “Thép đã tôi thế đấy”, nhà văn Nhicolai Oxtropxki đã để cho nhân vật Paven Coocsaghin ngẫm nghĩ: “Hãy biết sống cả những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa”. Bà cụ Tứ là minh chứng cho những người nghèo khổ đã “biết sống”, biết chấp nhận với một tình yêu thương vô bờ bến để những người thân yêu của mình có thể nương tựa mà vượt qua. Thông điệp này đã được Kim Lân chuyển hóa thành một thiên truyện ngắn xuất sắc. Với trích đoạn cảm động, nhà văn đã để lại dấu ấn đậm nét về bút pháp miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ và hấp dẫn.

Bài Vợ nhặt của Kim Lân
Bài Vợ nhặt của Kim Lân

Tổng kết

Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 5 mẫu phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 12.

0/5 (0 Reviews)
Chúng tôi tạo ra Top10timkiem.vn nhằm mục đích cung cấp cho người đọc những thông tin, liệt kê một cách chi tiết nhất về mọi lĩnh vực trong cuộc sống.