Top 10 mẫu phân tích Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người chi tiết nhất

Top 10 mẫu phân tích Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người chi tiết nhất
Top 10 mẫu phân tích Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người chi tiết nhất
4.6/5 - (16 votes)

Tổng hợp các bài mẫu phân tích Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người trong tác phẩm Chí Phèo của tác giả Nam Cao một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 10 mẫu phân tích Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Dàn ý phân tích Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người

I. Mở bài

– Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm:

+ Nam Cao là cây bút xuất sắc của nền văn học hiện thực phê phán.

+ Sáng tác của Nam Cao tập trung vào hai mảng đề tài chính: người trí thức nghèo và người nông dân cùng khổ.

+ Tiêu biểu cho mảng đề tài viết về người nông dân là truyện ngắn “Chí Phèo”.

– Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Tâm trạng của Chí Phèo khi bị cự tuyệt quyền làm người.

II. Thân bài

– Giải thích:

+ Bi kịch là gì?

+ Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người là gì?

– Tâm trạng của Chí Phèo khi bị cự tuyệt quyền làm người:

+ Nguyên nhân: Do định kiến của xã hội đương thời thể hiện thông qua hình tượng của bà cô thị Nở: Xã hội ấy chỉ thấy Chí vốn là một thằng không cha không mẹ, lại vào tù ra tội, làm nghề rạch mặt ăn vạ; bởi vậy, lấy Chí là một điều nhục nhã, không thể chấp nhận được dẫu đó là thị Nở – một người con gái xấu đến ma chê quỷ hờn, lại mang dòng giống mả hủi.

+ Tâm trạng của Chí Phèo:

+) Khi Thị Nở trút vào hắn tất cả lời của bà cô, Chí bỗng ngẩn mặt ra, không nói gì.

+) Khi Thị Nở ngoay ngoáy cái mông đít ra về, Chí sửng sốt đứng lên gọi lại, rồi đuổi theo thị, nắm lấy tay thị.

+) Khi Thị Nở gạt tay, dúi thêm một cái, Chí ngã lăn khèo xuống sân. Chí kêu làng ăn vạ trong tuyệt vọng, đau khổ.

+) Chí Phèo nung nấu quyết tâm trả thù: Ban đầu, Chí ra đi với một con dao ở thắt lưng với ý định đâm chết cả nhà thị Nở nhưng rồi trong cơn say, Chí lại đến nhà Bá Kiến. Bởi Chí nhận ra kẻ thù đã gây ra bi kịch của cuộc đời mình là Bá Kiến nên đã xông vào đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình.

III. Kết bài

Bi kịch của Chí Phèo cho thấy số phận bi thảm của người nông dân trước cách mạng tháng Tám.

Top 10 mẫu phân tích Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người

Số 1: Phân tích Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người

Khi Đôi lứa xứng đôi (tức Chí Phèo) xuất hiện trên văn đàn (1941) thì văn học hiện thực phê phán đã qua một thời kỳ phát triển rực rỡ. Là người đến muộn, nhưng Nam Cao đã tự khẳng định mình bằng những khám phá nghệ thuật mới mẻ, đem đến cho văn học đương thời một tiếng nói riêng đặc sắc.

Hơn năm mươi năm đã trôi qua, tác phẩm Chí Phèo ngày thêm được khẳng định, được khám phá từ những góc độ mới mẻ và chắc chắn sẽ tồn tại vĩnh viễn trong lịch sử văn học Việt Nam như một tác phẩm ưu tú.

Dưới một ngọn bút tài hoa, linh hoạt, giàu biến hoá: khi kể, khi tả, khi sắc lạnh tàn nhẫn, lúc hài hòa bỡn cợt, lúc trữ tình thắm thiết, khi triết lý sắc bén, khi quằn quại đau đớn… cuộc sống cứ hiện lên với biết bao tình huống, bao cảnh ngộ, bao chi tiết sống động.

Đôi khi, chỉ một cử chỉ, một lời nói, một phác thảo đơn sơ… mà hiện lên một chân dung, lộ nguyên hình một tính cách… Cứ thế, tác phẩm tạo nên một sức lôi cuốn hấp dẫn từ dòng đầu tiên cho đến dòng kết thúc.

Gấp sách lại rồi, ta vẫn bị ám ảnh không thôi bởi tiếng kêu cứu của một con người bị tước mất quyền làm người. Một tiếng nói khát khao muốn trở về lương thiện nhưng bị chặn đứng ở mọi nẻo, và một kết thúc bi thảm đắng cay.

“Bi kịch của một con người bị khước từ quyền làm người” đó là chủ đề xuyên suốt toàn bộ hình tượng của tác phẩm, được nhà văn đặt ra như một tiếng kêu cứu thảm thiết, bức xúc, tạo nên giá trị nhân đạo đặc sắc của tác phẩm Chí Phèo.

Khác với các nhà văn hiện thực phê phán đương thời, trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao không đi sâu miêu tả quá trình đói cơm rách áo, bần cùng khốn khổ… của người nông dân, mặc dù trong thực tế, đó cũng là một hiện thực phổ biến.

Nam Cao trăn trở, băn khoăn suy ngẫm nhiều hơn về một hiện thực còn thảm khốc, bức xúc hơn cả đói rét bần cùng, đó là hiện thực về sự tha hóa, một mối đe dọa thảm khốc trong xã hội đương thời; về nhân phẩm bị vùi dập, chà đạp bởi cả một guồng máy thống trị bạo tàn.

Vấn đề nhân phẩm, vấn đề quyền con người được đặt ra, chi phối cảm hứng sáng tạo trong nhiều sáng tạo của Nam Cao, trong đó Chí Phèo là tác phẩm thể hiện trực tiếp, tập trung và mãnh liệt hơn cả.

Mở đầu tác phẩm là tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí Phèo đang ngật ngưỡng trên đường say, đập vào ý thức người đọc một ấn tượng mạnh mẽ. Hãy nghe nhà văn miêu tả: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi.

Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi tất cả làng Vũ Đại.

Nhưng cả làng Vũ Đại, ai cũng tự nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều.

Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo”.

Đây là tiếng chửi của một tên say rượu, một tiếng chửi vô thức. Nhưng nhiều khi trong vô thức, con người lại thể hiện chính mình nhiều hơn khi tỉnh.

Qua tiếng chửi của Chí Phèo, người đọc cảm thấy như đang đối diện với một con “người – vật” quái gỡ đơn độc ở tận cùng của sự khổ đau, đang trút lên cuộc đời – tất cả cuộc đời – tiếng nói hằn học, phẫn uất, đầy thống khổ của mình.

Và cũng qua tiếng chửi của Chí Phèo, cùng một lúc người đọc nhận ra ba thái độ khác nhau: thái độ hằn học thù địch của Chí; thái độ khinh miệt dửng dưng của người đời; thái độ phẫn uất thương cảm của tác giả thể hiện qua giọng văn vừa xót xa vừa tàn nhẫn.

Đằng sau một tiếng chửi vô thức của người say, hay rõ hơn, hòa nhập vào tiếng chửi vô thức ấy, là tiếng nói đầy ý thức nhân văn của nhà nghệ sĩ, tiếng nói phản kháng mãnh liệt đối với hiện thực, tiếng nói xót xa đau đớn trước số phận bi thảm của con người. Và chính tiếng nói ấy, ngay từ trang đầu tiên đã thực sự đánh thức tấm lòng nhân ái nơi người đọc.

Và cứ thế, cuộc đời Chí Phèo, theo lời kể của nhà văn, hiện lên dần như một cuộn phim bi thảm.

Kể từ khi hắn là một đứa trẻ trần truồng và xám ngắt bên cái lò gạch cũ bỏ không, cho đến khi hắn bơ vơ, đi ở cho người này đến người khác rồi làm canh điền cho Lý Kiến và cuối cùng bị bắt giam vô cớ và tù tội oan uổng… Nhà văn không miêu tả thật chi tiết quá trình Chí Phèo bị đối xử ra sao trong suốt chặng đường dài ấy, nhà văn chỉ tập trung miêu tả cái kết cục, cái hậu quả thảm khốc của nó.

Qua một kết cấu không theo trình tự thời gian – chủ yếu theo mạch dẫn dắt tâm lý của người kể chuyện – người đọc hiểu ra: trước kia Chí vốn là người lương thiện. Chỉ sau khi ở tù về, hắn mới hoá thành một người khác hẳn, bị tước mất cả nhân tính lẫn nhân hình với “cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cong cong, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Với vẻ dường như lạnh lùng, nhà văn viết: “Bây giờ thì hắn đã trở thành người không tuổi rồi.

Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay là ngoài bốn mươi? Cái mặt hắn không trẻ cũng không già; nó không còn phải là mặt người; nó là mặt một con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi?”. Sau khi ở tù về, hắn đã trở thành con quỉ dữ của làng Vũ Đại mà không tự biết.

Cuộc đời hắn không có ngày tháng bởi những cơn say triền miên. “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt, chửi bới doạ nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận.

Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ chưa bao giờ hắn tỉnh táo để nhớ rằng hắn có ở đời. Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỉ dữ của làng Vũ Đại để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện…

Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”… Đoạn văn chất chứa biết bao nỗi thống khổ của một thân phận đã không còn được sống cuộc sống của một con người. Những năng lực vốn có của con người – năng lực cảm xúc, ý thức – hầu như bị tiêu hủy, chỉ còn lại một năng lực đâm chém, phá phách. Bị đối xử tàn bạo.

Chí Phèo đã phản kháng lại bằng sự bạo tàn. Đó là “sự phẫn nộ tối tăm” như Lênin đã từng nói. Trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao đã chỉ ra rằng Chí Phèo không phải là một ngoại lệ. Cùng với hắn còn có Binh Chức, Năm Thọ.

Đó là kết quả tất yếu của một lôgic: một khi đã có Bá Kiến, Lý Cường, Đội Tảo… thì ắt là sẽ có Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức. Đó không phải chỉ là sản phẩm của sự thống trị mà thậm chí còn là một phương tiện tối cần thiết để thống trị. “Không có những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị những thằng đầu bò”. Chính Bá Kiến đã rút ra kết luận quan trọng ấy.

Như thế, xã hội không chỉ đẻ ra Chí Phèo mà còn tiếp tục nuôi dưỡng Chí Phèo, biến những con người như Chí Phèo thành một công cụ thống trị của chúng. Nguy cơ và thảm hại thay, những người nông dân vốn lương thiện, bị huỷ hoại về nhân cách, bị biến thành công cụ, phương tiện thống trị cho kẻ thù mà không tự biết.

Đúng như nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh đã nói: “Khi Chí Phèo ngất ngưởng bước ra từ những trang sách của Nam Cao thì người ta liền nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ tủi nhục nhất của người dân cày ở một nước thuộc địa: bị giày đạp, bị cào xé, bị huỷ hoại, từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán chó, bán con, bán sữa nhưng chị còn được là con người.

Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để thành con quỉ dữ của làng Vũ Đại”. Chỉ ra hậu quả thảm khốc của sự bạo tàn, lên tiếng chất vấn và tố cáo gay gắt sự thống trị bạo tàn, nhà văn đã soi sáng vào quá trình miêu tả một cảm hứng nhân văn sâu sắc.

Nhưng điều đặc sắc và đáng quí hơn nữa ở Nam Cao là ngay trong khi miêu tả nhân vật bị tha hóa đến chỗ tận cùng, Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn có, chỉ cần một chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc.

Con người xấu “ma chê quỷ hờn” ấy, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tăm tối của Chí Phèo, thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã bị ngủ mê qua bao ngày tháng bị vùi dập, hắt hủi.

Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Thị Nở, Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe ra một tiếng chim vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải… Những âm thanh ấy bao giờ chả có.

Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn, trong cái phút tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau.

Cũng may Thị Nở mang bát cháo hành tới. Nếu không, hắn đến khóc được mất…Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí xao xuyến bâng khuâng. “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với Thị như làm nũng với mẹ…Ôi sao mà hắn hiền! Hắn thèm lương thiện – Hắn khát khao làm hòa với mọi người”…

Từ một con quỷ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có của con người: thương yêu, cảm xúc, ao ước…Té ra, chỉ cần một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí…cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết chừng nào!

Bằng chi tiết này, Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo thật đẹp đẽ – Nhà văn như muốn hòa vào nhân vật để cảm thông, chia sẻ những giây phút hạnh phúc thật hiếm hoi của Chí Phèo…

Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo. Một chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí trỗi dậy, cũng là lúc Chí hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa.

Xã hội đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Những vết dọc ngang trên mặt, kết quả của bao nhiêu cơn say, bao nhiêu lần đâm chém, rạch mặt ăn vạ… đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời.

Và, như Đỗ Kim Hồi nói, “một khi người được nếm trải chút ít hương vị làm người thì cái xúc cảm người sẽ không thể mất… Đấy là mối bi thảm tột cùng mà cách giải quyết chỉ có thể là cái chết”. (Tạp chí Văn học số 3, 1990 trang 32)

Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người! Đó là giá trị nhân văn đặc sắc khiến cho tác phẩm Chí Phèo luôn luôn mới.

Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

Số 2: Phân tích bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo

Còn điều gì đau đớn và xót xa hơn khi ta vẫn hiện hữu trong cộng đồng, nhưng lại bị chính cộng đồng đó ruồng rẫy, bỏ mặc, đó là bi kịch đau xót nhất của con người – bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Bằng ngòi bút sắc sảo của một nhà văn hiểu đời và hiểu người, Nam Cao đã tái hiện chân thực, đầy xúc động bi kịch bị cự tuyện quyền làm người của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên.

Mở đầu ta không thấy chân dung bất cứ ai, chỉ có tiếng chửi là văng vẳng vang lên ngay từ đầu tác phẩm. Vì sao mà người đó phải chửi ? Vì sao tiếng chửi lại cay nghiệt, phẫn uất đến vậy ?

Đó chính là tiếng chửi của Chí Phèo sau khi đi uống rượu say về, hắn chửi trời, chửi đời, rồi chửi làng Vũ Đại, chửi những đứa không chửi nhau với hắn, ngay cả người đẻ ra hắn hắn cũng không hần ngại chửi. Nhưng chỉ có một mình Chí độc thoại, không có bất cứ ai đáp lại vì nghĩ Chắc nó trừ mình ra.

Thành thử ra chỉ có tiếng chó sủa hòa với tiếng một kẻ say đang chửi. Bi kịch của Chí ngay từ đầu đã được tác giả khơi mở. Để rồi sau đó ngược về quá khứ, thấy được những bi kịch nối dài cuộc đời Chí Phèo, mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn, khổ sở hơn bi kịch trước.

Chí Phèo ra đời ở một cái lò gạch cũ cũ hoang, được một anh thả uống lươn mang về nuôi. Ngay từ khi sinh ra Chí đã bị người mẹ đẻ của mình cự tuyệt quyền sống, quyền được làm người. Dù được cứu nhưng Chí cũng phải sống lang thang hết nhà này đến nhà khác. Cuộc đời Chí không nhà không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không tấc đất cắm dùi… (Nguyễn Hoàng Khung ). Từ khi sinh ra cuộc đời Chí đã là một bi kịch.

Khi lớn lên, là một anh nông dân khỏe mạnh, Chí đi làm thuê cho gia đình Bá Kiến, Chí hiền như đất, nhưng lại liên tục bị bà ba gọi lên bóp chân, trong lòng Chí chỉ thấy nhục, người ta không thích những thứ người ta khinh. Nhưng Chí lại bị con quỷ dâm đãng Bá Kiến bắt gặp, hắn ta đã tống Chí vào nhà tù thực dân cho thỏa nỗi ghen tuông.

Bi kịch thứ hai đổ ấp xuống đầu Chí. Nhà tù thực dân với những ngón đòn độc ác, dã man đã biến Chí thành người khác hẳn, từ một người lương thiện Chí biến thành kẻ lưu manh: cái răng cạo trắng hớn, cái mắt gờm gờm,… khiến ai cũng phải sợ hãi.

Hắn uống rượu say, đến nhà Bá Kiến rạch mặt ăn vạ và cuối cùng trở thành tay sai cho Bá Kiến. Hắn làm mọi việc mà Bá Kiến sai khiến, hắn đã phá vỡ hạnh phúc biết bao gia đình làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện.

Chí Phèo chìm sâu vào hơi men, nhân tính và nhân hình ngày càng bị dìm xuống đáy. Chẳng ai còn nhận ra anh Chí Phèo hiền lành như đất của ngày xưa. Cuộc đời Chí trải qua hết cơn say này đến cơn say khác : Từ đấy, hắn bao giờ cũng say.

Những cơn say của hắn tràn cơn này qua cơn khác […] thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt […] Chưa bao giờ hắn tỉnh […] Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại đã tác quái cho bao nhiêu dân làng. Đời Chí Phèo trượt dài trên vũng lầy ấy.

Giá thử Chí Phèo vẫn tiếp tục say, vẫn tiếp tục rạch mặt ăn vạ thì có lẽ Chí cũng tự quên đi bi kịch của chính mình. Nhưng không, Chí Phèo đã gặp ánh sáng của đời mình – Thị Nở, người đã khiến Chí nhận ra bi kịch của chính mình mà bấy lâu nay hắn cố tình không nhận ra hoặc hơi men đã khiến hắn quên mất.

Trước khi gặp Thị Nở, Chí Phèo không ý thức được bi kịch của đời mình. Nhưng khi gặp thị Nở, nhận được sự quan tâm, chăm sóc đầy ân tình mà rất đỗi giản dị, đã làm thức dậy bản chất lương thiện trong Chí Phèo. Buổi sáng sau hôm gặp Thị Nở, lần đầu tiên trong suốt bao năm Chí nghe thấy những âm thanh quen thuộc của sự sống: tiếng chim hót, tiếng người ta đi chợ,… âm thanh thân thương và ấm áp quá.

Âm thanh ấy gợi về trong Chí những ngày xưa bình dị, khi Chí còn là một người bình thường, với những mong ước giản đơn. Chí giật mình trở về hiện tại nhận thấy hiện tại và tương lai cô độc, đói rét.

Chí rùng mình sợ hãi. Đặc biệt khi thị Nở mang bát cháo hành sang cho chỉ, bằng những cử chỉ ân cần mà hết sức tự nhiên, Chí Phèo thực sự xúc động, hắn thấy mắt mình ươn ướt. Tình yêu thương ấy đã giúp phục sinh con người vốn tưởng đã trở thành con quỷ, đã trở nên tha hóa nay phần nhân tính đã trở về.

Trong Chí cũng thức dậy khao khát được làm hòa với mọi người, được làm người lương thiện. Bằng ngòi bút phân tích tâm lí đặc sắc, độc đáo Nam Cao đã nhận ra phần bản chất đẹp đẽ nhất của người nông dân sẽ không bị hủy diệt dù họ có bị vùi dập, tàn phá về thể xác.

Nhưng còn gì đau đớn hơn, khi Chí đã sẵn sàng quay trở lại ngưỡng cửa của một con người bình thường, làm người lương thiện thì định kiến tàn nhẫn đã đóng sầm cánh cửa hi vọng của Chí. Chí bị cự tuyệt quyền làm người một cách đau đớn, phũ phàng.

Lời bà cô chính là điển hình cho cực định kiến, đẩy Chí vào con đường tuyệt vọng : đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà phải lấy một thằng không cha, không mẹ chi biết rạch mặt ăn vạ. Hạnh phúc mong manh vừa hé mở thì đã bị xã hội độc đoán bóp nghẹt.

Bi kịch lần này đau đớn hơn, khổ sở hơn bởi Chí đã ý thức được bi kịch của chính mình, Chí tỉnh táo để nhận ra rằng ngay cả khi bản thân sẵn sàng thay đổi để hòa nhập với cộng đồng thì họ vẫn chặn đứng Chí.

Bởi vậy, Chí chỉ còn một cách duy nhất đó là giết tên đã gây nên bi kịch cho mình và tự giết chính mình. Chí chết đi, để giết chết nhân hình tha hóa, để giữ lại phần nhân tính đã thức tỉnh.

Bi kịch cuộc đời Chí là do nhà tù thực dân, là do xã hội với những định kiến lỗi thời và cũng là do chính bản thân Chí. Với bi kịch bị cự tuyệt làm người một lần nữa Nam Cao khắc sâu hơn nỗi đau của người nông dân khi bị đẩy đến bước đường cùng. Đồng thời cũng cho thấy niềm tin của tác giả vào sự cảm hóa và bản chất người trong mỗi chúng ta. Qua đây cũng cho thấy tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nam Cao.

Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

Số 3: Phân tích quá trình bị cự tuyệt của Chí Phèo

Nam Cao là cây bút hiện thực phê phán xuất sắc, là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Sáng tác của ông chủ yếu ở hai mảng đề tài : viết về người trí thức nghèo và về những người nông dân cùng khổ. Ở mảng đề tài viết về người nông dân, “Chí Phèo” là một kiệt tác.

Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo với bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Đây là bi kịch phản ánh sâu sắc nỗi thống khổ của Chí Phèo nói riêng, của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám nói chung.

Truyện ngắn “Chí Phèo” ra đời trước Cách mạng tháng Tám. Ban đầu truyện có tên là “Cái lò gạch cũ”, khi in thành sách lần đầu, nhà xuất bản tự ý đổi thành “Đôi lứa xứng đôi”, sau này, khi in lại trong tập “Luống cày” (1946) nhà văn đổi lại thành “Chí Phèo”.

Truyện kể về nhân vật Chí Phèo. Thuở nhỏ, Chí bị cả cha lẫn mẹ bỏ rơi, sống bơ vơ bất hạnh. Lớn lên đi làm thuê cho nhà Bá Kiến, bị Bá Kiến ghen, đẩy vào tù. Khi ra tù, Chí thay đổi hẳn cả nhân hình lẫn nhân tính. Hắn trở thành tay sai của Bá Kiến, là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Rồi hắn gặp Thị Nở, một cô gái xấu “ma chê quỷ hờn”.

Bát cháo hành cùng với tình thương yêu, sự quan tâm chăm sóc của Thị đã thức tỉnh phần người bấy lâu nay bị vùi lấp sâu trong tâm hồn Chí. Chí Phèo ao ước được trở lại làm người lương thiện, hắn hi vọng rằng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Nhưng bà cô Thị ngăn cấm. Chí nhận ra bi kịch đau đớn : bị cự tuyệt quyền làm người. Chí bèn xách dao đến nhà Bá Kiến, kẻ đã gây ra bi kịch của hắn, giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn.

Bi kịch vốn được hiểu là những khát vọng chân chính, cháy bỏng, mãnh liệt của một con người nhưng không có điều kiện thực hiện trên thực tế, cuối cùng người mang khát vọng bị rơi vào kết cục của một thảm kịch bi thương. Chí Phèo suốt đời mang khát vọng cháy bỏng được làm người lương thiện thế nhưng lại trở thành kẻ bất lương, sinh ra là người nhưng không được làm người để rồi chết trên con đường trở về lương thiện.

Bước vào câu chuyện, người đọc ấn tượng ngay với hình ảnh một thằng say “vừa đi vừa chửi”: “Hắn chửi trời…Rồi hắn chửi đời…chửi cả làng Vũ Đại…chửi đứa nào không chửi nhau với hắn…chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn…”. Mới đọc, ai cũng hình dung ra hình ảnh Chí Phèo ngật ngưỡng trong cơn say, bước đi liêu xiêu và lè bè chửi; và chắc rằng ai cũng cảm thấy bật cười trước hình dung này.

Tuy nhiên, đọc và ngẫm cho kĩ, sau cái cười lại là niềm thương cảm, đau đớn cho Chí Phèo. Hắn chửi và mong người ta đáp chửi lại hắn bởi như thế người ta còn coi hắn là con người. Nhưng không ai lên tiếng vì không còn ai công nhận hắn là người. Đằng sau tiếng chửi ấy là nỗi khao khát được giao tiếp với đồng loại dẫu bằng hình thức tồi tệ nhất, là nỗi cô đơn khủng khiếp của một người bị xã hội dứt khoát cự tuyệt quyền làm người, không được coi là con người .

Từ cách mở đầu ấn tượng đó, Nam Cao dẫn dắt người đọc trở lại với quá khứ, giúp người đọc nhận thấy bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí , đồng thời hiểu ra căn nguyên nào dẫn đến tình trạng ấy.

Sinh ra, Chí đã bị ba mẹ cự tuyệt quyền làm người: sự ra đời của nó không ai chờ đợi, cha nó không thừa nhận, mẹ nó bỏ nó trong một lò gạch hoang mặc cho sống chết. Được cứu sống nhưng ngay lập tức hắn trở thành hàng hóa mua qua bán lại. Sau khi bác phó cối chết, hắn trở thành kẻ bơ vơ.

Đời Chí bọt bèo, lênh đênh tội nghiệp chẳng khác nào cây hoang, cỏ dại trôi hết góc này đến số nọ, không người chăm sóc, dạy dỗ. Nhưng không vì thế mà hắn trở nên hư hỏng mà trái lại, “hắn hiền như cục đất”, ai sai gì hắn làm nấy, ai bảo gì hắn nghe vậy. Làm thuê trong nhà Bá Kiến, hắn là anh canh điền chăm chỉ, cần cù, chỉ biết làm ăn, biết tự trọng, có nhân cách.

Nhưng Bá Kiến, nhà tù thực dân đã ra sức hủy diệt sự lương thiện ở Chí. Bá Kiến ghen vu vơ đã nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù, nhẫn tâm biến người dân hiền lành trở thành tù nhân. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cường hào, bắt giam là anh Chí vô tội nhưng thả ra là một Chí Phèo lưu manh, tha hóa.

Trở về, không gia đình, không người thân thích, không nơi nương tựa, không nghề nghiệp mưu sinh, hắn trở thành tay sai của Bá Kiến. Hắn sống bằng chửi bới, dọa nạt, đập đầu, rạch mặt, ăn vạ. Cái mặt của hắn trở nên méo mó thê thảm, “nó là mặt của một con vật lạ, nó vằn lên không biết bao nhiêu là sẹo, không thứ tự”. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, tác oai tác quái gây họa cho bao nhiêu dân làng.

Hắn “phá tan bao nhiêu cơ nghiệp, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của không biết bao nhiêu là người lương thiện”. Bây giờ hắn không là con người nữa mà phải sống kiếp con vật, hắn sống trong vô thức, sống triền miên những cơn say. Sự thay đổi đáng sợ của Chí từ khi ra tù có nguyên nhân ban đầu là bởi sự xa lánh của mọi người khi hắn trở về.

Nếu như, khi về làng, hắn có được tình yêu thương chăm sóc của một số người, thậm chí chỉ là một người như Thị Nở, thì hắn đã không bị bóp méo cả nhân hình lẫn nhân tính. Thực tế không như thế. Người ta kì thị trước một kẻ đi tù về, không ai cho hắn một nguồn giao tiếp, không ai coi hắn là con người nên hắn cứ phải say, phải chửi cho quên hết.

Lâu dần, người ta lại không coi hắn là con người nữa, hắn làm tay sai cho Bá Kiến để rồi ngày càng sa vào vũng lầy tội ác và không thể trở lại làm người nữa.

Từ khi gặp Thị Nở, Chí Phèo bắt đầu tỉnh táo. Tình yêu và sự chăm sóc của thị đã đánh thức phần người lương thiện bấy lâu nay bị vùi lấp sâu trong hình hài con quỷ dữ. Hắn “thèm được sống lương thiện, thèm được làm hòa với mọi người”. Hắn hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn, bởi hắn nghĩ rằng, Thị Nở có thể sống được với hắn thì tại sao mọi người lại không thể.

Thế nhưng, bà cô Thị Nở – một đại diện của dân làng Vũ Đại – đã dập tắt ngay niềm hi vọng ấy. Sự ngăn cấm của bà cô khiến hắn bừng tỉnh nhận ra bi kịch đau đớn mà bấy lâu nay hắn đã mơ hồ nhận thấy: bị cự tuyệt quyền làm người. Lời bà cô Thị Nở làm hắn nhận ra những định kiến khắt khe của xã hội với hắn.

Định kiến xã hội đã không coi Chí như là con người, nó chối phắt Chí, đẩy Chí ra khỏi phạm vi loài người. Định kiến ấy không chịu nhận ra phần người lương thiện đã quay về, không chịu chấp nhận một kẻ như Chí. Có thể khẳng định rằng, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người lần này là đau đớn nhất.

Bà cô Thị Nở làm hắn nhận ra bi kịch đau đớn của cuộc đời mình, hắn lại uống rượu, nhưng lần này càng uống hắn càng tỉnh. Hắn xách dao ra đi, vừa đi vừa chửi “giết cả nhà nó”, “giết con khọm già nhà nó”, nhưng bước chân hắn lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến. Có lẽ, khi phần người quay về thì nỗi đau, nỗi phẫn uất khiến lí trí vẫn tỉnh táo, hắn nhận ra kẻ thù. Đến nhà Bá Kiến, hắn lên tiếng đòi lương thiện thống thiết.

Tuy lên tiếng đòi lương thiện nhưng đồng thời Chí cũng đau đớn nhận ra không thể là người lương thiện được nữa: “ai cho tao lương thiện, làm thế nào cho mất hết những vết mảnh chai trên mặt này”.

Nhận thức được bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người và nguyên nhân của bi kịch, Chí hành động quyết liệt: giết Bá Kiến. Giết lão bá rồi, Chí cũng không còn có thể sống mà làm người được, bây giờ, nếu Chí tiếp tục sống, hắn sẽ phải tiếp tục là con quỷ, hắn “chỉ còn một cách” là tự vẫn.

Hai vũng máu thảm khốc cuối tác phẩm chính là lời tố cáo sâu sắc nhất chế độ nhà tù thực dân và tầng lớp thống trị phong kiến. Những thế lực này đẩy Chí vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, và cùng với thế lực hủ tục phong kiến tước đoạt hẳn con đường trở về làm người của Chí.

Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, nhà văn tố cáo sâu sắc xã hội thực dân nửa phong kiến phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống của con người, đẩy con người vào “bước đường cùng”. Kết cấu truyện theo kiểu tâm lí, không theo thứ tự thời gian mà bắt đầu truyện bằng tiếng chửi đổng của Chí vừa gây sự chú ý, tò mò cho người đọc, vừa nhấn mạnh cái bi kịch đau đớn của Chí.

Đồng thời, lời văn kể chuyện nửa trực tiếp cũng góp phần tạo nên sự hấp dẫn của câu chuyện: trong tác phẩm, có đoạn là lời người kể chuyện hoàn toàn; cũng có đoạn nhà văn như hóa thân vào nhân vật, làm cho đoạn văn như là lời của chính nhân vật tự kể chuyện mình khiến người đọc thực sự khám phá được chiều sâu tâm hồn nhân vật. “Đôi mắt” đầy tình người của Nam Cao cùng với tài năng nghệ thuật của ông đã đưa “Chí Phèo” vào hàng những kiệt tác văn xuôi hiện đại.

Xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam Cao vừa tố cáo sâu sắc xã hội phi nhân tính vừa thể hiện tấm lòng thương yêu đồng cảm của mình với người nông dân đương thời. Với “Chí Phèo”, Nam Cao đã khắc tên mình vào nền văn học hiện đại Việt Nam.

Số 4: Phân tích bị cự tuyệt làm người của Chí Phèo

Khi Chí Phèo: “Ngật ngưởng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta liền nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào xẻ, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vẫn còn được là con người.

Chí Phèo phải bán cả diện mạo và hồn của mình để trở thành con quỷ dữ”. (Nguyễn Đàng Mạnh). Trong muôn vàn nỗi khốn khổ tủi nhục mà Chí đã nếm trải, không thể không chú ý đến cái bỉ kịch bị cự tuyệt quyền làm người của y.

Đó cũng là chủ đề xuyên suốt tạo nên giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo.

“Bi kích là tình cảm éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát mà còn người phải chịu đựng”. Hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo là một chuỗi dài bi kịch mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước.

Nhiều ngươi khẳng định, Chí xuất hiện sau tiếng chửi, điều ấy đúng! Nhưng có lẽ chưa đủ. Nam Cao thường giới thiệu với ngươi đọc ở giai đoạn quan trọng nhất của số phận nhân vật. Đọc những dòng dầu tiên của tác phẩm, độc giả thấy xuất hiện một nhân vật chưa nêu tên, dường như chỉ có một hành động, một cuộc độc thoại.

Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp nhơ những câu văn ngắn, nhịp văn vấp tưởng chừng như các câu văn bị xó rách, bị cắt vụn mà ngươi đọc có cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quằn quại của Chí trong cơn đau bị cự tuyệt quyền làm ngươi. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn loài), Chí chửi làng “cái cộng đồng gần gũi, thiêng liếng của con người”…

Nhưng không ai lên tiếng cả.Người ta không lên tiếng vì người ta không công nhận Chí là người. Cả làng Vũ Đại không ai hiểu Chí, giá có một ngươi để chửi nhau, có lẽ Chí còn đỡ khổ. Bởi vì người ta sống – dù là để chửi nhau cũng không thể chửi một mình.

Chí chỉ còn biết chửi người đẻ ra y. Chửi người đẻ ra mình thì cũng là chửi chính bản thân mình. Tiếng chửi của Chí thể hiện sự vật vã, dẫu là vô ý thức, để tìm căn nguyên của đau khổ. Nhưng khốn khổ thay.

Chí càng bế tắc. Giá như ngày ấy ở làng Vũ Đại có một người lên tiếng cũng như sau đó, thị Nở “Không chỉ biết cho mà còn biết giữ”… giá như… giá như… chỉ cần một lần giá như xảy ra, chỉ cần một trong hàng nghìn người làng Vũ Đại coi Chí là người thì tấn bi kịch của đời Chí sẽ không có cơ hội xảy ra.

Nhưng chuyện gì đã xảy ra thì nó đã xảy ra. Nam Cao ngược dòng thời gian trở lại với quá khứ để dẫn dắt người đọc, giúp họ thấu hiểu quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời ông cũng chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.

Chí là “một đứa con hoang”, “một anh đi thả ống lươn một buổi sáng đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không; anh ta rước lấy và mang cho một người đàn bà góa bụa”. Năm từ “một” tồn tại trong câu văn dài, dường như đã báo trước cuộc đời cô độc triền miên của Chí.

Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời. Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền làm người. Chí trở thành kẻ không cha, không mẹ, cũng may cho đời Chí, có lẽ vì lớn lên cùng những người lao động.

Chí trở thành anh canh điền khỏe mạnh, biết tự trọng, “biết không thích những cái gì mà người ta khinh”. Anh khát khao có “một gai đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Nhưng đời đã không dành cho Chí cái àm anh có thể với trong tầm tay.

Một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù. Cái thế lực phong kiến cấu kết với nhà tù thực dân tước bỏ quyền tự do của Chí gần bảy – tám năm. Đấy là lần thức ai Chí bị cự tuyệt quyền làm người.

Nhà tù đã biến Chí thành con người khác. “Hắn về lần này trông khác hẳn”. Quyền làm người của Chí đã bị cự tuyệt bởi nhà tù đã cướp đi của y một phần nhân hình. Ở tù ra trông hắn như một thằng “săng đá” (lính tẩy), đầu trọc lốc răng cạo trắng hớn, mặt đen lại rất “cơng cơng” — “câng câng” thì còn ra cái mặt người.

“Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng, cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ phượng với một ông tướng cầm trùy trông gớm chết”. Đó là hình dạng của kẻ côn đồ, hung hãn chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm trước, hôm sau. Chí đã uống rượu say nhè, điên cuồng lao vào trả thù Bá Kiến bằng cách ăn vạ, chửi đổng.

Nếu như trả thù là cái quyền thông thường (oán thì trả oán, ân thì trả ân) thì Bá Kiến lại cũng đã khéo léo tước luôn quyền ấy cửa Chí. Không trả được thù, Chí lại từng bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành công cụ mù quáng của Bá Kiến. Hắn chỉ còn biết rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với chính kẻ thù.

Từ đó, hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “Hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đạp vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”. Cứ như thế đời hắn trượt dài. Nhìn vào mặt hắn, người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Đời hắn đã xem như đời bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt, mỗi lần hắn qua.

Ngay bản thân hắn cũng đã quên sự có mặt của hắn ở trên đời. Có thể nói trước khi gặp thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt quyền làm người đến cao độ. Nhưng có lẽ hắn không nhận ra điều ấy hoặc nhận ra một cách vô thức, không tìm thấy lối thoát. CHí đành phải dấn thân vào cuộc đời say rượu, chửi đổng, ăn vạ, đâm thuê, chém mướn.

Người ta sẽ đỡ khổ, nếu khống biết mình sống trong cái khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn khi bị tước quyến làm người mà không hể hay biết. Trước khi gặp thị Nở, Chí Phèo chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu có biết cái cách người ta sản sinh ra hắn là tước đoạt dần quyền làm người của hắn.

Đúng lúc Chí dấn thân đến chỗ tột cùng của sự tha hóa, đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời một con quỷ dữ thì Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh nhân vật một đốm lửa nhỏ nhoi bừng sáng.

Chí ao ước trở thành làm người lương thiện. Vai trò, vị trí của thị Nở trong tác phẩm là rất quan trọng. Con người “dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn”, lại là nguồn sáng duy nhất ở làng Vũ Đại có thể chiếu sáng cõi đời tăm tối của Chí.

Cơ thể đàn bà của thị không khơi gợi bản năng thú vật ở y. Tình thương của thị đã khơi dậy cái tính người mà lâu nay Chí đã đánh mất. Sau cuộc tình ngắn ngủi với thị Nở. Chí nghe được âm thanh của cuộc sống mà lâu nay hắn không để ý.

Sau bao nhiêu năm, bây giờ hắn mới nghe thấy tiếng chim hót, ngoài kia vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh đấy gợi nhớ trong Chí những ước mơ rất người đã có từ thuở xa xưa. Lần đầu tiên Chí cảm thấy buồn, rồi hắn “sợ tuổi già, đói rét, ốm đâu và cô độc – cô độc còn sợ hơn đói rét và ốm đau”.

Bát cháo hành của thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh. Ăn cháo mà hắn thấy mắt ươn ướt. Chỉ cần một sự thương yêu – dù là tình yêu của kẻ dở hơi, của một người con giá quá lứa lỡ thì, có dòng giống mả hủi, cũng đủ làm sống lại bản tính người đã chết. Sức cảm hóa của tình thương thật vô biên.

Nam Cao đã thực sự hóa thân vào nhân vật để cảm thông, để chia sẻ những giây phúc hạnh phúc rất người của Chí. Thế là sau hơn hai mươi năm bị cự tuyệt quyền làm người. Chí Phèo đã tự tìm cho mình con đường trở lại làm người. Chí đã tạo ra chiếc cầu nối để làm hòa với thế giới người. Chiếc cầu nối ấy chính là thị Nở.

Thị có thể sống chung với hắn thì làng Vũ Đại cũng có thể chấp nhận hắn. Nhưng bi kịch và đau đớn thay cho Chí. Thị Nở không thể gắn bó với Chí. Vì theo bà cô Thị, “đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà phải lấy một thằng không cha, không mẹ chi biết rạch mặt ăn vạ”.

Thế là một chút hạnh phúc nhỏ nhoi Chí đã có ở trong tay một lần nữa lại bị ý thức xã hội tước đoạt. Thị Nở là chiếc cầu vồng sau cơn mưa, Chí đau đớn nghĩ ra rằng chẳng có chiếc cầu nào đưa Chí trở về với cuộc sống con người nữa. Xã hội với quan niệm tàn nhẫn đã cự tuyệt đến cao độ quyền được sống, được làm người của Chí. Không ai cho Chí làm người lương thiện, kể cả khi Chí đòi làm người lương thiện.

Chí không thể xóa được những vết sẹo đã vạch lên trên mặt mình, Chí đau xót cảm thấy: “Không được nữa rồi chỉ còn cách này”. Chỉ còn cách chết trong, hơn sống đục. Chí đã nói những câu cuối cùng “đòi lương thiện” với Bá Kiến và cũng là tự nói với bản thân mình.

Hành động giết Bá Kiến và tự sắt của Chí cho người đọc thấy cuối cùng rồi Chí cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phải trá của Chí là quá đắt. Cái chết của Chí là lời tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội vô nhân, là lời kêu cứu khẩn thiết về quyền làm con người.

Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

Số 5: Cảm nhận bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo

Nam Cao từng nói “Nghệ thuật không cần phải là ảnh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thế chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp sống lầm than” và quả thực, những trang văn của Nam Cao luôn hướng tới những người nông dân lam lũ, luôn thấm đượm những giá trị nhân đạo sâu sắc. “Chí Phèo” là tác phẩm tiêu biểu của nhà văn. Gấp lại trang sách, dâng lên trong lòng người đọc là những suy tư, những cảm xúc khó tả về tâm trạng Chí Phèo khi bị cự tuyệt quyền làm người.

Truyện ngắn “Chí Phèo” sáng tác năm 1941, được nhà văn Nam Cao viết nên dựa trên cơ sở người thật việc thật ở làng Đại Hoàng – quê hương tác giả. Có thể nói, tác phẩm là một bức tranh phản ánh chân thực xã hội nông thôn Việt Nam trước cách mạng. Ở đó, nổi bật nhất là nhân vật chính của thiên truyện – Chí Phèo. Cuộc đời Chí là chuỗi những bi kịch nối tiếp nhau và bi kịch bị cự tuyệt quyền là người là bi kịch đẩy truyện lên cao trào nhất.

Chí Phèo xuất hiện ngay từ đầu thiên truyện với tiếng chửi: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: Đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại.” Bằng nghệ thuật tăng tiến với nhịp văn vấp và những câu văn ngắn, độc giả dường như cảm nhận từng cơn đau quằn quại của Chí Phèo khi bị cự tuyệt quyền làm người.

Cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một thước phim quay chậm về chuỗi những thương đau, bất hạnh của kẻ cùng đường lạc lối. Từ lúc mới chào đời, hắn đã bị mẹ mình cự tuyệt, bị bỏ rơi “trong một cái váy đụp để bên cái lò gạch cũ”, rồi hắn lớn lên, làm canh điền cho nhà Bá Kiến ấy vậy mà từ một anh nông dân hiền lành, hắn bị người ta bỏ tù rồi trở thành một tên lưu manh, con quỷ dữ mất hết nhân hình, nhân tính. Đúng là một cuộc đời bi kịch!

Rồi một ngày, Thị Nở xuất hiện. Người đàn bà xấu xí ấy lại đánh thức được khát khao lương thiện bên trong Chí. Bằng tình thương yêu và sự bao dung cùng với bát cháo hành giản đơn, Thị đã khiến cho Chí thực sự xúc động, khiến hắn nghĩ đến những mơ ước thời trai trẻ, hắn ăn năn và hối hận về những việc mình đã làm.

Tình yêu của người đàn bà xấu xí, dở hai ấy lại có thể cảm hóa được con quỷ dữ Chí Phèo, khiến hắn muốn hoàn lương. Tưởng rằng đó là sự kết thúc cho chuỗi những đau thương của hắn nhưng không, Chí đã bị Thị Nở tuyệt tình. Tương lai tươi sáng, ngập tràn hạnh phúc vừa mở ra trước mắt Chi đã vội tối sầm lại.

Tại sao Thị Nở lại tuyệt tình với Chí? Thị Nở vốn dở hơi nhưng nguyên nhân chính là do những lời nói chua ngoa, cay nghiệt của bà cô của Thị kiên quyết không cho Chí Phèo lấy Thị Nở đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”.Vì Chí Phèo là thằng không cha, không mẹ, là kẻ lưu manh côn đồ, là “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.

Thấm thía bi kịch của cuộc đời mình, Chí rơi vào bế tắc, tuyệt vọng. Càng tuyệt vọng, hắn lại càng uống rượu; nhưng càng uống rượu, hắn càng tỉnh ra. Tận trong sâu thẳm tâm hồn, hắn hẳn đã ý thức được nỗi đau thân phận của mình “Tỉnh ra, chao ơi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa. Hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành.

Hắn ôm mặt khóc rưng rức. Rồi lại uống”. Chi tiết bát cháo hành một lần nữa được nhắc lại như để nhấn mạnh thêm cái niềm khao khát yêu thương, khát khao cuộc sống lương thiện và cũng nhấn mạnh bi kịch không có lối thoát của Chí Phèo. Chính cái xã hội đầy rẫy định kiến ấy đã tàn nhẫn cự tuyệt quyền sống, quyền làm người của Chí.

Chìm sâu trong bế tắc, Chí càng thấm thía tội ác của kẻ đã gây nên bi kịch của cuộc đời hắn. Chí Phèo cầm dao đi nhưng thay vì đến nhà bà cô Thị Nở như dự định, tâm trí đã điều khiển hắn đến nhà Bá Kiến – người đã gây ra bao bất hạnh cho cuộc đời hắn. Không còn ăn vạ như những lần trước, lần này hắn đòi Bá Kiến trả cho hắn quyền được trở về làm người lương thiện.

Hắn muốn hoàn lương nhưng “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa.”. Hàng loạt những câu hỏi vang lên như những “tiếng đau khổ” thoát ra từ sự bế tắc đến tận cùng của Chí Phèo, gieo vào lòng người đọc biết biết bao xót xa, ám ảnh.

Thiên truyện khép lại bằng cái chết bi thảm của Chí Phèo. Hắn sinh ra không ai vui vẻ, khi chết đi cũng không ai khóc thương. Có lẽ, bi kịch lớn nhất trong cuộc đời của Chí là khi Chí Phèo phải chết trên ngưỡng cửa trở thành con người lương thiện.

Qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam Cao đã tố cáo xã hội tàn ác bất công lúc bấy giờ và đồng thời, ông thể hiện khát vọng về việc nhân dân có thể vùng dậy đấu tranh cho niềm tin vào bản chất lương thiện của con người.

Dõi theo đoạn văn miêu tả Chí khi bị cự tuyệt quyền làm người, người đọc không chỉ thấy được ngòi bút “thần tình” của Nam Cao mà còn cảm nhận được cái nhìn nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Dường như, ta nghe được cả tiếng khóc thảm thương của Nam Cao trước bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.

Số 6: Phân tích Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người

Nếu như Thúy Kiều của Nguyễn Du gặp phải bị kịch đớn đau về tình yêu và Hộ gặp phải bi kịch éo le về nghệ thuật đương thời thì Chí Phèo của Nam Cao lại gặp một loại bi kịch vô cùng lạ lùng. Đó là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.

Chí Phèo bước ra từng tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao với một loạt những khổ đau, những bất hạnh. Và cũng không phải vô tình mà Nam Cao lại dành hết những gì là đớn đau nhất cho “đứa con đẻ” của mình. Ngòi bút sắc sảo và tấm lòng giàu yêu thương của ông đã gửi gắm biết bao nhiêu tình cảm cùng với sự cảm thông sâu sắc tới những con người cùng khổ như Chí. Chí chỉ là một đứa trẻ mồ côi chưa một lần được biết đến hơi mẹ.

Chí ở cho nhà Bá Kiến nhưng lại bị bà ba dâm dục hãm hại khiến Bá Kiến ghen tuông đẩy Chí vào tù. Năm tháng của tù đày đã cùng Chí nuôi lòng thù hận ngày một lớn dần lên. Cho đến khi ra tù Chí trở thành một con quỷ dữ khiến cả làng Vũ Đại khiếp sợ. Còn Nam Cao chỉ tả chỉ với hai từ ngắn gọn “ghê tởm”.

Nhưng khi gặp được Thị Nở – cuộc đời Chí ít nhất cũng đã được biết đến bàn tay chăm sóc của một người đàn bà thực sự. Nhưng thị lại nghe lời bà cô cự tuyệt mối tình ấy, khiến Chí một lần nữa trở thành con quỷ dữ. Trong cơn uất hận, Chí đến giết Bá Kiến và tự vẫn để đòi quyền làm người lương thiện.

Câu chuyện kết thúc nhưng bi kịch về cuộc đời Chí vẫn làm người đọc không khỏi xót xa. Được sinh ra làm người nhưng lại bị chính những con người xung quanh mình cự tuyệt quyền làm người. Hay nói đúng hơn là không ai nhìn nhận Chí là một con người nữa. Thay vào đó là một con quỷ dữ không hơn không kém. Con quỷ ấy trước đây đã từng là một con người lương thiện, hiền lành chịu khó. Nhưng giờ đây lại ôm hận trở về làng với những cơn say triền miên. Say lại chửi. Chửi cho quên đời, cho bõ tức, cho hả lòng hả dạ.

Nhưng càng chửi, càng bực. Bởi ai cũng “chừa mình ra” thì Chí chửi ai bây giờ? Đến ngay cả tiếng chửi xúc phạm đến người khác Chí cũng chẳng được ai để ý. Bởi nếu là một người bình thường khi tung ra những lời lẽ chua ngoa ấy kiểu gì cũng bị dân làng xúm vào chửi lại, thậm chí là đánh đập. Nhưng Chí thì lại khác. Chỉ có lũ chó chạy theo sủa ầm ĩ.

Chẳng ai hiểu rằng đằng sau những tiếng chửi ấy là một nỗi niềm khát khao đến cháy bỏng được quay trở về làm người. Chỉ cần có ai đó chửi lại thôi cũng đủ để Chí thấy rằng mình vẫn được công nhận làm người.

Nếu sống một cách bình thường, có thể không ai để ý đến Chí. Có lẽ Chí nghĩ rằng phải chửi thật xúc phạm, thật nhiều để xem có ai chửi lại không, để Chí biết rằng mình vẫn còn được nhìn nhận. Nhưng buồn thay, tiếng chửi của Chí chỉ có tiếng chó sủa đáp lại.

Cho tới khi gặp được Thị Nở, cuộc đời Chí bước sang một trang mới. Chí ý thức được bản thân mình. Lần đầu tiên Chí tỉnh, tỉnh rượu và tỉnh cả những dòng suy nghĩ đau đáu về lòng thù hận. Không ngờ sự chăm sóc ân cần của một người đàn bà dở hơi lại có sức mạnh tác động lớn đến Chí như vậy. Tỉnh táo, Chí cũng chẳng mảy may nghĩ rằng thị chỉ là một người dở hơi, xấu xí. Vì rằng điều mà Chí khát khao bấy lâu nay là được nhìn nhận là người đã đạt được.

Thậm chí thị còn dành cho Chí những hành động, cử chỉ của một “người yêu” thực sự. Chính thị – một con người chỉ hơn Chí ở cái là được mọi người nhìn nhận là người – đã đánh thức phần người trong Chí. Có lẽ cũng vì thị dở hơi nên thị không ý thức được về hiện trạng của Chí lúc này nên thị mới ngã vào lòng Chí. Nhưng dù sao điều đó cũng đã là một ân huệ lớn lao cho cuộc đời Chí.

Lần đầu tiên Chí tỉnh rượu sau những cơn say. Chí bắt đầu cảm nhận hương vị của cuộc sống từ những điều bình dị nhất, giản đơn nhất: tiếng mái chèo, tiếng chim hót, tiếng người đi chợ qua lại… Và rồi, ước mơ trong sáng đến thánh thiện ngày nào trở về trong Chí. Chí ước có một gia đình nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn kiếm tiền, vợ thêu thùa chăm lo việc gia đình. Hạnh phúc nhỏ nhưng cuộc sống êm đềm ý nghĩa biết bao.

Nghĩ vậy, Chí càng quyết tâm quay trở lại làm người lương thiện. Sẽ bỏ rượu. Sẽ không đi rạch mặt ăn vạ nữa. Từ nay sẽ thay đổi. Nhưng. Than ôi! Hạnh phúc đang phất lên thì lại bị hất văng ra khỏi bàn tay yếu ớt của Chí khi thị trở về nghe lời bà cô cự tuyệt Chí. Như vậy, đến ngay cả con người cuối cùng của xã hội này mà Chí đặt niềm tin vào cũng không thể kéo Chí dậy được. Thậm Chí còn đẩy Chí vào bờ vực thẳm sâu hơn, đớn đau hơn.

Lúc này đây, hương cháo hành lại làm Chí xôn xao trong người. Niềm khát khao được làm người chưa bao giờ cháy bỏng và mạnh mẽ đến thế. Nhưng ai sẽ cho Chí được làm người đây? Và lại là một người lương thiện thì càng khó. Ước mơ giản đơn ngày nào của Chí chẳng lẽ bị vùi dập nhanh chóng như thế này sao? Hạnh phúc tưởng chừng như đã ở trong tầm tay nhưng lại bỗng dưng vụt mất. Chí hụt hẫng, khổ đau.

Như vậy, tất cả mọi người, không một ai còn nhìn nhận Chí là một con người nữa. Có thể sẽ có người nói rằng: Chí hoàn toàn có thể tự mình làm người lương thiện bằng cách sống tốt hơn, không chửi bới, không say xỉn và xin đi làm thuê làm mướn kiếm sống qua ngày. Rồi dần dần mọi người sẽ lại quý mến Chí, cho Chí những cơ hội tốt hơn để tiến thân.

Nhưng cuộc sống đâu phải dễ dàng đến vậy. Nhất là trong xã hội ấy, giai cấp cầm quyền là đại diện cho những điều gian ác nhất, bất nhân nhất. Liệu rằng Bá Kiến có để cho Chí được sống một cuộc sống êm đềm không khi hắn đã từng có thù hằn với Chí? Hơn nữa, khi đã mang trong mình lòng thù hận quá sâu sắc, liệu rằng ai có thể bình thản mà sống được. Có thể do Chí chưa mạnh mẽ, chưa đi đúng hướng nên đã để xảy ra những bi kịch đớn đau trong cuộc đời mình.

Nhưng khi nhìn bằng cái nhìn khách quan, Chí chính là kết quả của một xã hội phong kiến thối nát, tàn nhẫn. Chí là đại diện cho những người nông dân bần cùng bị xã hội dồn ép đến mức đánh mất cả nhân tính, để đến khi muốn quay trở lại làm một con người bình thường cũng chẳng được nữa. Đây là một loại bi kịch lạ lùng nhất trong nền văn học Việt Nam nói chung và văn học hiện thực nói riêng.

Qua tấn bi kịch ấy, nhà văn đã chĩa thẳng ngòi bút của mình đến thế lực phong kiến độc ác đã lấy đi nhân tính của biết bao nhiêu người nông dân lương thiện. Đồng thời ông cũng bênh vực và cổ vũ mọi người hãy cùng nhau đứng lên giành lấy quyền sống, quyền tự do cho chính mình để không ai phải tìm đến cái chết một cách thương tâm giống như Chí Phèo ở cuối tác phẩm.

Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

Số 7: Phân tích bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo

Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn của nền văn học Việt Nam trước Cách mạng. Sau Cách mạng, ông hăng hái tham gia làm báo kháng chiến. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.

Chí Phèo là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam trước Cách mạng. Bằng ngòi bút sắc sảo, nghệ thuật khắc họa nhân vật đặc sắc, Nam Cao đã làm nổi bậc tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo.

Qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn đã lí giải thành công nguyên nhân vì sao người nông dân hiền lành bị tha hóa từ nhân tính đến nhân hình một cách tàn tệ đến vậy.

Quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo trải qua hai giai đoạn. Mỗi giai đoạn là một bước chuyển biến mạnh mẽ sức sống trong nhân vật.

Thứ nhất, từ một anh nông dân hiền lành như cục đất Chí Phèo bị đẩy vào tù. Không tội lỗi gì, bất ngờ Chí bị đẩy vào vòng lao lí, bị tước đoạt quyền sống. Bước ra khỏi nhà tù, Chí Phèo trở thành một “con quỷ” gớm ghiếc, côn đồ và tàn bạo.

Thứ hai, khi Thị Nở đánh thức khát vọng sống lương thiện và mong muốn trở lại với mọi người, Chí Phèo lại hiền lành như lúc ban đầu. Cánh cửa bước vào cuộc đời rộng mở trước mắt Chí Phèo. Thế nhưng, trớ trêu thay, chỉ vì sự cản trở của bà cô, Thị Nở đã đoạn tuyệt tình nghĩa với Chí sau năm ngày chung sống hạnh phúc.

Chí Phèo hụt hẫng, bất lực và bế tắc. Cánh cửa phục thiện đóng sầm trước mặt hắn, lạnh lùng và tàn nhẫn. Một lần nữa, Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người. Bi kịch cuộc đời Chí Phèo bị đẩy đến mức cùng cực.

Khắc họa tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã tỏ ra rất vững vàng và bản lĩnh. Lần đầu tiên trên trang văn, người ta thấy một kẻ dị dạng nhân hình bước ngật ngưỡng trong cơn say. Lần đầu tiên, người ta thấy một nhân vật bị hủy hoại tàn bạo và khủng khiếp đến như vậy.

Nhân vật Chí Phèo đã thực sự mất hết tính người, sống bằng kiếp thú vật, hoàn toàn bản năng. Chí Phèo ngập ngụa trong cơn say triền miên từ ngày này qua ngày khác. Không có sự đê hèn và tàn ác nào mà Chí Phèo không dám làm.

Nam Cao đã dũng cảm ghi nhận hiện thực cuộc sống dù biết rằng dó là một hiện thực tàn nhẫn có thể khiến người ta thấy đau lòng và khiếp sợ. Ông không hề lảng tránh hay tô vẽ nó bằng sắc màu giả tạo của nghệ thuật ngôn từ. Ông muốn mỗi trang văn phải là “cái sự thật ở đời” chân thực và chính xác.

Không để nhân vật rơi vào sự tầm thường, dung tục, Nam Cao đã phát hiện vẻ đẹp ẩn sâu bên trong họ. Bên trong cái điên cuồng của Chí Phèo là khát vọng lương thiện bị đè nén khủng khiếp. Nó thôi thúc con người vươn lên tìm kiếm nguồn sống.

Nhưng trước những trở lực quá lớn của xã hội thực dân nửa phong kiến, nó không có cách nào khác là phản kháng một cách tiêu cực. Sự phản kháng tự phát ấy không mang lại kết quả tốt đẹp nào. Cuối cùng, nhân vật thực sự rơi vào tuyệt vọng.

Trước đây, Chí Phèo là một chàng trai nông dân hiền lành, lương thiện và có lòng tự trọng. Chỉ vì cái thói ghen bóng ghen gió của cụ Bá Kiến, Chí Phèo đã bị cụ thẳng tay đẩy vào nhà tù.

Trải qua bảy, tám năm bị đày đọa, chung sống với lớp người dưới đáy xã hội, tâm hồn Chí Phèo đã bị nhuộm đen. Từ một anh Chí Phèo hiền lành, lương thiện, ra tù biến thành Chí Phèo với bộ mặt gớm ghiếc, linh hồn chất đầy thù hận và tội lỗi.

Phần người trong Chí Phèo đã bị thui chột đi. Từ mặt mũi, nhân cách đều biến tướng thật đáng sợ. Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng cỡn, cái mặt thì đen và rất câng câng, hai mắt gườm gườm gớm ghiếc.

Trong cái xã hội tàn bạo ấy, càng hiền lành,nhẫn nhục bao nhiêu thì lại càng bị chà đạp bấy nhiêu. Hắn muốn sống thì phải cướp giật, ăn vạ, gây gổ với mọi người. Muốn thế thì phải cao, phải mạnh, phải hung bạo. Thế là Chí Phèo tìm đến rượu như một cứu cánh giúp hắn quên đi cuộc đời.

Hắn sống trong những cơn say triền miên và làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm. Cùng với thời gian, Chí Phèo mất đi khả năng nhận thức. Hắn không còn nhận ra nổi cái bóng của mình, không nhớ nổi mình là ai, bao nhiêu tuổi. Mọi người đều cho Chí Phèo là một con vật chứ không phải là con người nữa.

Những chuỗi ngày say sưa vô tận, những tiếng chửi vô lí,những hành động liều lĩnh hung hãn chính là sự giãy giụa tuyệt vọng của một con người muốn tìm về con đường lương thiện mà không được.

Trước những hành động điên cuồng và hình dáng quái dị của Chí Phèo, ta chỉ thấy đáng thương hơn là đáng giận. Bởi lẽ chính nhà tù thực dân, sự áp bức bóc lột nặng nề của giai cấp thống trị, những định kiến tồi tệ và thái độ hắt hủi nhục mạ của những người xung quanh đã đẩy Chí Phèo đến con đường đó. Đẻ ra anh Chí Phèo hiền lành là một bà mẹ tội nghiệp và khốn nạn đã lén lút vứt con mình ở cái lò gạch cũ. Còn đẻ ra thằng lưu manh Chí Phèo , mất hết tính người là cái xã hội thực dân phong kiến đầy rẫy bất công, vô nhân đạo.

Nếu nhân vật chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố đã phải bán con, bán sữa nhưng chị còn được là con người, còn Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Tất cả chỉ để được tồn tại mà thôi.

Nhưng, ở đáy sâu của tâm hồn cằn cỗi và lạnh lẽo ấy vẫn còn có những mầm mống tốt đẹp mà hoàn cảnh phũ phàng của xã hội kia chưa đủ sức làm thui chột hết. Nam Cao đã không bỏ rơi nhân vật của mình.

Ông dõi theo từng bước chân của Chí Phèo trong đêm tối, trong cơn say, trong giấc ngủ, nhìn ngắm nhân vật bằng tấm lòng đồng cảm sâu sắc. Trong cái thân xác đáng thương ấy, Nam Cao đã phát hiện ra có một mầm lương thiện hãy còn thổn thức. Nó muốn vực dậy, muốn trào ra nhưng không thể tự mình làm được.

Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở sau cuộc rượu say ở nhà Tư Lãng phải chăng là sắp đặt của tạo hóa? Tình cờ mà như là định mệnh đã sẵn bày. Cái tình mềm mại của Thị Nở và bát cháo hành ấm nóng tình người đã đánh thức dậy những tình cảm tốt đẹp, những khát khao ước mơ khi xưa của Chí Phèo về một gia đình đầm ấm, hạnh phúc.

Nó như một thứ phép màu xoa dịu mọi khổ đau, hàn gắn mọi vết thương và làm rung động mọi tế bào của Chí Phèo. Sau cái đêm hạnh phúc, Chí phèo cứ thấy có cái gì đó lâng lâng khắp người khó lí giải.

Thì ra, đó là cảm giác hạnh phúc. Hắn hạnh phúc vì có một người phụ nữ ở bên canh, dịu dàng và yêu thương. hắn hạnh phúc vì lần đầu tiên có một người không sợ hãi, không chạy trốn khỏi hắn. Cũng là lần đầu tiên có một người cho hắn một bữa ăn ngon lành mà trước đây hắn phải rạch mặt ăn vạ hoặc cướp giật mới có được. Những quyền lợi ấy có gì to tát đối với con người đâu? Nhưng chao ôi, đối với Chí Phèo thì đó là cả một ân huệ lớn lao.

Chút tình thương yêu mộc mạc của Thị Nỡ đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn leo lét nơi đáy lòng của Chí Phèo, đánh thức dậy bản chất lương thiện vốn có trong hắn. Con người xấu xí “ma chê quỷ hờn” ấy kì lạ thay lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tăm tối của Chí Phèo. Thức tỉnh, gợi dậy bản tính người ở hắn, thắp sáng một trái tim đã bị ngủ mê qua bao tháng ngày bị dập vùi, hắt hủi.

Một thành công nổi bật của Nam Cao trong tác phẩm “Chí Phèo” là đã phát hiện, miêu tả được những phẩm chất tốt đẹp của Chí ngay khi hắn đã bị biến chất, tha hóa.

Ngay khi Chí Phèo điên cuồng như một con thú, tưởng chừng như lòng thương đã cạn kiệt thì vẫn còn có một người biết thương cảm hắn. Ở cái làng Vũ Đại, Thị Nở là người duy nhất hiểu Chí Phèo, đồng cảm với Chí Phèo. Thị vốn là người xấu xí, đã gánh chịu nhiều điều miệt thị, khinh bỉ của con người nên dễ dàng thấu cảm cho nỗi khổ đau đang cuộn xé trong con người của Chí – một kẻ cô đơn, bị người đời ruồng bỏ.

Bát cháo hành của Thị Nở, Chí Phèo xúc động và muốn khóc, giúp Chí Phèo nhận ra: cái đau khổ lớn nhất của con người, không phải là sự đói cơm rách áo, mà sự thiếu thốn tình thương. Bát cháo hành chính là liều thuốc thần làm sống dậy sự rung cảm mà bấy lâu tưởng chừng như đã chất trong tim Chí phèo, đánh thức dậy trong hắn khát vọng sống và sống tốt đẹp.

Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã thức tỉnh ở Chí Phèo niềm mơ ước của một thuở xa xưa chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, cố dồn vốn để nuôi thêm con lợn. Chí Phèo mong muốn Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối, đưa Chí Phèo trở về, hòa nhập với cộng đồng xã hội.

Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Thị Nở, tâm trạng Chí Phèo hoàn toàn thay đổi. Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao. Nghe thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng cười nói bàn tán của những người đàn bà đi chợ về. bao nhiêu âm thanh quen thuộc của cuộc sống bấy lâu nay vậy mà giờ đây Chí Phèo mới nghe thấy bởi hắn luôn chìm ngập trong những cơn say.

Hôm nay, những âm thanh ấy, vọng đến tai hắn, bỗng trở thành tiếng gọi của sức sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo. Trái tim tưởng chừng như trái đá của hắn đã dần dần sống dậy. Cái phần người trong Chí Phèo cũng hồi sinh “hắn thèm lương thiện, hắn khao khát làm hòa hòa với mọi người”.

Từ một “con quỷ dữ”, nhờ có tình thương yêu của Thị Nở – dù đó là tình thương của một con người xấu xa, thô kệch, dở hơi cũng đủ để làm sống dậy một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết, sức cảm hóa của tình thương kì diệu đến chừng nào.

Nhưng đau đớn thay, chút tình thương của Thị Nở không đủ mạnh để cứu lấy Chí Phèo. Bởi ngoài Thị Nở ra, không hề có lấy một cơ nào, chẳng hề có một bàn tay thân thiện nào chìa ra dắt Chí Phèo trở về cuộc sống lương thiện. Con đường trở lại làm người của hắn vừa mới hé mở đã bị đóng sầm lại.

Một chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Khắc nghiệt làm sao khi bản tính người trỗi dậy nơi Chí Phèo cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Xã hội đã cướp đi của Chí Phèo quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại.

Những vết dọc ngang trên mặt – kết quả bao cơn say, bao lần đâm thuê chém mướn, rạch mặt ăn vạ,. đã ngăn cản Chí trở về với cuộc đời lương thiện. Những định kiến của xã hội đã không cho phép Chí đặt chân lên nhịp độ hi vọng. Con đường trở về với cuộc sống lương thiện vừa mới kịp lóe lên trong đầu hắn, như một ngọn lửa chỉ kịp le lói đã bị cuộc đời dội gáo nước lạnh làm cho tắt ngầm.

Chí Phèo một lần nữa bị hắt hủi và ruồng bỏ một cách phũ phàng. Chí đã bị chính Thị Nở cự tuyệt, người mà hắn nghĩ sẽ là cây cầu duy nhất đưa hắn về với cuộc sống lương thiện. Thị Nở không phải không yêu hắn, không phải không muốn lấy hắn nhưng vì bà cô và những định kiến xã hội đã níu giữ lấy Thị, không cho Thị được kết duyên với Chí Phèo. Chí Phèo đã cố níu lấy tay Thị Nở lúc Thị vùng vằng ra về nhưng bất lực. Hắn hụt hẫng và rơi vào vực thẳm tuyệt vọng: “ôm mặt khóc rưng rức”.

Một lần nữa, Chí Phèo tìm đến rượu. Nhưng lần này Chí Phèo càng uống lại càng tỉnh Càng tỉnh lại càng thấm thía sâu sắc nỗi đau bi kịch của mình. Trong cơn đau đớn phẫn uất, Chí Phèo quyết định trả thù. Hắn vác dao đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện.

Đau đớn và thống thiết thay, là tiếng phẫn uất của Chí Phèo: “Ta muốn làm người lương thiện, ai cho ta lương thiện. Làm thế nào cho mất được những vết mảnh trại trên mặt này.

Tao không thể là người lương thiện được nữa. Biết không, chỉ còn một cách. biết không. “. Căm thù cao độ và không còn lối thoát nào khác, Chí Phèo đã giết Bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết bế tắc của số phận.

Qua truyện ngắn Chí Phèo Nam Cao đã khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước năm 1945, một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính.

Chí Phèo chính là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh; là tiếng nói bảo vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện; là mong ước được sống và sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tối của xã hội đẩy họ vào chỗ khốn cùng, bế tắc, đầy bi kịch xót xa của lớp người nông dân khốn cùng.

Số 8: Phân tích quá trình bị cự tuyệt của Chí Phèo

Trong nền văn học Việt Nam giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, sự xuất hiện hình tượng nhân vật Chí Phèo đã tạo nên một tiếng vang lớn đối với sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao nói riêng và đối với mảnh đất viết về số phận của người nông dân nói chung.

Qua tác phẩm “Chí Phèo”, bằng tài năng trong việc xây dựng tình huống truyện và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, tác giả đã phác họa thành công cuộc đời của nhân vật Chí Phèo với ảm ảnh về con đường tha hóa nhân hình, nhân tính và tấm bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.

Là nhân vật chính của tác phẩm, Chí Phèo hiện lên với số phận đáng thương, bất hạnh – mẫu số chung của tầng lớp nông dân trong xã hội phong kiến. Nguồn gốc ra đời của Chí gắn liền với câu chuyện về “cái lò gạch cũ”. Ngay từ khi mới chào đời, hắn đã bị bỏ rơi “trần truồng, xám xịt”, đứa trẻ không cha, không mẹ lớn lên từng ngày qua một hành trình lúc thì bị đem cho, lúc thì bị đem bán.

Đến khi trưởng thành, Chí trở thành anh canh điền làm thuê trong nhà Bá Kiến với sự lương thiện, tự trọng. Những tưởng cuộc đời cứ thế trôi qua, nhưng chỉ vì ghen tuông, Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào con đường tù tội, mở ra những chuỗi ngày đen tối bị tha hóa về nhân hình và nhân tính của người nông dân hiền lành, chất phác.

Trước khi trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” – một kẻ say sống cùng tiếng chửi và nghề rạch mặt ăn vạ, Chí Phèo vốn là người “hiền như đất”. Dù là đứa trẻ mồ côi, nghèo khó, “không một tấc đất cắm dùi” nhưng y vẫn luôn ý thức về lòng tự trọng, khi bị bà ba gọi lên bóp chân, Chí nhận thức được rằng đó là một việc làm “không chính đáng” và “Hắn thấy nhục hơn là thích”.

Đồng thời, anh canh điền còn có ước mơ về một mái ấm gia đình nho nhỏ với những niềm hạnh phúc giản đơn, bình dị: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng bỏ lại một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”, nhưng rồi, xã hội phong kiến đã đẩy người nông dân bước vào con đường tha hóa và trượt dài trên hành trình đó khi chỉ mới hai mươi tuổi.

Sau bảy, tám năm ở tù, Chí trở về làng với sự thay đổi về nhân hình lẫn nhân tính. Nhà tù thực dân chính là cánh cửa mở ra chuỗi ngày đen tối trong cuộc đời hắn. Nhà văn Nam Cao đã sử dụng ngòi bút đậm chất hiện thực để phác họa chân dung của Chí Phèo từ khuôn mặt đến hình dáng: “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết!” và “Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông thầy tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế . Trông gớm chết!”.

Tuy nhiên, sự thay đổi về nhân hình không hề đáng sợ bằng sự tha hóa về nhân tính. Anh canh điền lương thiện ngày nào giờ đây luôn chìm ngập trong những cơn say cùng những cử chỉ, hành động hung hãn.

Đáng buồn hơn, hắn trở thành tay sai đắc lực, công cụ “đâm thuê chém mướn” cho cụ Bá – người đã hủy hoại cuộc đời hắn, tước đoạt quyền làm người và đẩy hắn vào con đường tha hóa. Giấc mơ về mái ấm gia đình đã bị lãng quên cho đến khi Chí gặp Thị Nở.

Bát cháo hành cùng sự săn sóc, yêu thương của thị đã đánh thức phần người lương thiện còn lại trong tâm hồn của con quỷ dữ, nhưng đến cuối cùng, hắn vẫn không thể vượt thoát tấn bi kịch tha hóa dax bủa vây bao phủ lên cuộc đời hắn.

Sự cự tuyệt của người đàn bà xấu xí, “ma chê quỷ hờn” đã dập tắt ánh sáng le lói của những giấc mơ về mái ấm gia đình và giúp Chí hiểu rõ cánh cửa của loài người đã hoàn toàn khép lại. Bằng cảm quan hiện thực, nhà văn Nam Cao đã đẩy bi kịch tha hóa lên đỉnh điểm qua việc chối từ, cự tuyệt quyền làm người của Chí. Và rồi, Chí Phèo chết trong đau đớn khi tự kết liễu đời mình và đâm chết Bá Kiến.

Qua con đường tha hóa của Chí Phèo, chúng ta có thể thấy được bút pháp xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình của tác giả Nam Cao. Là nhà văn có cảm quan hiện thực sâu sắc, nhà văn đã nhận ra sự tha hóa mang tính quy luật của số phận người nông dân nghèo trong xã hội thực dân nửa phong kiến với cái nhìn sâu sắc cùng sự cảm thông, xót thương.

Nam Cao đã thay đổi thời gian nghệ thuật thông thường, chọn thời điểm trần thuật sau khi Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, đưa chi tiết tiếng chửi lên đầu để gợi lên nỗi ám ảnh trong lòng độc giả về bi kịch trong những cơn say của một con người bị tha hóa và không còn được xã hội đón nhận. Qua đó, ông đã gián tiếp lên án, phê phán xã hội phong kiến mục nát đẩy người nông dân vào bước đường cùng và con đường lưu manh hóa.

Như vậy, bằng tài năng trong việc xây dựng hình tượng nhân vật và miêu tả tâm lí nhân vật, nhà văn Nam Cao đã đem đến một cái nhìn tiến bộ và khám phá mới mẻ về bi kịch của người nông dân. Thông qua tác phẩm Chí Phèo, chúng ta có thể thấy được đôi mắt tình thương của tác giả khi nhìn nhận những góc khuất bên trong cuộc sống của những con người vốn lương thiện nhưng bị xã hội phong kiến mục nát, thối rữa đẩy vào bước đường cùng và nỗi đau bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người.

Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

Số 9: Phân tích bị cự tuyệt làm người của Chí Phèo

Có ý kiến cho rằng: Nếu không viết: “Chí Phèo”, Nam Cao đã để lại cho Văn học Việt Nam một khoảng trống lớn. Chí Phèo là tác phẩm đầu tay của Nam Cao trình làng với bạn đọc, ngay từ khi xuất hiện nó đã trở thành một vấn đề, một kiệt tác của trào lưu văn học hiện thực. Đây là tác phẩm tiêu biểu viết về người nông dân bởi đến đây người đọc mới hiểu thế nào là tận cùng nỗi khổ của người nông dân Việt Nam trong xã hội phong kiến.

Nếu như ở những tác phẩm của các nhà văn hiện thực khác: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… hình ảnh người nông dân chỉ hiện lên với những áp bức bất công, bị dồn đến bước đường cùng, nhưng họ vẫn còn giữ được con người mình, nhưng đến với Nam Cao thì đã có những khám phá phát hiện mới mẻ, ông không chỉ phát hiện ra bi kịch bị bần cùng hóa mà còn khám phá phát hiện ra bi kịch bị lưu manh tha hóa bị cự tuyệt quyền làm người của người nông dân.

Mở đầu trang văn, Nam Cao đã để cho Chí Phèo xuất hiện bằng một hình ảnh hết sức sống động độc đáo: Chí Phèo khật khưỡng vừa đi vừa chửi: tiếng chửi của Chí Phèo ngay lập tức cho người đọc hình dung về một sự việc bất bình thường.

Vì lẽ gì mà một con người phải cất lên những tiếng chửi như vậy? Tại sao những tiếng chửi đó lại không được đáp trả…? Nhưng chúng ta sẽ thấy tiếng chửi này không phải là bâng quơ, không đơn giản mà nó rất logic, rất có dụng ý.

Ban đầu hắn chửi trời đến chửi đời rồi chửi ngay tất cả làng Vũ Đại… nhưng đối tượng của những tiếng chửi này là mơ hồ không xác định đến khi hắn chửi không biết đứa nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ thế này… thì đối tượng đã được xác định. Chí Phèo chửi để nhận thức nguyên nhân dẫn đến bi kịch của bản thân.

Nhưng ngay lập tức hắn hiểu rằng tiếng chửi của hắn là vô vọng, hắn thấy thấm thía nỗi khốn khổ của số phận, hắn đã phải cất tiếng chửi để thèm mong có ai đó chửi lại hắn, để hắn có thể được giao tiếp với đời, với người. Vậy mà không người nào chịu chửi lại hắn, có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoái không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, còn bằng lòng giao tiếp đối thoại với hắn.

Chí chửi cả làng Vũ Đại với hy vọng sẽ có ai đó chửi lại. Nhưng hắn chỉ nhận lại một sự im lặng đáng sợ, và Chí vẫn còn lại một mình Chí trong sa mạc cô đơn: hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu.

Bằng cách mở đầu truyện độc đáo thế này, tác giả không chỉ giới thiệu mà còn bắt đầu hé mở cho người đọc thấy tình trạng bi đát của một số phận, đó là số phận người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ của Chí Phèo ban đầu tất cả là con số không: không nhà, không cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một tấc đất cắm dùi…

Nhưng đó mới chỉ là mở đầu, nỗi khổ đau đớn nhất của Chí Phèo là bị cả xã hội quay lưng lại, bị cướp mất linh hồn người, bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải sống kiếp sống tối tăm của thú vật. Từ quá khứ đến hiện tại, từ bản chất đến hiện tượng Chí Phèo đã biến đổi.

Trong quá khứ Chí Phèo là một con người hiền như cục đất, có bản chất lương thiện, từ khi vào làm canh điền cho nhà Bá Kiến, rồi bị Bá Kiến đẩy vào tù, sau 7-8 năm ở tù ra, Chí Phèo đã rơi vào vô thức và bị lưu manh tha hóa, tất cả mọi hành động của Chí Phèo đều phải thông qua rượu, đều diễn ra trong vô thức : đâm thuê, chém mướn, cướp bóc, rạch mặt ăn vạ… Những tội ác của Chí cứ đầy lên trong con mắt người dân làng Vũ Đại.

Tưởng như số phận cuộc đời của Chí Phèo sẽ mãi mãi trượt dài trên cái dốc lưu manh tha hóa và rơi vào vực sâu của kiếp sống tội lỗi; nhưng sự xuất hiện Thị Nở đã đưa Chí Phèo từ vực sâu của kiếp sống lưu manh tha hóa đến bến bờ của cõi đời lương thiện.

Đây có thể xem là một sự kiện trọng đại, một biến cố mở ra một bước ngoặt của cuộc đời Chí Phèo, đưa Chí Phèo trở lại với kiếp người. Sự xuất hiện của Thị Nở cùng bát cháo hành đã biểu hiện cho sự đồng cảm và tình người nhân hậu.

Người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn kia lại là người duy nhất ở làng Vũ Đại biết được sao có lúc nó hiền đến thế. Hơi ấm của bát cháo hành chính là hơi ấm của tình người nhân hậu đã làm cho con người lương thiện bấy lâu chìm khuất trong hình ảnh của con quỷ dữ, thằng đầu bò đã phục sinh, giờ đây sức sống tâm hồn đã trỗi đậy trong Chí Phèo.

Sau khi con người lương thiện phục sinh, tính cách tâm hồn con người Chí Phèo đã tỉnh dậy lắng nghe những âm thanh bình dị mộc mạc hàng ngày mà lâu nay Chí quên lãng. Chí bỗng hồi tưởng về những kỉ niệm của thời êm đẹp :Ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm….

Đáng lẽ ra hắn cũng sẽ có được một cuộc sống bình thường như bao người khác nhưng giờ đây khi hắn tỉnh dậy hắn mới thấy hắn đã già mà vẫn còn cô độc hắn vẫn đang sống bên lề cuộc đời một cách khốn nạn, hắn cảm thấy buồn, cảm thấy tủi nhục. Hơn lúc nào hết, lúc này hắn mong ước được làm người, được trò truyện…

Nhưng những giây phút được yêu của cuộc sống lứa đôi Chí Phèo – Thị Nở thật ngắn ngủi, hạnh phúc vừa hé mở đã khép lại. Chí Phèo và Thị Nở đã dắt tay nhau tới ngưỡng cửa cuộc đời nhưng bị từ chối phũ phàng bởi định kiến xã hội mà bà cô Thị Nở là đại diện.

Khi tỉnh dậy và đối diện với hiện thực, Chí Phèo mới giật mình và nhận thức một cách sâu sắc hơn, rằng hắn đã bị từ chối khỏi cộng đồng và không thể trở thành người lương thiện trong con mắt mọi người được nữa.

Khi con người lương thiện trong Chí Phèo đã phục sinh thì hắn lại càng khao khát được làm người hơn bao giờ hết. Nhưng khao khát vẫn chỉ là khao khát, như ánh cầu vồng vụt tắt sau cơn mưa, như ngọn lửa nhỏ bị dập tắt khi mới vừa được nhen nhóm khát vọng làm người của hắn đã bị cự tuyệt hoàn toàn.

Chí lại trở về với sự cô độc, và đau đớn, xót xa khi nhận ra mình đã không còn đường về quay trở lại: Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất những hết mảnh chai trên mặt này? Đây chính là sự tự ý thức cao độ của Chí Phèo về bi kịch của bản thân mình.

Hình ảnh những vết mảnh chai trên mặt chính là dấu vết của những năm tháng tội đồ. Hình ảnh này đã hằn sâu trong tâm trí của người dân làng Vũ Đại và trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với họ.

Trong con mắt của mọi người, Chí Phèo là con quỷ dữ. Thằng đầu bò và hình ảnh này không thể tẩy xóa đi được nữa. Chính định kiến đã ngăn cản bước chân của Chí Phèo tìm về với cõi đời lương thiện.

Hơn ai hết, Thị Nở là người đem lại cho Chí Phèo sự đồng cảm về tình người nhân hậu, nhưng chính Thị Nở cũng là người đẩy Chí Phèo đến bờ vực của cái chết. Thị vừa là phương tiện, là công cụ lại vừa là nạn nhân của định kiến.

Đến đây, Chí Phèo rơi vào bi kịch của sự lựa chọn giữa sự sống và nhân cách cái Và cuối cùng, Chí Phèo đã tìm đến cái chết để khẳng định nhân cách của mình Chí Phèo cầm dao đâm chết Bá Kiến – kẻ thù lớn nhất của đời mình rồi tự sát. Chí Phèo đã lựa chọn – một sự lựa chọn nghiệt ngã, nhưng đó là cách duy nhất để con người lương thiện trong Chí được sống, để nhân cách con người của hắn được tồn lại.

Hành động tự sát của Chí Phèo là cuộc chiến đấu mạnh mẽ nhất, dữ đội nhất và là cuộc chiến đấu cuối cùng giữa con người hiền như cục đất và con quỷ dữ thằng đầu bò. Trong cuộc quyết đấu này, Chí Phèo đã chết, nhưng nhân cách lương thiện đã trỗi dậy và tỏa sáng, đó cũng chính là chiến thắng tất yếu của cái thiện đối với cái ác, đồng thời cũng là sự thể hiện rõ ràng nhất của tư tưởng nhân đạo và tinh thần nhân văn của ngòi bút Nam Cao.

Số 10: Cảm nhận bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo

Đề tài người nông dân là một đề tài quen thuộc trong văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 – 1945. Nguyễn Công Hoan thành công với hình tượng anh Pha trong “Bước đường cùng”, Ngô Tất Tố thành công với hình tượng chị Dậu trong tiểu thuyết “Tắt đèn”.

Và không thể không nhắc đến Nam Cao với kiệt tác “Chí Phèo”. Nếu như anh Pha, chị Dậu còn có mái ấm gia đình, còn được người đời trân trọng thì Chí Phèo của Nam Cao lại như lạc lõng giữa làng Vũ Đại, Chí Phèo rơi vào bi kịch đau đớn nhất trong cuộc đời con người – bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.

Bi kịch là sự mâu thuẫn giữa thực tại với ước mơ, khát vọng của con người. Là khi con người ý thức về cảnh ngộ, số phận của chính mình. Ngay từ khi ra đời, Chí Phèo đã là đứa trẻ bất hạnh, một đứa trẻ không cha, bị người mẹ bỏ rơi trong cái lò gạch cũ.

Đứa trẻ bị bỏ rơi ấy “trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp để bên cái lò gạch bỏ không”, được người làng nhặt về, chuyền tay nhau lớn lên. Lớn lên, đi làm canh điền cho nhà lí Kiến thì lại bị lí Kiến ghen tuông, đẩy vào tù.

Để rồi, khi mang trong mình hình hài của những kẻ lưu manh, côn đồ “cái đầu thì trọc lốc, cái răng thì cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, ngực và cánh tay đầy những nét chạm trổ”, Chí Phèo lại cô đơn, lạc lõng giữa làng Vũ Đại. Chí uất ức cất lên tiếng chửi: chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi đứa chết mẹ nào lại đẻ ra hắn.

Nhưng cũng chẳng ai lên tiếng, để mặc Chí chìm trong những cơn say. Khi Chí đến nhà Bá Kiến, “thấy điệu bộ hung hăng của hắn, bà cả đùn bà hai, bà hai đùn bà ba, bà ba gọi bà tư, nhưng rốt cục chẳng bà nào dám ra nói với hắn một lời phải chăng”.

Thành thử chỉ có ba con chó dữ với một thằng say. Đau đớn cho kiếp người! Bi kịch lại tiếp tục tiếp diễn khi Chí rơi vào bẫy của Bá Kiến – trở thành tay sai, rạch mặt ăn vạ đi đòi nợ thuê cho Bá Kiến. Chí đã đập vỡ bao cơ nghiệp, cướp đi bao cảnh yên vui của làng Vũ Đại.

Để rồi, bi kịch của nhân vật Chí Phèo được nhân lên bằng hình tượng thị Nở. Sau năm ngày đêm vô cùng hạnh phúc sống bên Chí Phèo, chợt nhớ về người bà cô của mình, thị Nở nghĩ bụng: hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã. Sau khi nghe những lời xỉ vả của bà cô: “Đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn; ai lại đi lấy thằng Chí Phèo”, thị lộn ruột, nổi giận đùng đùng, lon ton chạy đến nhà Chí Phèo mà trút vào mặt hắn tất cả những lời bà cô vừa nói.

Sự từ chối phũ phàng của thị Nở đã cắt đứt hi vọng được trở về với cuộc sống lương thiện của Chí. Chí chỉ còn biết ngẩn người vì đau đớn, vì thất vọng. Hạnh phúc thoáng qua, Chí trở về thực tại đau đớn, tuyệt vọng.

Chí cố gắng níu kéo hạnh phúc bằng việc đứng lên gọi thị Nở lại, đuổi theo thị, nắm lấy tay thị nhưng cuối cùng, thị Nở lại dứt khoát: “Thị gạt tay, lại giúi thêm cho một cái.” Vậy là ngay cả một người xấu đến ma chê quỷ hờn cũng không chấp nhận Chí, huống chi là những người dân làng Vũ Đại.

Đau đớn, tuyệt vọng khiến Chí nung nấu quyết tâm ra đi trả thù. Ban đầu, “hắn tự phải đến cái nhà con đĩ Nở kia. Đến để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó.” Trong nỗi đau khổ, tuyệt vọng, Chí tìm đến rượu – người bạn tâm giao của mình. Nhưng càng uống lại càng tỉnh, đâu đây vẫn thoang thoảng hương cháo hành. Chí tuyệt vọng ôm mặt khóc rưng rức.

Những giọt nước mắt của sự đau đớn, khó nói thành lời trong tâm hồn người nông dân bất hạnh. Giờ đây, Chí Phèo thấy mình không thể trở về với cuộc đời lưu manh, nhưng trớ trêu thay, cũng chẳng có thể trở về cuộc sống lương thiện ngày nào.

Chí đắm mình trong men rượu, bằng tiềm thức, Chí nhận ra kẻ thù của mình trước hết vẫn là Bá Kiến. Chí không đến nhà thị Nở như dự kiến ban đầu mà đến thẳng nhà bá Kiến. Nếu như hai lần trước, Chí Phèo đến nhà Bá Kiến là để ăn vạ đòi tiền, để vòi “có đất cắm dùi” thì lần này, Chí Phèo dõng dạc nói: “Tao đã bảo tao không đòi tiền… Tao muốn làm người lương thiện”.

Khát vọng hoàn lương cất lên mãnh liệt, tha thiết nhưng đã quá muộn màng, bởi “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa? Biết không!…”. Cánh cửa trở về với cuộc đời lương thiện đã khép lại, Chí Phèo chỉ còn cách giết chết Bá Kiến rồi kết liễu cuộc đời mình bằng nhát rạch nơi cuống họng.

Rõ ràng, với Chí, niềm khao khát được sống là người lương thiện còn quan trọng hơn cả tính mạng. Một cái chết bi thảm chứa đựng bao đau đớn cho số kiếp của người nông dân. Họ không còn lựa chọn nào, họ bị bần cùng hóa, đẩy vào bước đường cùng tăm tối, bế tắc, cùng quẫn.

Với sự am hiểu tâm lí nhân vật, đặc biệt là tấm lòng yêu thương, trân trọng người nông dân, Nam Cao đã thành công trong việc khắc họa diễn biến tâm lí nhân vật Chí Phèo trong bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Sự thành công đến từ chỗ Nam Cao không tập trung vào gánh nặng mưu sinh mà vào bi kịch trong đời sống tâm hồn của nhân vật, vào cách giải quyết mâu thuẫn đời sống, cách lựa chọn lương thiện thay vì cuộc sống rạch mặt ăn vạ, quanh năm cô độc, bị người đời đẩy ra rìa của xã hội.

Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

Tổng kết

Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 10 mẫu phân tích Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 11.

0/5 (0 Reviews)
Chúng tôi tạo ra Top10timkiem.vn nhằm mục đích cung cấp cho người đọc những thông tin, liệt kê một cách chi tiết nhất về mọi lĩnh vực trong cuộc sống.