Top 15 mẫu phân tích cảnh đợi tàu của Hai đứa trẻ chi tiết nhất

119
Top 15 mẫu phân tích cảnh đợi tàu của Hai đứa trẻ chi tiết nhất
Top 15 mẫu phân tích cảnh đợi tàu của Hai đứa trẻ chi tiết nhất
4.6/5 - (14 votes)

Tổng hợp các bài mẫu phân tích cảnh đợi tàu của Hai đứa trẻ tác giả Thạch Lam một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 15 mẫu phân tích cảnh đợi tàu của Hai đứa trẻ chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Dàn ý cảnh đợi tàu của Hai đứa trẻ

I. Mở bài

– Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm

– Nói chung chung về cảnh đợi tàu:

Thí dụ:

“Mỗi truyện của Thạch Lam như 1 bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhưng mà chứa đựng biết bao tình cảm mếm yêu, thành tâm và sự mẫn cảm của tác giả trước những biến thái của cảnh vật và lòng người”. Quả thật đúng tương tự, những trang văn của Thạch Lam ko đi vào những biến cố nhưng mà đi sâu vào chiều sâu tâm cảnh của con người. Cảnh chờ tàu của 2 chị em Liên và An đã được tác giả nắm bắt những chuyển biến tinh tế nhất trong tâm cảnh của 2 đối tượng.

II. Thân bài

Lý do đợi tàu của 2 chị em Liên

– Liên cùng em trai dù đã rất buồn ngủ nhưng mà vẫn cố thức để đợi tàu bởi:

  • Cô được mẹ dặn chờ tàu tới để bán hàng
  • Mà Liên ko mong đợi người nào tới nữa
  • Cô thức vì muốn được nhận ra chuyến tàu như 1 hoạt động của đêm khuya -> Bản chất để chỉnh sửa cảm giác, chỉnh sửa cái ko khí ứ đọng hàng ngày.

=> Sự thức tỉnh cái tôi, khát khao, khắc khoải muốn nhận ra những gì khác với cuộc sống của chính mình.

Trước lúc tàu tới

– Mi mắt An sắp sửa rơi xuống, vẫn cố dặn chị gọi dậy lúc tàu tới

– Chăm chú để ý từ ngọn lửa xanh biếc, tiếng còi vang lại, kéo dài ra theo ngọn gió xa xăm -> Niềm ngóng chờ, hy vọng, hào hứng.

– Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ ko hiểu

– Tiếng gọi em của Liên: cuống quýt, giục giã -> lo sợ nếu chậm 1 chút thôi sẽ ko kịp, sẽ bỏ dở.

– An “nhỏm dậy”, “lấy tay giụi mắt” cho tỉnh hẳn -> hành động nhanh, thơ ngây, đáng yêu nhưng mà cũng đáng thương.

=> Niềm hào hứng, ngóng chờ chuyến tàu đêm của 2 chị em như ngóng chờ 1 điều gì đấy tươi sáng hơn cho cuộc sống vốn tẻ nhạt thường nhật.

Lúc tàu tới

– Lúc đoàn tàu tới, Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua

– Dù chỉ trong giây lát, Liên cũng thấy “những toa hạng trên cao sang lố nhố người, đồng và kền nhấp nhánh” -> Liên thấy 1 toàn cầu khác với cuộc sống thường nhật của chị.

– Câu hỏi cảm thán của An: “Tàu bữa nay ko đông, chị nhỉ?” -> Có thể ngày nào 2 chị em cũng ngóng tàu.

– Đứng lặng ngắm đoàn tàu đi qua, Liên ko giải đáp câu hỏi của em -> Trong tâm hồn Liên khi này cơn xúc động vẫn chưa lắng xuống.

– Liên tơ tưởng về Hà Nội, 1 Hà Nội sáng rực và xa xôi, 1 Hà Nội đẹp, giàu có và phấn kích… Sự hồi ức đấy càng khiến Liên thêm nhớ tiếc và chán ngán cho cuộc sống ngày nay.

– Tàu tới khiến 2 chị em sống với dĩ vãng tươi đẹp và được sống trong 1 toàn cầu mới tốt hơn, sáng hơn, đặc sắc, vui mừng hơn cuộc sống thường nhật.

=> Tâm cảnh xúc động, vui sướng, hạnh phúc, mộng mơ.

Lúc tàu đi

– Phố huyện với từng đấy người “trong bóng tối mong chờ 1 cái gì tươi sáng cho sự sống”, trong đấy có cả Liên và An

– 2 chị em còn nhìn theo cái chấm bé của chiếc đèn treo trên toa

– Lúc tàu đi, Liên và An trở về với tâm cảnh buồn tẻ, ngán ngẩm cuộc sống thường nhật, thú vui của 2 chị em chỉ lóe sáng rồi vụt tắt.

– Tất cả chìm trong màn đêm với ngọn đèn lù mù chỉ chiếu sáng 1 vùng đất bé đi vào giấc ngủ chấp chới của Liên.

=> Tâm cảnh tiếc nuối, niềm suy tư thao thức về cuộc sống hằng ngày nơi phố huyện nghèo.

Ý nghĩa cảnh đợi tàu

– Thạch Lam muốn trình bày mong ước thoát khỏi cuộc sống ngày nay, khát khao hướng đến 1 cuộc sống tươi sáng hơn, ý nghĩa hơn của những người dân nghèo.

– Ngôn ngữ nâng niu, trân trọng vẻ đẹp trong tâm hồn của 2 đứa trẻ: tuy còn bé nhỏ, thơ ngây, sống trong bóng tối nhưng mà tâm hồn đấy vẫn biết khát khao, biết mong ước, biết hướng tới ánh sáng.

– Thức tỉnh tinh thần tư nhân của con người: đừng để cuộc sống trôi đi “mờ mờ nhân ảnh” hay “buồn cô đơn sống trăm năm”.

Rực rỡ nghệ thuật

– Lối viết ko có tình tiết

– Văn pháp lãng mạn xen hiện thực

– Nghệ thuật mô tả nội tâm

– Tiếng nói dễ dãi, súc tính, giàu tính tạo hình.

III. Kết bài

– Đánh giá nói chung nhất về cảnh đợi tàu của 2 chị em Liên.

– Cảm nhận của bản thân về cảnh rực rỡ đấy.

Top 15 mẫu phân tích cảnh đợi tàu của Hai đứa trẻ chi tiết nhất

Số 1: Phân tích cảnh đợi tàu của Hai đứa trẻ

Nhà văn Thạch Lam đã từng nói: “Cái đẹp là thứ vô hình trong vũ trụ, len lỏi khắp các hang cùng ngõ hẻm, tiềm ẩn trong mọi sự vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát hiện ra những vẻ đẹp tiềm ẩn, tiềm ẩn của sự vật”. Khát vọng tìm kiếm những vẻ đẹp tiềm ẩn trong những con người, sự việc, sự việc tầm thường ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho con đường nghệ thuật của nhà văn, giúp ông sáng tác thành công tác phẩm Hải Phòng. con, văn xuôi đặc sắc của văn học Việt Nam trước cách mạng. Đặc biệt cảnh đợi tàu đêm của hai chị em Liên là nơi kết tinh những tư tưởng nghệ thuật sâu sắc, tiến bộ của Thạch Lam với ngòi bút nhân đạo, trữ tình.

Chuyến tàu đêm chủ yếu hiện lên qua cái nhìn và cảm nhận, qua niềm khao khát, mong đợi của Liên. Trong truyện Thạch Lam đã tinh tế lồng vào những chi tiết rất nhỏ, nhưng rất ý nghĩa, qua đó thể hiện khát vọng về chuyến tàu qua phố huyện của Liên sâu sắc, tha thiết và mãnh liệt đến nhường nào. Dù đã rất khuya, “An và Liên buồn ngủ đến mức nhắm mắt đưa chân” nhưng hai chị em vẫn cố thức để đợi tàu chứ không bán thêm một ít hàng như lời mẹ Liên dặn. , nhưng vì đợi tàu đến. chuyến tàu cuối cùng của đêm.

Niềm mong đợi mãnh liệt của Liên với chuyến tàu gắn liền với cảm nhận sâu sắc của Liên về cái nghèo, cái nghèo và bóng tối nơi thành thị, và qua chuyến tàu đêm, Liên cũng nhận thức rõ. có cuộc sống khác với nơi Liên và An đang sống. Diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên được Thạch Lam miêu tả một cách tinh tế, khi đoàn tàu chưa đến, nàng khao khát đoàn tàu từ xa, háo hức, vui sướng khi đoàn tàu đến, cuối cùng lại buồn bã, hụt hẫng khi đoàn tàu đến. vận chuyển đi.

Đoàn tàu hiện lên qua nhận thức của Liên từ xa đến gần, xa, đoàn tàu cũng hiện lên chủ yếu qua phương diện âm thanh, ánh sáng và cuộc sống trên tàu. Trước hết là về ánh sáng, từ xa, bác Siêu với ánh mắt mong đợi đã nhận ra nó và reo lên sung sướng “Cái bếp lửa kia rồi”, điều này đã làm Liên cảm động, trong mắt Liên đó là “ngọn lửa xanh, gần mặt đất như có bóng ma ”, đầy sức quyến rũ vẫy gọi tâm hồn non nớt của chị em Liên, để rồi từ xa Liên cũng đã thấy“ khói tỏa trắng phía xa. ”. Càng đến gần, ánh sáng của đoàn tàu càng rực rỡ, lộng lẫy và tươi mới, “toa sáng, soi đường”, “đồng và niken lấp lánh”, “cửa sổ sáng trưng”.

Tất cả những ánh sáng này mạnh khác hẳn ánh sáng ở phố huyện mờ tối từ ngọn đèn dầu của chị Tí, ngọn lửa của chú Siêu, con đom đóm, ánh sáng từ cánh cửa khép hờ, … Khác với ánh sáng yếu ớt, mong manh, nghèo nàn nơi phố huyện của chị em Liên, thứ ánh sáng tưởng chừng như bị màn đêm nuốt chửng. Tuy nhiên, ánh sáng mạnh mẽ đầy mộng mơ ấy không ở lại lâu với chị em Liên mà chỉ tồn tại trong chốc lát rồi biến mất hoàn toàn, thứ nó để lại là nuối tiếc, thất vọng là bóng tối.

Yên tĩnh đến cực điểm. Hình ảnh “những hòn than đỏ bay qua đường sắt”, “hai chị em vẫn cố gắng dõi theo chấm nhỏ của ngọn đèn xanh treo trên toa cuối cùng, xa dần rồi khuất bóng dưới rặng tre” là những chi tiết đầy ám ảnh. Hình ảnh gây ấn tượng mạnh cho người đọc, ánh mắt của đứa trẻ thơ hay đó là ánh mắt đầy tiếc nuối, vừa muốn níu kéo vừa như muốn chạy theo chuyến tàu đêm ấy, thoát khỏi phố huyện nghèo này.

Chuyến tàu đêm còn hiện lên qua những âm thanh tinh tế, độc đáo trong cảm nhận của Liên, dù từ xa tiếng tàu cũng đầy sức hút đối với tâm hồn trẻ thơ của Liên, “tiếng còi tàu nơi âm vang kéo dài trong gió xa”, âm thanh còn khá mơ hồ nhưng đầy sức mạnh, phá tan cái im lặng u uất nơi phố huyện, phá tan bóng tối để mang lại một cảm xúc khác cho phố huyện.

Âm thanh đó hoàn toàn khác với tiếng trống, tiếng trống ngắn, khô khan để rồi họ luôn chìm vào bóng tối, không thể thoát ra khỏi nỗi sầu cô đơn nơi làng quê nghèo. Càng về gần tiếng tàu đêm càng vang lên mạnh mẽ, hai chị em càng phấn khích “đợi lâu, còi thổi, tàu chạy rầm rầm”, “tiếng đập thình thịch”, bánh xe “rít ầm ầm”. , viết trong “.

Âm thanh khuấy động phố huyện tối tăm, khác với những âm thanh nhỏ bé, buồn tẻ của phố huyện như tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch nhái, tiếng chó sủa về đêm. Nhưng cũng giống như ánh sáng, tiếng xe lửa. cũng theo nhịp tàu rồi khuất xa ”tiếng tàu nhỏ dần, khuất dần vào bóng tối không còn nghe thấy nữa. ”, sự biến mất của âm thanh cũng như ánh sáng đã để lại niềm tiếc thương sâu sắc trong lòng chị em Liên.

Cuộc sống trên con tàu hiện lên qua lối viết miêu tả của Thạch Lam và cảm nhận tinh tế của Liên, mặc dù chỉ khi con tàu đến gần Liên mới thấy được một chút cuộc sống trên con tàu. những chiếc xe thượng lưu sang trọng chở đầy người “,” đồng lấp lánh kền kền “,” những ô cửa sáng bóng “. Liên chỉ chú ý đến những khoang hạng sang, vì chỉ có cuộc sống trên đó mới khác, giàu sang, sung túc, sang trọng, tươi sáng như những gì Liên thường mơ ước. của, khác với cuộc sống tăm tối, nghèo nàn nơi phố huyện.

Như vậy xét về mọi mặt âm thanh, ánh sáng, cuộc sống trên tàu, có thể thấy thế giới mà con tàu mang theo là một thế giới khác hẳn phố huyện, chính vì vậy mà chuyến tàu đêm trở nên mới mẻ. trở thành niềm ao ước, hy vọng của chị em Liên và người dân nơi đây. Không chỉ khác phố huyện, chuyến tàu đêm còn khác hẳn với chính những đêm trước “chuyến tàu đêm nay không đông như mọi ngày, ít đông hơn và hình như bớt sáng”, gợi nỗi buồn, hụt hẫng nhưng vẫn không nguôi. dập tắt khát vọng mãnh liệt của Liên.

Liên vẫn kiên trì đi theo ước mơ của mình “nhưng họ đã về Hà Nội”, đưa Liên trở về với những kỉ niệm của một “Hà Nội xa xôi trong sáng, tươi vui và không ồn ào”. Cuối cùng, điểm đến chính của những khao khát và mong đợi là “chuyến tàu mang một chút thế giới khác xuyên qua”, con tàu là sứ giả của một thế giới khác, và Hà Nội là hiện thân cụ thể của thế giới đó. thế giới đó.

Niềm khao khát mong chờ chuyến tàu đêm, cũng là niềm khao khát mong đợi một thế giới khác với nơi chúng ta đang sống, khát khao về một thế giới tươi sáng, tốt đẹp và đầy đủ nhất đã mang đến cho chị em Liên. thoát ra khỏi cuộc sống tù túng gò bó nơi phố huyện nghèo, chán ngán với những ngày tàn, chợ búa, người chết. Đó là khát vọng đổi đời tuy còn mơ hồ nhưng vô cùng sâu sắc, tha thiết và mãnh liệt của những con người trong tiết tháng Tám đã ám ảnh hầu hết các nhà văn lúc bấy giờ.

Nhưng qua cảm nhận của Liên, đoàn tàu cũng chạy quá nhanh, nó mang theo những ánh sáng rực rỡ, những âm thanh náo nhiệt, và cuộc đời tốt đẹp cứ thế trôi xa, bỏ lại chị em Liên trong bóng tối, trong im lặng. , trong cái nghèo cùng cực của phố huyện. Con tàu tượng trưng cho sự vỡ mộng, thất vọng nảy sinh từ một giấc mơ mong manh, quá xa vời khó thành hiện thực.

Chuyến tàu đi qua, trở về một phố huyện vắng lặng, lại càng u tối, u uất hơn, để lại trong tâm hồn Liên những khoảng trống mênh mông và mơ hồ. Từ đó, nhà văn Thạch Lam muốn gửi đến người đọc một thông điệp ý nghĩa rằng để có được cuộc sống ấm no, tươi đẹp thì không phải chỉ có khát khao, ước mơ mãnh liệt mà con người cần phải có hành động. Thực ra, những nỗ lực thay đổi cuộc đời, nếu không phải là ước mơ thì dù đẹp đẽ đến đâu cũng mãi chỉ nằm trong trí tưởng tượng.

Khao khát chuyến tàu đêm, Liên chuyển hướng tâm hồn mình về một Hà Nội xa xôi, nơi mà Liên đã từng có một cuộc sống ấm no, giàu có, gợi cho cô nhớ về một quá khứ xa xăm, về những kỷ niệm. Vẻ đẹp của tuổi thơ đã không còn. Cùng với những tiếc nuối về quá khứ, chuyến tàu đêm càng khiến Liên thấy rõ hơn cuộc sống u ám, bế tắc của người dân phố huyện và của chính gia đình Liên.

Trong tác phẩm Hai đứa trẻ Thạch Lam đã đi sâu khai thác tâm hồn nhân vật, của những đứa trẻ nghèo, cảm nhận sâu sắc về cuộc sống nghèo khổ, cơ cực, cảm nhận tinh tế về bức tranh thiên nhiên. Làng quê Việt Nam, là nỗi xót xa, sợ hãi trước những kiếp người điêu tàn. Qua đó, nhà văn thể hiện thái độ trân trọng những khát vọng, hy vọng vào cuộc sống tốt đẹp hơn của con người, đồng thời gửi gắm thông điệp muốn đổi đời thì chỉ có ước ao, mong mỏi mà thôi.

Điều đó không bao giờ là đủ mà còn phải có hành động thiết thực để biến ước mơ thành hiện thực. Về nghệ thuật, Thạch Lam đã thành công trong việc khắc họa những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tâm hồn nhân vật Liên, phong cách trữ tình, lãng mạn, tạo nên nhiều hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng, ​​kết hợp với phong cách của Liên. Cách viết truyện không có cốt truyện đã làm nên thành công lớn cho cả tác phẩm.

Bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam
Bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Số 2: Cảnh đợi tàu trong tác phẩm Hai đứa trẻ

“Mỗi truyện của Thạch Lam như 1 bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhưng mà chứa đựng biết bao tình cảm mếm yêu, thành tâm và sự mẫn cảm của tác giả trước những biến thái của cảnh vật và lòng người”. Quả thật đúng tương tự, những trang văn của Thạch Lam ko đi vào những biến cố nhưng mà đi sâu vào chiều sâu tâm cảnh của con người. Cảnh chờ tàu của 2 chị em Liên và An đã được tác giả nắm bắt những chuyển biến tinh vi nhất trong tâm cảnh của 2 đối tượng.

Liên và An vốn là những đứa trẻ đã từng sống ở thành thị, nhưng mà gia đình sa sút nên phải chuyển về phố huyện nghèo. Liên và An tuy còn bé dại nhưng mà cũng tham dự vào việc nuôi sống gia đình bằng cách trông 1 shop bé ở chợ.

Quanh Liên cũng là biết bao kiếp sống bé nhỏ, mòn mỏi như: chị Tí cùng đứa con khó nhọc mưu sinh, chật vật để sống qua ngày, gia đình bác xẩm góp vào bằng tiếng đàn lập cập trong im lặng,… Cuộc sống nhàm chán, tẻ nhạt, quanh quẩn nhưng mà những con người nơi đây vẫn luôn hướng về 1 ngày tươi sáng: “Chừng đấy người trong bóng tối mong chờ 1 cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo đói hằng ngày của họ”.

Đêm nào cũng vậy, dù buồn ngủ nhưng mà cả Liên và An đều cố thức để chờ hoạt động của đêm, đấy chính là đợi đoàn tàu khuya từ Hà Nội đi ngang qua. Tại sao những đứa trẻ thơ ngây đấy lại phải phấn đấu đợi đoàn tàu đi qua mới có thể ngủ? Có phải chúng nghe lời mẹ dặn? Có phải cố nán lại để bán thêm phong kẹo, cái bánh từ những người khách qua đường.

Mà chẳng phải “Liên và em cố thức là vì cớ khác, vì muốn được nhìn chuyến tàu đấy là sự hoạt động của đêm khuya”. Trong sự hy vọng đấy chứa đựng cả những khát khao, mơ ước cháy bỏng của những trái tim thơ dại non nớt. Do vậy, An trước lúc đi ngủ đã dặn chị: “tàu tới chị đánh thức em dậy nhé” khát khao của chúng là vô thức nhưng mà cũng thật mãnh liệt. Chuyến tàu đi qua, mang lại 1 toàn cầu khác, toàn cầu của âm thanh và ánh sáng đặc sắc.

Chỉ cần khoảng đợi tàu hiện ra, chị Liên thả tâm hồn mình vào vũ trụ để cảm nhận hết thảy vẻ đẹp của tự nhiên lúc đêm về. Qua những kẽ lá bàng, “nghìn sao vẫn nhấp nhánh” trên nền trời, những nụ hoa bàng bé khẽ rơi trên vai chị. Tâm hồn Liên thả trôi theo những xúc cảm bâng khuâng nhưng mà chính chị cũng cảm thấy mơ hồ ko hiểu hết.

Tiếng trống cầm canh ở huyện đánh vang cộng với lời công bố của bác Siêu: “Đèn ghi đã ra kia rồi” xua tan sự u tịch của màn đêm, để sẵn sàng cho sự hoạt động của đêm – con tàu từ Hà Nội dần dần hiện ra. Thuở đầu là ngọn lửa xanh tươi như ma trơi, rồi tiếp tới là làn khói trắng bừng lên từ xa.

Liên gọi em dậy và cả 2 chị em quan sát kĩ từng vận động của chiếc tàu. Tiếng Liên gọi An: “Dậy đi An. Tàu tới rồi” câu nói ko thuần tuý chỉ là để gọi An dậy nhưng mà trong đấy còn kèm cả sự vui thích, nó như 1 tiếng reo vui, giục giã em dậy để cùng ngắm nhìn phút giây đoàn tàu vụt qua.

Phút giây tàu tới, lòng 2 chị em vui sướng, hoan hỉ tới lạ kì, dù chỉ là thoáng qua nhưng mà cũng đủ để 2 tâm hồn tinh tế đấy nắm bắt toàn vẹn sự vật, sự việc đang diễn ra trên tàu: “các toa đèn sáng trưng, chiếu sáng cả xuống đường. Liên chỉ thoáng nhận ra những toa hạng trên cao sang lố nhố những người, dồng và kền vàng nhấp nhánh, và các cửa kính sáng”.

Con tàu trong phút giây đã chỉ còn lại chiếc chấm đỏ bé, rồi khuất sau rặng tre. Nhỏ An hồn nhiên nhưng mà cũng đã nhận ngay ra chừng như tàu bữa nay ko đông như mọi lúc. Còn Liên thì đã nhận thấy sự lác đác cũng như kém sáng hơn của đoàn tàu: “Chuyến tàu đêm nay ko đông như mọi lúc, thưa vắng người và dường như kém sáng hơn”.

Dẫu đoàn tàu bữa nay có kém sáng hơn, có kém đông vui hơn mọi lúc nhưng mà nó từ Hà Nội về, nó mang theo 1 toàn cầu khác hẳn đối với liên, đấy là toàn cầu của ánh sáng, của thú vui và của hạnh phúc. Lòng cô nhỏ trào dâng thú vui, niềm hạnh phúc khó tả lúc được sống lại những ngày xưa lúc cô được uống những cốc nước lã xanh xanh đỏ đỏ, và nhớ về 1 Hà Nội sáng rực, nhấp nhánh.

Đêm nào Liên và An cũng đợi tàu, dù có buồn ngủ díu mắt, chúng cũng phải chờ được đoàn tàu đi qua mới ngủ. Đây chẳng phải là 1 hành động trùng hợp, bất nghĩa nhưng mà nó chừng như là 1 nhu cầu, 1 yêu cầu cần thiết đối với Liên và An. Đằng sau đấy còn chứa đựng cả những ước mong, khát khao về 1 cuộc sống mới xinh tươi và hạnh phúc hơn. Hình ảnh những đoàn tàu vụt hiện ra rồi mất tích nhưng mà cũng đủ để chúng được quay về, được sống với những kỉ niệm tuổi thơ đầm ấm trước đây.

Khát khao chờ đoàn tàu đi qua cũng ánh lên những khát vọng mãnh liệt của những đứa trẻ, đấy là khát vọng đổi đời. Vì sao lại đặt khát vọng đấy vào 2 đối tượng Liên và An nhưng mà chẳng phải là chị Tí, bác Siêu, … bởi chúng là những đứa trẻ, chúng là măng non, là ngày mai của cuộc sống. Do vậy, khát khao đổi đời lúc được trình bày ở 2 đối tượng sẽ phát triển thành ý nghĩa hơn, giàu sức gợi hơn.

Cùng lúc qua quang cảnh đợi tàu, Thạch Lam cũng trình bày thái độ bi cảm đối với những số mệnh người bé nhỏ, xấu số phải sống mỏi mòn với cuộc đời chật vật, thất vọng; cùng lúc ông cũng trân trọng, nâng niu những khát khao, những mong ước xinh tươi của Liên và An nói riêng, của những người dân phố huyện khái quát. Ko chỉ vậy, qua quang cảnh chờ chuyến tàu đêm, Thạch Lam còn dóng lên tiếng gọi khẩn thiết, lay chuyển tâm hồn người đọc: hãy chỉnh sửa cuộc sống, khiến nó phát triển thành xinh tươi hơn, biến nó thành không gian sống lành mạnh để những đứa trẻ được sống cuộc hạnh phúc.

Với nghệ thuật mô tả tâm lí và cảnh vật tài tình, cảnh đoàn tàu kết lại tác phẩm đã để lại dư vang, ấn tượng sâu lắng trong lòng người đọc. Đóng lại cuốn sách người đọc vẫn ko khỏi thổn thức trước những số mệnh kiếp người mỏi mòn nơi phố huyện. Mà cùng lúc cũng chân trọng, nâng niu những ước mong khẩn thiết, mãnh liệt của họ về 1 cuộc sống khác, về sự đổi đời.

Số 3: Phân tích cảnh đợi tàu trong Hai đứa trẻ

Thạch Lam là nhà văn nổi tiếng của Văn học Lãng mạn những năm 1930-1945. Là một trong những cây bút của Tự lực văn đoàn, nhưng văn chương của Thạch Lam không quá xa vời thực tế như những cây bút trong nhóm. Mà văn chương của ông nhẹ nhàng chất đời lãng mạn. Nổi bật nhất phải kể đến truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, câu chuyện chờ đợi tàu của chị em Liên nơi phố huyện Hà Nội những năm tháng trước Cách Mạng. Thiên truyện ngắn cốt truyện đơn giản nhưng lại đọng lại những suy ngẫm sâu sắc đặc biệt cảnh chờ đợi tàu của hai chị em Liên.

Truyện mở ra bằng tiếng trống thu không, hoàng hôn dần buông xuống nơi phố huyện heo hút. Rồi ánh đèn leo lét xuất hiện, cuộc sống con người quẩn quanh nơi phố huyện khi màn đêm dần bao phủ. Hai chị em Liên ngồi lặng im nhìn ngắm phố huyện, lòng đầy suy nghĩ. Trong nỗi nhớ về Hà Nội qua gánh phở bác Siêu, cũng là lúc tàu chuẩn bị đến.

Tàu chưa đến, chị em Liên và những con người nơi phố huyện dù mệt mỏi nhưng vẫn ngắc ngoải, mong chờ điều gì đó. Liên thấy “tâm hồn yên tĩnh.” Cái yên tĩnh bình yên, lặng lẽ trong khung cảnh đêm xuống. Rồi khi tàu đến, từ xa “ngọn lửa xanh biếc như trời”, “tiếng còi xe lửa trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”.

Tàu đến gần, ánh sáng toả rạng một vùng. Đó là ánh sáng của “Ngọn đèn ghi” “toa tàu đèn sáng trưng, chiếu xuống đường”, “người, đồng và kền lấp lánh”. Âm thanh vang vọng trong không gian tiếng ghi tàu mạnh mẽ “tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, kèm theo một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ.”

Đoàn tàu đến đem theo ánh sáng rực rỡ, sáng lóa làm lu mờ mọi ánh đèn leo lét nơi phố huyện, bừng lên mạnh mẽ. Không chỉ mang theo ánh sáng mà tàu đến mang theo cả thứ âm thanh rộn rã khác hẳn tiếng vo ve của muỗi trong hàng hay tiếng ếch nhái từ ngoài đồng ruộng xa. Bằng ngòi bút lãng mạn, bút pháp miêu tả đối lập, Thạch Lam đã khắc họa nên hai thế giới hoàn toàn khác biệt, đối lập để thấy rằng đoàn tàu đến mang theo mọi điều đẹp nhất.

Nhưng rồi đoàn tàu nhanh chóng vụt qua để lại bao tiếc nuối, ngậm ngùi. Đoàn tàu đi cuốn theo cả thế giới rực rỡ, vang động. Liên cảm nhận được sự thiếu hụt về cả âm thanh và con người khi đoàn tàu đi qua. Dường như em đã gắn bó với nơi này từ rất lâu, ghi nhớ sâu sắc từng khoảnh khắc. Đoàn tàu đi qua trả lại cho phố huyện sự im lặng. Đoàn tàu đi qua cũng là lúc khiến cho Liên lặng vào mơ tưởng nhớ về Hà Nội, nhớ về những kỉ niệm ngọt ngào xa xôi. Em buồn thương cho hiện tại mờ mịt, tiếc nuối cho quá khứ hạnh phúc và mơ tưởng về một tương lai.

Bằng những câu văn ngắt ngắn, liên hoàn Thạch Lam diễn tả sinh động tâm trạng bồi hồi, mang chút gì đó vừa xót thương vừa hi vọng của nhân vật Liên. Liên như thấy mình “sống giữa bao sự xa xôi”. Kết thúc truyện để lại trong lòng người đọc bao sự day dứt. Đoàn tàu đến mang theo ánh sáng lấp lánh, rực rỡ, mang theo âm thanh sinh động, vang vọng. Nhưng nó thuộc về thế giới khác.

Thế giới không phải của Liên của An hay cửa con người nơi phố huyện. Nhưng đoàn tàu đi qua lại nhen lên cho những con người nơi đây ước mơ, khát khao về một tương lai dù mờ mịt nhưng họ không hề từ bỏ. Ngày nào họ cũng thức từ sáng đến đêm để đợi đoàn tàu đi qua, để ước mơ về điều gì đó xa xôi. Nhưng ước mơ của họ không biến mất mà âm ỉ chờ đợi điều gì đó làm bùng lên.

Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” khắc họa sinh động thế giới tâm hồn của những con người cùng khổ trong xã hội cũ trước những năm Cách Mạng diễn ra. Hình ảnh đoàn tàu chỉ xuất hiện thoáng qua rồi vụt tắt mang theo ánh sáng, âm thanh, ước mơ và khát vọng. Như một niềm an ủi một mơ ước không bao giờ tắt, một chút ánh sáng cho ao đời tù đọng, đen tối triền miên của những số phận hẩm hiu, bất hạnh nhưng vẫn hi vọng vào một ngày mai tươi sáng hơn. Đó cũng là thông điệp và tình thương của Thạch Lam dành cho những nhân vật.

Bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam
Bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Số 4: Phân tích Hai đứa trẻ cảnh đợi tàu

Thạch Lam, cây bút xuất sắc khi xây dựng những câu truyện ngắn không cốt truyện nhưng đầy nội tâm và khắc khoải của nhân vật. Văn của Thạch Lam trong sáng, giản dị nhưng đủ sức hút, sự thăng trầm và sâu sắc trong đó. Trong số các tác phẩm như tập truyện ngắn Gió đầu mùa, Nắng trong vườn; tùy bút Hà Nội băm sáu phố phường.Ta không thể không nói đến truyện ngắn Hai đứa trẻ (in trong tập Nắng trong vườn). Qua đó, nhà văn đã cho thấy một sự tàn lụi, cảnh nghèo khó của những kiếp người, nhưng cũng làm bật lên cái khao khát tiềm tàng về một cuộc sống tươi đẹp hơn của họ. Đặc biệt điều đó được thể hiện rõ ràng nhất qua cảnh đợi tàu của chị em Liên.

Trước khi tàu đến, “tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Một chút háo hức và mong mỏi cái gì đó làm Liên nhớ cuộc sống trước kia.Liên và An từng là con người của Hà Nội, từng có cuộc sống vô ưu, vô lo. Nhưng bây giờ chị em Liên phải rời Hà Nội vì “thầy Liên mất việc”.

Liên về một khu phố tàn lụi, mỗi chiều phải “trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu của mẹ”. Hôm nay cũng như mọi khi, khi khu phố đã chìm vào màn đêm, chỉ còn le lói vài ánh đèn, ánh lửa từ gánh phở của Bác Siêu, từ ngọn đèn le lói trong cửa hàng. Thế là Liên và An chờ tàu đến, chờ đến ríu cả mắt lại vì mẹ dặn “phải thức đến khi tàu xuống…để bán hàng, may ra còn có một vài người mua”.

Nhưng Liên đâu mong mỏi điều đó, “Liên không trông mong còn ai đến mua nữa.Với lại, đêm họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc lá là cùng”, mà Liên chờ đoàn tàu về. Thứ mang ánh sáng mà “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi”. Dường như họ mong đợi cái gì đó thắp sáng cuộc đời tăm tối của mình. Vậy nên, Liên cố thức vì muốn có điều gì đó làm Liên hạnh phúc, làm Liên đợi chờ.

Rồi cái niềm hi vọng của Liên cũng đã đến. “Tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra heo ngọn gió xa xôi”. Thứ thanh âm ấy dường như đã phá vỡ cái yên tĩnh của phố huyện nghèo. Ánh đèn của đoàn tàu xua đi màn đêm bao phủ con người, thay cho những ngọn đèn le lói.

Phải chăng đó còn là thứ ánh sáng hi vọng mà người dân nơi đây mong đợi. Một điều gì đó có sức sống, mùi hương làm lòng người thổn thức và hồi hộp. Liên gọi An dậy, “hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi”. “Hai chị em chờ không lâu.

Tiếng còi đã rít lên, tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường”. Cái thứ ánh sáng diệu kì ấy làm Liên thấy vui nhưng cũng có chút chạnh lòng, tâm tư xen kẽ, hòa vào tâm trí Liên. Nó làm em nhớ những ngày trước. Em nhớ về một “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rức vui vẻ và huyên náo”.

Chính em cũng biết rằng có một thế giới khác đã mở ra khi tàu đi qua. Cái thế giới đủ đầy vật chất của người Hà Nội, khác hẳn với phố huyện nghèo nơi đây. Liên có lẽ buồn cho những con người như cụ Thi, một bà già hơi điên đã “đi lần vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng”. Liên thương cho gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếc, “một gia đình hát rong đầy tăm tối”. Hay phải chăng em còn thương cho chính mình và gia đình.

Bởi Liên cũng từng có những ngày tháng tươi đẹp, từng được “hưởng những thức quà ngon”, “bấy giờ mẹ Liên nhiều tiền- được đi chơi Bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. Bây giờ đây Liên chỉ có thể ngồi chờ đoàn tàu vào buổi chiều, chờ cái hơi thở, không khí Hà Nội đoàn tàu mang lại.

Đó, đoàn tàu, ánh sáng rực rỡ ấy cũng là giá trị nhân đạo mà Thạch Lam đã mang đến cho “Hai đứa trẻ”, cho Liên, cho người dân nơi phố huyện. Hay nhà văn còn đang muốn cứu giúp cho họ thoát khỏi cái nghèo, muốn đem tới tia sáng may mắn, hạnh phúc xua đi sự mỏi mòn chờ đợi của những kiếp người.

Rồi tàu đến và đi, chỉ trong cái chớp mắt. “Hai chị em còn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.Tiếng vang động của xe hra đã nhỏ rồi, và mất dần trong bóng tối, lắng tai cũng không nghe nữa”. Cả phố huyện cũng không còn náo nhiệt nữa, chỉ còn những ánh sáng mờ mờ từ vì sao trên nền trời đêm rộng lớn, cao vút ấy.

Không gian yên tĩnh, càng tĩnh lặng hơn bởi tiếng trống cầm canh. Mọi người cũng dọn dẹp quầy hàng, gánh phở Bác Siêu, chị Tí đương sửa soạn đồ đạc, vợ chồng bác xẩm ngủ gục trên manh chiếu nhỏ. “Những cảm giác ban ngày lắng đi trong tâm hồn Liên và hình ảnh thế giới quanh mình mờ mờ đi trong mắt chị”.

Liên không nghĩ nữa, cái buồn ngủ đã kéo đến, “Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố tịch mịch và đầy bóng tối”. Phải chăng, cuộc đời của Liên và những con người nơi đây cứ thế tiếp diễn và không lối thoát? Không ai biết được tương lai của họ ra sao. Cái cảm giác mơ hồ trong tâm trí Liên được Thạch Lam nhắc đến đã nói lên điều đó?

Tóm lại, với mạch diễn biến đầy mới mẻ, văn phong trong sáng, giản dị của Thạch Lam đã vẽ nên bức chân dung một phố huyện nghèo, những kiếp người bị lãng quên của dòng đời. Nhưng qua đó cũng gieo cho họ một sức sống, làm bừng lên cái đẹp trong tâm hồn.Những con người nghèo về vật chất nhưng đầy mơ ước thay đổi cuộc đời tăm tối của mình. Hai đứa trẻ, một tác phẩm có sự hòa quyện đủ đầy giữa hiện thực và trữ tình.

Số 5: Hai đứa trẻ phân tích cảnh đợi tàu

Có một nhà văn đã quan niệm rằng: “Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”, đó chính là Thạch Lam.

Nhắc đến Thạch Lam, người ta thường biết đến ông với một phong cách viết truyện ngắn rất độc đáo, không theo lối mòn cốt truyện hay tình huống truyện, mà truyện của ông là truyện nhưng lại không có cốt truyện, tựa như một cuốn phim mà diễn viên tự biên tự diễn chẳng cần có kịch bản vậy. Mỗi tác phẩm, mỗi truyện ngắn của ông tựa như một bài thơ trữ tình đượm buồn, chất thơ vương vấn trong từng câu chữ, từng cái quan sát biến chuyển của dòng thời gian, sự vật.

Ông thường đi sâu vào tìm hiểu thế giới nội tâm của nhân vật với những xúc cảm mơ hồ, mong manh, rất đỗi tinh tế. Và nét văn phong độc đáo như vậy ta thấy được rất rõ ràng trong tác phẩm Hai đứa trẻ, đặc biệt thông qua cảnh hai đứa trẻ ngồi đợi chuyến tàu đêm muộn, chúng ta lại cũng thấy được những thông điệp và ý nghĩa đẹp đẽ, đầy tính nhân văn mà Nguyễn Minh Châu muốn truyền tải cho độc giả.

Có thể nói rằng đột phá của chất thơ trong toàn bộ tác phẩm đó chính là cảnh hai chị em Liên và những người dân phố huyện ngồi đợi chuyến tàu khuya, đợi một cái gì đó nhộn nhịp nào nhiệt khác hẳn với cái màu u ám, trầm buồn của khu phố tỉnh lẻ này.

Những người dân nơi đây họ chờ đợi một cái gì đó tươi sáng hơn, chúng ta mới vỡ lẽ ra rằng tại sao “Chị Tí chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm”, bác Siêu chẳng thấy bán được cho ai nhưng chiều nào đêm nào bác cũng gánh hàng phở ra đây, vợ chồng bác xẩm cũng hiếm người nghe hát, nhưng chiều nào cũng một manh chiếu rách ngồi đây đợi, để rồi ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ.

Hóa ra không phải chỉ để mưu sinh mà họ còn cùng nhau đợi được một chuyến tàu đêm, “chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”.

Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với những sự đợi chờ mong mỏi của người dân nơi phố huyện, người ta mong đến nỗi chỉ một chút động thái báo hiệu của đoàn tàu cũng đã khiến họ vui mừng háo hức, đó là bác Siêu nghển cổ nhìn ra phía ga “Đèn ghi đã ra kia rồi”, đó là ánh mắt chăm chú phóng ra đường ray của Liên thấy một “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi”, là âm thanh của tiếng còi xe lửa kéo dài trước khi vào ga.

Đoàn tàu rầm rập kéo đến , tiếng bánh sắt rít mạnh vào đường ray, những toa tàu “sáng trưng”, cửa kính “lấp lánh”, cả tiếng người lố nhố,… Tàu đi vào đêm tối, chỉ để lại những “đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”, còn chỉ em Liên thì cứ nhìn mãi theo mấy cái chấm xanh xanh khuất dần và mất hút vào đêm tối. Hình ảnh chuyến tàu đêm đã bộc lộ rõ nét tâm trạng của người dân phố huyện.

Sở dĩ nói như vậy bởi vì như nhà văn Thạch Lam đã nói “chuyến tàu như mang một chút thế giới khác đi qua”, đối với người dân phố huyện thì chuyến tàu ấy có một ý nghĩa vô cùng lớn, nó đã mang lại một thứ ánh sáng khác hẳn cái ánh sáng tù mù của ánh đèn dầu, của loài đom đóm, của những buổi chiều sẩm tối dưới ánh hoàng hôn nơi phố huyện, đó là thứ ánh sáng tươi vui đến từ Hà Nội thủ đô, nơi phồn hoa nhộn nhịp.

Dẫu họ cũng biết rằng ánh sáng ấy cũng chỉ đến một chút rồi lại đi mất hút, để lại sau lưng bóng tối bao trùm còn ám ảnh hơn trước đó, thế nhưng họ cam lòng đợi chờ mãi từ sẩm tối cho đến khuya đợi đến mắt díu lại buồn ngủ, nhưng họ vẫn khát khao, mong chờ. Bởi chuyến tàu nhộn nhịp mang hơi thở nhộn nhịp, tươi sáng ấy chính là một món quà của cuộc sống, giữa bộn bề cái khó khăn, đói khát mưu sinh.

Cái ánh sáng rực rỡ, lấp lánh mà đoàn tàu mang lại chính là tượng trưng cho niềm khát khao, nỗi hy vọng của những con người nơi đây. So sánh với nhiều tác phẩm văn học khác, ánh sáng cũng thường được nhiều tác giả tượng trưng cho niềm khát khao, hy vọng của con người trước những tối tăm, bất lực của cuộc đời.

Đơn cử như trong Chí Phèo của Nam Cao, cảnh Chí Phèo tỉnh dậy nhìn thấy ánh sáng lờ mờ lọt vào căn lều ẩm thấp của mình, khao khát được trở lại làm người lương thiện, được hạnh phúc của hắn đã trỗi dậy, hay trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, ánh sáng trên bếp lửa mà Mị vẫn thường hơ tay, hơ lưng cũng phản ánh những khao khát mãnh liệt trong tâm hồn Mị, và trong Vợ nhặt, nhân vật Tràng mua hai hào dầu về thắp lửa cho căn nhà sáng sủa lên trong đêm tân hôn cũng phản ánh cái khao khát, hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn của anh.

Tâm trạng của hai đứa trẻ cũng có nhiều những xao động, An còn nhỏ, cậu đợi tàu trong cái tâm trạng nôn nao háo hức, chuyến tàu đối với An đó chính là một món quà, thú vị, khơi gợi trong tâm hồn em những tưởng tượng phong phú.

Chuyến tàu ấy đã thay thế, khỏa lấp đi những thiếu sót tuổi thơ em, bởi vì gia cảnh nghèo khó em không được có những món đồ chơi đẹp đẽ, không có những chuyến đến khu vui chơi, mà chỉ được quanh quẩn bên gian hàng nhỏ, nơi phố huyện mịt mù tăm tối. Còn với Liên đoàn tàu lại mang nhiều ý nghĩa khác, mang đến cho cô bé mới lớn những xúc cảm tinh tế, “tâm hồn Liên Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm xúc mơ hồ khó hiểu”.

Còn tàu gợi nhắc Liên về một thời quá vãng, đó là một cuộc sống nơi phố thị Hà Nội, đó là khi nhà Liên còn khá giả, Liên được thưởng thức những món quà vặt ngon miệng, được đi chơi đây đó, đâu đâu cũng là những ánh đèn sáng rực và lấp lánh. Nhưng ngày đó đã quá xa và có lẽ cuộc đời Liên mãi phải chôn chân ở cái phố huyện nghèo nàn và tối tăm này, chuyến tàu càng giúp Liên nhận thức rõ hơn về cuộc sống bế tắc, nghèo khổ hiện tại của những con người nơi đây.

Thông điệp chính mà Thạch Lam muốn nhắn nhủ ở đây rằng dẫu cuộc sống có khốn khó, vất vả và bế tắc đến chừng nào thì con người ta vẫn không bao giờ được thôi khát vọng, thôi mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp và tươi sáng hơn.

Những hy vọng, khát khao ấy vẫn luôn tiềm ẩn trong mỗi con người dù già hay trẻ và chúng được nuôi dưỡng bằng một tâm hồn lạc quan, yêu đời, bằng tình thương cảm, gắn kết những con người với nhau.

Dẫu có là cảnh tượng ngày tàn, chợ tàn hay những kiếp người tàn, thì chí ít vẫn có những tâm hồn non trẻ, những tâm hồn kiên cường như chị em Liên và những con người như bác Siêu, chị Tí, vợ chồng bác xẩm không tàn. Họ vẫn sống, vẫn lao động và cố gắng từng ngày, vẫn hằng hy vọng và mơ ước thoát khỏi cái cuộc đời tăm tối, u buồn nơi phố huyện mà tượng trưng chính là chuyến tàu Hà Nội về đầy ánh sáng rực rỡ, tươi vui.

Với văn phong viết truyện chậm rãi, lãng mạn, là truyện nhưng không có cốt truyện, Thạch Lam đã mang đến một tác phẩm rất đỗi tinh tế, với giọng điệu đầy tính nhạc và chất thơ êm đềm. Khắc họa rõ nét khung cảnh làng quê Việt Nam trước cách mạng, chất chứa những nỗi u buồn, khó nhọc, thông qua đó nhà văn bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc đối với cuộc sống của những con người quẩn quanh bế tắc.

Đồng thời trân trọng niềm hy vọng dẫu rất mong manh của họ về một cuộc sống tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn thông qua cảnh đợi tàu của chị em Liên và nhắn nhủ những thông điệp về tinh thần sống lạc quan của con người. Đó chính là bút pháp nhân đạo của nhà văn Thạch Lam trong những tác phẩm của mình.

Liên và An vốn là những đứa trẻ đã từng sống ở thị thành, nhưng gia đình sa sút nên phải chuyển về phố huyện nghèo. Liên và An tuy còn nhỏ tuổi nhưng cũng tham gia vào việc nuôi sống gia đình bằng cách trông một cửa hàng nhỏ ở chợ. Quanh Liên cũng là biết bao kiếp sống nhỏ bé, mòm mỏi như chị Tí cùng đứa con vất vả mưu sinh, chật vật để sống qua ngày, gia đình bác xẩm góp vào bằng tiếng đàn bần bật trong yên lặng,…

Cuộc sống nhàm chán, tẻ nhạt, quẩn quanh nhưng những con người nơi đây vẫn luôn hướng về một ngày tươi sáng: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

Đêm nào cũng vậy, dù buồn ngủ nhưng cả Liên và An đều cố thức để chờ hoạt động cuối cùng của đêm, đó chính là đợi đoàn tàu khuya từ Hà Nội đi ngang qua. Vì sao những đứa trẻ ngây thơ ấy lại phải cố gắng đợi đoàn tàu đi qua mới có thể ngủ? Có phải chúng nghe lời mẹ dặn? Có phải cố nán lại để bán thêm phong kẹo, cái bánh từ những người khách qua đường. Nhưng không phải “Liên và em cố thức là vì cớ khác, vì muốn được nhìn chuyến tàu đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya”.

Trong sự chờ đợi ấy chứa đựng cả những khao khát, ước mong cháy bỏng của những trái tim trẻ thơ non nớt. Bởi vậy, An trước khi đi ngủ đã dặn chị: “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé” khao khát của chúng là vô thức nhưng cũng thật mãnh liệt. Chuyến tàu đi qua, mang đến một thế giới khác, thế giới của âm thanh và ánh sáng rực rỡ.

Trong thời gian đợi tàu xuất hiện, chị Liên thả tâm hồn mình vào vũ trụ để cảm nhận hết thảy vẻ đẹp của thiên nhiên khi đêm về. Qua những kẽ lá bàng, “ngàn sao vẫn lấp lánh” trên nền trời, những nụ hoa bàng nhỏ khẽ rơi trên vai chị. Tâm hồn Liên thả trôi theo những cảm xúc bâng khuâng mà chính chị cũng cảm thấy mơ hồ không hiểu hết.

Tiếng trống cầm canh ở huyện đánh vang cùng với lời thông báo của bác Siêu: “Đèn ghi đã ra kia rồi” xua tan sự tĩnh mịch của màn đêm, để chuẩn bị cho sự hoạt động cuối cùng của đêm – con tàu từ Hà Nội dần dần xuất hiện. Ban đầu là ngọn lửa xanh biếc như ma trơi, rồi tiếp đến là làn khói trắng bừng lên từ xa.

Liên gọi em dậy và cả hai chị em quan sát kĩ từng chuyển động của chiếc tàu. Tiếng Liên gọi An: “Dậy đi An. Tàu đến rồi” câu nói không đơn thuần chỉ là để gọi An dậy mà trong đó còn kèm cả sự vui thích, nó như một tiếng reo vui, hối thúc em dậy để cùng ngắm nhìn khoảnh khắc đoàn tàu vụt qua.

Khoảnh khắc tàu đến, lòng hai chị em vui sướng, hân hoan đến lạ kì, dù chỉ là thoáng qua nhưng cũng đủ để hai tâm hồn tinh tế ấy nắm bắt trọn vẹn sự vật, sự việc đang diễn ra trên tàu: “các toa đèn sáng trưng, chiếu sáng cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, dồng và kền vàng lấp lánh, và các cửa kính sáng”.

Con tàu trong khoảnh khắc đã chỉ còn lại chiếc chấm đỏ nhỏ, rồi khuất sau rặng tre. Bé An hồn nhiên nhưng cũng đã nhận ngay ra dường như tàu hôm nay không đông như mọi khi. Còn Liên thì đã nhận thấy sự thưa thớt cũng như kém sáng hơn của đoàn tàu: “Chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng hơn”.

Dẫu đoàn tàu hôm nay có kém sáng hơn, có kém đông vui hơn mọi khi nhưng nó từ Hà Nội về, nó mang theo một thế giới khác hẳn đối với liên, đó là thế giới của ánh sáng, của niềm vui và của hạnh phúc. Lòng cô bé trào dâng niềm vui, niềm hạnh phúc khó tả khi được sống lại những ngày xưa khi cô được uống những cốc nước lạnh xanh xanh đỏ đỏ, và nhớ về một Hà Nội sáng rực, lấp lánh.

Đêm nào Liên và An cũng đợi tàu, dù có buồn ngủ díu mắt, chúng cũng phải chờ được đoàn tàu đi qua mới ngủ. Đây không phải là một hành động ngẫu nhiên, vô nghĩa mà nó dường như là một nhu cầu, một đòi hỏi thiết yếu đối với Liên và An.

Đằng sau đó còn chứa đựng cả những mơ ước, khao khát về một cuộc sống mới đẹp đẽ và hạnh phúc hơn. Hình ảnh những đoàn tàu vụt xuất hiện rồi biến mất nhưng cũng đủ để chúng được trở lại, được sống với những kỉ niệm tuổi thơ êm ấm trước đây.

Khao khát chờ đoàn tàu đi qua cũng ánh lên những khát vọng mãnh liệt của những đứa trẻ, đó là khát vọng đổi đời. Tại sao lại đặt khát vọng ấy vào hai nhân vật Liên và An mà không phải là chị Tí, bác Siêu, … bởi chúng là những đứa trẻ, chúng là mầm non, là tương lai của cuộc sống. Bởi vậy, khao khát đổi đời khi được tập trung thể hiện ở hai nhân vật sẽ trở nên ý nghĩa hơn, giàu sức gợi hơn.

Đồng thời qua khung cảnh đợi tàu, Thạch Lam cũng thể hiện thái độ cảm thương đối với những số phận người nhỏ bé, bất hạnh phải sống mòn mỏi với cuộc đời chật vật, bế tắc; đồng thời ông cũng trân trọng, nâng niu những khao khát, những ước mơ đẹp đẽ của Liên và An nói riêng, của những người dân phố huyện nói chung.

Không chỉ vậy, qua khung cảnh chờ chuyến tàu đêm, Thạch Lam còn dóng lên tiếng gọi tha thiết, lay động tâm hồn người đọc: hãy thay đổi cuộc sống, khiến nó trở nên đẹp đẽ hơn, biến nó thành môi trường sống lành mạnh để những đứa trẻ được sống cuộc hạnh phúc.

Với nghệ thuật miêu tả tâm lí và cảnh vật tài tình, cảnh đoàn tàu kết lại tác phẩm đã để lại dư âm, ấn tượng sâu lắng trong lòng người đọc. Đóng lại cuốn sách người đọc vẫn không khỏi thổn thức trước những số phận kiếp người mòn mỏi nơi phố huyện. Nhưng đồng thời cũng chân trọng, nâng niu những mơ ước tha thiết, mãnh liệt của họ về một cuộc sống khác, về sự đổi đời.

Số 6: Phân tích cảnh đợi tàu trong truyện Hai đứa trẻ

Nhà văn Thạch Lam là một nhà văn thường sáng tác về truyện dài nhưng lại có thành công ở thể loại truyện ngắn. Ông có phong cách sáng tác riêng biệt, thường viết loại truyện không có cốt truyện mà chủ yếu là những dòng cảm xúc như một bài thơ trữ tình, nhưng chiều sâu của tác phẩm lại làm cho người đọc ngỡ ngàng, thường mang đến cho người đọc những tình cảm chân thành, tha thiết.

Đến với truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, đây cũng là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của Thạch Lam, nhẹ nhàng và sâu lắng. Đặc biệt, truyện ngắn đã đem đến cho người đọc một cảnh tượng xúc động ở cuối bài: cảnh chờ tàu, mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc.

Hàng ngày, chị em Liên luôn có một thói quen là thức đợi tàu. Sự mong móng về khoảng thời gian tàu đi qua Phố huyện Cẩm Giàng của hai chị em được tác giả khắc họa rõ nét. Lý do chờ tàu của hai chị em Liên khác hẳn hoàn toàn so với những lý do của người dân phố huyện Cẩm Giàng. Nếu người dân chờ tàu để bán hàng, để hy vọng có thể kiếm thêm được một ít vật chất, thì chị em Liên lại muốn thỏa mãn nhu cầu về tinh thần.

Khoảng thời gian tàu đến, là lúc hai chị em Liên như được sống với những kỉ niệm của quá khứ, những ngày còn ở Hà Nội với cuộc sống đủ đầy. Tàu đến là một thế giới đầy âm thanh và ánh sáng giúp một ngày tẻ nhạt của hai chị em như có thêm làn gió mới. Giữa cuộc sống nghèo nàn, vẫn có những đứa trẻ giữ được tâm hồn tinh tế, trong sáng và lãng mạn.

Hai chị em đợi tàu để được ngắm nhìn đoàn tàu, sống lại những kí ức tuổi thơ vui vẻ, đầy đủ, khoảng thời gian hạnh phúc đã mất trong quá khứ, để được sống ở một thế giới huyên náo hơn, rực rỡ, nhiều ánh sáng, khác hẳn cuộc sống tối tăm, tù túng ở nơi phố huyện này.

Chuyến tàu là biểu tượng cho sự sống, có ánh sáng, âm thanh, nó biểu tượng cho một cuộc sống đông vui, náo nhiệt. Khi tàu đến, Liên nhớ về Hà Nội, gắn với những kí ức về gia đình, cuộc sống sung túc. Hình ảnh đoàn tàu mang đến cho Liên không gian ánh sáng và âm thanh của một Hà Nội huyên náo, rực rỡ và vui vẻ. Cuộc sống ấy nó khác hẳn với cuộc sống tẻ nhạt, tù túng và tăm tối, bế tắc nơi phố huyện Cẩm Giàng.

Qua cảnh chờ tàu, nhà văn Thạch Lam đã thể hiện thái độ trân trọng, thương cảm đối với những kiếp người nhỏ bé. Đồng thời, tác giả muốn đánh thức những con người đang sống trong cuộc sống quẩn quanh, bế tắc những triết lý về cuộc sống. Đó là: hãy nỗ lực vươn lên, đừng để bản thân chìm trong đêm tối, đừng sống cuộc đời vô nghĩa lý.

Hiện thực cuộc sống xung quanh có thể nghèo đói hay thiếu thốn, tù túng hay tăm tối, nhưng con người không bao giờ được phép ngừng tin tưởng và hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Hình ảnh đoàn tàu mang đến nhiều ánh sáng cũng thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của tác giả về một tương lai tươi sáng hơn đối với con người. Qua cảnh chờ tàu, nhà văn thể hiện niềm tin vào khát vọng vươn lên của con người.

Cho dù cuộc sống có bế tắc hay tăm tối thì họ vẫn luôn có một tinh thần hướng đến tương lai, không nguôi khát vọng đổi đời. Tác giả đã góp tiếng nói của mình để lên án xã hội đã không quan tâm đến số phận con người, để họ phải sống lay lắt từng ngày, trong nghèo đói và bóng tối. Qua đó lên tiếng đòi đổi thay cuộc sống, để con người có cuộc sống xứng đáng hơn.

Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” với việc xây dựng một đoạn kết đầy ấn tượng với cảnh tượng chờ tàu đầy xúc động. Chỉ một chi tiết nhỏ nhưng nhà văn đã đem đến cho người đọc những ý nghĩa sâu sắc, thể hiện được chiều sâu tác phẩm và tình cảm nhân đạo từ nhà văn Thạch Lam.

Bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam
Bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Số 7: Phân tích cảnh đợi tàu của Hai đứa trẻ

Trở về những năm 30-45 của thế kỉ trước, trào lưu văn học lãng mạn dường như đã khẳng định được vị thế của mình trên văn đàn văn học Việt Nam với hàng loạt những cây bút tên tuổi. Ta đã từng bắt gặp một Nhất Linh đau khổ, dằn vặt trên con đường đi tìm lý tưởng, hạnh phúc; một Khái Hưng sôi nổi yêu đời để hòa mình vào những ảo tưởng đẹp đẽ và ngây thơ hay một Thanh Tịnh mang trong mình vẻ đẹp đằm thắm, trong trẻo đậm chất lãng mạn thì Thạch Lam lại hiện lên như một thiên sứ mang một sứ mệnh đặc biệt với phong cách hoàn toàn mới lạ.

Người con của tự lực văn đoàn không đưa ta đến những chân trời phiêu du, mộng tưởng của những tình yêu, khát vọng thường thấy trong trào lưu lãng mạn mà dắt ta đi vào giữa cõi đời ta đang sống. Con người dịu dàng nhân ái ấy đã nguyện gắn ngòi bút của mình với những kiếp người đau khổ, vẫn luôn trân trọng sự sống nơi trần gian.

Ông từng nới rằng: “Cái đẹp man mác trong vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật” Và có lẽ nhờ vào khát khao đi tìm cái đẹp ấy đã là nguồn cảm hứng để ông sáng tác truyện ngắn “Hai đứa trẻ” – áng văn xuôi đặc sắc của nền văn học Việt Nam trước Cách mạng. Đặc biệt trong tác phẩm, cảnh đợi chuyến tàu đêm của hai chị em Liên chính là nơi kết tinh những giá trị nghệ thuật sâu sắc và tiến bộ được Thạch Lam thể dưới ngòi bút đầy nhân đạo và trữ tình.

Câu chuyện không có một tình huống thật li kì, một mâu thuẫn thắt nút cần giải quyết như nhiều truyện ngắn khác. Cái làm nên sức hấp dẫn của truyện ngắn Thạch Lam là những rung động tinh vi, những biến động thầm lặng mà mãnh liệt trong diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên đã gieo vào lòng người đọc nỗi băn khoăn, day dứt về kiếp người, về những thân phận bé mọn luôn khát khao được thay đổi. Thạch Lam không chọn một điểm nhìn bên ngoài, ông quan sát từ bên trong nội tâm nhân vật bằng cách hóa thân vào Liên – một cô bé mới lớn, nhạy cảm, nhân hậu và giàu mơ ước.

Dưới lăng kính hiện thực, phố huyện hiện lên trong thời gian ngắn ngủi bắt đầu từ lúc chiều tàn cho đến lúc đêm khuya, sự tương phản giữa tĩnh và động, tối và sáng, giữa nếp sống ảm đảm nơi phố huyện nghèo với khoảnh khắc huyên náo khi đoàn tàu qua giúp cho chủ đề của tác phẩm được thể hiện một cách ấn tượng.

Thạch Lam đã dồn bút lực để tạo dựng tình tiết cuối cùng của thiên truyện. Đó chính là điểm sáng nhân, văn tạo nên giá trị của tác phẩm. Dù khắc khoải, buồn bã với kiếp sống quẩn quanh, Liên cũng như biết bao con người trong bóng tối, trong cái phố huyện nghèo nàn kia vẫn luôn có một niềm hy vọng mơ hồ, họ mong đợi một cái gì đó tươi sáng hơn cho cuộc sống ảm đạm hằng ngày của họ. Niềm hy vọng mong manh được Thạch Lam khéo léo gửi gắm qua chuyến tàu cuối cùng từ Hà Nội chạy qua phố huyện để lại trong ta biêt bao xúc cảm.

Không chỉ có chị em Liên mà tất cả những người dân nơi phố huyện nghèo đều đợi chuyến tàu đêm đi ngang qua. Với những người dân trong phố huyện, họ chờ tàu để bán hàng, để thêm vào cuộc sống mưu sinh hằng ngày vài đồng lẻ ít ỏi, nhưng với Liên và An, họ thức chờ tàu vì nguyên nhân sâu xa hơn.

Trước hết đây là những đứa trẻ ngoan ngoãn biết vâng lời, chúng làm theo đúng lời mẹ dặn, cố thức đợi tàu để xem có ai mua gì nữa không. Nhưng Liên “không trông mong còn ai đến mua nữa. Với lại, đêm họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng”, dường như việc chờ tàu hằng đêm của Liên và Anh không hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu của đời sống vật chất mà hầu như chỉ xuất phát từ nhu cầu của đời sống tinh thần.

Hai đứa trẻ buồn ngủ ríu cả mắt, An trước khi ngủ còn dặn với chị đánh thức trước khi tàu đến bởi lẽ với chúng, đoàn tàu có một ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Nó là “sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya”, hoạt động ấy có khả năng khuấy động mạnh liệt nhịp sống tẻ nhạt, tù đọng nơi “ao tù phẳng lặng” (Tỏa nhị kiều_Xuân Diệu) , đem lại cho phố huyện nghèo phút chốc bừng tỉnh sau giấc ngủ dài. Cả một ngày dài leo lét, quẩn quanh chỉ có chuyến tàu mang đến cho chị em Liên một sự khác biệt, một thế giới hoàn toàn khác với thực tại tựa như có phép màu lướt qua nơi đây.

Chuyến tàu hiện lên qua cảm nhận của Liên từ xa đến gần rồi cứ thế xa mãi trong tầm mắt của chị. Cảnh chuyến tàu sắp đến dường như mang một sức sống kỳ diệu, cả phố huyện giờ đây mới thực sự bắt đầu động đậy. Khi tiếng còi xe lửa ở xa vang lại, Liên liền đánh thức em dậy: “Dậy đi An, tàu sắp đến rồi”, còn bác Siêu thì nghển cổ nhìn ra phía ga rồi mừng rỡ: “Đèn ghi đã đến kia rồi”. Những lời giục giã, những tiếng reo thoảng thốt trong mừng rỡ vì nếu chậm sẽ không được nhìn thấy đoàn tàu nữa. Thạch Lam không dùng từ ngữ nào để miêu tả sự háo hức của người dân phố huyện mà sự háo hức ấy vẫn hiện lên sống động và đầy chất nhân văn.

Đoàn tàu còn ở phía xa, Liên đã trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, những âm thanh huyên náo “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”, “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi”, “tiếng tàu rít lên và tàu rầm rộ đi tới”. Những âm thanh ấy hoàn toàn khác với thứ âm thanh ảo não cuả tiếng trống thu không hay tiếng trống cầm canh khô khan, của tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve hay tiếng đàn bầu rung lên bần bật trong yên lặng.

Một thế giới khác được đoàn tàu đem tới cho phố huyện nghèo, Liên và An say mê ngắm nhìn “các toa đèn sáng trưng…những toa trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”, dường như ánh sáng rực rỡ của đoàn tàu đã xua tan đi cái “bóng tối” đang gặm nhấm phố huyện từng khắc một. Ánh sáng ấy không tù mù, leo lét như quầng sáng từ ngọn đèn chị Tí, từ khe sáng hé ra nơi cánh cửa của các nhà trong phố, hay vệt sáng nhỏ nhoi, yếu ớt của những con đom đóm. Cư dân phố huyện như choáng ngợp bởi sự náo động của đoàn tàu và cứ thế họ dần mơ về một thế giới thật đẹp đẽ và rực rỡ…

Thực ra, đó là chuyến tàu không đông đúc như mọi khi, “thưa vắng người và hình như kém sáng”, vậy mà nó vẫn đem đến cho hai đứa trẻ biết bao xúc động. Con tàu đi qua sẽ chẳng có gì đặc biệt trong nhận thức của con người, có chăng Tế Hanh đã từng thốt lên:

“Tôi thấy tôi thương những con tàu

Ngày đời không đủ sức đi mau

Có chi vương víu trong hơi máy

Với những toa đầy nặng khổ đau”

Nhưng với chị em Liên thì hoàn toàn khác, chuyến tàu mà hai đứa trẻ hằng mong đợi không phải để chở đi những đau khổ của kiếp người mà nó là ánh sáng, là hi vọng cuối cùng của phố huyện này có thể bấu víu vào. Khi An cố hỏi chị một câu hỏi gì đó nhưng Liên không đáp, dường như chị lặng người theo những mơ tưởng về một thế giới khác mà đoàn tàu vừa đem tới. Hai chữ Hà Nội ngân nga trong lòng cô bé nghèo: “…họ ở Hà Nội về!… Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo” Đoàn tàu mang đến cho chị em Liên một niềm mơ tưởng xa xăm mà rất êm đềm về quá khư tươi đẹp tại chốn mỹ lệ Hà Nội “băm mươi sáu phố phường”.

Quả là “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”, niềm vui của người dân phố huyện chỉ hiện lên trong chốc lát và ngay sau đó là nỗi buồn ập đến một cách thấm thía. Đoàn tàu giống như một tia chớp, một ngôi sao băng rạch qua bầu trời nơi phố huyện nghèo rồi mất hút vào đêm tối. Liên và An đứng lặng người dù chuyến tàu đã đi qua, hai chị em nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa mỗi rồi khuất sau rặng tre.

Đêm nào cũng vậy, cả phố huyện đều khắc khoải mong ngóng, kiên nhẫn chờ đợi chuyến tàu đi qua rồi mới chìm vào bóng tối thăm thẳm quen thuộc của mình: chị Tí và bác Siêu về làng, gia đình bác xẩm ngủ ngục trên manh chiếu rách bên đường còn chị dần ngập vào giấc ngủ yên tĩnh.

Rồi chi tiết cuối cùng gây ám ảnh đến người đọc về một cuộc sống bế tắc “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”, dường như những cảnh đời nơi phố huyện chứa đầy bóng tối. Bóng tối ấy không phải là của vũ trụ mà là bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó. Cuộc sống ấy là vậy, đơn điệu, tẻ nhạt, kém sức sống và lặp đi lặp lại như cỗ máy được lập trình sẵn giống như thơ Huy Cận từng viết:

“Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu

Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người

Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười

Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện”

Chuyến tàu đêm khẳng định một khát vọng chân chính của con người. Với chị em Liên, đoàn tàu như một kí ức vui, một khát vọng mơ hồ, nó chẳng khác nào ảo ảnh nhưng lại mang niềm vui trong sáng cho những đứa trẻ ngây thơ. Với người dân phố huyện, chuyến tàu như một ước mơ cổ tích giúp họ thêm niềm tin để cho họ tiếp tục chờ đợi để sống. Suy cho cùng, chuyến tàu mà nơi phố huyện nghèo ấy mong đợi tựa chiếc phao tinh thần để cứu rỗi cuộc sống nghèo nàn, bế tắc trong tăm tối.

Dưới ngòi bút Thạch Lam, chuyến tàu tường chừng bình thương nhưng ẩn sâu trong đó là tấm lòng nhân đạo của nhà văn. Ông nâng niu, trân trọng niềm vui nhỏ bé, hiếm hoi của con người và đó chính là điểm sáng trong giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Tuy bức tranh phố huyện được vẽ lên từ những gam màu hiện thực song Thạch Lam không quên điểm tổ vào bức tranh của mình những khát vọng cao đẹp hướng tới cuộc sống, giúp con người dần tự ý thức giá trị bản thân, qua đó để họ vươn tới cuộc sống có nghĩa và xứng đáng hơn cũng như nhà văn Nga Sôlôkhôp: “Đối với con người,sự thực đôi khi nghiệt ngã,nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai.Tôi mông muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn,tâm hồn trong sạch hơn,thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người”.

Quả thực ta đã từng day dứt trước một lối văn sắc lạnh, khách quan, tỉnh táo của Nam Cao, hả hê bất ngờ trước những trang viết châm biếm của Nguyễn Công Hoan và khóc cùng những giọt nước mắt trong văn Nguyên Hồng. Giời đây đọc văn Thạch Lam, ta thấy yêu cái nét đẹp nhã nhăn, bình dị, đượm buồn phảng phất phát chút gì đó tựa bài thơ trữ tình “thoang thoảng hương hoàng lan được chưng cất từ nỗi đời đau khổ”.

Có người từng nói rằng: “ Thạch Lam là nhà văn ngắt câu bằng màu, chấm câu bằng nốt nhạc, chuyển đoạn bằng hình” bởi lẽ vậy “Hai đứa trẻ” hiện lên như một bức tranh dệt bằng cảm giác”, giản dị mà sâu lắng, man mác mà thấm thía. Câu chuyện soi tỏ những bí ẩn thi vị mà cao đẹp trong tâm hồn cô bé Liên để rồi bộc lộ những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

Thạch Lam không có tham vọng tạo ra những tình huống truyện éo le, nghịch cảnh. Vậy nhưng ông vẫn đạt đến độ toàn thiện, toàn mĩ của một truyện ngắn nhiều dư âm. Người đọc được dẫn đi trong một thế giới nhân vật và không gian bàn bạc nỗi buồn, lặng lẽ suy ngẫm nhưng triết lý nhân sinh và những thông điệp cuộc sống giàu ý nghĩa. Đặc biệt, cảnh đợi chuyến tàu đêm đã ánh lên những tia hy vọng rất đời, rất người mà Thạch Lam bằng cả tài năng, tâm huyết xây dựng!

Số 8: Cảnh đợi tàu trong tác phẩm Hai đứa trẻ

Có một nhà văn đã quan niệm rằng: “Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”, đó chính là Thạch Lam.

Nhắc đến Thạch Lam, người ta thường biết đến ông với một phong cách viết truyện ngắn rất độc đáo, không theo lối mòn cốt truyện hay tình huống truyện, mà truyện của ông là truyện nhưng lại không có cốt truyện, tựa như một cuốn phim mà diễn viên tự biên tự diễn chẳng cần có kịch bản vậy. Mỗi tác phẩm, mỗi truyện ngắn của ông tựa như một bài thơ trữ tình đượm buồn, chất thơ vương vấn trong từng câu chữ, từng cái quan sát biến chuyển của dòng thời gian, sự vật. Ông thường đi sâu vào tìm hiểu thế giới nội tâm của nhân vật với những xúc cảm mơ hồ, mong manh, rất đỗi tinh tế.

Và nét văn phong độc đáo như vậy ta thấy được rất rõ ràng trong tác phẩm Hai đứa trẻ, đặc biệt thông qua cảnh hai đứa trẻ ngồi đợi chuyến tàu đêm muộn, chúng ta lại cũng thấy được những thông điệp và ý nghĩa đẹp đẽ, đầy tính nhân văn mà Nguyễn Minh Châu muốn truyền tải cho độc giả.

Có thể nói rằng đột phá của chất thơ trong toàn bộ tác phẩm đó chính là cảnh hai chị em Liên và những người dân phố huyện ngồi đợi chuyến tàu khuya, đợi một cái gì đó nhộn nhịp nào nhiệt khác hẳn với cái màu u ám, trầm buồn của khu phố tỉnh lẻ này.

Những người dân nơi đây họ chờ đợi một cái gì đó tươi sáng hơn, chúng ta mới vỡ lẽ ra rằng tại sao “Chị Tí chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm”, bác Siêu chẳng thấy bán được cho ai nhưng chiều nào đêm nào bác cũng gánh hàng phở ra đây, vợ chồng bác xẩm cũng hiếm người nghe hát, nhưng chiều nào cũng một manh chiếu rách ngồi đây đợi, để rồi ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ.

Hóa ra không phải chỉ để mưu sinh mà họ còn cùng nhau đợi được một chuyến tàu đêm, “chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”.

Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với những sự đợi chờ mong mỏi của người dân nơi phố huyện, người ta mong đến nỗi chỉ một chút động thái báo hiệu của đoàn tàu cũng đã khiến họ vui mừng háo hức, đó là bác Siêu nghển cổ nhìn ra phía ga “Đèn ghi đã ra kia rồi”, đó là ánh mắt chăm chú phóng ra đường ray của Liên thấy một “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi”, là âm thanh của tiếng còi xe lửa kéo dài trước khi vào ga.

Đoàn tàu rầm rập kéo đến , tiếng bánh sắt rít mạnh vào đường ray, những toa tàu “sáng trưng”, cửa kính “lấp lánh”, cả tiếng người lố nhố,… Tàu đi vào đêm tối, chỉ để lại những “đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”, còn chỉ em Liên thì cứ nhìn mãi theo mấy cái chấm xanh xanh khuất dần và mất hút vào đêm tối. Hình ảnh chuyến tàu đêm đã bộc lộ rõ nét tâm trạng của người dân phố huyện.

Sở dĩ nói như vậy bởi vì như nhà văn Thạch Lam đã nói “chuyến tàu như mang một chút thế giới khác đi qua”, đối với người dân phố huyện thì chuyến tàu ấy có một ý nghĩa vô cùng lớn, nó đã mang lại một thứ ánh sáng khác hẳn cái ánh sáng tù mù của ánh đèn dầu, của loài đom đóm, của những buổi chiều sẩm tối dưới ánh hoàng hôn nơi phố huyện, đó là thứ ánh sáng tươi vui đến từ Hà Nội thủ đô, nơi phồn hoa nhộn nhịp.

Dẫu họ cũng biết rằng ánh sáng ấy cũng chỉ đến một chút rồi lại đi mất hút, để lại sau lưng bóng tối bao trùm còn ám ảnh hơn trước đó, thế nhưng họ cam lòng đợi chờ mãi từ sẩm tối cho đến khuya đợi đến mắt díu lại buồn ngủ, nhưng họ vẫn khát khao, mong chờ. Bởi chuyến tàu nhộn nhịp mang hơi thở nhộn nhịp, tươi sáng ấy chính là một món quà của cuộc sống, giữa bộn bề cái khó khăn, đói khát mưu sinh.

Cái ánh sáng rực rỡ, lấp lánh mà đoàn tàu mang lại chính là tượng trưng cho niềm khát khao, nỗi hy vọng của những con người nơi đây. So sánh với nhiều tác phẩm văn học khác, ánh sáng cũng thường được nhiều tác giả tượng trưng cho niềm khát khao, hy vọng của con người trước những tối tăm, bất lực của cuộc đời.

Đơn cử như trong Chí Phèo của Nam Cao, cảnh Chí Phèo tỉnh dậy nhìn thấy ánh sáng lờ mờ lọt vào căn lều ẩm thấp của mình, khao khát được trở lại làm người lương thiện, được hạnh phúc của hắn đã trỗi dậy, hay trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, ánh sáng trên bếp lửa mà Mị vẫn thường hơ tay, hơ lưng cũng phản ánh những khao khát mãnh liệt trong tâm hồn Mị, và trong Vợ nhặt, nhân vật Tràng mua hai hào dầu về thắp lửa cho căn nhà sáng sủa lên trong đêm tân hôn cũng phản ánh cái khao khát, hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn của anh.

Tâm trạng của hai đứa trẻ cũng có nhiều những xao động, An còn nhỏ, cậu đợi tàu trong cái tâm trạng nôn nao háo hức, chuyến tàu đối với An đó chính là một món quà, thú vị, khơi gợi trong tâm hồn em những tưởng tượng phong phú. Chuyến tàu ấy đã thay thế, khỏa lấp đi những thiếu sót tuổi thơ em, bởi vì gia cảnh nghèo khó em không được có những món đồ chơi đẹp đẽ, không có những chuyến đến khu vui chơi, mà chỉ được quanh quẩn bên gian hàng nhỏ, nơi phố huyện mịt mù tăm tối.

Còn với Liên đoàn tàu lại mang nhiều ý nghĩa khác, mang đến cho cô bé mới lớn những xúc cảm tinh tế, “tâm hồn Liên Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm xúc mơ hồ khó hiểu”. Còn tàu gợi nhắc Liên về một thời quá vãng, đó là một cuộc sống nơi phố thị Hà Nội, đó là khi nhà Liên còn khá giả, Liên được thưởng thức những món quà vặt ngon miệng, được đi chơi đây đó, đâu đâu cũng là những ánh đèn sáng rực và lấp lánh.

Nhưng ngày đó đã quá xa và có lẽ cuộc đời Liên mãi phải chôn chân ở cái phố huyện nghèo nàn và tối tăm này, chuyến tàu càng giúp Liên nhận thức rõ hơn về cuộc sống bế tắc, nghèo khổ hiện tại của những con người nơi đây.

Thông điệp chính mà Thạch Lam muốn nhắn nhủ ở đây rằng dẫu cuộc sống có khốn khó, vất vả và bế tắc đến chừng nào thì con người ta vẫn không bao giờ được thôi khát vọng, thôi mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp và tươi sáng hơn. Những hy vọng, khát khao ấy vẫn luôn tiềm ẩn trong mỗi con người dù già hay trẻ và chúng được nuôi dưỡng bằng một tâm hồn lạc quan, yêu đời, bằng tình thương cảm, gắn kết những con người với nhau.

Dẫu có là cảnh tượng ngày tàn, chợ tàn hay những kiếp người tàn, thì chí ít vẫn có những tâm hồn non trẻ, những tâm hồn kiên cường như chị em Liên và những con người như bác Siêu, chị Tí, vợ chồng bác xẩm không tàn. Họ vẫn sống, vẫn lao động và cố gắng từng ngày, vẫn hằng hy vọng và mơ ước thoát khỏi cái cuộc đời tăm tối, u buồn nơi phố huyện mà tượng trưng chính là chuyến tàu Hà Nội về đầy ánh sáng rực rỡ, tươi vui.

Với văn phong viết truyện chậm rãi, lãng mạn, là truyện nhưng không có cốt truyện, Thạch Lam đã mang đến một tác phẩm rất đỗi tinh tế, với giọng điệu đầy tính nhạc và chất thơ êm đềm. Khắc họa rõ nét khung cảnh làng quê Việt Nam trước cách mạng, chất chứa những nỗi u buồn, khó nhọc, thông qua đó nhà văn bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc đối với cuộc sống của những con người quẩn quanh bế tắc.

Đồng thời trân trọng niềm hy vọng dẫu rất mong manh của họ về một cuộc sống tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn thông qua cảnh đợi tàu của chị em Liên và nhắn nhủ những thông điệp về tinh thần sống lạc quan của con người. Đó chính là bút pháp nhân đạo của nhà văn Thạch Lam trong những tác phẩm của mình.

Số 9: Phân tích cảnh đợi tàu trong Hai đứa trẻ

Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh sau đổi thành Nguyễn Tường Lân, sinh tại Hà Nội, trong một gia đình công chức gốc quan lại nhưng tuổi thơ gắn liền với quê ngoại ở phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Thạch Lam là một thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn cho dòng văn học lãng mạn. Thạch Lam là người đôn hậu và tinh tế, điều này ảnh hưởng rất lớn đến các sáng tác của ông.

Thành công nhất của Thạch Lam là ở thể loại truyện ngắn. Truyện ngắn của Thạch Lam thường không có cốt truyện mà chủ yếu khai thác thế giới nội tâm con người với những cảm xúc mong manh, mơ hồ, những rung động nhẹ nhàng. Truyện ngắn của ông có giọng điệu như bài thơ trữ tình đượm buồn với văn phong sáng sủa và giản dị thể hiện niềm yêu mến của nhà văn với con người và cảnh vật.

Các tác phẩm tiêu biểu: Tập truyện ngắn “Gió đầu mùa”, “Nắng trong vườn” và “Sợi tóc”; tiểu thuyết “Ngày mới”; tiểu luận và phê bình “Theo dòng”; tùy bút “Hà Nội băm sáu phố phường”.

Tác phẩm “Hai đứa trẻ” là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, in trong tập “Nắng trong vườn” (1938). Cũng như nhiều truyện ngắn khác của ông, “Hai đứa trẻ” có sự hòa quyện hai yếu tố hiện thực và trữ tình lãng mạn.

Tác phẩm vừa có giá trị hiện thực cao vừa thấm đượm một giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua truyện ngắn này, nhà văn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc, thông cảm và xót thương vô hạn với những người nghèo khổ, khao khát một sự đổi thay đến với cuộc đời của họ. Đồng thời, tác phẩm cũng thể hiện một tài năng viết truyện ngắn bậc thầy của Thạch Lam.

Đây là một truyện ngắn có cốt truyện đơn giản, một kiểu truyện ngắn trữ tình có nhiều chi tiết ngỡ như là vụn vặt, vô nghĩa nhưng thực ra đó chính là sự chọn lọc và sự sắp xếp một cách chặt chẽ để diễn tả tâm trạng nhân vật. Qua đó tác giả gửi gắm những tâm tình một cách kín đáo, nhẹ nhàng nhưng không kém phần thấm thía tư tưởng nhân đạo đáng quý.

Con người tự muôn đời nay luôn luôn sống trong khao khát và hi vọng những gì tươi sáng hơn dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Sống giữa phố huyện nghèo đầy bóng tối nhưng chị em Liên cũng như chừng ấy người nơi phố huyện vẫn luôn “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”.

Đó chính là lí do khiến chị em Liên đêm đêm vẫn cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua bởi chuyến tàu chỉ vụt qua nhưng đã mang đến cho họ một thế giới khác hẳn vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa trong gian hàng bác Siêu chứ không đơn thuần là vâng lời mẹ dặn để có thể bán thêm một ít hàng bởi “họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng”.

Bởi lẽ đó mà Liên “dù buồn ngủ ríu cả mắt vẫn cố thức”, còn An “đã nằm xuống, mi mắt sắp sửa rơi xuống vẫn không quên dặn chị “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”.

Có lẽ bởi vậy mà chuyến tàu được nhà văn tập trung bút lực miêu tả một cách tỉ mỉ theo trình tự thời gian, qua tâm trạng của hai chị em Liên và An. Khi đêm đã về khuya, Liên vẫn thao thức không ngủ cho tới lúc “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”. Liên đã reo lên “Dậy đi, An.

Tàu đến rồi”. Chuyến tàu chỉ dừng lại trong giây lát rồi đi vào đêm tối mênh mông giống như một ánh sao băng lấp lánh bất chợt bay qua nền trời rồi vụt tắt, mang theo bao ước mơ và hoài bão đi tới nơi nào chẳng rõ vậy nên hai chị em Liên “vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất hẳn sau rặng tre”.

Chuyến tàu đêm nay không đông và kém sáng hơn mọi ngày nhưng Liên vẫn “lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”.

Đó là hình ảnh của Hà Nội trong kí ức tuổi thơ, Hà Nội của những kỉ niệm đẹp mà bấy lâu nay chị em Liên vẫn tha thiết hướng về dù chỉ trong giây lát “theo dòng mơ tưởng”. Phải chăng những kỉ niệm tươi sáng thường in đậm và khắc sâu trong tâm hồn tuổi thơ giống như một chiếc gối êm đềm ru ta vào giấc ngủ dịu êm dù thực tại có phũ phàng hay ảm đạm.

Xa Hà Nội đã lâu rồi nhưng chị em Liên vẫn “nhớ như in” những lần “đi chơi bờ hồ được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ, ăn những thức ăn ngon lạ”. Họ nhớ như in “một vùng sáng rực và lấp lánh” dù hiện tại với hai em mùi phở của bác Siêu thật hấp dẫn nhưng “quá xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được”. Tuy vậy, nó cứ gợi nhớ mùi thơm của hồi nào… Hình ảnh chuyến tàu đêm là kí ức đẹp của tuổi thơ một thời nhớ lại trong tiếc nuối. Chuyến tàu càng sáng rực, vui vẻ thì Liên càng ý thức rõ hơn cảnh sống tăm tối, buồn tẻ và chìm lặng của phố huyện nghèo.

Đoàn tàu đi rồi, đêm tối vẫn “bao bọc chung quanh”. Liên gối đầu lên tay và nhắm mắt lại để “hình ảnh thế giới xung quanh mình mờ mờ đi trong mắt chị”. Đó là lúc thấm thía sâu sắc nỗi buồn về một cuộc sống mòn mỏi, quẩn quanh không thể đổi thay, Liên “thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”. Đó là hình ảnh gây ấn tượng day dứt buồn cuối cùng đi vào giấc ngủ của cô bé Liên.

Nhưng đâu chỉ buồn và tiếc nuối, hai chị em Liên còn hồi hộp vui sướng khi tàu về như “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn đến với cuộc sống nghèo khổ thường ngày của họ”.

Cuộc sống hiện tại xung quanh Liên thật buồn tẻ, chuyến tàu từ Hà Nội về như đã đem lại một chút thế giới khác đi qua phố huyện nghèo. Bởi vậy, khi tàu về rồi “khuất dần sau rặng tre” mà Liên vẫn cứ “lặng theo mơ tưởng”. Dường như Liên đang ấp ủ trong lòng một khát khao thay đổi cuộc sống của hiện tại vẫn le lói một niềm hi vọng rồi một ngày nào đó được trở lại cuộc sống tươi sáng của ngày xưa như khi còn ở Hà Nội.

Trong ý nghĩ hồn nhiên, non nớt và tội nghiệp của Liên, Hà Nội là một thiên đường ở trong mơ. Nhìn theo đoàn tàu đang xa dần, xa dần trong lòng Liên cứ rộn lên những bồi hồi, xao xuyến, ánh mắt của Liên cứ đắm chìm vào cõi mơ tưởng. Liên nghĩ về quá khứ, nghĩ về tương lai và hiện tại. Quá khứ tuổi thơ tươi sáng qua lâu rồi, tương lai thì mờ mịt mong manh còn hiện tại thì đầy bóng tối

Những trạng thái tâm trạng ấy thật mơ hồ, mong manh mà chỉ có một tâm hồn nhạy cảm cùng với một tấm lòng nhân hậu của Thạch Lam mới có thể phát hiện và thể hiện được. Với chị em Liên, chuyến tàu từ Hà Nội về không chỉ là kí ức mà còn là hình ảnh của một tương lai tuy mơ hồ nhưng đẹp như một giấc mơ trong truyện cổ tích thần kì. Nó như một ảo ảnh vụt sáng lên rồi tắt dần, xa dần trong tâm trạng tiếc nuối của cô bé Liên. Nhưng dẫu sao nó vẫn là niềm vui, một niềm an ủi làm vơi đi mọi tẻ nhạt, buồn chán của hiện tại để hai chị em Liên đi vào giấc ngủ sau một ngày dài đầy buồn tẻ.

Không một chi tiết éo le, truyện Hai đứa trẻ chỉ xoay quanh tâm trạng hồi hộp, khắc khoải đợi tàu trong đêm của chị em Liên. Bắt đầu từ tiếng trống thu không, thời gian cứ trôi qua theo sự xuất hiện từng mảnh đời tàn tạ của phố huyện nghèo, người đọc bỗng nhận ra trong tiếng reo “Dậy đi, An. Tàu đến rồi” là tình cảm bùi ngùi thương cảm của nhà văn dành cho những con người nhỏ bé, tội nghiệp như bị chôn vùi trong cuộc sống leo lét vô nghĩa trong xã hội cũ trước cách mạng. Còn gì thương cảm hơn khi niềm vui, niềm an ủi và ước mơ, hi vọng của họ chỉ là một chuyến tàu đêm từ Hà Nội về vụt qua trong giây lát.

Trang sách cuối cùng khép lại mà tâm trạng thức đợi tàu của chị em Liên cứ ám ảnh, cứ vấn vương ta hoài cứ như thầm thì nói hộ Thạch Lam: có những cuộc đời mới đáng thương và tội nghiệp làm sao nhưng cũng thật cảm động và đáng trân trọng biết bao khi họ vẫn vượt lên mọi tối tăm, lầm than trong hiện thực để ước mơ và hi vọng, để không mất đi niềm tin vào cuộc sống có chút ánh sáng trong tương lai. Ngày lại ngày, đêm lại đêm, Liên vẫn cố thức đợi tàu là những nỗ lực vừa cụ thể vừa mơ hồ muốn thoát ra khỏi hiện tại. Niềm tin và ước vọng ấy tuy mong manh nhưng tha thiết vô cùng trong tâm hồn hai đứa trẻ.

Qua đó, ta nhận ra một tiếng kêu thổn thức trong trái tim của Thạch Lam. Cần phải thay đổi thế giới tăm tối này, cần phải đem đến cho con người nhất là trẻ thơ một cuộc sống hạnh phúc. Phải chăng hình ảnh hai chị em Liên cũng là hình ảnh của hai chị em cậu bé Vinh (tên hồi nhỏ của nhà văn Thạch Lam) ngày nào trên một phố huyện nghèo nay đã lùi sâu vào dĩ vãng của ông.

Là một truyện ngắn không có cốt truyện, đặc biệt nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới nội tâm của hai đứa trẻ, đó là những biến thái mơ hồ, mong manh trong tâm trạng hai đứa trẻ nhưng đã được cảm nhận và thể hiện thật tinh tế trong lối viết văn mềm mại, trong sáng, giàu hình ảnh và nhạc điệu.

Chỉ một âm thanh “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại trong đêm kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi” cũng đủ để ta hình dung ra cô bé Liên đang sống trong mơ tưởng. Đó là âm thanh của chờ đợi và hi vọng nhưng cũng là dư âm của tiếc nuối.

Đặc biệt là hình ảnh chuyến tàu đêm đi qua phố huyện vừa như là niềm tiếc nuối một quá khứ tươi sáng đã mất vừa là niềm an ủi vỗ về đối với hiện tại nhưng nó lại vừa gióng lên một cái gì tươi sáng ở tương lai. Vì thế chuyến tàu đêm được coi là một “nhãn tự” của bài thơ trữ tình đượm buồn này.

Đọc truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta có cảm giác như được đọc một “bài thơ trữ tình đượm buồn” bởi qua tâm trạng đợi tàu của hai chị em Liên ta rất dễ nhận ra một tiếng nói trữ tình thầm kín, nhẹ nhàng nhưng thấm thía vô cùng trong lòng người đọc.

Bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam
Bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Số 10: Phân tích Hai đứa trẻ cảnh đợi tàu

Dù chỉ hiện ra trên văn đàn vẻn vẹn có 5 năm nhưng mà Thạch Lam sớm khẳng định là 1 cây bút truyện ngắn lạ mắt. Sinh tiền, ông từng quan niệm “Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, lẩn khuất khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm ẩn ở mọi vật phổ biến. Công tác của nhà văn là phát xuất hiện cái đẹp ở những chỗ ko nào ngờ đến, tìm cái đẹp bí ẩn và che giấu của sự vật để cho người đọc trông nhìn và thưởng thức”. Rút ra từ tập truyện ngắn “Nắng trong vườn”, 2 đứa trẻ là truyện ngắn điển hình cho cá tính lạ mắt ko trộn lẫn của Thạch Lam. Tới với “2 đứa trẻ”, bạn đọc người nào người nào cũng thấy cảnh đợi tàu là sự kiện điển hình nơi ngòi bút của Thạch Lam thăng hoa

Tuy là thành viên của nhóm Tự Lực Văn Đoàn và là em ruột của Nhất Linh, Hoàng Đạo nhưng mà sáng tác của Thạch Lam đi theo hướng riêng khá mới mẻ. Ông dành tình cảm, tấm lòng xót thương cho những lớp người nghèo trong xã hội thời bấy giờ. Ngòi bút của Thạch Lam thường đi vào những tình trạng xúc cảm mơ hồ, tinh tế của con người. “2 đứa trẻ” là truyện ngắn ko có tình tiết.

Toàn thể câu chuyện diễn ra như 1 thước phim chậm rì rì về 1 phố huyện nghèo bao quanh chị em Liên vào 1 buổi chiều tối mùa hè. Ko có thắt nút, ko có mở nút nhưng mà truyện ngắn dễ ợt đi vào tâm não người đọc bởi 1 nỗi buồn sâu lắng nhưng mà rất đẹp – vẻ đẹp của 1 cuộc sống tầm thường được Thạch Lam khám phá ra. Đặc trưng nhất là cảnh đợi tàu trong truyện ngắn.

Dù buồn ngủ díu cả mắt nhưng mà đêm nào, Liên cà An cũng cố thức đợi chuyến tàu khuya từ Hà Nội về. Vì sao vậy? Để bán hàng theo lời mẹ dặn? Hoàn toàn chẳng phải vậy. 2 chị em Liên cố thức chẳng phải để mở hàng đón khách như bao người giao thương khác trên sân ga, ngược lại 2 chị em đóng shop, chờ tàu là vì cớ khác. Vậy thìa là gì? Phải chăng vì 2 chị em muốn được nhận ra chuyến tàu – sự hoạt động  của đêm khuya.

Có nhẽ vậy, và cũng bởi vì con tàu như đem 1 toàn cầu khác đi qua, 1 toàn cầu khác hẳn với vầng sáng ngọn đèn của chị Tý và ánh lửa của bác Siêu. Phố huyện chìm trong màn đêm hôm tăm, lụi tàn, nghèo khổ, mỏi mòn thì con tàu như đem 1 toàn cầu sáng rực, giàu có, vui vẻ và huyên náo.

Vì con tàu như đem 1 toàn cầu khác đi qua, chị em Liên âm thầm đón đợi tàu với bao cảm xúc vừa bâng khuâng, mơ hồ, vừa bồn chồn, hào hứng. Chị em Liên đón đợi chuyến tàu như đón đợi khoảnh khắc giao thừa thiêng liêng mỗi lúc Tết tới, xuân về. Cậu nhỏ An buồn ngủ, mí mắt sắp sửa rơi nhưng mà vẫn còn dặn chị: “Tàu tới, chị gọi em thức dậy nhé!”. Còn Liên ngồi yên ko cựa quậy ngắm sao trời nhấp nhánh và hoa bàng khẽ rơi, tâm hồn Liên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ, ko hiểu. Chừng như cô nhỏ đã hoàn toàn bứt mình ra khỏi cuộc sống mưu sinh cùng cực để đắm vào toàn cầu thần tiên, mơ mộng.

Nhận ra ánh đèn ghi từ xa, nghe tiếng còi vọng lại, Liên đã vội đánh thức em dậy: “Dậy đi, An. Tàu tới rồi!”. Lời gọi đầy giục giã, hối thúc vang lên như tiếng reo vui hồ hởi. Rồi tiếng còi rít lên, tàu rần rộ đi đến, cả phố huyện bừng lên, sáng đặc sắc, nhộn nhịp, cao sang, Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua. 2 chị em hào hứng muốn hòa mình vào toàn cầu đông vui náo nhiệt đấy.

Càng hào hứng bao lăm, 2 đứa trẻ càng ngơ ngẩn lúc thấy tàu vượt qua bấy nhiêu. Chuyến tàu đi vào đêm hôm, 2 chị em vẫn nhìn theo cái chấm bé của chiếc đèn xanh trên toa sau cuối rồi ra xa mãi, khuất sau rặng tre. Con tàu từ Hà Nội về đích thực đã hút hồn chị em Liên. Tàu qua, An băn khoăn nghĩ ngợi; “Tàu bữa nay ko đông chị nhỉ?”.

Còn Liên thì mơ hồ lặng theo tơ tưởng. Dẫu chuyến tàu ko vui như mọi lúc, thưa vắng người qua lại và dường như kém sáng hơn tầm thường nhưng mà cô nhỏ vẫn hoan hỉ vui sướng bởi con tàu ở Hà Nội về. Con tàu đã đưa Liên trở về tuổi thơ êm ả, thời dĩ vãng ngọt ngào của tuổi thần tiên, cùng lúc thức dậy trong cô nhỏ, niềm tin vào 1 ngày mai tươi sáng.

Đêm nào, Liên và An cũng thao thức, bồn chồn đợi tàu. Trong con mắt của ko ít người, đấy là việc bâng quâng, ko đâu thậm chí lẩn thẩn, bất nghĩa. Thế nhưng mà với trái tim giàu lòng trắc ẩn, Thạch Lam đã phát xuất hiện những hàn ôn sâu kín, những khao khát lãng mạn của 2 chị em.

Đợi tàu trở thành 1 nếp sống, 1 nhu cầu ý thức chẳng thể thiếu. Đợi tàu để được trở về thời dĩ vãng dịu êm, ngọt ngào của tuổi hồn nhiên, thơ ngây. Đợi tàu để được cháy lên khát vọng mãnh liệt, mạnh bạo, táo tợn: khát vọng đổi đời.

Khát vọng đấy như mầm cây tươi non mọc lên trên vùng đất cỗi cằn, những ánh sao bé nhoi nhấp nhánh mãi trên bầu trời đen thẳm ko cùng. Qua việc tả cảnh đợi tàu, Thạch Lam trình bày thái độ vừa bi cảm xót xa trước cuộc sống lây lất, thất vọng của những kiếp người bé nhỏ, nhất là những đứa trẻ, vừa nâng niu vừa trân trọng, khát vọng vươn ra ánh sáng, khát vọng đổi đời của những con người đấy.

Từ cuộc sống của con người nơi phố huyện, trang văn của Thạch Lam còn rung lên ngôn ngữ khẩn thiết có sức lay tỉnh xâu xa trong tâm hồn người đọc: Hãy cứu lấy những đứa trẻ! Hãy chỉnh sửa cuộc sống thất vọng này đi!. Làm thế nào để cho thơ dại được sống trong hi vọng giống như những chồi non xanh tươi căng sức sống trên cành nhưng mà chẳng phải chỉ còn đó rồi tàn lụi đi trong miền đất chết.

Truyện ngắn “2 đứa trẻ” sống động, sinh động, giàu trị giá hiện thực nhưng mà thấm đẫm xúc cảm nhân bản cao quý, dào dạt chất thơ lãng mạn. Đọc “2 đứa trẻ” của Thạch Lam ta bất giác nhớ tới “Cô nhỏ bán diêm” của An-đéc-xen. Họ là 2 nhà văn thuộc về 2 quốc gia, 2 thời đại không giống nhau nhưng mà cùng đồng điệu trong ngôn ngữ mến thương nhân bản vì thơ dại.

Cảnh đợi tàu cũng là cảnh khép lại thiên truyện vừa nhẹ nhõm, lắng đọng của Thạch Lam. Đấy là 1 cảnh tượng sẽ ám ảnh mãi trong tâm não người đọc. Khép lại tác phẩm, ta vẫn thấy bận rộn vô hạn về 1 tấm lòng quê hương ấm áp nhưng mà sâu kín, về những tình cảm trắc ẩn bình dị nhưng mà sâu xa. “2 đứa trẻ” đích thực đã xong xuôi sứ mạng của văn học chân chính lúc khêu gợi của người đọc tình cảm trắng trong và giàu ý nghĩa nhân bản.

Số 11: Hai đứa trẻ phân tích cảnh đợi tàu

Có lần nhà văn Thạch Lam từng nói rằng: “Cái đẹp man mác trong vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật”. Niềm khát khao truy tìm những cái đẹp lẩn khuất tiềm tàng khắp ở những con người, sự vật, sự việc tầm thường như thế đã tiếp thêm sức mạnh trên con đường nghệ thuật cho nhà văn, giúp ông sáng tác thành công tác phẩm Hai đứa trẻ, áng văn xuôi đặc sắc của văn học Việt Nam trước cách mạng. Đặc biệt là cảnh đợi chuyến tàu đêm của hai chị em Liên chính là nơi kết tinh những tư tưởng nghệ thuật sâu sắc và tiến bộ của Thạch Lam với ngòi bút nhân đạo, trữ tình.

Chuyến tàu đêm chủ yếu hiện lên qua cái nhìn và cảm nhận, qua niềm khát khao, mong đợi của Liên. Trong câu chuyện Thạch Lam đã tinh tế gài vào những chi tiết rất nhỏ, nhưng rất có ý nghĩa, qua đó thể hiện niềm khát khao về chuyến tàu qua phố huyện của Liên nó sâu sắc, thiết tha và mãnh liệt đến nhường nào. Dù trời đã rất khuya, “An và Liên đã buồn ngủ đến ríu cả mắt”, nhưng hai chị em vẫn cố gắng thức để chờ tàu, không phải là để bán thêm được chút hàng như lời mẹ Liên dặn, mà bởi vì đợi chuyến tàu cuối cùng của đêm.

Sự mong chờ mạnh mẽ của Liên với chuyến tàu có mối liên hệ mật thiết đến cái ý thức sâu sắc của Liên về cuộc sống cơ cực, nghèo khó và tối tăm nơi phố huyện, đồng thời qua chuyến tàu đêm Liên còn nhận thức rõ được một cuộc sống khác hẳn với cái nơi mà Liên và An đang sống. Tâm trạng của nhân vật Liên được Thạch Lam miêu tả một cách tinh tế, khi tàu chưa đến cô bé khát khao mong đợi chuyến tàu từ xa, hồi hộp vui sướng khi chuyến tàu đến, rồi cuối cùng là buồn bã thất vọng khi chuyến tàu đi xa.

Chuyến tàu hiện lên qua cảm nhận của Liên từ xa đến gần rồi xa mãi, con tàu còn hiện lên chủ yếu qua phương diện âm thanh, ánh sáng và cuộc sống trên tàu. Trước hết về ánh sáng, từ xa xa bác Siêu với ánh mắt trông mong đã kịp nhận ra và reo lên vui mừng “Đèn ghi đã ra kia rồi”, đánh động đến những cảm nhận của Liên, trong tầm mắt Liên đó là những “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi” , đầy sức quyến rũ, vẫy gọi đối với tâm hồn tươi trẻ của chị em Liên, sau đó cũng từ xa Liên cũng nhìn thấy “làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa”.

Càng đến gần thì ánh sáng của con tàu càng rực rỡ, lộng lẫy và tươi tắn, “các toa đèn sáng trưng, chiếu cả xuống đường”, “đồng và kền lấp lánh”, “các cửa kính sáng”. Tất cả những thứ ánh sáng ấy đều mạnh mẽ khác hẳn với ánh sáng nơi phố huyện, tù mù, tối tăm từ cái đèn dầu của chị Tí, bếp lửa của bác Siêu, ánh đom đóm, ánh sáng từ cánh cửa khép hờ,…

Khác hẳn với cái ánh sáng leo lét, yếu ớt, mong manh, tội nghiệp nơi phố huyện của chị em Liên, cái ánh sáng mà dường như bị màn đêm nuốt chửng không chừng. Tuy nhiên cái ánh sáng mạnh mẽ, đầy mơ ước ấy nó không ở lại lâu với chị em Liên mà chỉ thoáng qua trong chốc lát rồi vụt tắt hẳn, cái nó để lại chính là sự nuối tiếc, hụt hẫng là bóng tối bao trùm, yên lặng đến cùng cực.

Hình ảnh “đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”, “hai chị em còn cố trông theo cái chấm nhỏ của ngọn đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất theo rặng tre” là những chi tiết có sức ám ảnh mạnh mẽ đối với người đọc, ánh mắt của hay đứa trẻ là cái nhìn đầy nuối tiếc vừa như muốn níu giữ lại vừa như muốn đi theo con tàu đêm ấy, thoát khỏi cái phố huyện nghèo nàn này.

Chuyến tàu đêm còn hiện lên qua những âm thanh tinh tế và đặc sắc trong cảm nhận của Liên, ngay từ khi ở rất xa âm thanh của con tàu cũng đầy sức hấp dẫn với tâm hồn thơ trẻ của Liên, “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại kéo dài ra trong gió xa xôi”, âm thanh còn khá mơ hồ nhưng mạnh mẽ, phá tan cái yên tĩnh u buồn nơi phố huyện, xuyên qua bóng tối mang về cho phố huyện một xúc cảm khác hẳn.

Thứ âm thanh ấy khác hẳn với những tiếng trống thu không, tiếng trống cầm canh khô khan, ngắn ngủi rồi chìm luôn vào bóng tối, không thể nào thoát ra nổi cái u buồn tịch mịch nơi làng quê nghèo đói. Càng đến gần âm thanh của chuyến tàu đêm càng mạnh mẽ, càng náo nức “hai chị em chờ không lâu, tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới”, “tiếng dồn dập”, tiếng bánh xe “rít mạnh vào ghi”. m thanh khuấy động cả phố huyện tăm tối, khác hẳn với những âm thanh nhỏ bé, buồn tẻ của phố huyện như tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch nhái, tiếng chó sủa đêm.

Nhưng cũng giống như ánh sáng, những âm thanh của con tàu cũng theo nhịp bánh của con tàu rồi mất hút ở phía xa “tiếng vang động của xe hỏa nhỏ rồi, và mất dần trong bóng tối, lắng tai cũng không nghe thấy nữa”, sự biến mất của âm thanh cũng như ánh sáng để lại trong lòng chị em Liên những niềm nuối tiếc sâu sắc.

Cuộc sống trên tàu hiện lên qua bút pháp miêu tả của Thạch Lam và qua những cảm nhận tinh tế của Liên, dẫu rằng chỉ khi con tàu đến gần Liên mới có thể nhìn thấy một chút cuộc sống trên tàu “Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người”, “đồng và kền lấp lánh”, “các cửa kính sáng”.

Liên chỉ chú ý những khoang hạng sang, bởi chỉ có cuộc sống trên ấy nó mới khác hẳn, giàu có, sung túc, sang trọng, tươi sáng như những gì mà Liên vẫn thường mơ về, không như cuộc sống tối tăm, nghèo nàn nơi phố huyện.

Như vậy về mọi phương diện, âm thanh, ánh sáng, cuộc sống trên tàu thì có thể nhận thấy rằng thế giới mà con tàu mang theo là một thế giới khác hẳn với phố huyện, chính vì vậy cho nên chuyến tàu đêm mới trở thành niềm khát khao, hy vọng của chị em Liên và những người dân nơi đây.

Không chỉ khác với phố huyện, chuyến tàu đêm còn khác với chính nó trong những đêm trước đó “chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng hơn”, gợi nỗi buồn, nỗi thất vọng, nhưng vẫn không không dập tắt được niềm khao khát mãnh liệt của Liên. Liên vẫn kiên trì lặng người theo mơ tưởng “nhưng họ ở Hà Nội về”, đưa Liên về những ký ức về một “Hà Nội xa xăm sáng rực, vui vẻ và huyên náo”.

Cuối cùng, cái đích chính của những khát khao mong đợi chính là “con tàu mang một chút thế giới khác đi qua”, con tàu chính là sứ giả của một thế giới khác, và Hà Nội chính là hiện thân cụ thể của thế giới ấy.

Niềm khát khao mong đợi chuyến tàu đêm, cũng là niềm khát khao mong đợi về một thế giới khác hẳn với cái thế giới mình đang sống, niềm khát khao về một thế giới tươi sáng, tốt đẹp, đủ đầy, đưa chị em Liên ra khỏi cuộc sống tù túng bó hẹp trong cái phố huyện nghèo nàn, chán nản với những ngày tàn, chợ tàn và những kiếp người tàn. Đó là khát vọng đổi đời, dẫu còn mơ hồ nhưng lại vô cùng sâu sắc, thiết tha và mãnh liệt, của những con người giai đoạn tháng tám, ám ảnh hầu hết các nhà văn lúc bấy giờ.

Nhưng qua cảm nhận của Liên con tàu cũng chạy nhanh quá, nó mang đi theo hết những ánh sáng rực rỡ, âm thanh náo nức, cuộc sống tốt đẹp đi về phía xa để lại chị em Liên trong bóng tối, trong sự tĩnh lặng, trong sự nghèo khổ cơ cực của phố huyện. Con tàu tượng trưng cho sự vỡ mộng, nỗi thất vọng dấy lên từ một ước mơ mỏng manh, quá xa vời khó có thể trở thành hiện thực.

Chuyến tàu đi qua, trả lại một phố huyện yên lặng, thậm chí còn tăm tối, u buồn hơn, để lại trong tâm hồn Liên những khoảng trống mênh mang mơ hồ. Từ đó nhà văn Thạch Lam muốn gửi đến độc giả một thông điệp thật ý nghĩa rằng để có một cuộc sống tươi đẹp, sung túc thì việc khát khao, mơ ước mãnh liệt là chưa đủ mà con người ta cần phải có những hành động thực tế, những nỗ lực thay đổi cuộc sống, nếu không ước mơ dẫu có đẹp đến mấy thì cũng mãi chỉ nằm trong tưởng tượng.

Niềm khát khao mong đợi chuyến tàu đêm, Liên chuyển hướng tâm hồn mình về một Hà Nội xa xăm, nơi mà Liên đã từng có cuộc sống ấm no sung túc, gợi nhắc cô về một thời quá vãng xa xăm, về những ký ức tươi đẹp của tuổi thơ đã mất. Song hành với những nuối tiếc quá khứ, thì chuyến tàu đêm lại càng khiến Liên phải ý thức rõ ràng hơn về cuộc sống u ám, bế tắc của người dân nơi phố huyện và của chính gia đình Liên nữa.

Trong tác phẩm Hai đứa trẻ Thạch Lam đã đi sâu vào khai thác tâm hồn của nhân vật, của những đứa trẻ nghèo khổ, ý thức sâu sắc về cuộc sống cơ cực nghèo khổ, là những cảm nhận tinh tế về bức tranh thiên nhiên làng quê Việt Nam, là nỗi xót xa ái ngại trước những mảnh đời tàn.

Qua đó nhà văn thể hiện thái độ trân trọng những khát khao, hy vọng của con người về một cuộc sống tốt đẹp hơn, đồng thời cũng truyền tải một thông điệp rằng muốn thay đổi cuộc sống thì chỉ có khát khao, mong đợi thì không bao giờ là đủ, mà còn phải có cả hành động thực tế biến ước mơ thành hiện thực.

Về nghệ thuật Thạch Lam đã thành công trong việc miêu tả những cung bậc cảm xúc khác biệt trong tâm hồn của nhân vật Liên, văn phong trữ tình, lãng mạn, sáng tạo nhiều hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng, kết hợp với phong cách viết truyện mà không có cốt truyện đã làm nên thành công lớn cho cả tác phẩm.

Số 12: Phân tích cảnh đợi tàu trong truyện Hai đứa trẻ

Thạch Lam nhà nhà văn với nhiều câu chuyện trữ tình, đi sâu vào lòng người. Chỉ khi phân tích cảnh đợi tàu, bạn mới thấy ý nghĩa của cốt truyện, mà tác giả truyền đạt. Tác phẩm “hai đứa trẻ” là sự nhạy cảm của Thạch lam trước cảnh vật, làng quê nghèo và lòng người. Tác giả không đề cập đến những biến cố, mà hầu hết là tình cảm, và chiều sâu tâm trạng. Cảnh chờ tàu của Liên và An được Thạch Lam miêu tả chi tiết, tinh vi từng cảm xúc một.

Hai chị em Liên đợi tàu bởi vì “Mẹ vẫn dặn phải thức đến khi tàu xuống – Ðường sắt đi ngang qua ngay trước mặt phố – để bán hàng, may ra còn có một vài người mua”. Tuy nhiên, lý do mà chị em Liên đợi vì đoàn tàu đến mang theo ánh sáng, người đông đúc của chốn đô thị. Bán hàng lúc tàu đến chỉ ít ỏi, “với lại đêm họ chỉ mua bao diêm, hai gói thuốc là cùng”. Liên và An dù rất buồn ngủ, chỉ ngồi trong bóng tối nhưng vẫn cố gắng đợi tàu đến.

Liên đợi chuyến tàu đêm như là một việc làm cuối cùng của ngày, lúc tối muộn. Thực chất, Liên chỉ muốn thay đổi không khí của một ngày buồn bã, ảm đạm, đoàn tàu mang sự vui nhộn tới. Không chỉ Liên, An cũng vậy, hầu hết các đứa trẻ ở quê nghèo đều đợi tàu đến.

Qua đây chúng ta thấy Liên là người chị mẫu mực. Trước khi tàu đến, An buồn ngủ, “mí mắt sắp sửa rơi xuống”. Tuy nhiên, em vẫn cố dặn chị Liên “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Liên ngồi im ỉm trong bóng đêm và mong ngóng, tập trung chờ đợi tàu. Hình ảnh “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi” là dấu hiệu quen thuộc báo tàu đến. Từ xa, Liên nghe được tiếng còi và đánh thức An dậy. Liên gọi An với tâm thế vội vàng, cuống quýt, giục giã, chỉ trễ 1 chút sẽ bị bỏ lỡ. An nhanh chóng dậy với động thái ngây thơ là “lấy tay dụi mắt” rất đáng yêu.

Liên và An vô cùng háo hức, đợi tàu đến như đang chờ một điều gì đó mới mẻ, tươi sáng hơn. Sau một ngày dài ảm đạm, đêm đến bóng tối bao phủ, đoàn tàu đến mang lại ánh sáng, hy vọng lớn. Khi tàu đến “Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Đoàn tàu “vụt qua” chỉ trong thời gian ngắn, ánh sáng bao phủ, 2 chị em chỉ kịp thoáng nhìn.

Đoàn tàu chỉ đi ngang, thoáng qua nhanh chóng, nhưng mang đến những điều khác biệt. Mỗi ngày 2 chị em đều chờ tàu, An còn hỏi “tàu hôm nay không đông, chị nhỉ?”. Câu hỏi thể hiện sự so sánh, chú ý kỹ, tập trung nhất mỗi khi tàu qua để nhìn hết được. Tuy nhiên, Liên không trả lời câu hỏi của An, cảm xúc của cô vẫn còn xao xuyến. Đoàn tàu làm Liên mơ về Hà Nội, nơi rất xa xăm, giàu sang, ánh sáng rực rỡ. Qua đó chúng ta thấy Liên càng thêm chán nản, ngán ngẩm cuộc sống của cô.

Đoàn tàu mang đến cho 2 chị em Liên hy vọng hơn về tương lai tốt đẹp, rực rỡ, vui tươi. 2 cô gái luôn mơ mộng về một cuộc sống mới năng động, vui sướng. Khi tàu đi “Tiếng vang động của xe hỏa đã nhỏ dần, và mất dần trong bóng tối, lắng tai cũng không nghe thấy nữa”. Liên và An lại trở về với nỗi buồn, tiếp tục hy vọng tàu đến vào ngày mai. Niềm vui, sự chờ đợi mỏi mòn của 2 chị em chỉ đến và đi trong nháy mắt.

Phố huyện lại im ắng, chìm trong màn đêm u tối, Liên và An đi vào giấc ngủ quên. Liên vẫn mang trong trình tâm trạng tiếc nuối, suy nghĩ lan man về cuộc sống hiện tại. Cảnh đợi tàu của 2 chị em liên nói riêng và hoàn cảnh của cả phố huyện nghèo nói chung giống nhau.

Cảnh đợi tàu của Liên và An có rất nhiều ý nghĩa, tác giả muốn nói về ước mơ của những người dân nghèo. Họ luôn khao khát, chờ đợi, mơ về một cuộc sống tốt, ý nghĩa hơn. Thạch Lam đã miêu tả rất lãng mạn. Đoàn tàu là điểm nhấn của cả một bài văn, làm cho tâm lí nhân vật thêm đa dạng.

Bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam
Bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Số 13: Phân tích cảnh đợi tàu của Hai đứa trẻ

Dù chỉ xuất hiện trên văn đàn vẻn vẹn có 5 năm nhưng Thạch Lam sớm khẳng định là một cây bút truyện ngắn độc đáo. Sinh thời, ông từng quan niệm ”Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, lẩn khuất khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở những chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật để cho người đọc trông nhìn và thưởng thức”. Rút ra từ tập truyện ngắn “Nắng trong vườn”, “Hai đứa trẻ” là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách độc đáo không trộn lẫn của Thạch Lam. Đến với “Hai đứa trẻ” độc giả ai ai cũng thấy cảnh đợi tàu là sự kiện tiêu biểu nơi ngòi bút của Thạch Lam thăng hoa.

Tuy là thành viên của nhóm Tự Lực Văn Đoàn và là em ruột của Nhất Linh, Hoàng Đạo nhưng sáng tác của Thạch Lam đi theo hướng riêng khá mới mẻ. Ông dành tình cảm, tấm lòng xót thương cho những lớp người nghèo trong xã hội thời bấy giờ. Ngòi bút của Thạch Lam thường đi vào những trạng thái cảm xúc mơ hồ, tinh tế của con người. “Hai đứa trẻ” là truyện ngắn không có truyện.

Toàn bộ câu chuyện diễn ra như một thước phim chậm rãi về một phố huyện nghèo xung quanh chị em Liên vào một buổi chiều tối mùa hè. Không có thắt nút, không có mở nút nhưng truyện ngắn dễ dàng đi vào tâm trí người đọc bởi một nỗi buồn sâu lắng mà rất đẹp – vẻ đẹp của một cuộc sống bình thường được Thạch Lam khám phá ra. Đặc biệt nhất là cảnh đợi tàu trong truyện ngắn.

Dù buồn ngủ ríu cả mắt nhưng đêm nào, Liên và An cũng cố thức đợi chuyến tàu khuya từ Hà Nội về. Tại sao vậy? Để bán hàng theo lời mẹ dặn? Hoàn toàn không phải vậy. Hai chị em Liên cố thức không phải để mở hàng đón khách như bao người buôn bán khác trên sân ga, trái lại hai chị em đóng cửa hàng, chờ tàu là vì cớ khác. Vậy thì là gì? Phải chăng vì hai chị em học muốn được nhìn thấy chuyến tàu – là sự hoạt động của cuối cùng của đêm khuya.

Có lẽ vậy, và cũng bởi vì con tàu như đem một thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn với vầng sáng ngọn đèn của chị Tý và ánh lửa của Bác Siêu. Phố huyện chìm trong màn đêm tối tăm, lụi tàn, nghèo nàn, mòn mỏi thì con tàu như đem một thế giới sáng rực, giàu sang, vui vẻ và huyên náo. Vì con tàu như đem một thế giới khác đi qua, chị em Liên lặng lẽ đón đợi tàu với bao xúc cảm vừa bâng khuâng, mơ hồ, vừa hồi hộp, háo hức.

Chị em Liên đón đợi chuyến tàu như đón đợi phút giây giao thừa thiêng liêng mỗi khi Tết đến, xuân về. Cậu bé An buồn ngủ, mí mắt sắp sửa rơi mà vẫn còn dặn chị: “Tàu đến, chị gọi em thức dậy nhé!”. Còn Liên ngồi yên không động đậy ngắm sao trời lấp lánh và hoa bàng khẽ rơi, tâm hồn Liên tỉnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ, không hiểu. Dường như cô bé đã hoàn toàn bứt mình ra khỏi cuộc sống mưu sinh cơ cực để đắm vào thế giới thần tiên, mộng mơ.

Nhìn thấy ánh đèn ghi từ xa, nghe tiếng còi vọng lại, Liên đã vội đánh thức em dậy: “Dậy đi, An. Tàu đến rồi!” Lời gọi đầy hối thúc, giục dã vang lên như tiếng reo vui hồ hởi. Rồi tiếng còi rít lên, tàu rầm rộ đi tới, cả phố huyện bừng lên, sáng rực rỡ, sôi động, sang trọng, Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua. Hai chị em háo hức muốn hòa mình vào thế giới đông vui náo nhiệt ấy.

Càng háo hức bao nhiêu, hai đứa trẻ càng ngẩn ngơ khi thấy tàu vượt qua bấy nhiêu. Chuyến tàu đi vào đêm tối, hai chị em vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng rồi ra xa mãi, khuất sau rặng tre. Con tàu từ Hà Nội về thực sự đã hút hồn chị em Liên. Tàu qua, An băn khoăn nghĩ ngợi; “Tàu hôm nay không đông chị nhỉ?”.

Còn Liên thì mơ hồ lặng theo mơ tưởng. Dẫu chuyến tàu không vui như mọi khi, thưa vắng người qua lại và hình như kém sáng hơn bình thường nhưng cô bé vẫn hân hoan vui sướng bởi con tàu ở Hà Nội về. Con tàu đã đưa Liên trở về tuổi thơ êm đềm, thời quá khứ ngọt ngào của tuổi thần tiên, đồng thời thức dậy trong cô bé, niềm tin vào một tương lai tươi sáng.

Đêm nào, Liên và An cũng thao thức, hồi hộp đợi tàu. Trong con mắt của không ít người, đó là việc bâng khuâng, không đâu thậm chí lẩn thẩn, vô nghĩa. Thế nhưng với trái tim giàu lòng trắc ẩn, Thạch Lam đã phát hiện ra những tâm sự sâu kín, những khát khao lãng mạn của hai chị em.

Đợi tàu trở thành một nếp sống, một nhu cầu tinh thần không thể thiếu. Đợi tàu để được trở về thời quá khứ dịu êm, ngọt ngào của tuổi hồn nhiên, ngây thơ. Đợi tàu để được cháy lên khát vọng mãnh liệt, mạnh mẽ, táo bạo: khát vọng đổi đời. Khát vọng ấy như mầm cây tươi non mọc lên trên vùng đất cằn cỗi, như ánh sao nhỏ nhoi lấp lánh mãi trên bầu trời đen thẳm không cùng.

Qua việc tả cảnh đợi tàu, Thạch Lam thể hiện thái độ vừa cảm thương xót xa trước cuộc sống lay lắt, bế tắc của những kiếp người nhỏ bé, nhất là những đứa trẻ, vừa nâng niu vừa trân trọng, khát vọng vươn ra ánh sáng, khát vọng đổi đời của những con người ấy.

Từ cuộc sống của con người nơi phố huyện, trang văn của Thạch Lam còn rung lên tiếng nói tha thiết có sức lay tỉnh sâu xa trong tâm hồn người đọc: Hãy cứu lấy những đứa trẻ! Hãy thay đổi cuộc sống bế tắc này đi!. Làm thế nào để cho trẻ thơ được sống trong hi vọng giống như những chồi non xanh biếc căng tràn nhựa sống trên cành mà không phải chỉ tồn tại rồi tài lụi đi trong miền đất chết.

Có thể thấy, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” chân thực, sinh động, giàu giá trị hiện thực mà thấm đẫm cảm xúc nhân văn cao quý, dào dạt chất thơ lãng mạn. Đọc “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam ta bất giác nhớ đến “Cô bé bán diêm” của An-đéc-xen. Họ là hai nhà văn thuộc về hai đất nước, hai thời đại khác nhau nhưng cùng đồng điệu trong tiếng nói yêu thương nhân văn vì trẻ thơ.

Cảnh đợi tàu cũng là cảnh khép lại thiên truyện vừa nhẹ nhàng, lắng đọng của Thạch Lam. Đó là một cảnh tượng sẽ ám ảnh mãi trong tâm trí người đọc. Khép lại tác phẩm, ta vẫn thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương ấm áp mà sâu kín, về những tình cảm trắc ẩn bình dị mà sâu xa. “Hai đứa trẻ” thực sự đã hoàn thành sứ mệnh của văn chương chân chính khi khơi gợi của người đọc tình cảm trong sáng và giàu ý nghĩa nhân văn.

Số 14: Cảnh đợi tàu trong tác phẩm Hai đứa trẻ

Dù chỉ xuất hiện trên văn đàn vẻn vẹn có 5 năm nhưng Thạch Lam sớm khẳng định là một cây bút truyện ngắn độc đáo. Sinh thời, ông từng quan niệm ”Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, lẩn khuất khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở những chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật để cho người đọc trông nhìn và thưởng thức”. Rút ra từ tập truyện ngắn “ Nắng trong vườn”, “ Hai đứa trẻ” là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách độc đáo không trộn lẫn của Thạch Lam. Đến với “Hai đứa trẻ” độc giả ai ai cũng thấy cảnh đợi tàu là sự kiện tiêu biểu nơi ngòi bút của Thạch Lam thăng hoa.

Tuy là thành viên của nhóm Tự Lực Văn Đoàn và là em ruột của Nhất Linh, Hoàng Đạo nhưng sáng tác của Thạch Lam đi theo hướng riêng khá mới mẻ. Ông dành tình cảm, tấm lòng xót thương cho những lớp người nghèo trong xã hội thời bấy giờ. Ngòi bút của Thạch Lam thường đi vào những trạng thái cảm xúc mơ hồ, tinh tế của con người. “Hai đứa trẻ” là truyện ngắn không có truyện.

Toàn bộ câu truyện diễn ra như một thước phim chậm dãi về một phố huyện nghèo xung quanh chị em Liên vào một buổi chiều tối mùa hè. Không có thắt nút, không có mở nút nhưng truyện ngắn dễ dàng đi vào tâm trí người đọc bởi một nỗi buồn sâu lắng mà rất đẹp – vẻ đẹp của một cuộc sống bình thường được Thạch Lam khám phá ra. Đặc biết nhất là cảnh đợi tàu trong truyện ngắn.

Dù buồn ngủ díu cả mắt nhưng đêm nào, Liên cà An cũng cố thức đợi chuyến tàu khuya từ Hà Nội về. Tại sao vậy? Để bán hàng theo lời mẹ dặn? Hoàn toàn không phải vậy. Hai chị em Liên cố thức không phải để mở hàng đón khách như bao người buôn bán khác trên sân ga, trái lại hai chị em đóng cửa hàng, chờ tàu là vì cớ khác.

Vậy thì là gì? Phải chăng vì hai chị em học muốn được nhìn thấy chuyến tàu – là sự hoạt động của cuối cùng của đêm khuya. Có lẽ vậy, và cũng bởi vì con tàu như đem một thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn với vầng sáng ngọn đèn của chị Tý và ánh lửa của Bác Siêu.

Phố huyện chìm trong màn đêm tối tăm, lụi tàn, nghèo nàn, mòn mỏi thì con tàu như đem một thế giới sáng rực, giàu sang, vui vẻ và huyên náo.Vì con tàu như đem một thế giới khác đi qua, chị em Liên lặng lẽ đón đợi tàu với bao xúc cảm vừa bâng khuâng, mơ hồ, vừa hồi hộp, háo hức. Chị em Liên đón đợi chuyến tàu như đón đợi phút giây giao thừa thiêng liêng mỗi khi Tết đến, xuân về.

Cậu bé An buồn ngủ, mí mắt sắp sửa rơi mà vẫn còn dặn chị: “ Tàu đến, chị gọi em thức dậy nhé!”. Còn Liên ngồi yên không động đậy ngắm sao trời lấp lánh và hoa bàng khẽ rơi, tâm hồn Liên tỉnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ, không hiểu. Dường như cô bé đã hoàn toàn bứt mình ra khỏi cuộc sống mưu sinh cơ cực để đắm vào thế giới thần tiên, mộng mơ.

Nhìn thấy ánh đèn ghi từ xa, nghe tiếng còi vọng lại, Liên đã vội đánh thức em dậy: “ Dậy đi, An. Tàu đến rồi!” Lời gọi đầy hối thúc, giục dã vang lên như tiếng reo vui hồ hởi. Rồi tiếng còi rít lên, tàu rầm rộ đi tới, cả phố huyện bừng lên, sáng rực rỡ, sôi động, sang trọng, Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua.

Hai chị em háo hức muồn hòa mình vào thế giới đông vui náo nhiệt ấy. Càng háo hức bao nhiêu, hai đứa trẻ càng ngẩn ngơ khi thấy tàu vượt qua bấy nhiêu. Chuyến tàu đi vào đêm tối, hai chị em vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng rồi ra xa mãi, khuất sau rặng tre. Con tàu từ Hà Nội về thực sự đã hút hồn chị em Liên. Tàu qua, An băn khoăn nghĩ ngợi; “Tàu hôm nay không đông chị nhỉ?”.

Còn Liên thì mơ hồ lặng theo mơ tưởng. Dẫu chuyến tàu không vui như mọi khi, thưa vắng người qua lại và hình như kém sáng hơn bình thường nhưng cô bé vẫn hân hoan vui sướng bởi con tàu ở Hà Nội về. Con tàu đã đưa Liên trở về tuổi thơ êm đềm, thời quá khứ ngọt ngào của tuổi thần tiên, đồng thời thức dậy trong cô bé, niềm tin vào một tương lai tươi sáng.

Đêm nào, Liên và An cũng thao thức, hồi hộp đợi tàu. Trong con mắt của không ít người, đó là việc bâng quâng, không đâu thậm chí lẩn thẩn, vô nghĩa. Thế nhưng với trái tim giàu lòng trắc ẩn, Thạch Lam đã phát hiện ra những tâm sự sâu kín, những khát khao lãng mạn của hai chị em.

Đợi tàu trở thành một nếp sống, một nhu cầu tinh thần không thể thiếu. Đợi tàu để được trở về thời quá khứ dịu êm, ngọt ngào của tuổi hồn nhiên, ngây thơ. Đợi tàu để được cháy lên khát vọng mãnh liệt, mạnh mẽ, táo bạo: khát vọng đổi đời. Khát vọng ấy như mầm cây tươi non mọc lên trên vùng đất cằn cỗi, như ánh sao nhỏ nhoi lấp lánh mãi trên bầu trời đen thẳm không cùng.

Qua việc tả cảnh đợi tàu, Thạch Lam thể hiện thái độ vừa cảm thương xót xa trước cuộc sống lay lắt, bế tắc của những kiếp người nhỏ bé, nhất là những đứa trẻ, vừa nâng niu vừa trân trọng, khát vọng vươn ra ánh sáng, khát vọng đổi đời của những con người ấy. Từ cuộc sống của con người nơi phố huyện, trang văn của Thạch Lam còn rung lên tiếng nói tha thiết có sức lay tỉnh sâu xa trong tâm hồn người đọc: Hãy cứu lấy những đứa trẻ! Hãy thay đổi cuộc sống bế tắc này đi!. Làm thế nào để cho trẻ thơ được sống trong hi vọng giống như những chồi non xanh biếc căng tràn nhựa sống trên cành mà không phải chỉ tồn tại rồi tài lụi đi trong miền đất chết.

Có thể thấy, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” chân thực, sinh động,, giàu giá trị hiện thực mà thấm đẫm cảm xúc nhân văn cao quý, dào dạt chất thơ lãng mạn. Đọc “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam ta bất giác nhớ đến “ Cô bé bán diêm” của An-đéc-xen. Họ là hai nhà văn thuộc về hai đất nước, hai thời đại khác nhau nhưng cùng đồng điệu trong tiếng nói yêu thương nhân văn vì trẻ thơ.

Cảnh đợi tàu cũng là cảnh khép lại thiên truyện vừa nhẹ nhàng, lắng đọng của Thạch Lam. Đó là một cảnh tượng sẽ ám ảnh mãi trong tâm chí người đọc. Khép lại tác phẩm, ta vẫn thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương ấm áp mà sâu kín, về những tình cảm trắc ẩn bình dị mà xâu xa. “Hai đứa trẻ” thực sự đã hoàn thành sứ mệnh của văn chương chân chính khi khơi gợi của người đọc tình cảm trong sáng và giàu ý nghĩa nhân văn.

Số 15: Phân tích cảnh đợi tàu trong Hai đứa trẻ

Thạch Lam là nhà văn lừng danh của văn chương lãng mạn những năm 1930 – 1945. Là 1 trong những cây bút của Tự lực văn đoàn, nhưng mà văn học của Thạch Lam ko quá xa vời thực tiễn như những cây bút trong nhóm. Nhưng văn học của ông nhẹ nhõm chất đời lãng mạn. Nổi trội nhất phải kể tới truyện ngắn “2 đứa trẻ”, câu chuyện hy vọng tàu của chị em Liên nơi phố huyện Hà Nội những năm tháng trước Cách mệnh. Thiên truyện ngắn tình tiết dễ dãi nhưng mà lại đọng lại những suy ngẫm thâm thúy đặc thù cảnh hy vọng tàu của 2 chị em Liên.

Truyện mở ra bằng tiếng trống thu ko, hoàng hôn dần buôn xuống nơi phố huyện hẻo lánh. Rồi ánh đèn leo teo hiện ra, cuộc sống con người quanh quẩn nơi phố huyện lúc màn đêm dần bao phủ. 2 chị em Liên ngồi lặng yên nhìn ngắm phố huyện, lòng đầy nghĩ suy. Trong nỗi nhớ về Hà Nội qua gánh phở bác Siêu, cũng là khi tàu sẵn sàng tới.

Tàu chưa tới, chị em Liên và những con người nơi phố huyện dù mỏi mệt nhưng mà vẫn ngắc ngoải, mong đợi điều gì đấy. Liên thấy “ tâm hồn yên tĩnh.” Cái yên tĩnh bình an, âm thầm trong quang cảnh đêm xuống. Rồi lúc tàu tới, từ xa “ ngọn lửa xanh tươi như trơi”, “tiếng còi xe lửa trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xăm”. Tàu tới gần, ánh sáng toả rạng 1 vùng. Đấy là ánh sáng của “ Ngọn đèn ghi” “ toa tàu đèn sáng trưng, chiếu xuống đường”, “người, đồng và kền nhấp nhánh”. Âm thanh văng vẳng trong ko gian tiếng ghi tàu mạnh bạo “tiếng dập dồn, tiếng xe rít mạnh vào ghi, kèm theo 1 làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp tới tiếng hành khách ầm ĩ khe khẽ.”

Đoàn tàu tới đem theo ánh sáng đặc sắc, sáng loà làm lu mờ mọi ánh đèn leo teo nơi phố huyện, bừng lên mạnh bạo. Ko chỉ mang theo ánh sáng nhưng mà tàu tới mang theo cả thứ âm thanh rộn ràng khác hẳn tiếng vo ve của muỗi trong hàng hay tiếng ếch nhái từ ngoài đồng ruộng xa. Bằng ngòi bút lãng mạn, văn pháp mô tả đối lập, Thạch Lam đã khắc hoạ nên 2 toàn cầu hoàn toàn dị biệt, đối lập để thấy rằng đoàn tàu tới mang theo mọi điều cuốn hút nhất.

Mà rồi đoàn tàu mau chóng vụt qua để lại bao nhớ tiếc, bùi ngùi. Đoàn tàu đi cuốn theo cả toàn cầu đặc sắc, vang động. Liên cảm thu được sự thiếu hụt về cả âm thanh và con người lúc đoàn tàu đi qua. Chừng như em đã gắn bó với nơi này từ rất lâu, ghi nhớ thâm thúy từng phút giây. Đoàn tàu đi qua trả lại cho phố huyện sự yên lặng. Đoàn tàu đi qua cũng là khi làm cho Liên lặng vào mơ hoài tưởng về Hà Nội, nhớ về những kỉ niệm ngọt ngào xa xăm. Em buồn thương cho ngày nay mịt mù, nhớ tiếc cho dĩ vãng hạnh phúc và tơ tưởng về 1 ngày mai.

Bằng những câu văn ngắt ngắn, liên hoàn Thạch Lam diễn đạt sinh động tâm cảnh bổi hổi, mang chút gì đấy vừa xót thương vừa hi vọng của đối tượng Liên. Liên như thấy mình “sống giữa bao sự xa xăm”. Hoàn thành truyện để lại trong lòng người đọc bao sự day dứt. Đoàn tàu tới mang theo ánh sáng nhấp nhánh, đặc sắc, mang theo âm thanh sinh động, văng vẳng. Mà nó thuộc về toàn cầu khác.

Toàn cầu chẳng phải của Liên của An hay cửa con người nơi phố huyện. Mà đoàn tàu đi qua lại nhen lên cho những con người nơi đây mong ước, khao khát về 1 ngày mai dù mịt mù nhưng mà họ không phải từ bỏ. Ngày nào họ cũng thức từ sáng tới đêm để đợi đoàn tàu đi qua, để mong ước về điều gì đấy xa xăm. Mà mong ước của họ ko mất tích nhưng mà âm ỉ hy vọng điều gì đấy làm bùng lên.

Truyện ngắn “2 đứa trẻ” khắc hoạ sinh động toàn cầu tâm hồn của những con người cùng khổ trong xã hội cũ trước những năm Cách mệnh diễn ra. Hình ảnh đoàn tàu chỉ hiện ra thoáng qua rồi vụt tắt mang theo ánh sáng, âm thanh, mong ước và khát vọng. Như 1 niềm xoa dịu 1 ước mong ko bao giờ tắt, 1 chút ánh sáng cho ao đời tù hãm, khuất tất miên man của những số mệnh hẩm hiu, xấu số nhưng mà vẫn hi vọng vào 1 tương lai tươi sáng hơn. Đấy cũng là thông điệp và tình thương của Thạch Lam dành cho những đối tượng.

Bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam
Bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Tổng kết

Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 15 mẫu phân tích cảnh đợi tàu của Hai đứa trẻ chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 11.

0/5 (0 Reviews)
Chúng tôi tạo ra Top10timkiem.vn nhằm mục đích cung cấp cho người đọc những thông tin, liệt kê một cách chi tiết nhất về mọi lĩnh vực trong cuộc sống.