Top 10 mẫu phân tích bức tranh thiên nhiên trong Chiều tối chi tiết nhất

271
Top 10 mẫu phân tích bức tranh thiên nhiên trong Chiều tối chi tiết nhất
Top 10 mẫu phân tích bức tranh thiên nhiên trong Chiều tối chi tiết nhất
4.7/5 - (15 votes)

Tổng hợp các bài mẫu phân tích bức tranh thiên nhiên trong Chiều tối của tác giả Hồ Chí Minh một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 10 mẫu phân tích bức tranh thiên nhiên trong Chiều tối chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Dàn ý bức tranh thiên nhiên trong Chiều tối

I. Mở bài

Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm

Người ta biết đến Hồ Chí Minh là một danh nhân văn hóa, một chính trị gia, nhà tư tưởng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam nhưng đồng thời cũng là một cây bút lớn của nền văn học dân tộc với nhiều tác phẩm thơ, văn xuôi đặc sắc.

“Nhật kí trong tù” là một tập thơ nổi tiếng của Bác, đọc các bài thơ, người đọc mường tượng ra những cái cảnh Bác gợi, những cái tình, cái cảm Bác gửi vào từng con chữ. Hoàn cảnh, suy nghĩ, tư tưởng của Người nhờ đó mà cũng được mọi người cảm thông, chia sẻ nhiều hơn. “Chiều tối” là một bài thơ vô cùng đặc sắc trích trong tập thơ này.

II. Thân bài

  1. Giới thiệu tác giả tác phẩm:

a) Tác giả: Hồ Chí Minh

Là một danh nhân văn hóa, nhà tư tưởng, chính trị gia nổi tiếng của dân tộc, đất nước Việt Nam.

Là nhà văn, nhà thơ với nhiều tác phẩm ấn tượng, nổi tiếng.

b)Tác phẩm:

Trích “Nhật kí trong tù”.

Hoàn cảnh sáng tác: khi Bác bị chuyển lao từ Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo.

  1. Phân tích bài thơ:

a) Hai câu đầu: Bức tranh núi rừng vào buổi chiều tối

Cảnh thiên nhiên được vẽ bằng những nét vẽ đậm: “chim” – “mỏi mệt bay”, “chòm mây” – “bay nhẹ”.

Bằng việc sử dụng thi liệu quen thuộc: “mây”, “chim”, ca dao, thơ lục bát, truyện Kiều – Nguyễn Du, tác giả đã vẽ cảnh bằng những nét chấm phá, tả ít gợi nhiều, gợi được cái hồn của cảnh, thời gian đang trôi về cuối ngày theo cánh chim, không gian thì vắng lặng không một bóng người. Đó là bút pháp tả cái động để gợi cái tĩnh, lấy điểm tả diện đầy tinh tế gợi gợi ra không gian, thời gian. Bức tranh miền sơn cước buổi chiều tối hiện ra vắng lặng, heo hút buồn.

Cấu trúc thơ đăng đối kết hợp cùng âm điệu thơ nhẹ nhàng gợi ra nỗi buồn, cảnh được nhìn qua con mắt nhân vật trữ tình, qua những nét vẽ ngoại cảnh ta thấy được tâm trạng của con người, đó là tâm trạng man mác buồn, mệt mỏi sau một ngày dài, nỗi buồn được tạo nên bởi ngoại cảnh, buồn vì xa Tổ quốc, mất tự do.

So sánh với hình ảnh người lữ thứ trong “Chiều hôm nhớ nhà” của Bà Huyện Thanh Quan ta có thể thấy điểm giống giữa hai bài thơ là đều nói về nỗi buồn trước cảnh chiều hôm nhưng điểm khác ở đây là bài thơ này thể hiện tâm trạng buồn của người chiến sĩ cách mạng bị lưu đày.

Qua bức tranh thiên nhiên ta còn đọc được cả tình yêu thiên nhiên của người tù, dù mệt mỏi trong cảnh chân cùm tay xích người tù ấy vẫn mở tâm hồn mình ra với thiên nhiên ngoại cảnh, tâm trạng giao hòa với cảnh vật đất trời xung quanh.

Hai câu thơ đầu mang âm hưởng cổ điển rõ nét với thể thơ, thi liệu, bút pháp miêu tả… nhưng Hồ Chí Minh học cổ nhưng không hề cổ bởi cảnh ở đây mang tâm trạng cụ thể của nhân vật trữ tình trong một hoàn cảnh cụ thể. Trong thơ Đường, thường thường là tâm thế con người trước vũ trụ bao la vô cùng vô tận…

b) Hai câu sau: Bức tranh cuộc sống sinh hoạt của con người

Tác giả đã chuyển cảnh bất ngờ nhưng tự nhiên, hợp lý: khi trời đã tối, xung quanh tối thì ánh mắt nhân vật trữ tình tự nhiên hướng về nơi có ánh sáng, trời càng tối thì lò lửa càng rực cháy bởi vậy mà hai câu thơ sau có sự chuyển đổi không gian và thời gian rõ nét: không gian thì từ thiên nhiên núi rừng đến sông núi còn thời gian thì trời đã tối hẳn.

Hình ảnh “ma bao túc” ở cuối câu thơ thứ ba cùng với hình ảnh “bao túc ma hoàn” ở đầu câu thơ thứ tư không chỉ gợi liên tưởng đến hình ảnh vòng quay đều đặn của cối xay ngô mà còn cho người đọc cảm nhận được sự cần mẫn, chăm chỉ của người thiếu nữ miền sơn cước.

Hai câu thơ xuất hiện hình ảnh người thiếu nữ, đó là hình ảnh người lao động, khác với hình ảnh thiếu phụ trong thơ xưa. Việc đưa hình ảnh người lao động vào trong thơ đã thể hiện phần nào tính dân chủ trong tư tưởng của Hồ Chí Minh.

Từ “hồng” kết thúc bài thơ là một nhãn tự mang nhiều ý nghĩa. Tả thực, đó là ánh sáng từ bếp lò, trời càng tối thì than càng sáng, dùng ánh sáng để tả bóng tối đang lan tỏa. Nhưng sử dụng từ “hồng” ở đây còn để nói về sự sống, nơi nào có lửa nơi đó có sự sống, giữa cảnh núi rừng lụi tàn tâm hồn ánh mắt của Người luôn hướng về nơi có sự sống. “Hồng” phải chăng còn là niềm vui, là cái để người ta xua tan đi lạnh lẽo, cô đơn, heo hút của cảnh.

Dường như người tù đã quên đi nỗi mệt mỏi, cô đơn của mình để hòa vào niềm vui giản dị của người lao động. Đó là tinh thần lạc quan, là chủ nghĩa nhân đạo đã đạt đến độ quên mình của Bác. Nhà thơ Hoàng Trung Thông khi cảm nhận về bài thơ này đã chia sẻ rằng: “Một chữ “hồng” thôi đủ sức cân lại 27 chữ bên trên”.

Hồ Chí Minh không chỉ yêu thương dân tộc, Người vẫn hòa mình vui với niềm vui của họ (người Trung Quốc). Nhân đạo ở đây đã đạt đến tầm quốc tế vô sản.

Tâm điểm của bức tranh là cuộc sống con người. Sức sống của con người, ngọn lửa của con người là trọng tâm tỏa ấm nóng và niềm vui.

Tuy tác giả sử dụng bút pháp thơ cổ với nhãn tự, lấy ánh sáng để tạo bóng tối, sử dụng hình ảnh thiếu nữ nhưng bài thơ vẫn mang hơi hướng của thần thoại khi có sự xuất hiện của sự vận động từ nỗi buồn đến lạc quan, từ bóng tối đến ánh sáng, đó là sự vận động của tứ thơ.

Yếu tố thần thoại còn thể hiện ở tính dân chủ trong việc sử dụng hình tượng hay tinh thần lạc quan. Tất cả đã thể hiện cái hiện đại toả ra từ tâm hồn người tù cộng sản Hồ Chí Minh.

III. Kết bài

Nêu khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm:

“Chiều tối” là một bài thơ tiêu biểu cho dấu ấn cổ điển và hiện đại thể hiện trong thơ Hồ Chí Minh. Với những giá trị tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc, bài thơ luôn để lại trong lòng người đọc rất nhiều dấu ấn, góp phần giúp nó sống mãi với thời gian, với dòng chảy văn học Việt.

===========>Bài Viết Liên Quan Khác<===========

Top 10 mẫu phân tích bức tranh thiên nhiên trong Chiều tối

Số 1: Phân tích bức tranh thiên nhiên trong Chiều tối

Bác Hồ của chúng ta không chỉ là một nhà cách mạng vĩ đại mà còn là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thiên nhiên trong thơ bác hiện lên thật đẹp, thật lãng mạn nên thơ. Bức tranh thiên nhiên trong bài Chiều tối và Giải đi sớm là những bức tranh như thế, nó thể hiện tâm hồn, cốt cách cao đẹp của nhà thơ

Hai bài thơ viết về hai thời điểm khác nhau của một ngày chiều tối và sáng sớm song cả hai đều đẹp và tinh tế thông qua ngòi bút sắc sảo của nhà thơ. Đặc biệt, ở cả hai bài thơ thiên nhiên đều đi từ tối tăm, lạnh lẽo đến ánh sáng và ấm áp.

Ở Chiều tối, nhà thơ đã có một sự đồng cảm đặc biệt với thiên nhiên:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.”

Khi chuẩn bị hết một ngày, con người muốn trở về nhà để sum họp gia đình. Ở đây, chim cũng bay về rừng tìm điểm tựa, về với gia đình và “tìm chốn ngủ”. Nhưng đó không phải là cánh chim bình thường mà là cánh chim “mỏi”.

Nhìn cánh chim bay đã biết chim mệt mỏi sau một ngày kiếm ăn vất vả. Phép nhân hóa đã thể hiện tấm lòng nhà thơ đối với thiên nhiên. Chưa hết, “chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”. Câu thơ nguyên văn chữ Hán là “Cô vân mạn mạn độ thiên không”. “Cô vân” là chòm mây kẻ loi, cô độc, “độ thiên không” là bay ngang qua bầu trời.

Câu thơ miêu tả một chòm mây cô đơn, lẻ loi một mình thực hiện cuộc hành trình dài dằng dặc bay ngang qua khoảng trời rộng lớn. Khung cảnh vắng vẻ, mệt mỏi gợi buổi chiều tà đang lắng dần những thời khắc cuối ngày. Bóng tối đang mơn man mặt đất… Bầu trời rộng lớn chỉ có cánh chim và áng mây lẻ loi. Còn mặt đất, nơi vẫn đông đúc vui vẻ sự sống thì:

“Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã ửng hồng”.

Thực ra trong nguyên bản chữ Hán là:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

Bài thơ lấy tiêu đề là cảnh chiều tối, nhưng toàn bài không có một chữ “mộ” nào. Ngược lại, cảnh chiều tối nhưng lạ để ánh sáng ngân vang. Bài thơ khép lại với hình ảnh “lò than rực hồng” – “lô dĩ hồng”. Trong tiếng Hán, “hồng” là ánh sáng, hồng còn là ấm áp. Sự ấm áp của ngọn lửa giữa buổi tối miền núi lạnh lẽo; cũng là sự ấm áp của tình cảm gia đình đoàn tụ quây quần.

Và biết đâu, còn ấm bởi tình người – tình cảm của Bác đối với những kiếp cần lao, với người dân miền núi bên cạnh nhịp quay nặng nề của cối xay “ma túc bao – bao túc ma hoàn”.Bài thơ nói đến sự mệt mỏi; cô đơn, lang thang vô định của chim, của mây đến ánh sáng hồng tươi ấm áp của ngọn lửa, của tình người.

Bài Giải đi sớm lại miêu tả lại khung cảnh bắt đầu của một ngày. Phần một là cảnh thiên nhiên khi “đêm chửa tan”. “Đêm chửa tan” – “dạ vị lan” tức là trời đang đêm, còn tối “dạ”. Bóng tối nơi miền núi hoang sơ gắn với cái lạnh lẽo, hoang vu và cả nỗi sợ hãi. Nhưng núi non, vực thẳm hiểm trở, chỉ xảy chân một chút là… Không chỉ thế, còn là miền núi lúc nửa thêm thu. Mùa thu đất Bắc thì lạnh lẽo vô cùng. Ở đây, Bác chỉ nhắc đến những cơn gió thu “trận trận hàn” đã thấy tê buốt xương da như đóng băng vậy.

Sang đến phần 2 thì cảnh thiên nhiên hiện ra khác hẳn với phần trước. Màu sắc, không gian đối lập hoàn toàn với phần trước. Đất trời “màu trắng chuyển sang hồng”. Màu hồng của ánh dương rực rỡ, của sự ấm áp, của miền núi hy vọng. Bóng tối bị quiets sạch, không gian được thanh lọc đến vô cùng: “Bóng tối đêm tàn, sớm sạch không”.

Nguyên tác Bác dùng từ “tảo nhất không” – đã hết sạch để nói đến cái trong trẻo tuyệt đối của sớm mai. Và hơi ấm ngày mới lan tỏa bao trùm “Hơi ấm bao la toàn vũ trụ” để “Người đi thi hứng bỗng thêm nồng”.

Từ sự lãnh lẽo, tối tăm của đêm thu đến buổi sớm mai ấm áp trong lành đầy màu sắc, thiên nhiên vận động tươi sáng nhịp nhàng còn tác động tích cực đến con người và cũng thể hiện tâm hồn một con người yêu thiên nhiên, lạc quan tin tưởng vào ngày mai đầy ánh sáng.

Ngay ở Chiều tối ta đã bắt gặp một tình yêu thương bao la Bác dành cho thiên nhiên và sự sống con người. Có vậy Bác mới đồng cảm với sự “mỏi” của cánh chim; cái cô đơn, lang thang của chòm mây “mạn mạn độ thiên không”. Đặc biệt, Bác chia sẻ với nỗi vất vả của người dân ngoại quốc. Điều đó thể hiện qua câu thơ diễn tả nhịp quay nặng nề của cối xay ngô “ma bao túc – bao túc ma hoàn”.

Ta cần lưu ý rằng, khi ấy Bác đang phải chịu cảnh tù đày, Bác đau khổ hơn cánh chim, áng mây và người sơn nữ kia nhưng người vẫn mở lòng để cảm thông chia sẻ. Đặc biệt, qua cái ấm áp của ánh lửa gia đình, ta hiểu rằng Bác đang chung vui, chung ấm với bữa cơm gia đình người sơn nữ.

Ở giải đi sớm không chỉ tấm lòng mà cả bản lĩnh của người tù cách mạng thể hiện rõ. Đêm thu lạnh lẽo hiểm nguy, người vẫn mở lòng ưu ái với thiên nhiên, nhìn thiên nhiên bằng đôi mắt hữu tình tinh tế: “Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn” – “Quần tinh ủng uyền nguyệt thướng thu san”. “Quần” là quây quần gợi cái đông vui, ríu rít. “Ủng” là bao lấy, ôm lấy. Hình ảnh những vì sao đông đúc vui vẻ ôm ấp trăng cùng bay lên “thướng” thật tình tứ thi vị.

Cũng trong đêm hàn thu ấy, người chiến sĩ cách mạng đã thể hiện bản lĩnh bằng thái độ sẵn sàng đón nhận gian khổ, đón nhận nguy hiểm thậm chí thách thức chúng “nghênh diện thu phong trận hàn”. Nếu như điệp từ “trận trận” gợi đến lớp lớp đợt gió thu lạnh buốt táp vào thì từ “nghênh” đầy kiêu hãnh thể hiện thái độ sẵn sàng đối mặt với gian nguy. Con người ở đây mạnh mẽ, can trường và kỹ vĩ, tự nâng mình lên sánh với thiên nhiên.

Không chỉ vậy, với sự khắc nghiệt của thiên nhiên Người “ngênh diện” nhưng với sự ấm áp, sáng tươi. Người hòa mình vào ban mai tươi sáng “Người đi thi hứng bỗng thêm nồng”. Vậy là bỗng chốc một tù nhân vụt hóa thành thi nhân. Khổ đau chỉ là cảm hứng để Bác tỏ lòng can trường. Anhs sáng ban mai để Bác ấm lòng lạc quan tin tưởng.

Không chỉ Chiều tối và Giải đi sớm, rất nhiều bài thơ trong Nhật kí trong tù tả cảnh thiên nhien và tất cả thiên nhiên đều có sự vận động tươi sáng từ trong bóng tối tới ánh sáng. Ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, những vần thơ ấy thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu tự do bao la của Bác. Và hơn hết, nó thể hiện bản lĩnh, tinh thần người cách mạng luôn lạc quan, tin tưởng vào ngày mai tươi sáng.

Nguồn cảm hứng sáng tác của Bác xuất phái từ lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước trong thi sĩ. Tả cảnh thiên nhiên nhưng tác giả cũng đưa ra những lời dự đoán về kết quả của cuộc khắng chiến chống mĩ cứu nước của dân tộc sắp kết thúc thắng lợi. Bài thơ thê hiện tư thế ung dung tự tại, và lòng yêu nước của tác giả.

Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh
Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh

Số 2: Phân tích bức tranh thiên nhiên Chiều tối

Một buổi chiều tối, vào cuối mùa thu năm 1942, trên con đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, dù đã trải qua một ngày dài gian lao, vất vả nhưng bác vẫn còn tiếp tục bị bọn lính áp giải trên đường và trước mắt là một đêm trong nhà giam chặt hẹp, bẩn thỉu, lại “Được cùm chân mới yên bề ngủ/ Không được cùm chân biết ngủ đâu”. Những đày đọa ban ngày chưa qua, những đày đoạ ban đêm đã sắp đến. Vậy mà trong hoàn cảnh ấy, người vẫn vượt lên trên tất cả để ghi lại một bức tranh thiên nhiên và cuộc sống thật đẹp:

“Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

Sơn thôn thiểu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”.

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngụ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò thân đã rực hồng).

Cả bài thơ là bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người gần gũi, sinh động trong cảm nhận của một người tù cách mạng.

“Chiều tối” mở đầu bằng hai câu thơ miêu tả thiên nhiên vừa gần gũi lại vừa khác lạ. Cũng giống như trong thơ ca cổ điển phương Đông, khung cảnh thiên nhiên trong hai câu thơ đầu đã được phác hoạ bằng những nét châm phá. Nhà thơ không nghiêng về tả mà chỉ gợi ra một vài nét để bắt lấy cái hồn của tạo vật. Toàn bộ khung cảnh miền thiên nhiên sơn cước hiện ra đơn sơ qua cánh chim chiều mệt mỏi đang vỗ cánh bay về nơi trú ngụ, và trong áng mầy lẻ loi, lững lờ trôi giữa tầng không.

Nghệ thuật lấy điểm vẽ diện, lấy động tả tĩnh được vận dụng sáng tạo, Nhìn cánh chim bay, mây trôi mà cảm thấy bầu trời bao la hơn, cảnh chiều tối êm ả, tĩnh lặng hơn. Thiên nhiên ở khắc họa ở hai nét rất cơ bản nhưng hiện lên đầy ấn tượng về cảnh sắc và xúc cảm. Nó gợi ta nhớ đến những câu thơ râ’t hay cũng viết về cảnh chiều tà như vậy.

Ca dao từng có câu: “Chim bay về núi tối rồi”. Và đó cũng là cánh chim của buổi chiều tà trong thơ Nguyễn Dủ: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Câu thơ của Người vì thế mà cũng vừa gợi ý niệm về không gian vừa gợi ý niệm về thời gian. Mặc dù vậy, hình tượng cánh chim trong thơ Bác không chỉ được quan sát ở trạng thái vận động bên ngoài như trong thơ xưa (cánh chim bay) mà còn được cảm nhận rất sâu ở tâm trạng (cánh chim mỏi mệt).

Có thể thấy một sự tương đồng gần gũi giữa hình ảnh cánh chim ấy với người tù trên đường chuyển lao mệt mỏi. Nhưng hành trình của cánh chim có thế’ coi như đến đấy là đã tạm ngừng để nghỉ ngơi thì người tù cách mạng vẫn phải tiếp tục những đày đọa. Nhưng ý thơ không vì vậy mà mất đi sự hoà hợp đồng điệu, giữa tâm hồn nhà thơ với cảnh vật. Bởi cội nguồn của nó chính là tình yêu thương mênh mông Bác giành cho mọi sự sống trên đời.

Hình ảnh chòm mây gợi ta nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu trong bài “Hoàng Hạc lâu”: “Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay” và câu thơ của Nguyền Khuyến: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Thu điếu), vẫn là một thi liệu quen thuộc nhưng “mây” trong thơ Bác không gợi sự vĩnh viễn hay cái khắc khoải mơ hồ của con người trước hư không mà là một chòm mây cô đơn đang chậm chạp trôi giữa bầu trời bao la.

Chòm mây như có hồn người. Nó như mang cái tâm trạng lẻ loi, đơn độc, băn khoăn, trăn trở, cha biết tương lai sẽ đi đến đâu của người tù nơi đất khách. Khi Lí Bạch, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc đời Đường “Độc tọa Kính Đình sơn” (Một mình ngồi trên núi Kính Đình) nhìn thấy cảnh:

“Chúng điểu cao phi tận

Cô vân độc khứ nhàn”.

(Bầy chim một loạt bay cao

Lưng trời thơ thẩn, đám mây một mình).

để cánh chim bay mất hút vào cõi vô tận thì trong thơ Bác, cánh chim là của đời sống hiện thực, nó bay theo cái nhịp điệu bất tận của cuộc sống: Sáng đi ăn, tối về rừng ngủ. Áng mây của Lí Bạch bay nhàn tản gợi cảm giác thoát tục, còn áng mây trong bức tranh “chiều tối” của Bác toát lên vẻ yên ả, thanh bình của cuộc sống thường ngày, ở trong cảnh đày đọa “Năm mươi ba cây số một ngày/ Mũ áo dẩm mưa rách hết giày” vậy mà hồn thơ ấy vẫn vượt lên trên tất cả đê cảm nhận và đón nhận vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, tạo vật. Tình yêu thiên nhiên và “chất thép” trong tâm hồn người tù cách mạng ấy đã làm nên sức mạnh để chiến thắng hoàn cảnh.

Từ bức tranh thiên nhiên, ta bắt gặp một cái nhìn trìu mến dõi theo từng biểu hiện của tạo vật. Không có chân dung người tù khổ ải mà chỉ hiện lên dáng vẻ phong độ của bậc tao nhân mặc khách đang ung dung thư thái thưởng ngoạn cảnh về chiều ở rừng núi.

Nếu như trong hai câu thơ đầu, cảnh vật hiện ra trong những nét vẽ chấm phá phần nào mang tính chất ước lệ cổ điển thì hình ảnh cô thôn nữ trong hai câu thơ còn lại lại được gợi tả một cách chân thực, sinh động và cụ thể như một bức tranh hiện thực. Bức tranh di chuyển điểm nhìn vào cuộc sống con người.

Chính nét vẽ đời thường ây đã làm cho bài thơ tãng thêm dáng vẻ hiện đại. Hình ảnh người con gái nổi bật lên, trở thành trung tâm của bài thơ. Thời khắc đầu đêm nơi xóm núi đã làm người tù quên đi cảnh ngộ khổ đau của mình để cảm nhận cuộc sống của nhân dân. Bác đã vợt qua những khoảng cách về không gian, đẳng cấp, dân tộc để đón nhận vẻ đẹp con người ở ngay nơi mà mình bị đày đọa. Đó là điều không phải ai cũng có thể làm được.

Hai câu thơ nói lên sự quan tâm và tình cảm yêu thương của Bác đối với ngửời lao động nghèo mà sự làm việc mệt nhọc thể hiện qua âm điệu khắc khổ của bài thơ. Đến đây bài thơ có sự vận động từ bức tranh thiên nhiên sang bức tranh đời sống.

Cũng là sự xuất hiện của con người nhưng không phải là cảnh “Lom khom dưới núi tiều vài chú/ Lác đác bên sống chợ mây nhà” chỉ làm tăng thêm nỗi buồn và sự cô đơn của nhân vật trữ tình trong thơ Bà huyện Thanh Quan, con người trong thơ Bác xuất hiện chỉ một mình nhưng lại mang theo sức ấm nóng của sự sống Hành động xay ngô gợi đến những bữa ăn gia đình đông đúc và vui vẻ, gợi cuộc sống lao động b)nh dị. Hơn thế nữa, nó lại đi liền với “lô dĩ hồng”, cái â’m nóng của bếp lửa. Trong một đêm mùa thu giá rét phương Bắc, một bếp lửa rực hồng thật có ý nghĩa.

Nó trở nên ấm áp và có sức lan toả hơn bao giờ hết. Cô thôn nữ được miêu tả trong sự lao động cần mẫn. “Ma bao túc” rồi “ma túc ba hoàn” vòng quay của cốì xay ngô cứ đều đặn không ngừng nghi trong thái độ lao động hăng say của con người. Trong sự vận động của câu thơ có sự vận động của thời gian.

“Nguyên văn không nói đến tốì mà tự nhiên nói đến: thời gian cứ trôi dần theo cánh chim và làn mây, theo những vòng quay của cối ngô, quay quay mãi, “ma bao túc… bao túc ma hoàn” và đến khi côi xay dừng lại thì “lô dĩ hồng”, lò đã rực hồng, tức là trời tôi, trời tôi thì lò rực lên” (Lê Trí Viễn). Như vậy, bếp lửa của cô gái xay ngô đã hồng lên, nghĩa là buổi chiều êm ả đã kết thúc để bước vào đém tối, nhưng lại không phải đêm tối lạnh lẽo, âm u mà là đêm tối ấm áp, bừng sáng bởi ngọn lửa hồng.

Nếu hình dung cả bài thơ là một bức tranh thì chính cái châm lửa đỏ mà người nghệ sĩ tài hoa đã châm lên đó đã mang lại thần sắc cho toàn cảnh, dường như nó làm tăng thêm niềm vui và sức mạnh cho người đang cất bước trên đường xa. Giũa cái hoang sơ hùng vĩ của thiên nhiên đất trời, hình ảnh cô gái xay ngô và bếp lửa rực hồng của cô toát lên vẻ trẻ trung, khoẻ mạnh, sống động, đáng quí và đáng trân trọng biết bao.

Bài thơ là sự kết hợp của hai mảng màu chính: mảng màu của thiên nhiên và mảng màu của cuộc sống con người. Cái làm nên sự hài hoà giữa hai mảng màu ấy là tâm lòng thiết tha yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của người tù cách mạng. Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, từ buồn đến vui. Sự vận động này cho thây cái nhìn tràn đầy niềm lạc quan yêu đời, thể hiện tâm hồn luôn vận động hướng ra ánh sáng, hướng ra sự sống, một “chất thép” đáng khâm phục trong tâm hồn thi sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh.

Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh
Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh

Số 3: Phân tích bức tranh thiên nhiên trong thơ Chiều tối

Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà văn hóa, một anh hùng dân tộc, một vị cha già của đất nước mà Người còn là một nhà văn, nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam. Người đã để lại cho đời một khối lượng thơ ca đồ sộ phong phú về thể loại, đa dạng về phong cách và sâu sắc về tư tưởng. Thơ Bác vừa hay bởi cách gieo vần, vừa đẹp bởi chính hồn thơ, chính tinh thần “thép” trong thơ. Và Chiều tối là bài thơ tiêu biểu của Bác, đó là bài thơ thể hiện sự thành công khi kết hợp giữa nét cổ điển và tinh thần hiện đại.

“Chiều tối” là bài thơ ra đời trong khoảng thời gian đầu khi bác ở trong tù. Cũng trong thời gian đầu ấy, đã có nhiều bài thơ Bác ghi lại ảnh “trên đường”chuyển lao (“Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa rách hết ngày”). Mới đến nhà lao Thiên Bảo và bài này cũng nằm trong mạch các bài thơ “Đi đường”.

Bài thơ thể hiện một phong cách nghệ thuật nhất quán là sự thống nhất trong đa dạng của tập “Nhật kí trong tù”. Đó chính là sự vận động của hình tượng thơ, trong thơ Bác bao giờ cũng từ bóng tối hướng ra ánh sáng, từ lạnh lẽo đến ấm áp, từ nỗi buồn đến niềm vui. Điều này cũng được thể hiện rõ trong bài thơ “Chiều tối“.

Vẻ đẹp của thiên nhiên cùng những cảnh vật xung quanh đã họa nên một bức tranh tuyệt đẹp

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Cánh chim và chòm mây là hai hình ảnh thường xuất hiện trong những câu thơ chiều xưa và nay. Đây là hai hình ảnh chỉ không gian nhưng đã gợi những liên tưởng về thời gian. Quãng thời gian chiều tối thường là lúc đoàn tụ, khi mọi người hối hả trở về đoàn tụ với gia đình nhưng cũng là khi con người ta thấy vô cùng cô đơn nếu không có một chốn để trở về.

Giữa không gian rộng lớn dường như con người và cảnh vật đều như đã nghỉ ngơi thì những chòm mây vẫn nhẹ nhàng trôi hững hờ không nghỉ càng làm nổi bật sự yên bình nơi rừng núi lúc chiều tối. Chòm mây ấy cũng giống như Bác, đang trong chốn lao tù, vẫn phải cô độc bước đi.

Chòm mây cô đơn, lặng lẽ và Bác cũng lặng lẽ, cô đơn xen vào đó là chút băn khoăn trăn trở không biết tương lai sẽ đi đâu về đâu của người tù nơi đất khách quê người. Nhưng có lẽ chỉ người có lòng yêu nước nồng nàn như Bác thì mới thể ung dung, bình tĩnh, lạc quan vượt lên mọi sự giam cầm về thể xác để hòa mình vào thế giới thiên nhiên, mây trời ở ngoài kia.

Từ đó, ta liên tưởng đến cảnh ngộ thực tế của Bác, Bác bị áp giải, phải đi một chặng đường dài băng rừng vượt suối, nên cũng như cánh chim kia Bác mong muốn được dừng chân nghỉ ngơi, để xua tan đi cái mệt đang hành hạ, đó là chất hiện đại trong thơ. Hình ảnh chòm mây trôi lững lờ trên tầng không, thể hiện được cái phong thái ung dung, tản mạn, tự do của tâm hồn người thi sĩ tương tự với nhiều cách diễn đạt cổ điển, nhưng cũng lại mang nét hiện đại, điều đó đối chiếu vào tâm trạng người tù lúc này đây

Với hai câu thơ bảy chữ, Bác đã vẽ ra một cảnh chiều tối âm u, hoang vắng, mênh mông, cô quanh đến yên ắng, êm ả đến lạ. Đồng thời ẩn sau những câu thơ người đọc thấy được ý chí vượt lên khó khăn với niềm khát khao, mong ước được tự do như mây trời, được quay trở về với quê hương, được hòa mình và sống hết mình với thiên nhiên vạn vật. Bức tranh miêu tả thiên nhiên mà còn có cả phần hồn – cái hồn của con người hòa mình vào thiên nhiên ở trong đó.

Hai câu thơ tiếp, Chiều tối không còn là bức tranh thiên nhiên chỉ có cảnh vật nữa, mà ở đây là bức tranh cuộc sống, sinh hoạt, có sự sống của con người, hơi ấm tình thương đã bắt đầu xuất hiện.

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.”

(“Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết, lò than đã rực hồng.”)

Hình ảnh người con gái được thể hiện nhiều trong thơ ca, nếu trong văn học trung đại, người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng yếu đuối và số phận đầy long đong, lận đận, chìm nổi,trong thơ lãng mạn họ phảng phất nét buồn thì trong thơ Bác đó là con người giản dị, bình thường, công việc tuy vất vả nhưng đáng yêu và đáng trân trọng.

Hình ảnh”cô em” nổi bật trước thiên nhiên, con người đang làm chủ cuộc sống, trẻ trung và đầy khoẻ khoắn, làm việc hăng say thật đáng quý biết bao. Bức tranh thiên nhiên hòa quyện hình ảnh con người dường như càng sinh động, ấm áp hơn. “Ma bao túc….bao túc ma hoàn”, sự sáng tạo trong điệp ngữ vòng tạo nên sự nhịp nhàng trong vòng quay của công việc.

Không gian từ trời đất cao rộng, bao la dần thu hẹp lại bên không gian sinh hoạt gia đình-bếp lửa “Xay hết lò than đã rực hồng”. Chỉ bằng một từ “hồng”, được coi là nhãn tự bài thơ cùng bút pháp điểm xuyết khiến cho bao nhiêu cảm xúc ý tứ dường như được dồn nén, chất chứa bấy lâu được bung tỏa.

Đối với người tù đày như Bác, hình ảnh lò than đã rực hồng như sưởi ấm trái tim nơi chốn tù lao lạnh lẽo, cô đơn, đem lại cho người sự ấm áp, niềm vui và hạnh phúc bình dị thường ngày. Một lần nữa ta nhận ra cái nhìn trìu mến hướng về sự sống của Người. Người quên đi nỗi khổ của chính bản thân mình để chia sẻ với người dân tự do tự chủ.

Bánh xe thời gian đang lăn dần từ chiều tà đến đêm khuya bởi ba từ “ma bao túc” được điệp vòng ở câu cuối. Sự nối âm liên hoàn, nhịp nhàng vừa diễn tả vòng quay không dứt của động tác xay ngô vừa diễn tả dòng lưu chuyển của thời gian.

Đến câu thơ cuối, người đọc nhận ra một sự chuyển động rất nhẹ và một nét sáng bừng lên cả bài thơ. Khi cô gái vùng sơn cước xay hết ngô thì lò than đã rực hồng. Một sự chuyển tiếp nhẹ nhàng, đều đặn hằng ngày. Giữa vùng núi hoang lạnh, khi mặt trời tắt, hoàng hôn loang xuống hình ảnh “lò than” hiện lên dường như làm sáng cả không gian và ấm áp trái tim Người.

Có thể nói việc xây dựng hình ảnh cô em xóm núi và lò than dường như là một nỗi niềm thầm kín của tác giá. Đó là hiện thân của một mái ấm gia đình hạnh phúc, chứa chan yêu thương, và đó cũng chính là lòng mong mỏi của Hồ Chí Minh.

Chiều tối có vẻ đẹp giản dị mà sâu sắc. Bài thơ diễn tả phong cảnh thiên nhiên và đời sống một cách chân thật, hàm súc, đồng thời thể hiện một khía cạnh vĩ đại của tâm hồn Hồ Chí Minh Ià lòng nhân ái đạt đến độ quên mình.Người làm thơ trong tình cảnh khốn khó vẫn để tâm hồn mình hướng tới thiên nhiên cùng niềm hạnh phúc đơn sơ của con người. Vàng nào đổi được phút giây xúc động trước cảnh chiều tối như phút giây này của trái tim vĩ đại Hồ Chí Minh.

Số 4: Phân tích bức tranh thiên nhiên trong Chiều tối

Chiều tối được Hồ Chí Minh sáng tác vào năm 1942 khi Bác đang bị giam giữ bởi nhà tù Tưởng Giới Thạch. Trong một lần chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, Bác đã viết bài thơ Chiều tối để ghi lại khung cảnh thiên nhiên trên đường chuyển lao, đồng thời gửi gắm những tâm sự, cảm xúc thầm kín. Qua bài thơ độc giả có thể phần nào cảm nhận được nét đẹp trong tâm hồn của người chiến sĩ cộng sản ấy.

Sáng tác trong hoàn cảnh đặc biệt khi Bác bị xiềng xích chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm về tự do, phải trải qua vô vàn những đọa đầy về thân xác nhưng xuyên suốt bài thơ Bác không một lần thể hiện sự bi quan hay than thở về hoàn cảnh là lại hướng tâm hồn tự do của mình đến cảnh sắc của tự nhiên, sự sống của con người. Thế mới thấy chính quyền Tưởng Giới Thạch chỉ có thể giam cầm tự do nhưng  sức sống tinh thần lại chẳng sức mạnh bạo tàn nào có thể giam giữ nổi.

Trên  đường chuyển lao, Bác đã ghi lại khung cảnh thiên nhiên chiều tối rộng lớn nhưng tịch mịch của vùng sơn cước:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

Dịch:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây nhẹ trôi giữa tầng không

Cánh chim mỏi mệt, đám mây cô đơn là những hình ảnh quen thuộc trong thơ ca cổ điển. Cũng giống như những thi nhân xưa, mượn hình ảnh cánh chim, đám mây để diễn tả nỗi cô đơn, lạc lõng thì trong bài Chiều tối, sự xuất hiện của những hình ảnh quen thuộc này góp phần làm cho không gian vũ trụ trở nên rộng lớn, gia tăng nỗi buồn, sự cô đơn của người tù nơi đất khách quê người.

Cánh chim mỏi mệt trong thơ Bác vừa gợi ra cái rộng lớn, tịch mịch của không gian vừa gợi ấn tượng về chiều thời chiều tà, khi bóng tối bắt đầu bao trùm không gian. Hướng theo cánh chim mỏi mệt bay về rừng Bác đã gửi vào đó sự lưu luyến bất tận với từng dấu hiệu nhỏ nhoi của sự sống, cánh chim mỏi mệt còn tạo ra sự kết nối với hoàn cảnh của người tù. Sự mỏi mệt của cánh chim hô ứng với sự moi mệt của đôi chân người tù trên hành trình chuyển lao đầy mất vả.

Không gian mênh mông của vùng sơn cước còn được điểm xuyết bởi hình ảnh đám mây cô đơn đang lặng lẽ trôi vô định trên bầu không. Hình ảnh này gợi cho người đọc liên tưởng đến  hình ảnh đám mây đơn độc trong thơ Thôi Hiệu “Ngàn năm mây trắng bây giờ con bay”.

Nếu đám mây trong thơ Thôi Hiệu gợi đến sự phiêu diêu, mênh mang mang ý vị vĩnh hằng thì trong thơ Bác đám mây cô đơn lại gợi ra trạng thái ung dung, tự tại nhưng lại đơn độc, cô đơn của người tù khi lưu lạc nơi đất khách, khi lí tưởng làm cách mạng, cứu dân cứu nước của người chiến sĩ bị gián đoạn.

Bức tranh thơ vẫn không ngừng chuyển động, từ không gian rộng lớn của thiên nhiên, Bác đã hướng sự chú ý đến sự sống của con người:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

Dịch:

Cô em xóm núi xay ngô tối

Ngô vừa xay xong lò than đã rực hồng

Hình ảnh thơ giản dị mang những nét đời thường, tuy nhiên chính cái đời thường ấy lại gợi ra bao cảm xúc nồng nhiệt trong tâm hồn của người thi sĩ. Hình ảnh cô gái xay ngô tối thể hiện sức sống mạnh mẽ, dáng vẻ trẻ trung sống động đã xua đi ấn tượng về không gian tịch mịch, về nỗi cô đơn, nỗi buồn triền miên trước đó. Sự xuất hiện của con người như dấu hiệu của sự sống, nó mang đến hơi ấm của sự sống, mang đến niềm vui và niềm tin trong tâm hồn của người chiến sĩ.

Bếp lửa rực hồng được coi là ánh sáng hi vọng, là nhãn tự của cả bài thơ, sự xuất hiện của ánh hồng bếp lửa báo hiệu cho độc giả biết về thời gian chiều tà đã bị bóng tối của màn đêm bao phủ, một dấu hiệu về thời gian độc đáo. Tuy nhiên, bóng tối không mang đến những lãnh lẽo, âm u như ấn tượng thông thường bởi hơi ấm của lò lửa có thể xua đi mọi u tối, mang đến ánh sáng của hi vọng, hơi ấm của sự sống.

Bài thơ Chiều tối viết về không gian chiều tà nhưng không mang đến cảm nhận về sự cô đơn, lạc lõng mà thắp sáng trong lòng mỗi độc giả bằng sự ấm áp của ngọn lửa hồng đầy yêu thương, cùng niềm tin mạnh mẽ vào cuộc đời của tâm hồn lạc quan của Bác

Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh
Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh

Số 5: Phân tích bức tranh thiên nhiên Chiều tối

“Chiều tối” là một trong những thi phẩm đặc sắc nhất được rút ra từ tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh. Bài thơ đã phác họa đầy sống động bức tranh thiên nhiên rộng lớn, vắng lặng khi chiều tà, đồng thời qua đó bộc lộ được tinh thần lạc quan, tấm lòng giàu yêu thương, niềm tin mãnh liệt vào sự sống của Bác – người chiến sĩ cộng sản hết lòng vì dân, vì nước.

Chiều tối được sáng tác trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt khi Bác đang trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo. Bài thơ thể hiện cái gian lao, vất vả của đường đi đồng thời cũng thể hiện được tâm hồn đầy tinh tế, tinh thần lạc quan cùng phong thái ung dung, kiên cường của người chiến sĩ các mạng.

Mở đầu bài thơ, bức tranh thiên nhiên lúc chiều tà được Hồ Chí Minh điểm xuyết bằng hình ảnh của cánh chim mỏi mệt và chòm mây cô đơn:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

Dịch:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chìm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Hình ảnh cánh chim và đám mây là những hình ảnh đặc trưng của thi ca cổ điển thường được sử dụng để diễn tả sự cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời. Cánh chim mỏi mệt cũng từng xuất hiện trong thơ Bà Huyện Thanh Quan để diễn tả nỗi cô đơn của người lữ khách “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”.  Hai câu thơ của Bác cũng có sự gặp gỡ thú vị với nhà thơ Lí Bạch của Trung Quốc khi đều xuất hiện hai hình ảnh đám mây, cánh chim:

 “Chúng điểu cao phi tận

Cô vận độc khứ nhàn”

Dịch:

Bầy chim cao nhất loạt bay cao

Lưng trời thơ thẩn đám mây một mình

Tuy có sự tương đồng về hình ảnh thơ nhưng cảm xúc giữa hai bài thơ lại có sự khác biệt rõ nét, nếu như cánh chim trong thơ Lí Bạch “cao phi tận” là cánh chim ánh đời, thoát tục mà bay vào cõi hư vô thì cánh chim mỏi mệt trong thơ Bác lại bay về rừng, hướng về cuộc sống ở cõi thường.

Đám mây cô đơn trong thơ Bác cũng không nhẹ nhàng, thoát tục như trong thơ Lí Bạch mà chất chồng những suy tư, đó là nỗi lo lắng, suy tư của một người chiến sĩ luôn hết lòng vì dân, vì nước, vì vận mệnh của cả dân tộc.

Bác đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để phác họa lên bức tranh thiên nhiên đầy độc đáo, mang phong vị riêng thể hiện tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của Người, đồng thời qua bức tranh ấy độc giả có thể cảm nhận được bức chân dung tâm hồn của Người.

Bác trân trọng từng dấu hiệu của sự sống, nếu đặt hai câu thơ trong tương quan với hoàn cảnh sáng tác ta có thể cảm nhận được bản lĩnh phi thường của người chiến sĩ, xiềng xích chỉ có thể giam giữ về tự do nhưng tinh thần của người hoàn toàn được giải phóng bởi nếu không tự do về tinh thần thì khó có thể phát hiện ra những cảnh sắc thiên nhiên độc đáo đến vậy.

Có thể thấy hình ảnh cánh chim mỏi mệt và chòm mây cô đơn có sự hô ứng, kết nối đặc biệt với trạng thái, tình cảm của người tù trên đường chuyển lao, đó là bước chân xiềng xích đầy mỏi mệt trên hành trình dài, là tâm trạng cô đơn, tâm tư chất chồng của người chiến sĩ yêu nước.

Sử dụng bút phạm cổ điển, Hồ Chí Minh đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên đầy sống động, đó là những cảm nhận đầy tinh tế, sâu sắc về thiên nhiên, về sự sống của một con người yêu đời tha thiết.

Số 6: Phân tích bức tranh thiên nhiên trong thơ Chiều tối

Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam, là danh nhân văn hóa thế giới. Tài sản Người để lại cho nhân dân ta không chỉ bao gồm những giá trị sống sâu sắc mà còn có cả những sáng tác thơ ca xuất sắc. Bài thơ “Chiều tối” chính là một trong những thi phẩm tiêu biểu nhất của Người. Trong bài thơ, Hồ Chí Minh đã tái hiện một bức tranh thiên nhiên hài hòa giữa cảnh vật và cuộc sống con người. Đồng thời gửi gắm tư tưởng và tinh thần ung dung, lạc quan của người chiến sĩ cộng sản.

“Chiều tối” (Mộ) được sáng tác vào năm 1943, vào thời gian Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, trên đường di chuyển từ nhà giam Tĩnh Tây đến nhà giam Thiên Bảo, đi qua tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc. Lấy cảm hứng từ buổi chiều chuyển lao với khung cảnh tươi đẹp và cuộc sống ấm cúng, bức tranh thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp hoàng hôn đậm nét cổ điển:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

(Dịch thơ: Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Dưới ngòi bút tài hoa của Bác, cảnh chiều tối miền sơn cước dần thành hình với không gian rộng lớn mênh mông nhưng đượm hơi thở hoang vắng, tĩnh mịch. Bác đã khéo léo sử dụng bút pháp chấm phá tài tình của thi ca cổ điển, sử dụng những hình ảnh gợi tả như cánh chim, chòm mây quen thuộc để miêu tả cảnh xế chiều của một ngày dài đang dần trôi vào đêm tối. Đồng thời khắc họa tâm trạng của người tù cách mạng đang lẻ loi nơi đất khách quê người.

Sau một ngày hoạt động vất vả, cánh chim đã mỏi mệt nên mải miết bay về rừng tìm chốn dừng chân giữa không gian rộng lớn. Chúng sẽ tìm về chỗ ngủ thân quen còn người chiến sĩ cách mạng dẫu chân đã mỏi vẫn không biết bao giờ mới được dừng chân và dừng tại nơi nào? Giữa tầng không bao la, mây trắng lững lờ trôi. Hình ảnh “Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” gợi liên tưởng sự ung dung tự tại mà đơn độc của người tù đang lưu lạc.

Trong tứ thơ cổ điển ẩn chứa nét hiện đại, hoàng hôn hiện lên êm đềm, giản dị, thiên nhiên đồng cảm với con người mà không đồng nhất. Ý thơ tả cảnh mà ẩn tình, gợi vẻ đẹp hàm súc dư ba của thơ cổ điển. Thiên nhiên man mác nét buồn nhưng không bi lụy. Trong tâm hồn nhà thơ vẫn mạnh mẽ niềm tin, nỗ lực hướng tới sự sống, khát khao vì ngày mai tự do, phóng khoáng.

Chính vì thế, khi thời khắc cuối cùng của ban ngày đã đến, bóng đêm đang bao phủ xuống vạn vật, bức tranh thiên nhiên dưới ánh nhìn của nhà thơ đã hiện lên bóng sáng của con người, của cuộc sống sinh hoạt đời thường:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết lò than đã rực hồng)

Giữa núi rừng hoang vu, bỗng hiện lên dáng hình của một thiếu nữ đang bận rộn xay ngô để chuẩn bị cho bữa cơm tối. Đây là một hình ảnh bình dị, gần gũi nhưng chính nó lại là chất xúc tác cho dòng cảm xúc đang trào dâng trong lòng thi sĩ. Hình ảnh ấy diễn tả vẻ đẹp tuyệt vời về con người lao động trẻ trung, hăng say.

Sự xuất hiện của hơi thở con người đã trở thành tâm điểm và thổi hồn cho bức tranh thiên nhiên, xua tan sự âm u hoang vắng của núi rừng về đêm, xua tan nỗi cô đơn, lẻ loi của người tù cách mạng.

Từ đó, thiên nhiên bỗng hòa quyện vào cuộc sống con người, tạo nên bức tranh ấm áp, xinh đẹp. Hình ảnh “lô dĩ hồng” – lò than rực hồng là nét vẽ hoàn thiện bức tranh, kết thúc bài thơ, đồng thời cũng là nhãn tự bài thơ. Ánh than hồng không những làm bừng sáng cả không gian đang bị bóng tối bao trùm mà còn gửi gắm  niềm tin, hy vọng, sự lạc quan vào tương lai của người chiến sĩ cách mạng.

Bài thơ sử dụng thành công thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển và hiện đại. Ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc với những hình ảnh vận động tự nhiên, bất ngờ từ bóng tối đến ánh sáng…

Bút pháp gợi tả thiên nhiên với những hình ảnh bình dị, gần gũi mà giàu xúc cảm. Từ đó, khắc họa bức tranh thiên nhiên giao quyện bức tranh cuộc sống con người nơi núi rừng hoang dã. Đặc biệt giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh, thể hiện tinh thần lạc quan, niềm tin dai dẳng của Người vào tương lai phía trước.

Với những giá trị sâu sắc, “Chiều tối” đã trở thành một trong những thi phẩm tiêu biểu của hồn thơ Hồ Chí Minh và thời đại. Dù cho bao năm tháng trôi đi, độc giả vẫn luôn rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên và cảm xúc nhân vật trữ tình trong tác phẩm.

Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh
Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh

Số 7: Phân tích bức tranh thiên nhiên trong Chiều tối

Bài thơ “Chiều tối” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất nằm trong tập “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh. Bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh Người đang trên đường bị áp giải chuyển lao từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Có thể nói bài thơ như một bức tranh hài hòa, giao quyện giữa bức tranh thiên nhiên và cuộc sống của con người, hay chính là sự kết hợp giữa bức tranh hiện thực đời sống và tinh thần thép của người tù cộng sản Hồ Chí Minh.

Có người nào được như Bác, có tinh thần nào lạc quan và yêu đời hơn tinh thần của Bác? Dù trong hoàn cảnh bị chuyển lao cực khổ nhưng trên đường đi Bác vẫn dùng tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của mình để ghi lại những khung cảnh thiên nhiên và con người để rồi qua đó gửi gắm những nỗi niềm, tâm sự và cảm xúc thầm kín của mình. Mở đầu bài thơ là cảm xúc của người thi sĩ trước cảnh thiên nhiên vùng rừng núi khi chiều tà sẩm tối:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Cảnh chiều tối vùng sơn cước hiện lên rộng lớn, mênh mông nhưng hoang vắng, tĩnh mịch, người thi sĩ đã sử dụng bút pháp chấm phá của thơ cổ điển để tạo nên vẻ đẹp của bức tranh. Bằng những hình ảnh như cánh chim, chòm mây vốn đã quen thuộc trong thơ ca cổ, tác giả đã gợi lên không gian cuối ngày, một ngày đang dần tan trôi từ từ vào đêm tối, thời khắc cuối cùng của mọi hoạt động ban ngày.

Trong không gian mênh mông, bóng đêm đang dần bao trùm xuống vạn vật ấy, những hình ảnh này tuy nhỏ bé, mờ nhạt nhưng lại làm tăng thêm sự trống trải, hoang vắng của cảnh núi rừng, đồng thời khắc họa rõ sự cô đơn của người tù cách mạng đang một thân một mình nơi đất khách quê người.

Cánh chim mệt mỏi bởi chính không gian rộng lớn làm nó bay mải miết, về rừng tìm chốn ngủ đã nhấn mạnh đến thời điểm kết thúc ngày, cánh chim đã mỏi sau một ngày hoạt động, phải tìm nơi dừng chân, chỗ trú ngụ.

Còn người chiến sĩ cách mạng dù cũng đã mệt mỏi nhưng biết bao giờ mới được dùng chân và cũng không biết sẽ dừng chân tại đâu. Hình ảnh “Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” gợi ra sự lững lờ, ung dung tự tại nhưng lại có phần đơn độc, lẻ loi của người tù cách mạng đang lưu lạc.

Mây trôi nhẹ giữa không gian rộng lớn còn gợi sự chậm chạp, khắc khoải trong mơ hồ, cũng giống như Người, trên đường chuyển lao Người băn khoăn trăn trở không biết được tương lai sẽ đi đến đâu, còn cả sự nghiệp cách mạng phía trước sẽ ra sao.

Bỗng trong không gian thiên nhiên ấy hiện lên bóng dáng của con người, sự sống của con người đã làm sống dậy bức tranh, trở thành tâm điểm của cả bức tranh. Sự xuất hiện của cuộc sống con người đã xua tan đi nỗi cô đơn, lẻ loi của người tù cách mạng:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết lò than đã rực hồng)

Nơi thôn quê miền sơn cước có bóng dáng của một thiếu nữ đang xay ngô chuẩn bị cho bữa tối, quả thực đây là một hình ảnh – cảnh tượng hết sức đời thường, bình dị và dân dã. Thế nhưng chính cái đời thường ấy lại là chất xúc tác mạnh mẽ mang đến những cảm xúc phi thường trong tâm hồn người thi sĩ.

Nơi miền sơn cước khi chiều tối vắng vẻ lại hiện lên hình ảnh cô gái thôn nữ đang mải miết xay ngô, một hình ảnh tuyệt đẹp về con người trong lao động. Chính vẻ trẻ trung, hăng say lao động ở cô thôn nữ đã xua tan đi cái âm u, tĩnh mịch và hoang vắng của núi rừng khi vào đêm.

Những hoạt động sinh hoạt đời thường gợi lên trong lòng tác giả cảm giác ấm cúng hạnh phúc và no đủ, hơn thế hoạt động của con người chính là hơi ấm của sự sống, không chỉ xua tan đi nỗi cô đơn mà còn mang đến niềm vui trong lòng người tù trên miền đất xa lạ.

Hình ảnh “lô dĩ hồng” – lò than rực hồng kết thúc bài thơ và cũng chính là nhãn tự của bài thơ, từ điểm nhìn này bức tranh đời sống con người trở nên ấm áp hơn, màu hồng của lò than là ánh sáng của hy vọng, của niềm tin và sức sống.

Điểm nhìn này cũng quay ngược trở lại khắc họa rõ thời khắc chuyển giao từ ngày sang tối của thời gian, không gian. Màn đêm đã bao phủ toàn bộ cảnh vật, đến nỗi chỉ một lò than có thể rực hồng nổi bật trong đêm tối của rừng núi sơn cước.

Bài thơ “Chiều tối” thực sự là một bức tranh tuyệt đẹp, hài hòa giữa những mảng sáng và tối, thiên nhiên và con người. Người tù cộng sản Hồ Chí Minh đã bằng những nét tinh tế, trong trẻo nhất của tâm hồn yêu thiên nhiên, cuộc sống để có thể vẽ nên một bức tranh kỳ diệu trong hoàn cảnh đặc biệt – trên đường đi chuyển lao tù.

Số 8: Phân tích bức tranh thiên nhiên Chiều tối

Bác Hồ – người Cha già muôn vàn kính yêu của dân tộc, đã mở ra con đường cứu nước, giúp dân tộc ta có được độc lập, tự do, thoát khỏi kiếp nô lệ lầm than. Người không chỉ là một con người đầy tài trí, tinh thông văn hóa các dân tộc mà còn là người am hiểu văn thơ. Nhật kí trong tù của Người là một trong những tập thơ xuất sắc nhất trong nền thơ ca Việt.

Tập thơ đó được viết trong những năm tháng Người bị giam cầm ở nhà tù Tưởng Giới Thạch. Mỗi bài thơ là một câu chuyện Người kể lại về cuộc sống trong tù, là mơ ước, là khát khao được tự do của Người. Trong số đó, bài thơ Chiều tối là một bài thơ hay nhất, là bức tranh thiên nhiên và con người cùng hòa quyện.

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

Dịch thơ:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng”

Trong cả tập thơ Nhật kí trong tù, có lẽ Chiều tối là bài thơ có hoàn cảnh ra đời đặc biệt nhất. Bài thơ được gợi cảm hứng và được viết lên sau lần Bác Hồ phải chuyển trại giam từ Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo.

Và trong lần ấy, Người đã viết lên Chiều tối để ca ngợi bức tranh thiên nhiên đẹp mơ màng cùng với đó là bức tranh về cuộc sống con người trong buổi chiều hôm. Được viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt cổ điển, bài thơ vừa là tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của Người, vừa thể hiện ý chí mãnh liệt vượt lên trên mọi hoàn cảnh của Hồ Chí Minh.

Mở đầu bài thơ, Người đã vẽ lên cho người đọc thấy một khung cảnh thiên nhiên đẹp tới mơ màng, một khung cảnh vừa nhẹ nhàng, êm dịu, vừa đằm thắm, sinh động biết nhường nào:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

Dịch thơ:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”.

Mở đầu bài thơ cổ với chỉ bằng vài nét bút chấm phá, Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy được cả một không gian thật rộng lớn, mênh mông và thoáng đãng. Đó là một bầu trời với những cánh chim đang chao lượn “quyện điểu”, lướt thật nhanh bay về rừng, và những chòm mây “cô vân” lác đác lững lờ giữa không trung.

Hai câu thơ bật lên, chỉ gợi tả chứ không hề đặc tả vậy mà cái hồn của cảnh vật vẫn cứ hiện lên thật rõ ràng. Khung cảnh hiện lên thật bình dị: cảnh chiều với một đàn chim đang vỗ đôi cánh mệt mỏi tìm về với nơi trú ngụ của mình và những áng mây lẻ loi đang chập chờn bay chầm chậm giữa tầng không bao la.

Chẳng hề có một từ chỉ cảnh chiều, thế mà chỉ cần đọc hai câu thơ thôi, người đọc vẫn nhận ngay ra rằng đây là một buổi chiều hoàng hôn ửng đỏ. Nghệ thuật lấy điểm tả diện đã phát huy tác dụng thật rõ ràng bởi sự vận dụng đầy sáng tạo của Người.

Chỉ nhìn cánh chim kia, tầng mây kia, người ta dường như thấy được cả không gian đang trải rộng ra, bầu trời cao hơn, mênh mông hơn còn không gian thì thật êm đềm, tĩnh lặng. Chỉ là nét chấm phá nhẹ nhàng cơ bản, nhưng bức tranh thiên nhiên ở đây đã hiện lên thật đầy cảm xúc và màu sắc.

Cũng như Nguyễn Du đã từng cảm thán:

“Chim hôm thoi thót bay về rừng”

Thì ở đây, Hồ Chí Minh cũng đã làm được điều tương tự. Chỉ với cánh chim chao nghiêng trên bầu trời chiều kia, Người đã gợi lên ý niệm không chỉ không gian mà còn cả về thời gian nữa. Chỉ bằng hai câu thơ rất mộc mạc thôi, Người đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên yên bình, tĩnh tại.

Không như cánh chim trong câu ca dao “chim bay về núi tối rồi” hay trong câu thơ của Nguyễn Du đều có sự chuyển động đôi cánh “bay”, cánh chim trong thơ của Người chỉ tĩnh lặng lướt nhẹ trên tầng không bởi vì nó đã rất mỏi mệt, chỉ muốn lướt nhẹ thật nhanh tìm về một “chốn ngủ” trong rừng của mình. Hình ảnh cánh chim trong thơ của Hồ Chí Minh dường như mang một nỗi niềm rất sâu sắc về tâm trạng, về cảm xúc.

Cánh chim ấy có chăng chính là cảm xúc của Người trên con đường di chuyển tới nhà lao, mỏi mệt chỉ muốn tìm một “chốn ngủ”, chốn trú chân trong cuộc hành trình để rồi ngày mai lại tiếp tục một hành trình mới? Có thể nhận ra rằng dường như có một sợi dây vô hình tương đồng nào đó trong cánh chim kia với tâm trạng của Người hay chăng?

Không gian chiều tối ấy trong bài thơ, không chỉ có cánh chim chao lượn mà còn có cả những áng mây bồng bềnh. Người ta đã từng thấy nhiều áng mây khác trong thơ của Nguyễn Khuyến:

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”

Hay trong thơ của người xưa:

“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”

Nhưng ở trong thơ Hồ Chí Minh, mây ấy lại khác vô cùng:

“Cô vân mạn mạn độ thiên không”

Không như Nguyễn Khuyến viết về tầng mây trong tiết trời thu, không buồn bã như trong thơ Đỗ Phủ với “mây đùn cửa ải”, mây trong thơ của bác lại dường như chuyển động, dù cái chuyển động ấy chỉ rất nhẹ nhàng “trôi nhẹ”:

“Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”

Dù là một chất liệu vô cùng quen thuộc, thế nhưng Người vẫn dựng lên cho nó một cái hay rất riêng. Mây trong Chiều tối gợi lên sự cô đơn đến khó tả, đọc thơ Người mà ta như thấy cả một không gian cô đơn, quạnh quẽ đến nao lòng.

Chỉ có một “chòm mây” riêng lẻ “cô vân”, lững lờ trôi nhẹ, lãng đãng trên “tầng không”. “Chòm mây” ấy phải chăng chính là con người đang cô đơn, đang lẻ loi, băn khoăn mà trăn trở, lo lắng cho tương lai của người tù rồi sẽ đi về đâu?

Tóm lại, chỉ bằng hai câu thơ ngắn ngủi, thế nhưng Hồ Chí Minh đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên thôn dã thật yên bình biết mấy với những cánh chim trời và những làn mây trôi.

Cánh chim trong thơ Người không mất hút trong không trung vô tận như thơ Lý Bạch “bầy chim một loạt bay cao” mà nó đang bay theo nhịp điệu yên bình bất tận của cuộc sống hiện thực: sáng đi kiếm ăn, chiều về nhà ngủ. Và đám mây kia, cũng không vồn vã, buồn tủi mà cũng đang trôi yên ả trong không gian thanh bình.

Vậy mới biết, Bác Hồ dù đang trong cảnh lao ngục tù đày, phải sống trong cảnh đày đọa, thì Người vẫn giữ được hồn thơ, ý chí của mình vượt lên trên tất cả để có thể cảm nhận được cảnh sắc thiên nhiên, bức tranh thiên nhiên chiều tối đẹp và bình yên đến vậy.

Quả thật là một ý chí “thép” của người làm cách mạng! Ta cũng thấy được trong đó sự ung dung của Người, phong thái đĩnh đạc của thi nhân dù Người đang trong vòng xiềng xích, lao tù.

Nếu như trong hai câu đầu, nét bút chấm phá của Hồ Chí Minh đã gợi tả lên một khung cảnh thiên nhiên chiều tối đầy thanh bình thì ở hai câu sau, Người lại vẽ lên khung cảnh của cuộc sống con người nơi thôn dã:

“Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng”.

Vẫn là nét bút chấm phá quen thuộc, nhưng ở đây Hồ Chí Minh còn sử dụng thêm biện pháp ước lệ của thơ ca cổ khi vẽ lên hình ảnh cô thôn nữ xóm núi. Vậy nên, bức tranh về cuộc sống con người ấy hiện lên thật chân thực và sống động.

Trên nền của không gian nơi thôn dã, hình ảnh người thôn nữ trở thành nhân vật trung tâm của bức tranh. Hồ Chí Minh dù vẫn còn đang lê bước chân mình trong xiềng xích, thế nhưng Hồ Chí Minh vẫn cảm nhận được thật rõ vẻ đẹp của con người lao động.

Nếu như ở hai câu thơ trên, hình ảnh thiên nhiên đang đi vào chiều tối, đàn chim cũng đang trở về tổ của mình để nghỉ ngơi sau một ngày mỏi mệt, và đám mây cũng lững lờ trôi nhàn tản trên bầu trời, thì hai câu sau, nhịp thơ lại nhanh hẳn lên để thể hiện nhịp sống của con người lao động.

Khi thiên nhiên đang dần bước vào giai đoạn nghỉ ngơi thì con người vẫn đang tiếp tục nhịp sống thường ngày của mình và dường như nhịp sống ấy còn gấp gáp hơn nữa. Con người giờ đây trở thành chủ thể trung tâm của bức tranh thiên nhiên.

Cô thôn nữ trong bức tranh thơ đang chăm chỉ lao động cần mẫn, không ngừng nghỉ, “ma bao túc” rồi lại “bao túc ma hoàn” – một vòng lặp tuần hoàn. Những vòng quay lặp lại ấy đang vun vút xay ngô còn thời gian đang trôi dần đi trong tĩnh lặng. Con người trong thơ Bác chẳng tĩnh lặng, buồn tẻ như trong thơ bà Huyện Thanh Quan:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Mà con người ở đây dù trời xế tà thì họ vẫn đang vận động, đang lao động trong cuộc sống hằng ngày. Chính hành động ấy đã góp phần làm tăng thêm tính sống động, góp thêm hơi ấm con người cho bức tranh thiên nhiên thanh bình kia.

Con người trong Chiều tối đã trở thành chủ thế làm chủ thiên nhiên chứ chẳng bị thiên nhiên bức ép như trong thơ cổ xưa nữa. Hai câu thơ tả thiên nhiên thật tĩnh lặng, im lìm đến nhường nào thì hai câu thơ này lại đột nhiên sôi nổi hẳn lên. Chính cuộc sống con người đã mang thêm phần hơi ấm cho khung cảnh thiên nhiên.

Không chỉ vậy, Người còn gọi người con gái đang xay ngô bên bếp lửa kia là “sơn thôn thiếu nữ” – một từ thật gợi lên bao nhiêu cảm xúc. “Thiếu nữ” – một cô gái trẻ, tràn trề thanh xuân, đó là tiếng gọi thân thương, trìu mến, gợi tả niềm vui sướng, hân hoan khi bắt gặp con người chốn hoang sơ này.

Hơn thế nữa, hình ảnh “cô em xóm núi” không xuất hiện một mình đơn độc như cánh chim ở trên mà bên cạnh còn là một “lò than” nóng hổi đang dần “rực hồng”. Trong một buổi chiều tà dần tối, không khí đang dần trở lên cóng lạnh thì một bếp lửa hồng ánh lên kia thật làm người ta ấm lòng biết bao.

Chẳng những nó sưởi ấm không khí mà còn sưởi ấm cả tâm hồn của người thi sĩ. Nó ấm áp và lan tỏa biết nhường nào. Bếp lửa “rực hồng” ấy qua con mắt tinh tế của người thi sĩ cũng thể hiện niềm lạc quan, niềm tin tưởng của người cộng sản rằng ngày mai sẽ luôn tươi sáng, rực hồng như bếp lửa kia.

Từng câu thơ trong Chiều tối của Hồ Chí Minh chẳng hề nhắc tới một khái niệm thời gian, thế nhưng từ khi nhìn thấy bức tranh thiên nhiên rồi đến bức tranh con người, người đọc vẫn nhận thấy sự luân chuyển của thời gian theo cánh chim, theo làn mây, theo cả những vòng quay xay ngô của cô thôn nữ.

Cô thôn nữ xay xong ngô thì lò than cũng hồng rực lên, tức là trời đã sập tối hẳn. Buổi chiều qua rồi buổi tối đến nhưng cái tối của buổi đêm không hề âm u mà lại rất ấm áp, rất sáng bởi có bếp lửa hồng đã làm rực lên tất cả.

Sự vận động, luân chuyển liên tục từ sáng vào tối rồi lại từ tối trở lại sáng. Nếu cả bài thơ là một bầu trời lẻ loi, cô đơn buồn tủi thì hai câu thơ cuối với sự xuất hiện của con người, của bếp lửa đã làm ấm lòng người thi sĩ và người đọc chúng ta rất nhiều.

Cô thôn nữ và bếp lửa hồng đã châm lên ngọn lửa sưởi ấm cả khung cảnh cô đơn của người tù xa quê nơi xứ người. Cũng từ đó, nó như tiếp thêm cho con người đang bị xiềng xích kia niềm tin và sức mạnh, niềm lạc quan để vượt qua nghịch cảnh khó khăn này.

Bài thơ Chiều tối là sự kết hợp của bức tranh thiên nhiên và bức tranh con người lao động. Bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng nhưng bức tranh con người lại sinh động, chân thực và ấm áp vô cùng. Tổng thể của bức tranh ấy là tâm hồn yêu thiên nhiên, niềm lạc quan, tin tưởng của người tù xa quê vào cuộc sống, vượt lên trên nghịch cảnh.

Bằng thể thơ cổ thất ngôn tứ tuyệt cùng với các biện pháp chấm phá, ước lệ cổ điển, Hồ Chí Minh đã vẽ lên bức tranh Chiều tối thật hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Có thể nói, đây là một trong những bài thơ hay nhất trong các tác phẩm thơ ca của Hồ Chủ tịch. Không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên, niềm tin cuộc sống mà nó còn thể hiện một tinh thần, ý chí sắt đá trong tâm hồn thi sĩ của Hồ Chí Minh.

Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh
Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh

Số 9: Phân tích bức tranh thiên nhiên trong thơ Chiều tối

Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ kính yêu, Người cha già của dân tộc Việt Nam chúng ta, Người đã hi sinh tất cả vì nền độc lập tự do của dân tộc. Bác sinh ra và lớn lên tại vùng quê Nghệ An nghèo khó là nơi có truyền thống hiếu học và bắt nguồn những cuộc khởi nghĩa đấu tranh yêu nước đầu tiên, sống gia đình có truyền thống khoa bảng nên Bác sớm tiếp xúc với Hán học, thông thạo về Nho học, có tâm hồn nhạy cảm và tài năng từ rất sớm nên khi thực dân Pháp xâm lược Bác đã ra đi tìm con đường cứu nước cho cả dân tộc.

Con đường văn chương, các di sản về văn học của Bác song song với con đường hoạt động cách mạng cho dù là lúc ở nước ngoài, lúc về lãnh đạo cách mạng trong nước hay chính cả trong hoàn cảnh tù đầy những áng văn, thơ vẫn rất đa dạng và thống nhất giữa chính trị và văn chương, giữa tư tưởng và nghệ thuật. Đây cũng là vũ khí chiến đấu, là động lực cho cách mạng thành công.

Bài thơ Chiều tối là một trong những tác phẩm có hòan cảnh ra đời đặc biệt. Hai câu thơ đầu mở ra bức tranh tự nhiên trong buổi chiều tối:

“Quyện điểu quy vân tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

Dịch thơ:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”

Bức tranh thiên nhiên được tác giả vẽ nên với đầy đủ các yếu tố: không gian, thời gian, điểm nhìn, cảnh vật. Không gian là ở giữa rừng hành quân rộng lớn, vắng lặng đến rợn người tạo cảm giác hiu quạnh, con người ở đây bị bao phủ bởi núi rừng hùng vĩ trở nên lẻ loi và cô liêu hơn trước sự choáng ngợp của không gian.

Thời gian được tác giả nhắc đến là “chiều tối” cũng là tên của bài thơ, đay là thời gian cuối cùng của một ngày trước lúc mặt trời lặn gợi ra cảm giác của sự mỏi mệt trên con đường chuyển lao của Bác đi mãi đi mãi mà vẫn chưa đến, cuối ngày là khoảng thời gian mà con người ta được nghỉ ngơi, ăn uống, ngồi nói chuyện với nhau, muôn thú cũng đang tìm “chỗ ngủ” nhưng trong hoàn cảnh này Bác vẫn đang trên đường chuyển lao vất vả.

Điểm nhìn của Bác là từ dưới ngước lên trời cao để thấy được cánh chim trời, thấy được “chòm mây” đang trôi, từ điểm nhìn ấy thể hiện tâm thế của Bác vẫn rất ung dung, đường hoàng và hết sức lạc quan mặc dù đang mệt và cần được nghỉ ngơi nhưng tâm hồn vẫn là nguồn nghị lực “thép” vươn lên vượt qua mọi hoàn cành tù đầy khắc nghiệt nhất.

Cảnh vật được tác giả nhắc đến là cánh “chim” và “chòm mây”. Hình ảnh cánh “chim mỏi” lúc cuối ngày đang bay về tìm chỗ ngủ sau một ngày tìm kiếm thức ăn, là báo hiệu cho một ngày sắp kết thúc, màn đêm sắp buông xuống. Tiếp đến là hình ảnh “chòm mây” cô đơn, lẻ loi đang trôi nhẹ nhàng trên nền trời xanh, nó như cô đơn giữa bầu trời bao la ấy chỉ trôi lững lờ, chầm chậm – “mạn mạn”.

Bức tranh về tự nhiên được vẽ nên như làm nền cho nhân vật trữ tình với tâm thế ung dung, tự tại, hòa nhập với thiên nhiên, tinh thần vẫn rất đỗi lạc quan vượt lên trên hoàn cảnh  qua đó thể hiện lòng yêu thiên nhiên, yêu tự do của Bác dù ở trong cả những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất.

Hai câu thơ cuối tác giả miêu tả bức tranh về cuộc sống con người nơi núi rừng hùng vĩ:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Ma túc ma hoàn, lô dĩ hồng”

Dịch thơ:

“Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết, lò than đã rực hồng”

Bức tranh về cuộc sống sinh hoạt, lao động cảu con người ở hai câu thơ cuối này được tác giả thay đổi điểm nhìn để miêu tả cũng như sự thay đổi của không gian và thời gian tương ứng. Tầm nhìn của tác giả thu xuống mặt đất không còn trên trời bao la nữa.

Không gian cũng bị thu hẹp đang ở núi rừng hùng vĩ, bao la giờ thu hẹp lại là thôn xóm, “xóm núi”. Thời gian cũng chuyển tiếp từ buổi chiều tối sang tối hẳn thông qua hình ảnh “lò than”, hình ảnh con người lao động là trung tâm của toàn bài được tác giả làm nổi bật từ cảnh vật thiên nhiên, không gian và thời gian, hình ảnh thiên nhiên làm nổi bật thêm hình ảnh của con người lao động.

Cô thôn nữ với hoạt động “xay ngô tối” đều đặn tuy lao động trong thời gian dài, khoảng thời gian đủ cho lò than “rực hồng” nhưng vẫn rất khỏe khoắn, bền bỉ. Tác giả sử dụng điệp vòng tròn “ma bao túc”, “bao túc ma” diễn tả những vòng quay đều đặn của chiếc cối xay ngô với nhịp điệu lao động hang hái của cô “thôn nữ”.

Hình ảnh “lò than đã rực hồng” không chỉ là nguồn ánh sáng cho cô gái xay ngô buổi đêm và còn biểu trưng cho niềm tin cách mạng, ý trí quyết tâm đanh thép của Bác ngay cả trong hoàn cảnh bị tù đầy. Qua đây nói nên vẻ đẹp tâm hồn của Bác lạc quan, yêu cuộc sống, yêu lao động, luôn có ý trí, nghị lực phi thường.

Bài thơ Chiều tối là một trong những tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt cuả Hồ Chí Minh, đó là khi Bác bị Tưởng Giới Thạch bắt giam và trên đường chuyển nhà giam từ Tĩnh Tây sang Thiên Bảo vào buổi chiều thu năm 1942, tức cảnh mà lời ra từ tâm trạng o ép khi là người tù cách mạng. Bài thơ Chiều tối chính là bài thơ số 31 của tập thơ “ Nhật kí trong tù” đặc sắc. Bài thơ được viết bằng chữ Hán với thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt, cả bài thơ gồm hai phần chính: hai câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên của buổi chiều tối nơi núi rừng hoang vu, hai câu thơ còn lại là bức tranh về cuộc sống con người khi trời tối.

Số 10: Phân tích bức tranh thiên nhiên trong Chiều tối

Bức tranh thiên nhiên lúc chiều buồn được Bác đột phá bằng hai hình ảnh cánh chim và chòm mây:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”

Có ý kiến cho rằng, cánh chim về tổ gợi sự xum họp, quần tụ ấm áp, tâm hồn Bác nhẹ tênh như du khách thưởng ngoạn. Đây là cách hiểu chưa thỏa đáng vì người phân tích mới chỉ dựa vào hai câu thơ dịch thiếu chính xác. Bản dịch đáng mất nghệ thuật đảo ngữ “quyện điểu” và chưa dịch sát “cô vân mạn mạn”.

Thực chất đây là buổi chiều buồn man mác được thể hiện bằng bút pháp cổ điển đặc sắc, bởi ngược dòng thời gian trở về với thượng nguồn văn học ta thường bắt gặp những dáng chim bay, những chòm mây lạ mang tín hiệu biểu trưng cho buổi chiều. Ca dao từng khắc khoải:

“Chim bay về núi tối rồi”

Trong thơ Nguyễn Du cũng có hình ảnh chim bay:

“Chim hôm thoi thóp về rừng”

Đặc biệt hai câu thơ của Bác rất gần với hai câu thơ của Lý Bạch:

“Chúng điểu cao phi tận

Cô vân độc khứ nhàn”

Dịch:

“Bầy chim nhất loạt bay cao

Lưng trời thơ thẩn đám mây một mình”

Cũng là “chúng điểu”, cũng là “cô vân” song chỉ giống nhau ở hình xác thi liệu. Đọc kĩ mới thấy thơ Bác và thơ Lý Bạch khác xa nhau bởi hai thế giới cảm xúc. Cánh chim trong thơ Lý Bạch “cao phi tận” tức là bay vào cõi hư vô, lạnh buốt mang cảm xúc thoát tục, lánh đời.

Còn cánh chim trong thơ Bác có điểm đến rất rõ ràng: “về rừng” tức là trở về cõi trần gian với đời thường gần gũi. Còn “cô vân” của Lí Bạch (độc khứ nhân) nhàn tả ung dung thoát tục, còn “cô vân” của Bác thì lại trôi chầm chậm giữa bầu trời như mang nặng nỗi niềm suy tư. Hai cõi thơ ấy là hai cõi ấm – lạnh thật khác xa nhau.

Như vậy, hai câu thơ mở đầu của bài “Chiều tối” mở ra trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên đẹp nhưng đượm buồn được chi phối bởi quy luật:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Ở đây, Người buồn vì xa Tổ quốc, quê hương, lại gặp một buổi chiều tàn nơi xóm núi. Cái tình ấy, cái cảnh ấy không làm cho Người vui lên được. Bác tả cảnh để ngụ tình – một bút pháp cổ điển được Người sử dụng thành công trong “Chiều tối”.

Đồng thời qua hai câu thơ này, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh, đó là tình yêu thiên nhiên sâu sắc của Người. Người nâng niu, trân trọng từng giọt sự sống chân chính ở đời. Nhìn cánh chim bay, Người cảm nhận được sự mệt mỏi của nó thì quả là một tâm hồn thơ tinh tế, nhạy cảm.

Mặt khác, nếu đặt hai câu thơ vào hoàn cảnh ra đời của nó, ta mới thấy được bản lĩnh phi thường của người tù chiến sĩ Hồ Chí Minh. Nếu không tự do hoàn toàn về mặt tinh thần thì không thể nào có được những câu thơ viết về thiên nhiên hay như vậy.

Mệt mỏi, đau đớn và chán chường, vậy mà cảm hứng thơ vẫn đến với Bác. Không có chân dung người tù khổ ải mà chỉ hiện ra cái dáng vẻ, phong độ của bậc tao nhân mặc khách đang ung dung, thư thái thưởng ngoạn cảnh chiều hôm nơi núi rừng. Những câu thơ mềm mại nhưng thật ra lại có “chất thép” bên trong. Nếu không có ý chí và nghị lực phi thường vượt lên trên hoàn cảnh, có bản lĩnh kiên cường và sự tự chủ, tự do hoàn toàn về tinh thần ở Bác thì cũng khó có được những vần thơ cảm nhận thiên nhiên sâu sắc, tinh tế như thế trong hoàn cảnh tù đầy khắc nghiệt

Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh
Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh

Tổng kết

Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 10 mẫu phân tích bức tranh thiên nhiên trong Chiều tối chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 11.

0/5 (0 Reviews)
Chúng tôi tạo ra Top10timkiem.vn nhằm mục đích cung cấp cho người đọc những thông tin, liệt kê một cách chi tiết nhất về mọi lĩnh vực trong cuộc sống.