Top 20 mẫu phân tích bài thơ Tự Tình 2 chi tiết nhất

161
Top 20 mẫu phân tích Tự Tình 2 chi tiết nhất
Top 20 mẫu phân tích Tự Tình 2 chi tiết nhất
4.8/5 - (14 votes)

Tổng hợp các bài mẫu phân tích Tự Tình 2 tác giả Hồ Xuân Hương một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 20 mẫu phân tích bài thơ Tự Tình 2 chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Dàn ý phân tích Tự Tình 2

I. Mở bài

– Giới thiệu vài nét về Hồ Xuân Hương:

+ Hồ Xuân Hương (1772 – 1822) là một trong hai nhà thơ nữ nổi tiếng nhất của nền thơ trung đại Việt Nam, được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm” và một đỉnh cao của trào lưu nhân đạo thời kì này.

– Giới thiệu khái quát bài thơ Tự tình 2:

+ Bài thơ Tự tình (bài II) là một trong số ba bài thơ thuộc chùm thơ Tự tình đã cất lên tiếng nói đồng cảm với số phận nhiều cay đắng đau khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

II. Thân bài

Giải thích nhan đề bài thơ

– “Tự tình” là tự bộc lộ tâm tình. Ở đây có thể hiểu là nhà thơ tự đối diện với chính mình để tự vấn, xót thương.

=> Ý nghĩa nhan đề:

+ Tự tình là tự bộc lộ, giãi bày tâm trạng, tình cảm của mình. Hay nói cách khác là sự hé mở nỗi lòng khó nói của tác giả Hồ Xuân Hương.

+ Là tiếng nói thương cảm đối với số phận hẩm hiu của người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến, đồng thời đề cao vẻ đẹp và khát vọng sống của họ.

Luận điểm 1: Nỗi niềm buồn tủi, chán chường (2 câu đề)

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”

– Đêm khuya: lúc nửa đêm về sáng, khi vạn vật chìm trong bóng tối.

– “văng vẳng trống canh dồn” : âm thanh tiếng trống điểm canh. -> nhịp gấp gáp, liên hồi của tiếng trống thể hiện bước đi thời gian gấp gáp, vội vã.

+ “văng vẳng”: từ láy tượng thanh – những âm thanh nhỏ từ xa vọng đến – càng gợi cái im vắng của không gian (lấy động tả tĩnh)

+ “dồn”: đối lập tương phản – âm thanh dồn dập gấp gáp như hối thúc, dội vào lòng người.

=> Câu thơ mở ra với khoảng thời gian, không gian đặc biệt thể hiện nỗi niềm bất an của con người, trở nên nhỏ bé, lạc lõng, cô đơn giữa không gian rộng lớn nhưng tĩnh vắng.

“Trơ cái hồng nhan với nước non”

– Các từ ngữ gây ấn tượng mạnh:

+ “trơ”: trơ trọi, cô đơn, có gì như vô duyên, vô phận, rất bẽ bàng và đáng thương -> thể hiện bản lĩnh thách thức, đối đầu với những bất công ngang trái.

+ “Cái hồng nhan“: cụm từ mang sắc thái trái ngược

“cái“: suồng sã

“hồng nhan“: trang trọng

-> Kết hợp từ lạ thể hiện sự rẻ rúng.

+ “Với nước non“: gợi cốt cách cứng cỏi, tư thế kiêu hãnh của người phụ nữ cô đơn buồn tủi…

=> Hai vế đối lập “cái hồng nhan” và “với nước non” diễn tả bi kịch người phụ nữ trong xã hội.

Luận điểm 2: Tình cảnh lẻ loi và nỗi niềm buồn tủi càng rõ nét hơn (2 câu thực)

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”

– “Chén rượu hương đưa“: Tình cảnh lẻ loi, mượn rượu để giải sầu

– “Say lại tỉnh“: vòng luẩn quẩn không lối thoát, cuộc rượu say rồi tỉnh cũng như cuộc tình vướng vít cũng nhanh tan, để lại sự rã rời.

-> Nỗi cô đơn buồn tủi chồng chất, phải tìm đến chén rượu mong có sự khuây khỏa nhưng kết cục “say lại tỉnh” – lúc tỉnh ra thì nỗi cô đơn buồn tủi lại càng trĩu nặng.

=> Hình ảnh người phụ nữ cô đơn trong đêm khuya vắng lặng với bao xót xa, duyên tình đã trở thành trò đùa của số phận.

“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”

– “Vầng trăng bóng xế“: Trăng đã sắp tàn -> Tuổi xuân đã trôi qua

– “Khuyết chưa tròn“: Nhân duyên chưa trọn vẹn, chưa tìm được hạnh phúc viên mãn, tròn đầy -> Sự muộn màng dở dang của con người. Hướng đến vầng trăng mong tìm thấy một người bạn tri ân giữa đất trời nhưng càng thêm vô vọng.

-> Con người chới với giữa một thế giới mênh mông hoang vắng – bất lực trước nỗi cô đơn trơ trọi của chính mình.

=> Niềm mong mỏi thoát khỏi hoàn cảnh thực tại nhưng không tìm được lối thoát.

Luận điểm 3: Nỗi niềm phẫn uất, sự phản kháng của tác giả (2 câu luận)

“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”

– “rêu từng đám”: sự vật yếu ớt, hèn mọn

– “đá mấy hòn”: sự ít ỏi, nhỏ nhoi, im lìm

-> Ẩn dụ cho thân phận lẻ loi, cô đơn của chủ thể trữ tình.

– “xiên ngang; đâm toạc”: sự bướng bỉnh, ngang ngạnh.

-> Cảnh thiên nhiên qua cảm nhận của tác giả mang niềm phẫn uất và bộc lộ cá tính mạnh mẽ

=> Sự phản kháng mạnh mẽ dữ dội, quyết liệt của người phụ nữ, khát vọng “nổi loạn” phá tung, đạp đổ tất cả những trói buộc đang đè nặng lên thân phận mình…

Luận điểm 4: Tâm trạng chán trường, buồn tủi và khát khao hạnh phúc (2 câu kết)

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại.”

– “ngán”: tâm sự chán trường, bất mãn, ngán ngẩm

– “xuân đi“: tuổi trẻ của con người cứ trôi qua, thời gian thì không chờ đợi.

– “xuân lại lại“: vòng tuần hoàn của thời gian vô tận – cứ mỗi mùa xuân đến cũng là lúc tuổi xuân của con người mất đi, quy luật khắc nghiệt của tạo hóa.

=> Ý thức của con người về bản thân mình với tư cách cá nhân, ý thức về giá trị của tuổi thanh xuân và sự sống: Mùa xuân đi rồi trở lại theo nhịp tuần hoàn còn tuổi xuân của con người cứ qua đi mà không bao giờ trở lại.

“Mảnh tình san sẻ tí con con!”

– “Mảnh tình“: chút tình cảm nhỏ nhoi, không trọn vẹn

– “Tí con con“: sự nhỏ bé, không đáng kể

– “Mảnh tình san sẻ“: mảnh tình vốn đã không được trọn vẹn lại còn phải san sẻ

-> Số phận éo le, ngang trái của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, phải chịu thân phận làm lẽ.

=> Ẩn sâu trong những dòng thơ này là niềm khát khao hạnh phúc tình yêu – một tình yêu nồng thắm, một hạnh phúc trọn vẹn, đủ đầy.

III. Kết bài

Khát quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

+ Nội dung: Bài thơ nói lên bi kịch tình yêu, gia đình của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương nói riêng, của tất cả những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung.

+ Đặc sắc nghệ thuật: Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật Việt hóa một cách sáng tạo; sử dụng từ ngữ giản dị, giàu sức biểu cảm với những động từ mạnh, từ láy tượng thanh; sử dụng những hình ảnh giàu sức gợi; nghệ thuật tiểu đối, tăng tiến

Liên hệ: So sánh, liên hệ bài thơ cùng chủ đề về số phận người phụ nữ xưa.

Top 20 mẫu phân tích Tự Tình 2 chi tiết nhất

Số 1: Phân tích Tự Tình 2

Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nữ tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam, được mệnh danh là “bà chúa thơ nôm”. Bà là một “thiên tài kì nữ” nhưng cuộc đời đầy éo le, bất hạnh. Thơ Hồ Xuân Hương là thơ của phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà vẫn rất trữ tình. Một trong những bài thơ tiêu biểu viết về tâm trạng, nỗi niềm của người phụ nữ trước duyên phận, cuộc đời mình là “Tự tình” (II). Bài thơ có giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ thuật :

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn.

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh,

Vừng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn.

Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con.

“Tự tình” (II) là bài thơ thuộc chùm thơ “Tự tình” gồm ba bài của bà. Đây là chùm thơ nữ sĩ viết để tự kể nỗi lòng, tâm tình của mình. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm, làm theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật với bố cục bốn phần: đề, thực, luận, kết. Bài thơ thể hiện thái độ, tâm trạng vừa đau đớn, vừa phẫn uất trước thực tại đau buồn, tuy vậy, bà vẫn gắng gượng vươn lên, nhưng rồi vẫn rơi vào bi kịch. Dựa vào nội dung bài thơ, ta có thể đoán bài thơ được sáng tác khi bà đã gặp phải những éo le, bất hạnh trong tình duyên.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh người phụ nữ không ngủ, một mình ngồi giữa đêm khuya:

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non.”

Giữa đêm khuya, người phụ nữ thao thức không ngủ được và nàng nghe âm thanh tiếng trống canh dồn dập. “Đêm khuya” là thời gian của hạnh phúc lứa đôi, của sum họp gia đình, vậy mà ở đây, trớ trêu thay, người phụ nữ lại đơn độc một mình. Nàng cô đơn quá nên thao thức không ngủ, nàng nghe âm thanh tiếng trống canh “văng vẳng”. Từ láy này miêu tả âm thanh từ xa vọng lại.

Với nghệ thuật lấy động tả tĩnh, người đọc cảm nhận được không gian đêm khuya tĩnh lặng, im lìm và người phụ nữ thật cô đơn, tội nghiệp. Trong xã hội xưa, tiếng trống canh là âm thanh dùng báo hiệu thời gian một canh giờ trôi qua. Nữ sĩ nghe âm thnah tiếng trống canh “dồn” – tiếng trống dồn dập, khẩn trương – có lẽ là vì nàng đang ngồi đếm thời gian và lo lắng thấy nó trôi qua một cách dồn dập, tàn nhẫn. Nó chẳng cần biết tuổi xuân của nàng sắp vuột mất mà nàng thì vẫn đang phải “trơ cái hồng nhan” ra giữa “nước non”.

Dường như, nỗi cô đơn, xót xa ấy luôn dày vò nữ sĩ nên thời gian trở thành nỗi ám ảnh không nguôi trong tâm hồn bà. Trong chùm “Tự tình”, nỗi ám ảnh về thời gian còn hiện hữu trong âm thanh “tiếng gà”. Người phụ nữ ấy cũng trằn trọc cho đến sáng để rồi nghe âm thanh “tiếng gà văng vẳng gáy trên bom” mà đau đớn, mà oán hận. Ở đây, “hồng nhan” là nhan sắc của người phụ nữ vẫn còn ở độ mặn mà, cái mà bất cứ ai cũng trân trọng.

Thế mà, nó lại kết hợp với từ “cái”- một danh từ chỉ loại thường gắn với những thứ vật chất nhỏ bé, tầm thường. Nàng tự thấy nhan sắc của mình quá nhỏ bé, rẻ rúng bởi nó chẳng khác gì một thứ đồ ít giá trị, lại chẳng được ai đoái hoài đến. Nó phải “trơ” ra, phô ra, bày ra một cách vô duyên, vô nghĩa lí giữa đất trời. Từ “trơ” đứng đầu câu cho ta cảm nhận được nỗi xót xa, đau đớn, tủi hổ, bẽ bàng của người phụ nữ một mình giữa đêm khuya, không ai quan tâm, đoái hoài.

Tuy có bẽ bàng, tủi hổ nhưng ta vẫn thấy ẩn khuất trong câu thơ một nữ sĩ mạnh mẽ, cá tính dám đem cái tôi cá nhân để đối lập với cả “nước non” rộng lớn. Hồ Xuân Hương là thế, không bao giờ chịu bé nhỏ, yếu mềm. Hai câu đầu bằng cách khắc họa thời gian, không gian nghệ thuật và cách kết hợp từ độc đáo đã thể hiện rõ nỗi cô đơn, đau đớn, tủi hổ bẽ bàng trước tình duyên hẩm hiu của chính mình.

Hai câu thực khắc họa sâu sắc sự phẫn uất trước tình cảnh éo le:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn”.

Giữa đêm khuya, cô đơn và buồn tủi, nàng tìm đến rượu để quên đi tất cả nhưng nào quên được “say lại tỉnh”. Say, có thể quên đi được một chốc, nhưng đâu có thể say mãi, rồi sẽ lại “tỉnh” ra. Tỉnh ra lại càng ý thức sâu sắc hơn nỗi cô đơn, xót xa, lại càng buồn hơn. Ẩn sau cái hành động tìm đến rượu để giải tỏa nỗi sầu là cả niềm phẫn uất sâu sắc trước số phận bất hạnh.

Cụm từ “say lại tỉnh” cho thấy cái bế tắc, quẩn quanh trong nỗi buồn, cô đơn của người phụ nữ. nàng cô đơn nên tìm đến vầng trăng bên ngoài kia mong sự đồng cảm. nàng thấy vầng trăng đã “xế” bóng “khuyết chưa tròn”. Nàng nhìn thấy số phận bất hạnh của mình trong hình ảnh vầng trăng : nàng cũng đã ở tuổi “xế” chiều mà tình duyên vẫn hẩm hiu, lận đận, “chưa tròn”. Ở hai câu này, bằng phép đối, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, nữ sĩ đã khắc họa nên tâm trạng bế tắc và nỗi phẫn uất sâu sắc trước duyên phận hẩm hiu, lỡ làng.

Sang hai câu luận, dường như sự phẫn uất ấy biến thành sự chống trả kịch liệt:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.”

Hai câu thơ được cấu tạo đặc biệt: đảo vị ngữ là những động từ mạnh lên đầu câu. “Xiên ngang” và “đâm toạc” là hành động của những vật vô tri vô giác. Trong tự nhiên, rêu là sự vật bé nhỏ, yếu mềm, thế mà ở đây dường như nó mạnh mẽ hơn, cứng cỏi thêm để “xiên ngang mặt đất”. “Đá” là vật bất động, thế mà ở đây cũng đang to hơn, nhọn hơn, đang cựa quậy, “nổi loạn” phá tan không gian tù túng bị giới hạn bởi “chân mây”.

Hình ảnh thiên nhiên động, thiên nhiên “nổi loạn” này không chỉ xuất hiện một lần mà còn có trong nhiều những tác phẩm khác của bà. Lí giải cho sự xuất hiện những hình ảnh thiên nhiên như thế là ở cá tính mạnh mẽ của nữ sĩ. Thiên nhiên được miêu tả thể hiện rõ tâm trạng con người, như đại thi hào Nguyễn Du từng đúc kết về mối quan hệ giữa cảnh và tình : “Cảnh buồn người có vui đâu bao giờ”.

Cảnh được miêu tả là “nổi loạn”, là “phá bĩnh” thể hiện tâm trạng người phụ nữ lúc này cũng muốn “nổi loạn”, quẫy đạp để phá tan số phận bất hạnh, tình duyên hẩm hiu của mình. Dường như, người phụ nữ đang gồng mình lên để chống trả kịch liệt số phận. Đó chính là thái độ phản kháng mạnh mẽ của nữ sĩ trước thực tại đau buồn. Đằng sau sự phản kháng mạnh mẽ ấy là khao khát sống, khao khát hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt của nữ sĩ.

Hai câu thơ, với phép đối, phép đảo nhấn mạnh hai động từ mạnh đầu câu và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã cho thấy sự cố gắng vươn lên đấu tranh với số phận, đồng thời cho thấy khát khao sống, khát khao hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt ở nữ sĩ xinh đẹp, tài năng mà cuộc đời không ưu ái. Người đọc thật sự khâm phục trước bản lĩnh cứng cỏi, không chịu đầu hàng số phận của người phụ nữ cá tính ấy.

Đến hai câu cuối bài thơ, tuy nàng đã cố gắng vươn lên nhưng không thoát khỏi cái thở dài ngán ngẩm trước bi kịch :

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con”.

Nàng thở dài “ngán nỗi”. Nàng chán ngán bởi “xuân đi xuân lại lại”. Mùa xuân và vẻ đẹp của nó phai đi nhưng rồi sẽ quay trở lại theo quy luật của tạo hóa. Nhưng “xuân” của người phụ nữ, tuổi trẻ và sắc đẹp của nàng thì không thể nào trở lại được, mà cứ mỗi một mùa xuân trôi đi là lại thêm một lần nữa tuổi xuân của đời người ra đi, thế nên nàng “ngán”. Cụm từ “lại lại” như một sự thở dài ngao ngán trước sự trôi chảy tàn nhẫn của thời gian.

Nó cứ trôi đi, không thèm để ý đến cái bi kịch đang cướp đi tuổi trẻ của nàng : “mảnh tình san sẻ”. Tình yêu của nàng vốn dĩ mỏng manh, bé nhỏ, chỉ là một “mảnh”, thế mà còn phải san sẻ”, chia năm sẻ bảy ra thật tội nghiệp. bởi vậy mà nó chỉ còn là một “tí” ‘con con”. Nghệ thuật tăng tiến theo chiều giảm dần khiến người đọc thấy rõ cái bi kịch xót xa của nữ sĩ và cảm thương cho con người tài hoa mà bạc mệnh. Bi kịch ấy đeo đẳng lấy người phụ nữ khiến nàng không chỉ thốt lên ngao ngán một lần. Trong “Tự tình” (III) nàng cũng từng thở dài :

“Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh”.

Đây cũng là một cách nói khác của bi kịch tình yêu bị chia năm sẻ bảy. Nàng có chồng – “ôm đàn” – nhưng lấy chồng mà vẫn “tấp tênh” như chẳng có, “một tháng đôi lần có cũng không”. Hai câu kết bài thơ với những từ ngữ giản dị, tự nhiên và nghệ thuật tăng tiến, người đọc cảm nhận được cái chán ngán khi rơi vào bi kịch của nữ sĩ. Tuy thế, dư âm của cái khát khao sống, khát khao hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt ở hai câu trước vẫn khiến người đọc cảm phục bản lĩnh cứng cỏi của “bà chúa thơ Nôm”.

Với ngôn ngữ thơ nôm giản dị, tự nhiên nhưng cũng sắc nhọn, với các biện pháp nghệ thuật đảo, đối, dùng động từ mạnh, tả cảnh ngụ tình…bài thơ thể hiện tâm trạng vừa đau đớn, vừa phẫn uất trước duyên phận, nhưng vẫn cố gắng vươn lên với khát khao sống, khát khao hạnh phúc mãnh liệt, tuy vẫn rơi vào bi kịch.

Tóm lại, “Tự tình” (II) thể hiện bản lĩnh Hồ Xuân Hương qua tâm trạng đầy bi kịch : vừa buồn tủi, phẫn uất trước tình cảnh éo le, vừa cháy bỏng khao khát được sống hạnh phúc. Đọc bài thơ, ta vừa thương xót cho số phận bất hạnh, vừa khâm phục bản lĩnh cứng cỏi của nữ sĩ. Bài thơ là minh chứng tiêu biểu cho tài năng ngôn ngữ của “bà chúa thơ Nôm”.

Bài Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương
Bài Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương

Số 2: Phân tích bài thơ Tự Tình 2

Hồ Xuân Hương là một trong những nữ thi sĩ xuất sắc của Việt Nam, số lượng tác phẩm bà để lại khá nhiều, và phong cách sáng tác thơ chủ yếu của bà là tả cảnh ngụ tình. Bà còn được biết đến với hình ảnh của một nữ nhà thơ viết nhiều về thân phận người phụ nữ, là người dũng cảm đề cao vẻ đẹp, sự hi sinh và đức hạnh của người phụ nữ, đồng thời lên tiếng bênh vực cho họ và phê phán lên án gay gắt chế độ xã hội cũ. Tự tình 2 là một trong những bài thơ hay, chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc của chính tác giả và cũng là của người phụ nữ nói chung.

Bài thơ mở đầu với hai câu thơ vừa tả cảnh nhưng cũng tả hình ảnh của một ngươi phụ nữ hay có thể gọi là hồng nhan. Nhưng tiếc thay, hồng nhan đó lại rơi vào hoàn cảnh cô đơn trống vắng, giữa đêm khuya u tịch.

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Từ láy “văng vẳng” được tác giả sử dụng để miêu tả thứ âm thanh từ xa vang lại, mặc dù không biết nó xuất phát từ đâu hoặc dù ở xa nhưng nghe mỗi lúc một gần một rõ hơn. Thời gian được nhắc tới là “đêm khuya” – thời điểm khiến con người dễ rơi vào các cung bậc cảm xúc trạng thái khó tả nhất, cũng chính thời gian này có một người phụ nữ vẫn ngồi đó, không yên lòng mà ngủ được vẫn ngồi đó nghĩ ngợi về mọi thứ xung quanh đặc biệt về con người cuộc đời của mình.

Là một người phụ nữ có nhan sắc, nhưng lại được miêu tả “trơ với nước non”.  Trước cuộc đời rộng lớn, người phụ nữ đó nhận ra thân phận của mình lẻ loi đơn chiếc, và âm thanh của trống cầm canh lại càng điểm thêm một nỗi buồn, trống vắng khó tả. Người phụ nữ ấy đã tìm đến rượu để giải sầu:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng xế bóng khuyết chưa tròn”

Mỗi khi có chuyện gì đó sầu muộn, người xưa thường tìm đến trăng đến rượu để trút bầu tâm sự. Chỉ muốn uống thật say, hương rượu thật nồng để quên đi tất cả, nhưng nghịch lí thay, chén rượu đưa lên mũi, hương nồng vào mũi người muốn say nhưng tâm và suy nghĩ vẫn đang rất tĩnh. Không có nỗi buồn nào biến mất ở đây mà càng làm hiện hữu rõ nỗi lòng của người phụ nữ lúc này. Hình ảnh vầng trăng xuất hiện nhưng khuyết chưa tròn phải chăng ngụ ý cho thân phận, cho hạnh phúc của chính tác giả. Là người tài giỏi nhưng duyên phậm hẩm hiu chưa một lần trọn vẹn. Tuổi xuân dần đi qua mà hạnh phúc vẫn chưa tới bến đỗ:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”

Hình ảnh rêu được đưa ra đây nhưng mang những dụ ý sâu xa của tác giả Hồ Xuân Hương. Rêu là loài mỏng manh nhỏ bé nhưng lại có sức sống vô cùng mạnh mẽ, không dừng lại đó, ở bất cứ một điều kiện nào thì nó vẫn có thể tươi tốt, dù là điều kiện sống như thế nào đi chăng nữa. Hình ảnh “rêu từng đám” đâm xuyên ngang mặt đất gợi ra cho chúng ta những liên tưởng mạnh mẽ về sự phản kháng mạnh mẽ cũng như sự chống đối của nó với thứ có thể mạnh hơn nó.

Hình ảnh “đá mấy hòn” cũng vậy, đối lập với sự nhỏ bé của những viên đá với sự rộng lớn của trời đất, nó lại càng làm nổi bật sức mạnh của những viên đá, quả thực nó không tầm thường một tí nào. Sự đồng điệu của người và thiên nhiên, luôn đối mặt với khó khăn thách thức nhưng chưa bao giờ đi đến thành công. Kiếp làm vợ lẽ, dù cố thoát ra nhưng vẫn không được. Cho nên mới có hai câu cuối:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con”

Thiên nhiên thuận theo đất trời, xuân đi rồi xuân lại tới, nhưng con người lại khác, với người phụ nữ tuổi xuân trôi đi nhưng chẳng bao giờ quay lại thêm một lần nào nữa. Lại càng đáng buồn hơn cho những số phận hẩm hiu, chờ mong cả tuổi xuân, chờ có một niềm hạnh phúc trọn vẹn nhưng nào đâu có được.

Trước sự lẻ loi, chán chường mà Hồ Xuân Hương đã sử dụng” ngán” phần nào nói lên được nỗi lòng của thi sĩ bây giờ. Mảnh tình đã bé lại còn phải san sẻ, chia nhỏ ra. Không được hưởng một tình yêu một hạnh phúc trọn vẹn, tới khi tìm đến với hạnh phúc lại phải san sẻ, thật quả là đáng thương. Qua đây cũng ngầm ẩn ý về những số phận của người phụ nữ, chịu cảnh thê thiếp, dưới chế độ cũ không được coi trọng và không có quyền lên tiếng.

Tự tình 2 là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách cũng như tư tưởng của Hồ Xuân Hương đặc biệt là những vấn đề xoay quanh người phụ nữ. Qua đây chúng ta cũng thấy được một Hồ Xuân Hương vừa yếu mềm nhưng cũng thật ngang tàng mạnh mẽ khi dám bộc lộ những suy nghĩ của chính mình.

Số 3: Cảm nhận về bài thơ Tự Tình 2

Trong hệ thống những bài thơ mang chứa tâm sự của Hồ Xuân Hương, “Tự tình” là một trong những bài thơ hay nhất. Bài thơ thể hiện nỗi buồn, nỗi cô đơn thấm thía của người yêu đời, tràn đầy sức sống nhưng gặp cảnh ngộ éo le, một con người luôn khao khát tình yêu nhưng chỉ gặp toàn dang dở, bất hạnh. Đó còn là sự bất hạnh của một mơ ước không thành.

Sinh ra và lớn lên trong một quy trình tiến độ lịch sử dân tộc đầy sóng gió ( nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX ), Hồ Xuân Hương là người tận mắt chứng kiến và phần nào chịu ảnh hưởng tác động cái không khí sôi sục của trào lưu quần chúng đòi quyền sống, quyền niềm hạnh phúc cho con người. Không khí ấy tác động ảnh hưởng đến tâm hồn vốn mưu trí và giàu lòng trắc ẩn của bà. Bà uy nghiêm, thức tỉnh, trăn trở về đời mình, một cuộc sống lắm éo le, bạc phận : Lấy chồng hai lần, hai lần làm lẽ và hai lần chồng đều chết sớm. Điều đó, với bà là những biểu lộ đơn cử, đầy nước mắt của nỗi đau “ hồng nhan bạc phận ”.

Mở đầu bài thơ ” Tự tình “, tác giả gợi ra một khoảng chừng thời hạn, một góc khoảng trống xao xác tiếng gà. Đây là một thứ khoảng trống, thời hạn thẩm mỹ và nghệ thuật được vận dụng làm nền cho sự thổ lộ tâm trạng tác giả : ” Cảnh khuya văng vẳng trống canh dồn “. ” Văng vẳng ” chính là từ tượng thanh nhưng ở đây nó vừa biểu lộ tâm trạng, không khí, cái không khí buồn yên lặng của một người thao thức giữa đêm khuya thanh vắng. Câu thứ hai nhức nhối một tâm sự :“ Trơ cái hồng nhan với nước non ”Hay nhất của câu thơ thứ hai là từ “ trơ ”. Trơ là trơ trọi, đơn độc, một mình. Nhà thơ cảm nhận nỗi buồn hồng nhan.

Một nỗi buồn “ đơn cử ” càng kinh điển hơn khi cọ xát với toàn xã hội, toàn cuộc sống : “ nước non ”. Một nỗi buồn đè nặng lên tâm sự bà, lên số phận của người phụ nữ. Không chịu đựng nổi, bà muốn chống lại, thoát khỏi. “ Chén rượu hương đưa ” là một phương tiện đi lại. Không phải phương tiện đi lại duy nhất nhưng hầu hết là ở đầu cuối cho một đè nén quá mức. Thế nhưng, thảm kịch vẫn cứ là thảm kịch :“ Chén rượu hương đưa say lại tỉnh ” .Câu thơ nữ sĩ gợi nhớ một câu thơ đầy trầm tư của Lí Bạch :“ Dùng gươm chém nước, nước chẳng dứtUống rượu tiêu sầu, sầu vẫn sầu ”Bất lực, câu thơ chuyển sang một sự cám cảnh sinh tình.

Hồ Xuân Hương nói :“ Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn ”Trong quan điểm thẩm mĩ xưa, vầng trăng tượng trưng cho cuộc sống, tuổi tác của người phụ nữ. Câu ” Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn ” vừa là một hình ảnh đẹp, có thực nhưng đượm buồn. Cái buồn của một “ vầng trăng khuyết ”. Đối với thơ xưa, cảnh là tình, cảnh trăng khuyết man mác, gợi nhớ cuộc sống bà. Trong “ mời trầu ” bà đã ẩn ý tâm lý như vậy .Sang câu 5, 6 tứ thơ như bất ngờ đột ngột chuyển biến. Sự đơn cử trong miêu tả khiến việc tả cảnh trở nên thuần khiết.

Một cảnh thực trọn vẹn :” Xiên ngang mặt đất rêu từng đám ,Đâm toạc chân mây đá mấy hòn ”Nghệ thuật hòn đảo ngữ và đối tạo nên sự sinh động và cảnh đầy sức sống. Một sức sống nhờ tài quan sát của bà như quẫy đạp, cựa mình. Cảnh này chỉ hoàn toàn có thể là cảnh của ” Bà chúa thơ Nôm ” chứ không phải của ai khác. Rõ ràng, dẫu đang rất buồn, rất đơn độc nhưng điều đó vẫn không suy giảm chất riêng của Hồ Xuân Hương.

Bản lĩnh, sức sống mãnh liệt, sự khao khát với cuộc sống khiến mặc dầu lòng đầy cám cảnh bà vẫn nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời, tha thiết, chứa chan sức sống. Đó là sự lí giải về những phản kháng, đối nghịch trong thực chất bà, tạo nên những vần thơ châm biếm trái chiều. Vũ khí ấy hơn hẳn chén rượu “ say rồi tỉnh ”. Đó là phương tiện đi lại kì diệu nâng đỡ tâm hồn bà. Chỉ như thế mới hoàn toàn có thể hiểu tâm trạng, tiếng thở dài của Hồ Xuân Hương, ở hai câu thơ kết :“ Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại ,Mảnh tình san sẻ tí con con ! ” .

Yêu đời là thế, sức sống mãnh liệt là thế mà cuộc sống riêng thì vẫn : “ Xuân đi xuân lại lại ”, điệp từ chỉ cái vòng luẩn quẩn đáng ghét, vô vị của ngày tháng, cuộc sống. Điều này khiến bà không tránh khỏi một tiếng thở dài chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa cái tuần hoàn thời hạn ấy là một “ mảnh tình ” đang bị san đi, sẻ lại … chia xới. Đối với trái tim thiết tha với đời kia, điều đó như một vết thương, nhức nhối .

Người ta nói rằng thơ là tâm trạng, là một bức thông điệp thẩm mĩ. Đọc “Tự tình”, là thấu hiểu được tâm sự ẩn chứa bi kịch của Hồ Xuân Hương. Là một nhân cách luôn khao khát hạnh phúc, là một tâm hồn tràn đầy sức sống, yêu đời lại bắt gặp toàn những dở dang, bất hạnh, điều đó tạo nên trong thơ bà có khi là môt tiếng thở dài.

Một tiếng thở dài đáng quý của một người có hoài bão nhưng không thể thực hiện được, trách nhiệm là ở phía xã hội phong kiến, một xã hội mà hạnh phúc riêng đã đối lập thật gay gắt với cơ cấu xã hội chung. Trong chiều hướng ấy, “Tự tình” là một bài thơ đòi quyền hạnh phúc, một lời phản kháng độc đáo lại chứa chan tiếng nói bênh vực của người phụ nữ, tạo được sự thấu hiểu, đồng cảm với những cảnh ngộ éo le, trắc trở.

Số 4: Phân tích bài Tự Tình 2

Trong xã hội phong kiến với những lễ giáo khắt khe người phụ nữ luôn phải chịu nhiều cay đắng, thiệt thòi. Họ bị ràng buộc bởi “Tam tòng tứ đức”, bởi “Công dung ngôn hạnh” mà mất đi quyền làm chủ, quyền hạnh phúc. Đó là nguồn cảm hứng cho các nhà văn nhà thơ luôn có tấm lòng nhân đạo đồng cảm, xót thương cho con người. Hồ Xuân Hương là nữ thi sĩ có nhiều tác phẩm viết về đề tài người phụ nữ cũng là để than ngẫm, thương xót cho chính thân phận của mình.

Chùm thơ Tự tình của bà gồm ba bài là sự phản ánh đặc sắc tâm tư, tình cảm của nhà thơ. Trong đó Tự tình bài II được coi là bài thơ hay nhất khắc họa hình ảnh người phụ nữ “hồng nhan bạc phận” đường tình duyên không trọn vẹn, quá lứa lỡ thì nhưng luôn khao khát có một hạnh phúc bình dị, đời thường.

Người phụ nữ xuất hiện trong hoàn cảnh không gian, thời gian là đêm khuya thanh vắng con người trở nên cô đơn, bé nhỏ, lạc lõng cùng với biết bao những đắng cay, tủi hờn cho thân phận bẽ bàng của mình.

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Người phụ nữ ấy có nhan sắc “hồng nhan” vẻ đẹp bên ngoài cũng là để nói đến cái phẩm hạnh, đức hạnh “tấm lòng son” ở bên trong nhưng lại phải chịu số phận bất hạnh, dở dang. Từ “Trơ” đứng ở đầu câu càng nhấn mạnh thêm nỗi đau. Nếu xét về phương diện tính cách của Hồ Xuân Hương có cá tính mạnh mẽ, táo bạo thì đó lại là sự thách thức, trơ lì ra của một con người chịu quá nhiều tủi hờn, đau buồn mà trơ ra với “nước non”. “Cái hồng nhan”gợi sự rẻ rúng bị coi khinh. Người phụ nữ đầy đủ vẻ đẹp hình thể và tâm hồn nhưng phải sống một cuộc đời khổ đau, hẩm hiu về duyên phận.

Hồ Xuân Hương ý thức được số phận của người phụ nữ sống trong chế độ phong kiến thối nát phải chịu nhiều ngang trái nên bà muốn mượn chén rượu, mượn chút hương nồng để quên đi nỗi sầu. Nhưng càng uống càng tỉnh càng ý thức rõ ràng hơn về thực tại khổ đau, bà luôn luẩn quẩn trong vòng xoáy nghịch cảnh của cuộc đời.

Bà chúa thơ Nôm không phải là người phụ nữ cam chịu, chấp nhận số phận mà bà luôn mang trong mình cá tính táo bạo kháng cự quyết liệt. Bà đã từng lên tiếng khinh bỉ, coi thường những bậc nam nhi vô dụng trong xã hội xưa mà nói rằng:

“Ví đây đổi phận làm trai được

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”

Một con người tự tin dám khẳng định bản thân mình thì không bao giờ chịu chấp nhận nghịch cảnh mà thay vào đó là một ý thức phản kháng mạnh mẽ, muốn vượt lên số phận, mong mỏi một hạnh phúc đời thường. Bà nhìn thấy trong những sự vật nhỏ bé tưởng chừng như yếu ớt nhưng lại mang trong mình một sức sống dồi dào

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”

Trong đôi mắt của một tâm hồn mạnh mẽ thì những vật vô tri vô giác như rêu, đá cũng căng tràn nhựa sống mà “xiên ngang”, “đâm toạc” được cả những sự vật lớn lao, rộng lớn là “mặt đất”, là “chân mây”. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến không phải ai cũng ý thức và có được thái độ cứng rắn như Hồ Xuân Hương.

Càng kháng cự bao nhiêu càng cho thấy khao khát được hạnh phúc bấy nhiêu. Người phụ nữ cần và đáng được hưởng một mái ấm gia đình, được chồng yêu thương chăm sóc, tay ấp tay gối bên chồng chứ không phải cô đơn, giường đơn gối chiếc trong đêm khuya thanh vắng một mình xót xa, tủi hờn.

Nhưng càng ước vọng bao nhiêu lại càng thất vọng, thương xót cho thân phận mình bấy nhiêu khi

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con!”

Hồ Xuân Hương chán chường, ngán ngẩm khi ngày qua ngày hết năm này qua năm khác “xuân đi xuân lại lại” nhưng vẫn cô đơn lẻ bóng một mình, bà cũng xót xa cho tuổi xuân của mình qua đi, tuổi đời càng thêm nhưng tình yêu chưa bao giờ được trọn vẹn, được thương yêu với đúng nghĩa của một người làm vợ. Mảnh tình ấy đã mỏng manh, ít ỏi lại còn phải “chia năm sẻ bảy” để rồi chỉ còn “tí con con”. Mặc dù thi sĩ là người có tài năng, giỏi giang, xinh đẹp đức hạnh nhưng phải chăng vì lẽ “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” mà bà cũng không thể vượt qua được nghịch cảnh của số phận.

Thương thay cho thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa khiến cho Nguyễn Du thi hào nhân đạo chủ nghĩa của nhân loại cất lên tiếng khóc:

“Đau đớn thay thân phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.

Với tài năng sử dụng ngôn ngữ dân tộc cùng với các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc bài thơ Tự tình II của Hồ Xuân Hương đã khắc họa được hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn phải chịu nhiều bất hạnh, đắng cay nhưng chưa bao giờ thôi khao khát hạnh phúc gia đình, hôn nhân trọn vẹn, có thể làm chủ được số phận của mình. Bên cạnh đó càng điểm tô thêm vẻ đẹp và những phẩm chất, đức hạnh của người phụ nữ Việt Nam cần được gìn giữ và tiếp nối.

Bài Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương
Bài Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương

Số 5: Cảm nhận Tự Tình 2

Một nhà phê bình văn chương nổi tiếng đã từng đưa ra một quy luật : “Văn chương, thơ ca là tấm gương phản chiếu của tâm hồn, là tiếng nói tình cảm của nhân loại, là những rung động của trái tim trước cuộc đời tươi đẹp. Những giá trị tinh thần mà văn chương, thơ ca đem lại, đã thoát khỏi cái quy luật băng hoại của thời gian, để trường tồn mãi mãi”. Không nằm ngoài quy luật đó, Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng muốn để lại cho hậu thế những tác phẩm hoàn mỹ, đạt đến sự xuất sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất là bài thơ Tự Tình II – Là tiếng nói thương cảm đối với số phận hẩm hiu của người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến, đồng thời để cao vẻ đẹp và khát vọng sống của họ.

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,

Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con!”

Với thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật được viết theo ngôn ngữ Nôm thuần Việt, bài thơ có lẽ đã được nữ sĩ viết về cuộc đời của chính bản thân mình, torng một phút suy tư. Nữ sĩ đã cảm nhận cuộc sống qua những âm thanh, quang cảnh lạnh buồn, vắng lặng và tự cảm thương cho số phận hẩm hiu của bà. Đó cũng là số phận chung của những người phụ nữ trong Xã hội đương thời..

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Hai câu thơ mở đầu trên còn được gọi là hai câu thơ ĐỀ trong thể thơ độc đáo này. Nhắm mắt suy nghĩ về cuộc sống, từng nhịp thở của người phụ nữ trong đêm khuya lạnh tanh hoà theo tiếng trống thông báo dồn dập, diễn tả sự qua đi nhanh chóng của thời gian. Đêm nay, người phụ nữ đang lẻ loi, cô độc một mình. Không còn một âm vang nào khác, không còn những tiếng ồn ào náo nhiệt của một ngày dài, chỉ còn tiếng trống canh cùng người phụ nữ. Từ “Trơ” – một trong những từ ngữ thể hiện sự chua chát của cuộc đời và sự đối lập giữa vẻ đẹp “Hồng nhan” – “Nước non”.

Tại sao nữ sĩ Hồ Xuân Hương lại đặt mình vào trong nhân vật với một không gian buồn bã, tàn lụi đến như vậy? Đối với riêng nữ sĩ khi đối mặt với cái thực tế đó, tâm trạng bà thế nào? Phải chăng bà muốn diễn tả thân phận không chỉ của riêng bà, mà còn là của những người phụ nữ khác trong cái quy luật cổ hủ, vô nhân đạo “Hồng nhan bạc phận” ? Hay cái thân phận phải đi làm “Vợ lẽ” – Không được tôn trọng cả về phẩm giá và tâm hồn ? Thật đớn đau …

Bước qua hai câu thơ kế, cũng là hai câu thực, liệu rằng ta có cảm nhận được diều gì trong sáng hơn, tươi đẹp hơn hay không ?

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”

Trong cái không gian cô quạnh không bóng người của bầu trời đêm, người phụ nữ tìm đến những chén rượu để giải thoát mình khỏi nỗi sầu não của cuộc đời. Thật độc đáo khi sử dụng nghệ thuật “Mượn cảnh ngụ tình” trong hai câu thực này. Nỗi buồn đau, tụi nhục – như đã đề cập ở trên, có thể là thân phận làm vợ lẽ, phải chịu sự ghen ghét, cay nghiệt của người vợ cả ?

Một chút hương rượu nồng có thể đã đưa người phụ nữ đến những giấc mơ trong cơn mê để xoa dịu những nỗi đau trong giây phút thực tại. Nhưng… Càng về khuya, khi tiếng trống canh dãn dài ra, thời gian bắt đầu chậm lại, thì cũng là lúc mùi hương nhè nhẹ của những chén rượu không còn tác dụng. Người phụ nữ chợt bừng tỉnh về phút giây hiện tại chan chứa nỗi buồn.

Ba từ : “Say lại tỉnh” đã chứng minh được điều đó. Càng uống càng tỉnh, cảng tỉnh lại càng nghĩ suy. Trong cái “Bóng xế khuyết chưa tròn” của Vầng trăng tưởng chừng như êm đềm, phải chăng tác giả đang nghĩ về nhan sắc của mình đang tàn phai theo năm tháng, mà tình duyên vẫn chưa thể vẹn toàn? Ánh trăng đêm là ánh trăng của kỷ niệm, của hẹn ước yêu đương, của bao đôi tình nhân. Ánh trăng cũng là biểu tượng của sự thuỷ chung của bao tình yêu đôi lứa.

Giờ đây, ánh trăng đó sắp tàn và đang dần khuất bóng sau những rặng dừa cao, người phụ nữ vẫn chưa thể chìm sâu vào giấc ngủ. Trăng chưa thể tròn, như cuộc tình dang dở của người phụ nữ. Có lẽ, nữ sĩ Hồ Xuân Hương muốn đưa cái sự suy nghĩ về lẽ đời, về sự hạnh phúc mà tác giả đang mong đợi vào chính tâm trạng của nhân vật.

Trong lúc suy tư đó, mà đối với những bạn trẻ đang hạnh phúc là vầng trăng cổ tích, còn đối với người phụ nữ là ánh trăng suy tư, tác giả đã đánh động người đọc ra khỏi sự suy nghĩ về nỗi đau của phái đẹp trong xã hội phong kiến lạc hậu bằng hai câu thơ luận :

“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”

Ánh mắt ngước nhìn bầu trời đêm có trăng, có sao, có mây trôi, có gió thổi tự lúc “Trống canh dồn”, giờ đây người phụ nữ lạc lõng đó đang ngắm nhìn những sự vật xung quanh mình. Có lẽ nào người phụ nữ ấy đang dạo quanh đâu đó trong khung cảnh khi bình minh chưa ló dạng, và phát hiện ra một sự thật hiển nhiên mà lâu nay không một ai để ý đến? Những động từ mạnh mẽ như “Xiên ngang” – “Đâm toạc” được sử dụng trong phép đảo ngữ đã toát lên được sức mạnh của sự sinh tồn từ trong những sự vật nhỏ bé.

Giữa mặt đất đầy đất và đá, đâu đó mọc lên một nhành cây con con, xanh tươi. Cũng đâu đó dưới khung trời rộng lớn nhưng trống trải, những hòn đá tuy nhỏ bé thôi, cũng đủ làm khung cảnh trở nên sinh động… Ta đang cảm nhận được sức mạnh của thiên nhiên. Những ngọn cỏ tí hon hay những sự vật vô tri như hòn đá kia, đã được tác giả tô điểm bằng nghệ thuật vô cùng độc đáo. Chính điều đó đã đánh thức người đọc ra khỏi tâm trạng u uẩn của người phụ nữ cô đơn trong bóng đêm.

Ta cũng cảm nhận được sức sống mãnh liệt để sinh tồn, dù trước mắt hiện tại đang rất rất khó khăn của từng sự vật thiên nhiên. Nếu như thế, phải chăng tác giả đang hướng người đọc đến sự hạnh phúc, niềm tin ở tương lai, dù khó khăn, bất hạnh ở phút hiện tại, đối với nhân vật trong bài thơ, với tác giả hay toàn thể những người phụ nữ trong Xã hội phong kiến? Dưới góc nhìn của chúng ta ở thời này, có thể cho là như vậy. Với hai câu Luận này, khát vọng sống và được sống, yêu và được yêu của nữ sĩ được thể hiện vô cùng quyết liệt ! Thật là một người phụ nữ có ý chí và niềm tin

Tưởng chừng như cảnh cửa cuộc đời đang mở ra cho người phụ nữ và toàn thể phái đẹp trong Xã hội phong kiến một hạnh phúc và niềm tin mới, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã kéo chúng ta về suy nghĩ hiện tại, cũng chính là hai câu thơ kết, vừa chua xót, vừa đắng cay của cuộc đời :

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con!”

Tâm trạng mong mỏi chờ đợi của người phụ nữ lại trở về khi ngày mới bắt đầu. Quy luật của thời gian chính là chỉ trôi theo một chiều chứ không tương tác song song. Xuân đến rồi Xuân lại đi. Ngày xuân hôm qua cũng chẳng giống ngày xuân hôm nay. Mùa xuân năm sau cũng khác hẳn mùa xuân năm nay. Chẳng có sự vật gì có thể thoát khỏi quy luật chung đó. Thế nhưng Xuân thì có thể đến, chứ người thì không thể trường tồn mãi mà không già đi. Tuổi xuân – là nhan sắc mà mỗi ngày một phai tàn của những “Hồng nhan”.

Người phụ nữ ấy vẫn mong chờ một ngày nào đó được cảm nhận hạnh phúc trọn vẹn thật sự, bằng cả trái tim nồng cháy của người đối diện, để nàng có thể trao đi tất cả những gì được gọi là sự thuỷ chung, sự vẹn toàn của tình yêu. Đó cũng là nỗi uất ức khi “Tình đã nhỏ, mà còn xé nhỏ hơn” thì cũng tương tự việc chia cắt trái tim. Thật không còn gì có thể diễn tả được nỗi đau đó. Bằng nghệ thuật tăng tiến giảm dần, ta thấy được sự ít ỏi, nhỏ bé của hạnh phúc trong cảnh cái cảnh chồng chung đáng phê phán, chê trách ấy…

Có lẽ khi đọc đến đây, chúng ta mới cảm nhận được nỗi đau khổ đau đáu cũng những người phụ nữ thầm lặng, hi sinh cho chồng cho con, hay những số phận hẩm hiu khác trong xã hội đương thời. Bài thơ “Bánh trôi nước” của nhà thơ cũng từng thể hiện được nội dung tương tự. Thế nhưng trong cái xã hội này, ta cũng thấy được những người phụ nữ được sống trong hạnh phúc, được sự quan tâm, yêu thương của chồng con, dù cuộc đời có bôn ba vất vả. Tiêu điểm cho nhận định này chính là bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương. Nói cho cùng thì bất kỳ ai, sống trong thời kỳ nào thì cũng có nỗi khổ riêng của chính họ mà thôi…

Nhà thơ Hồ Xuân Hương với tác phẩm Tự Tình là một trong những bản thơ Nôm hay nhất, diễn tả chân thực đời sống bất hạnh của người Phụ nữ Việt Nam xưa, đồng thời thể hiện được tài năng, sự ngang tàng của bà chúa thơ Nôm này. Tác phẩm xứng đáng đứng trong bộ thơ Nôm hay nhất nền văn học trung đại Việt Nam.

Ngoài ra tác phẩm cũng thể hiện được ước nguyện cháy bỏng của tất cả phụ nữ của mọi thời đại. Giá trị của bản thơ vẫn còn, thậm chí là rất được đánh giá cao sau hơn 200 năm sáng tác. Hi vọng xã hội này sẽ không còn người phụ nữ nào phải chịu nỗi đau, nhục nhã, để không còn ai phải viết lên những nỗi đau thương về số phận đáng thương, như nhà thơ Hồ Xuân Hương cách đây 200 năm nữa …

Số 6: Cảm nhận bài thơ Tự Tình 2

Hồ Xuân Hương được Xuân Diệu tôn vinh là “Bà chúa thơ Nôm”. Bà tài hoa thông minh nhưng cuộc đời gặp nhiều bất hạnh, đường tình duyên lận đận, hai lần lấy chồng đều toại nguyện.Bà để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ giàu giá trị mang cả chữ Hán và chữ Nôm. Nổi bật trong sáng tác thơ Nôm hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm đối với người phụ nữ, là sự khẳng định đề cao vẻ đẹp khát vọng của họ.

Tác phẩm “Tự tình II” tiêu biểu cho phong cách sáng tác của tác giả, nằm trong chùm thơ tự tình gồm ba bài thơ. Tác phẩm như một tiếng nói bênh vực, đông vui sống cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua đó, phê phán xã hội phong kiến vô nhân đạo và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ và thể hiện khát khao hạnh phúc lứa đôi ,khát vọng sống mãnh liệt.Điều đó được thể hiện qua khổ thơ sau:

“Đêm khuya vắng vắng trống canh dồn

 Trơ cái hồng nhan với nước non

 Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

 Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn

 Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

 Đâm toạc chân mây đá mấy hòn

 Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

 Mảnh tình san sẻ tí con con!

Đêm tối đến là khoảng thời gian con người đối diện với chính mình. Nếu người đọc đã từng đồng cảm xót xa phải người phụ nữ có chồng đi chinh chiến người trinh phụ buồn tủi cô đơn phải tâm sự với ngọn đèn móc ké Đêm tối đến là khoảng thời gian con người đối diện với chính mình. Nếu người đọc đã từng đồng cảm xót xa, người phụ nữ có chồng đi chinh chiến người chinh phụ buồn tuổi cô đơn phải tâm sự với ngọn đèn”Đèn có biết dường bằng chẳng biết”. Hai nàng Kiều tủi nhục ê chề khi phải tiếp khách làng chơi “Giật mình mình lại thương mình xót xa”. Nhân vật trữ tình trong bài thơ “Tự Tình II” cùng mang một nỗi niềm cô đơn buồn tủi :

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Mở đầu bài thơ là một khoảng không gian tĩnh lặng vào thời gian “đêm khuya” con người thường về đối diện với lòng cô đơn bé nhỏ. Âm thanh “trống canh dồn” “văng vẳng” giữa đêm khuya tĩnh mịch, thanh vắng gợi cảm nhận được thời gian trôi chậm chậm.Nhân vật trữ tình như cảm nhận được bước đi của thời gian. Thời gian trôi qua theo từng hồi trống gấp gáp liên hồi khiến cho lòng người nặng trĩu.

Câu thơ thứ hai tác giả sử dụng đảo ngữ “trơ” đặt ở đầu câu để nhấn mạnh sự nhỏ bé, cô độc. “Hồng nhan” là từ dùng để chỉ một người con gái đẹp. Nhưng tác giả lại sử dụng “cái hồng nhan” như một sự mỉa mai, khinh thường, nhan sắc gắn liền với những đồ vật vô tri vô giác bởi “cái hồng nhan” nhỏ bé còn “nước non” thì quá rộng lớn, mênh mông thể hiện nỗi xót xa cay đắng và như một lời thách thức, thái độ ngang bướng mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương với xã hội phong kiến.

Trước không gian mênh mông,rộng lớn, người phụ nữ nhận ra thân phận lẻ loi, cô đơn của mình. Âm thanh của “trống canh dồn” lại càng thêm một nỗi buồn khó tả. Chính vì vậy, nhân vật trữ tình mượn rượu để giãi bày tâm sự:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”

Trong cái không gian hiu quạnh, cô độc của màn đêm “văng vẳng” vài tiếng trống người phụ nữ tìm đến chén rượu mong muốn giãi bày những nỗi sầu của cuộc đời. Cụm từ “say lại tỉnh” như một vòng luẩn quẩn càng uống lại càng tỉnh làm cho người đọc cảm nhận được mượn rượu giải sầu lại càng sầu, rượu chỉ mang lại cho người trữ tình cái đắng cái chát. Hình ảnh “vầng trăng” xuất hiện nhưng lại “khuyết chưa tròn”.

Phải chăng tác giả đang ngụ ý cho chính nhan sắc và tình yêu của mình, nhan sắc đã tàn phai theo năm tháng nhưng tình yêu vẫn chưa hạnh phúc trọn vẹn. Giờ đây, ánh trăng đó sắp tàn và đang dần khuất bóng nhưng người phụ nữ vẫn còn suy tư chưa ngủ được. Trăng “khuyết chưa tròn” như cuộc tình dang dở, éo le của người phụ nữ.

Nếu hai câu thực thể hiện tình duyên éo le, tội nghiệp của nhà thơ thic hai câu luận thể hiện sự phẫn uất, căm phẫn trước duyên phận ngang trái của mình:

“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”

Câu thơ tả cảnh sử dụng biện pháp đối lập. Hình ảnh ” tuy nhỏ bé mong manh nhưng với sức mạnh mạnh mẽ “xiên ngang mặt đất”. Hình ảnh “rêu từng đám” đâm “xiên ngang mặt đất” gợi cho chúng ta những liên tưởng tưởng tượng đến sự phản kháng mạnh mẽ của nó với những thứ lớn lao, to lớn hơn nó. Đá nhọn,cứng rắn nhưng lại có thể “đâm toạc chân mây” trước mắt. Sự hoà hợp, đồng điệu của con người và thiên nhiên, luôn đối đầu với những khó khăn thử thách nhưng chưa bao giờ thành công. N

hà thơ mượn hình ảnh thiên nhiên để bộc lộ thái độ phản ứng khá mạnh trước tình duyên dang dở bằng giọng thơ phản kháng, phẫn uất. Ta thấy rõ được tác dụng của nghệ thuật đối lập và đảo ngữ ở hai câu thơ. “Rêu” yếu ớt, “đá” cứng rắn để nhấn mạnh tâm trạng phẫn uất, bộc lộ sự ngang bướng, không khuất phục, giành quyền sống và mưu cầu hạnh phúc chính đáng cho bản thân.

Tưởng chừng cuộc đời như mở ra cánh cửa hi vọng tình yêu cho Hồ Xuân Hương và toàn thể người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nhưng hai câu thơ kết tác giả đã mở ra trước mắt người đọc một thực tại khắc nghiệt, vừa chua xót, vừa cay đắng:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con”

Hai câu thơ kết nhân vật trữ tình đã bộc lộ nỗi cay đắng của đời người “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại”, người phụ nữ đã phát “ngán”, ngán ngẩm trước số phận cuộc đời. Quy luật của thời gian đó là chỉ trôi theo một chiều và không trở lại. Xuân đến rồi xuân lại đi, nhưng con người lại khác, người phụ nữ tuổi xuân trôi đi nhưng không bao giờ quay trở lại. Bằng nghệ thuật tăng tiến theo chiều giảm dần “mảnh tình san sẻ tí con con”.

Người phụ nữ với mảnh tình nhỏ bé, ít ỏi lại còn phải đi “san sẻ”. Không được hưởng tình yêu cao đẹp nhưng đến khi có được tình yêu thì lại phải san sẻ cho người khác. Cách miêu tả cho thấy nữ sĩ chán chường, cay đắng trước xã hội phomg kiến. Qua đó ngầm ẩn ý về số phận chịu cảnh thê thiếp, dưới chế độ phong kiến không được tôn trọng và không có tiếng nói. Sự phẫn uất, căm phẫn về số phận “năm thê bảy thiếp” được Hồ Xuân Hương một lần nữa tái hiện qua “Lấy chồng chung”

“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng

Năm chừng mười hoạ hay chăng chớ

Một tháng đôi lần có cũng không”

Bài thơ “Tự tình 2” sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật,ngôn ngữ đặc sắc độc đáo, cách dùng từ tinh tế “trơ cái hồng nhan”, “say lại tỉnh”, “khuyết chưa tròn”, “xiên ngang”, “đâm toạc”. Qua đó thể hiện tâm trạng đau buồn, phẫn uất trước duyên phận hẩm hiu của mình. “Tự tình II” như một lời bộc bạch về số phận, tình yêu suy tư trăn trở của nhân vật trữ tình trong cuộc đời. Từ đó người đọc đồng cảm, cảm thông trước khát vọng sống, khát khao về một hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Số 7: Phân tích Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương

Thân phận lẽ mọn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến là một đề tài khá phổ biến trong văn học dân gian và văn học viết thời hiện đại. Tình yêu và hạnh phúc gia đình là một trong những mối quan tâm lớn của văn học từ xưa đến nay. Nó góp phần thể hiện rõ tinh thần nhân đạo trong văn học. Chùm thơ Tự tình là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về người phụ nữ trong văn học Việt Nam – Hồ Xuân Hương.

Người phụ nữ cô đơn trong đêm khuya vắng lặng nghe tiếng trống cầm canh báo thời khắc đi qua. Canh khuya là thời gian từ nửa đêm cho đến sáng. Nàng cảm thấy tiếng trống canh báo hiệu thời gian khắc khoải mong ngóng một điều gì. Nhưng càng mong lại càng không thấy. Tiếng trống canh đang dồn dập kia chính là thông báo về thời gian tâm trạng của nàng. Nó thể hiện nỗi chờ mong khắc khoải, thảng thốt thiếu tự tin, đầy lo âu và tuyệt vọng của người đàn bà.

Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng bẽ bàng của người vợ cô đơn chờ mong chồng mà chồng không đến bằng một chữ trơ – trơ trọi, trơ cái hồng nhan, cái thân phận phụ nữ với nước non, với đời, với tình yêu.

Hai câu tiếp theo, Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng tuyệt vọng của người vợ chờ chồng.

Câu thơ ẩn chủ từ, chỉ thây hành động và trạng thái diễn ra. Chén rượu hương đưa nghĩa là uống rượu giải sầu cho quên sự đời, nhưng say rồi lại tỉnh, tức là uống rượu vẫn không quên được mối sầu!

Vầng trăng bóng xế trong câu bốn có nghĩa là đêm đã gần tàn, nhưng trăng chưa tròn mà đã xế, thể hiện cảm xúc về hạnh phúc chưa tròn đầy. Vầng trăng bóng xế cũng có thể có hàm ý chỉ tuổi người đã luống mà hạnh phúc chưa đầy.

Nếu như bốn câu thơ đầu tiên diễn tả cái tâm trạng chờ đợi mòn mỏi có phần tuyệt vọng, buông xuôi, thì ở hai câu năm và sáu, Hồ Xuân Hương đã bất ngờ vẽ ra hình ảnh một sự cảm khái. Cái đám rêu kia còn được bóng trăng xế xiên ngang mặt đất soi chiếu tới. Ta có thể tưởng tượng: mấy hòn đá kia còn được ánh trăng đâm toạc chân mây để soi đến.

Hoá ra thân phận mình cô đơn không bằng được như mấy thứ vô tri vô giác kia! Đây không nhất thiết phải là cảnh thực, mà có thể chỉ là hình ảnh trong tâm tưởng. Mấy chữ xiên ngang, đâm toạc có ý tiếp cái mạch văn trũng bóng xế ở câu trên. Nhưng các sự vật, hình ảnh thiên nhiên ở đây diễn ra trong dáng vẻ khác thường, do việc tác giả sử dụng những từ ngữ chỉ hành động có tính chất mạnh mẽ, dữ dội:

“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”

Hai câu thơ này cũng có thể hiểu là đảo ngữ: rêu từng đám xiên ngang mặt đất, còn đá mấy hòn vươn lên đâm toạc chân mây. Và đó không phải là hình ảnh của ngoại cảnh, mà là hình ảnh của tâm trạng, một tâm trạng bị dồn nén, bức bối muốn đập phá, muốn làm loạn, muốn được giải thoát khỏi sự cô đơn, chán chường. Nó thể hiện cá tính mạnh mẽ, táo bạo của chính Hồ Xuân Hương.

Những dồn nén, bức bôi, đập phá của tâm trạng nhà thơ bất ngờ bộc phát, và cũng bất ngờ lắng dịu, nhường chỗ cho sự trở lại của nỗi buồn chán và bất lực, chấp nhận và cam chịu. Câu thơ Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại chứa đựng biết bao nhiêu là thời gian và sự chán nản kéo dài. Cuộc đời cứ trôi đi, thời gian cứ trôi đi, tình yêu và hạnh phúc thì chỉ được hưởng tí chút. Tác giả đã đi, tình yêu mà hạnh phúc thì chỉ được hưởng tí chút.

Tác giả đã dùng từ mảnh tinh để nói cái tình bé như mảnh vỡ. Lại nói san sẻ – Chắc là san sẻ với chồng, san sẻ với vợ cả chăng? Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ, như một tổng kết, như một lời than thở thầm kín của người phụ nữ có số phận lẽ mọn về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi không trọn vẹn trong xã hội xưa.

Bài thơ là lời than thở cho số phận hẩm hiu của người phụ nữ chịu cảnh lẽ mọn, thể hiện thái độ bi quan, chán nản của tác giả và thân kiếp thiệt thòi của con người.

Đặc sắc nhất về nghệ thuật của bài thơ là sử dụng những từ ngữ và hình ảnh gây ấn tượng mạnh. Tác giả chủ yếu sử dụng các từ thuần Việt giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét với sắc thái đặc tả mạnh, bằng những động từ chỉ tình thái: dồn, trơ, xế, xiên ngang, đâm toạc, đi, lại lại, san. sẻ, … và tính từ chỉ trạng thái: say, tỉnh, khuyết, tròn… để miêu tả những cảm nhận về sự đời và số phận.

Hình ảnh trong bài thơ gây ấn tượng rất mạnh bởi nghệ thuật đặc tả. Nhà thơ thường đẩy đối tượng miêu tả tới độ cùng cực của tình trạng mang tính tạo hình cao. Nói về sự cô đơn, trơ trọi đến vô duyên của người phụ nữ thì: Trơ cái hồng nhan với nước non. Mấy chữ xiên ngang, đâm toạc đều là những hành động mạnh mẽ như muốn tung phá, đầy sức sống thể hiện những cảm xúc trẻ trung.

Tác phẩm trình bày một cách nghệ thuật mối mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn của người phụ nữ trong cảnh lẽ mọn với hiện thực phũ phàng là sống trong cô đơn, mòn mỏi mà họ phải chịu đựng, giữa mong ước chính đáng được sống trong hạnh phúc vợ chồng với việc chấp nhận thân phận thiệt thòi do cuộc sống đem lại.

Bài thơ bày tỏ sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với nỗi bất hạnh của người phụ nữ, phê phán gay gắt chế độ đa thê trong xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện rõ sự bất lực và cam chịu của con người trước cuộc sống hiện tại.

Bài thơ diễn tả một tình cảm đáng thương, một số phận đáng cảm thông, một khát vọng đáng trân trọng, một tâm trạng đáng được chia sẻ của người phụ nữ trong xã hội xưa. Những mơ ước hạnh phúc đó là hoàn toàn chính đáng nhưng không thể thực hiện được trong điều kiện xã hội lúc bấy giờ, đó là bi kịch không thể giải tỏa. Vì thế giọng điệu của bài thơ vừa ngậm ngùi vừa ai oán. Yêu cầu giải phóng con người, giải phóng tình cảm chỉ có thể tìm được lời giải đáp dựa trên cơ sở của những điều kiện lịch sử – xã hội mới mà thôi.

Số 8: Tự tình 2 phân tích

“Bà Chúa Thơ Nôm” – Hồ Xuân Hương là một nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, thơ của bà chính là tiếng nói thương cảm đối với số phận người phụ nữ, tiếng thơ của bà còn thấm đượm tinh thần nhân đạo khi trân trọng, đề cao vẻ đẹp và những khát vọng chính đáng của người phụ nữ. Bài thơ “Tự tình” (bài II) nằm trong chùm thơ “Tự tình” của bà là một trong những sáng tác mà ở đó ta cảm nhận được tâm trạng buồn tủi, phẫn uất trước duyên phận éo le và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc ở Hồ Xuân Hương.

Mở đầu bài thơ nữ thi sĩ gợi ra một khung cảnh cũng như tâm cảnh mang nặng sự cô đơn, vắng vẻ quạnh hiu:

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non.”

Thời gian được nhắc đến đã là đêm khuya, là khoảng thời gian khá nhạy cảm, nhạy cảm bởi đó là lúc con người ta đối diện với chính bản thân mình, những suy nghĩ, trăn trở bắt đầu bủa vây xung quanh. Thêm vào đó, giữa không gian tĩnh mịch, vắng vẻ của đêm khuya lại có thêm tiếng trống canh dồn, âm thanh “văng vẳng” càng làm tăng sự vắng lặng và quạnh hiu của không gian, tiếng trống dồn dập giống như đang thúc giục dồn dập bước đi thời gian.

Tiếng trống hay cũng là tiếng lòng của nữ thi sĩ, sự rối bời quẩn quanh khi nhận ra sự trôi chảy của thời gian của đời người, mà ta – phận hồng nhan vẫn còn trơ trơ, chỉ có mình ta với nước non, đó là sự cô đơn, lẻ bóng, trơ trọi. Có thể đó là sự tủi hổ trong nhận thức về hoàn cảnh của nhà thơ nhưng cũng có thể đó chính là sự kiên cường, bền bỉ trong con người nhà thơ.

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”

“Say lại tỉnh” giống như một vòng luẩn quẩn, bế tắc của cuộc đời cũng như của tình duyên, muốn say cho quên sầu muộn và nỗi xót xa số phận nhưng càng say lại càng tỉnh, càng thấu hơn nỗi khổ của thân phận. Hình ảnh vầng trăng “bóng xế” nghĩa là trăng sắp tàn, trời sắp sáng lại thêm “khuyết chưa tròn” ấy là sự tương quan với số phận của người nữ sĩ, trăng sắp tàn giống như tuổi xuân đã sắp trôi qua thế nhưng trăng vẫn khuyết chưa tròn ấy là tình duyên vẫn chưa được trọn vẹn như ý. Ta cảm nhận được nỗi lòng cay đắng, xót xa cho duyên phận lỡ làng của nhà thơ.

“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”

Trong hai câu thơ trên, nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ làm tăng sức hấp dẫn của câu thơ, đặc biệt việc đặt các động từ mạnh ở đầu mỗi câu thơ như “xiên ngang, đâm toạc” đã làm tăng sự sinh động của câu thơ. Bức tranh thiên nhiên có mặt đất, chân mây, rêu từng đám mọc xiên ngang mặt đất, những hòn đá dựng đứng như đâm vào toạc cả chân mây. Việc sử dụng hình ảnh và từ ngữ đã gợi nên một thiên nhiên tràn đầy sức sống và ẩn chứa trong đó là tâm trạng, thái độ của nữ nhà thơ. “Xiên ngang, đâm toạc” là sự phẫn uất và phản kháng của nhà thơ đối với cuộc đời, số phận của mình. Từng lời thơ nghe có vẻ đầy căm phẫn nhưng sâu xa ta lại thấy sự chua chát, cam chịu và chấp nhận của nhà thơ.

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con!”

Nhắc đến mùa xuân là nhớ về tuổi xuân của mình, nữ thi sĩ ngán ngẩm bởi mùa xuân qua đi rồi mùa xuân lại đến nhưng tuổi xuân mà qua thì là hết hẳn, chẳng còn lấy lại được nữa. Mà cứ mỗi mùa xuân trở lại lại là sự ra đi của tuổi xuân, nhìn bao mùa xuân qua là bấy nhiêu năm tuổi xuân dần vơi đi, tuổi xuân đã ít cứ theo đà trôi chảy của thời gian vẫn éo le, hẩm hiu và dở dang lỡ làng.

Giống như “mảnh tình” của nàng thi sĩ, đã nhỏ bé chỉ gọi là “mảnh” nhưng lại còn “san sẻ” thành ra chỉ còn một “tí con con” dường như không còn đáng là bao nữa. Những lời thơ như lời tâm sự của nhà thơ về chính tình duyên và số phận của mình, nỗi lòng của nhà thơ thể hiện sự khát khao có được hạnh phúc, nhưng hy vọng bao nhiêu lại phải thất vọng bấy nhiêu, chỉ trách sao số phận của nữ thi sĩ lận đận, phũ phàng.

Ta có thể cảm nhận được sự nỗ lực, sự gắng gượng vươn lên số phận của Hồ Xuân Hương, nhưng dù có cố gắng, dù có kiên cường nhà thơ vẫn phải đối mặt với những trớ trêu, thực tại phũ phàng của số phận. Những ước mơ và khát khao sống, hạnh phúc của nhà thơ là một thái độ sống rất tích cực mà chúng ta phải học tập, dù hoàn cảnh và số phận có phũ phàng với ta nhưng ta vẫn phải sống một cuộc đời thật ý nghĩa.

Bài Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương
Bài Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương

Số 9: Phân tích bài Tự Tình 2 ngắn nhất

Hồ Xuân Hương (1772-1822) là một nữ sĩ nổi tiếng vào khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Bà sinh ra trong một gia đình có nề nếp gia giáo và được hưởng cuộc sống êm đềm sung sướng tuổi thơ ấu. Sau khi mãn tang cha, mẹ bà tái giá với người khác, thế nên bà thường ít tuân theo những ràng buộc lễ nghĩa, gia giáo như phụ nữ đương thời, nhưng với bản tính thông minh sẵn có bà rất nhiệt tình với học hành, thi phú và trở thành một hiện tượng trong nền văn học trung đại lúc bấy giờ.

Cả đường đời và đường thơ của Hồ Xuân Hương luôn ẩn chứa sự phong lưu, phóng khoáng, tuy nhiên trong đó người ta cũng nhìn ra được rằng, dẫu bản thân bà cố gắng thoát khỏi sự kìm kẹp với phụ nữ của chế độ phong kiến thế nhưng có vẻ mọi nỗ lực ấy đều không nhận được kết quả xứng đáng. Bản thân bà mặc dù xinh đẹp, tài năng thế nhưng trong đường tình vẫn phải 2 lần đò, không chỉ vậy còn là làm lẽ, điều đó khiến bà phải chịu nhiều đau khổ và bất mãn.

Nỗi đau của Hồ Xuân Hương lúc bấy giờ chính là nỗi đau chung của phụ nữ Việt Nam thời xưa, họ khát khao hạnh phúc thế nhưng luôn luôn phải chấp nhận sự đối xử bất công của chế độ phong kiến hà khắc, trọng nam khinh nữ, chịu cuộc đời nhiều nước mắt cay đắng. Tự tình II nằm trong chùm thơ Tự tình gồm ba bài của Hồ Xuân Hương là một trong những bài thơ hay nhất, bộc lộ những tâm trạng, những nỗi đau của Hồ Xuân Hương về một kiếp hồng nhan phận bạc.

Hồ Xuân Hương hai lần lấy chồng, đều lấy được người yêu thương và có cùng niềm đam mê thi phú với bà, thế nên cuộc sống hôn nhân có thể được xem là khá tốt so với nhiều phụ nữ cùng thời. Tuy nhiên, trong cả hai lần đi tìm kiếm hạnh phúc Hồ Xuân Hương vẫn không tránh khỏi việc làm thiếp thất cho người ta, việc phải chung chồng và chịu sự chèn ép từ vợ cả cũng như sự ghen tức của những người vợ khác khiến Hồ Xuân Hương khá mệt mỏi. Đặc biệt là những đêm phòng không gối chiếc, nghĩ về phận đời của mình bà lại càng thêm chán chường buồn khổ. Trong Tự tình II Sự cô đơn buồn khổ của bà đã được tái hiện thông qua bối cảnh không gian và thời gian trong hai câu thơ khai đề.

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Bối cảnh thời gian là “đêm khuya” thanh vắng, vốn dĩ tất cả đều đã chìm vào giấc ngủ say nồng để nghỉ ngơi sau một ngày dài, đó là khoảng thời gian vắng lặng và yên tĩnh vô cùng, đặc biệt sự xuất hiện của một âm thanh dài từ tiếng trống cầm canh, cứ như réo rắt thúc giục con người mau yên giấc, đêm đã khuya lắm rồi. Thế nhưng riêng bản thân nhân vật trữ tình khi nghe thấy tiếng trống ấy, lại càng thêm thao thức nhiều hơn, giữa đêm khuya mịt mùng tiếng trống cầm canh tựa như rót thẳng vào hồn thi nhân.

Nó mang lại những nhận thức thực rõ ràng về sự lạnh lẽo, cô độc của Hồ Xuân Hương, đêm vốn đã dài lại càng dài thêm. Thêm vào đó tiếng trống thúc “văng vẳng” từ xa xăm vọng lại, càng gợi ra cái khoảng không bao la tĩnh vắng, còn con người nhỏ bé thì rối bời với hàng loạt nỗi trăn trở lo âu, buồn tủi vì cảnh ngộ lẻ loi đơn chiếc.

Sự cô đơn, lẻ loi ấy được nữ sĩ thể hiện thật rõ trong câu thơ tiếp “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Ở đây Hồ Xuân Hương không hổ là bà chúa thơ Nôm khi sử dụng từ ngữ rất sắc bén, “trơ” vừa là trơ trọi, cô độc một mình, “trơ” lại cũng thể hiện thái độ thách thức, kháng cự, đầy đanh đá, chua ngoa “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Đặc biệt trong cụm “cái hồng nhan” người ta lập tức nhận thấy nữ sĩ đã diễn tả được một cách trọn vẹn giá trị của người phụ nữ xưa.

Một bên dùng từ “cái” thể hiện sự tầm thường rẻ rúng bởi rõ đây là một lượng từ thường sử dụng để đếm, để chỉ các sự vật thông thường, nhỏ nhặt chợ búa. Một bên “hồng nhan” tức để chỉ người con gái trẻ trung có nhan sắc, có tài năng được người người mến mộ, yêu thích, đề cao giá trị của người phụ nữ. Thế nhưng từ cụm “cái hồng nhan” người ta mới thấy thân phận phụ nữ xưa, dẫu có tài, có sắc thì sao, vẫn bị coi nhẹ, vẫn bị xem thường và không thực sự có chỗ đứng trong xã hội. Hồ Xuân Hương bên cạnh việc phơi bày hiện thực số phận cũng thể hiện thái độ chống đối, kháng cự của mình với xã hội đầy bất công.

Bà viết “Trơ cái hồng nhan với nước non” không chỉ để diễn tả cảnh cô đơn buồn tủi của người thiếu phụ giữa cuộc đời, giữa xã hội, và việc lấy “hồng nhan” cho sánh cùng “nước non” còn là sự đề cao giá trị của người phụ nữ, sự thách thức, vượt lên trên số phận để đối đầu cùng với “nước non” cũng chính là xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Câu thơ đã phần nào thể hiện được cá tính cũng như bản lĩnh của Hồ Xuân Hương, phận nữ lưu nhưng chẳng chấp nhận cảnh an phận thủ thường gò bó.

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”

Chắc hẳn nữ sĩ đã đau khổ chán chường lắm, bởi vì đàn bà cuối cùng vẫn là đàn bà, rượu không bao giờ là thú vui tao nhã như đàn ông. Phụ nữ thường chỉ tìm đến rượu khi đã chán chường bế tắc quá đỗi, Hồ Xuân Hương chính là như vậy, trong lúc đêm khuya thanh vắng, trống cầm canh thì một mình mà lại ngả nghiêng bên chén rượu nồng. Bởi ngủ không đặng, mà lòng lại cô đơn, trống trải chỉ các cách uống cho say, để cho cái cay nồng, lâng lâng của rượu xóa tan đi hết những muộn phiền, ước sao cho những khốn khổ trong lòng cũng chóng bay hơi như rượu thì tốt quá.

Thế nhưng người say không thể say mãi (không thể đến cái độ như Chí Phèo say suốt 20 năm được!), bởi nỗi đau của bà là tâm bệnh, say rồi có thể quên được một khắc nào đó, nhưng khi tỉnh lại thì nỗi đau ấy lại càng thêm rõ ràng, càng khắc sâu vào lòng thi nhân, khiến người ta không thôi khổ sở bởi sự ý thức rõ ràng về thân phận hồng nhan bạc mệnh.

Trong cái lúc thanh tỉnh ấy, đêm đã khuya từ lâu, trăng lên sáng tỏ rồi cũng dần xế để nhường chỗ cho mặt trời, tuy nhiên nhìn cảnh trăng và lại nhìn đến bản thân mình, nữ sĩ cũng là nhìn đến hoàn cảnh của bản thân. Trăng kia có thể xế rồi lại mọc, khuyết rồi lại tròn, nhưng cuộc đời người phụ nữ được bao nhiêu lần như thế, “vầng trăng bóng xế” tức là ý chỉ một cuộc đời hồng nhan sắp tàn, bao nhiêu tuổi xuân cũng đã cạn, thế nhưng thi nhân vẫn còn trăn trở một nỗi “khuyết chưa tròn” ấy là chỉ đường tình duyên không trọn vẹn.

Hồ Xuân Hương qua hai lần đò, nhưng chưa một lần cảm thấy viên mãn, bởi bà chịu phận làm thiếp thất phải chia sẻ chồng cho cả kẻ khác, tình yêu chiều của chồng dành cho bà dẫu có nhiều hơn một chút, thế nhưng nó vĩnh viễn không phải là tất cả tấm lòng của người ấy, Tổng Cóc cũng vậy, ông Phủ Vĩnh Trường cũng thế. Đấng nam nhi của bà trước còn mải công danh, sau lưng là cả một dàn giai nhân đợi sủng, đến phiên bà đúng thật chỉ “khuyết chưa tròn” mà thôi.

“Xuyên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”

Đến với những câu thơ luận, người ta nghe mang máng sự vùng vẫy, sự kháng cự của Hồ Xuân Hương lại trở dậy một cách mạnh mẽ. Biện pháp đảo ngữ đưa các động từ mạnh “xuyên ngang”, “đâm toạc” lên đầu câu đã mang đến cho độc giả những ấn tượng sâu sắc về sự uất ức, chán ghét với cái số phận nữ nhi, với cái xã hội lắm những trái ngang và bất công với người phụ nữ.

Những hình ảnh thiên nhiên như “rêu” vốn nhỏ bé yếu ớt, lại mịt mờ trong cuộc đời, chẳng mấy ai để tâm, hay hình ảnh hòn đá tầm thường, trơ trọi, muôn đời tĩnh tại chịu đựng sự tàn phá của thiên nhiên, thế vào trong thơ của Hồ Xuân Hương cũng trở nên mạnh mẽ, quyết liệt phản kháng. Những thứ ấy chính là đại diện cho hình ảnh người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, nhỏ bé, tĩnh tại, chai lì, chịu đựng tuy nhiên khi gặp cảnh áp bức khủng khiếp thì dù yếu đuối họ vẫn sẵn sàng vùng lên đấu tranh, sẵn sàng bộc lộ sự phẫn nộ, sự căm tức trước phận đời éo le trước trời đất, trước vũ trụ to lớn.

Rêu nhỏ bé nhưng cũng “xuyên ngang mặt đất” khô cứng, đá dẫu mấy hòn nhưng cũng đủ “đâm toạc chân mây” thường cao vút, kiêu hãnh. Đó chính là thái độ thách thức, kiêu ngạo, chua ngoa của Hồ Xuân Hương với cuộc đời và vũ trụ, rõ ràng bà chẳng chịu làm cái kiếp đàn bà luồn cúi, an phận. Bà muốn khẳng định mình, muốn để đời biết đàn bà cũng biết giận, biết buồn, và họ cần được xoa dịu chứ không phải là kìm kẹp đè nén.

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con”

Nhưng có lẽ sự giận dữ, thách thức của Hồ Xuân Hương chỉ là một tiếng nói rất nhỏ bé, như muối bỏ ngoài biển khơi, chẳng được mấy người để tâm, thành thử bà lại quay về với thực tại, trở về với nỗi đau thân phận hồng nhan, với số kiếp lẽ mọn.

Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, xuân đến ai cũng mừng vui, riêng chỉ có phận hồng nhan nhìn xuân đến, rồi đi mà lòng càng thêm đau xót. Bởi vấn đề tuổi tác với người phụ nữ là vô cùng nhạy cảm, rõ ràng Hồ Xuân Hương ý thức được quy luật bước đi của thời gian cũng như Xuân Diệu vậy, “Xuân đương tới nghĩa là xuân đang qua/Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già/Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”. Lặng lẽ nhìn mùa xuân đến rồi lại tiến mùa xuân đi mang theo cả những năm tháng thanh xuân của mình, thử hỏi có người phụ nữ nào lại không “ngán”, không chán chường đau thương.

Đời xuân sắc của người phụ nữ chẳng đáng bao nhiêu năm, thế mà lại vẫn thường bị phí hoài bởi những cuộc tình không trọn vẹn, bởi những ngày tháng chờ phu quân ghé thăm trong mòn mỏi. Rồi khi xuân hết, họ lại phải gánh chịu cuộc đời cô đơn, bị ruồng bỏ, với nhan sắc già nua xấu xí, hoa tàn ít bướm. Nỗi đau ấy đối với người phụ nữ vốn phóng khoáng, có khao khát hạnh phúc mạnh mẽ và ước ao về một mối tình trọn vẹn như Hồ Xuân Hương lại càng trở nên sâu sắc.

“Mảnh tình san sẻ tí con con” chính là nỗi đau lớn nhất đời bà, hai lần đò nhưng chẳng lần nào thoát khỏi số phận làm lẽ, phải sẻ chia chồng với người phụ nữ khác. Mà đấng nam nhi thời bấy giờ cũng có dành được bao nhiêu tình cảm cho đám phụ nữ ngày ngày chờ mong ở nhà, với họ phụ nữ chỉ là người cùng họ nối dõi tông đường, là người hầu hạ, phục vụ, nâng khăn sửa túi cho họ. Đúng là chẳng thể mong được ở những người đàn ông trong xã hội cũ một tấm lòng thủy chung, một tấm chân tình nguyên vẹn.

Một mảnh tình mỏng manh mà còn phải chia sẻ cho nhau, nhưng chút tình “tí con con” ấy đối với Hồ Xuân Hương là biết bao mỉa mai, đau đớn cùng chua xót. Bản lĩnh như bà mà cũng chẳng thoát khỏi cảnh chồng chung thì trông mong gì thêm được nữa cho những kiếp đàn bà khác.

Tự tình II là một bài thơ hay bộc lộ được những nỗi niềm chất chứa của nữ sĩ Xuân Hương về cuộc đời của một hồng nhan, cũng là số phận chung của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến hà khắc. Họ phải gánh chịu nhiều nỗi đau thân phận, bị coi thường, rẻ rúng, chịu kiếp chồng chung, chịu cảnh lẻ loi, cô độc, thiếu thốn tình yêu thương trong suốt cuộc đời, phải đớn đau nhìn tuổi xuân chảy trôi vùn vụt mà không một ai cùng thấu hiểu.

Bên cạnh đó bài thơ cũng thể hiện bản lĩnh của Hồ Xuân Hương trước cuộc đời, trước số phận, bà không cam chịu lẽ sống đầy bất công, bà chua ngoa phản kháng một cách mạnh mẽ để thỏa nỗi bực tức, uất ức bấy lâu trong lòng. Dẫu rằng cuộc đời của bà cũng không mấy hạnh phúc, thế nhưng Hồ Xuân Hương chính là tấm gương tiêu biểu cho sự vùng lên của phụ nữ dưới chế độ phong kiến, cần được trân trọng và yêu quý bởi sự kiên cường dũng cảm hiếm có này.

Số 10: Phân tích bài Tự Tình 2 lớp 12

Tự tình là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Hồ Xuân Hương, đây là bài thơ tự bày tỏ lòng mình. Như chúng ta cũng biết Hồ Xuân Hương sống vào cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỷ XIX , bà xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, cha làm nghề dạy học. Thế nhưng, Hồ Xuân Hương không chịu gò bó vào cái xã hội eo hẹp, tù túng mà bà là một người phóng khoáng, đa tài, đa tình, giao thiệp với những nhà văn, tài tử, đi rất nhiều nơi.

Nhưng éo le thay, người xưa thường có câu “Hồng nhan bạc phận”, bà cũng phải chịu kiếp số lận đận, éo le, đầy ngang trái trong con đường tình duyên. Các tác phẩm của bà chủ yếu được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Người ta thường gọi bà là “Bà chúa thơ Nôm”. Hồ Xuân Hương – hiện tượng độc đáo trong lịch sử văn học Việt Nam.

Bài thơ Tự Tình được viết dưới dạng Đường luật thất ngôn bát cú. Với lối viết sắc xảo và cũng chính là lời tự bày tỏ lòng mình nên chủ đề bài thơ được hiện lên là một nghịch đối: duyên phận muộn màng, lỡ dở trong khi tác giả cứ lạnh lùng trôi qua. Điều này dẫn đến tâm trạng vừa buồn vừa phẫn uất, nhưng cuối cùng vẫn đọng lại trong tâm trí của bà.

Để thấy rõ được nội dung chính, ta sẽ đi vào tìm hiểu sâu qua các câu thơ. Bài thơ được viết theo thể thơ đường luật bát cú ngôn nên bố cục gồm 4 phần: 2 câu đề, 2 câu thực, 2 câu luận và 2 câu kết.

Trước hết, tác giả mở đầu với hai câu đề:

“Đêm khuya văng vẳng bóng canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non.”

Khung cảnh được hiện lên là một đêm khuya, khi con người chìm sâu vào giấc ngủ, nhưng cũng chính là lúc người ta đối diện với chính mình và đây cũng là lúc Hồ Xuân Hương nhận ra được cảnh đáng thương của mình. Sự cô đơn, lẻ bóng một mình gắn liền với thời gian, tạo cho người ta một cảm giác thật đáng thương cho thân phận người phụ nữ.

Tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng nghệ thuật lấy động nói tĩnh: âm thanh “văng vẳng” của tiếng trống cầm canh để nói lên một không gian tĩnh lặng, vắng vẻ. Chính cái khoảnh khắc ấy, tự soi vào mình, tác giả thấy “trơ” mà đặc biệt nó còn được đặt ở đầu câu, càng thêm nhấn mạnh nỗi đau, bất hạnh về đường tình duyên, số kiếp “hồng nhan bạc phận” của chính tác giả.

“Trơ” ở đây có thể được hiểu là tủi hổ, bẽ bàng. Tiếp theo nó là “cái hồng nhan” ý nói đến dung nhan của người phụ nữ, thường được dùng trong xã hội xưa. Nhưng điều đáng chú ý ở đây, một nhân phẩm, vẻ đẹp của người phụ nữ lại gọi là “cái” gợi cho người đọc thấy được sự rẻ rúng, mỉa mai. “Cái hồng nhan” trơ với nước non không chỉ là sự cay đắng, tủi hổ mà còn là nỗi xót xa, thấm thía, càng ngẫm càng thương thân. Nhưng chữ “trơ” ở đây một phần cũng có thể hiểu được đó chính là sự gan dạ của Xuân Hương, là sự thách thức.  Để nhấn mạnh điều này, tác giả đã dùng nhịp thơ: 1/3/3 để nhấn mạnh vào sự bẽ bàng.

Nối tiếp hai câu đề, tác giả viết:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tàn”

Với hai câu thơ thực trên, hoàn cảnh và tâm trạng của nhà thơ được hiện lên rõ hơn. Khi sầu, người ta thường làm bạn với rượu, để có thể quên đi mọi thứ không vui, những nỗi đau. Thế nhưng “say lại tỉnh” làm nỗi buồn không thể nguôi được.

Đây chính là một vòng quay luẩn quẩn, tình duyên đã trở thành một trò đùa, càng say càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau của thân phận. Câu thơ là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm trạng. Vì vậy, tạo nên sự đồng nhất giữa tâm trạng và cảnh “ trăng” sắp tàn “bóng xế” và vẫn “khuyết chưa tròn”. Tuổi xuân, cái tuổi đẹp nhất của người con gái đã trôi qua mà nhân duyên vẫn chưa trọn vẹn gợi lên một nỗi sầu lẻ bóng.

Tiếp tục hướng về ngoại cảnh, lấy thiên nhiên để bày tỏ tâm trạng, nỗi lòng của mình, Hồ Xuân Hương viết:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”

Hai câu luận ở trên được tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh trạng thái của thiên nhiên, nhưng đó cũng chính là tâm trạng của con người. Rêu và đá là hai hình ảnh được hiện lên là những vật yếu mềm, không chịu chấp nhận sự thấp bé ấy, đã vươn lên bằng mọi cách, vượt qua những cản trở (mặt đất, chân mây) để chứng tỏ mình. Các động từ mạnh: xiên, đâm kết hợp với bổ ngữ ngang, toạc gợi cho người ta thấy sự ngang ngạnh, phẫn uất. Nó không chỉ thể sự phẫn uất mà còn nói lên một phần của sự phản kháng. Cũng có thể cho người đọc ngầm hiểu Hồ Xuân Hương với sức sống mãnh liệt ngay cả khi đau buồn nhất.

Khép lại bài thơ với hai câu kết:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tý con con”

Hồ Xuân Hương đã có cách dùng từ rất độc đáo “xuân” tức là mùa xuân, tuổi xuân, “ngán” tức là ngao ngán, chán. Bên cạnh đó từ “lại” chỉ sự trở lại một cách nhanh, sợ sự quay trở lại. Theo quy luật của tạo hóa, mùa xuân qua rồi sẽ trở lại. Nhưng mỗi mùa xuân qua đi lại mang theo tuổi xuân của con người và mãi không trở lại.

Sự trở lại của mùa xuân chính là sự ra đi của tuổi xuân. Tác giả đã quá ngán ngẩm với cuộc đời éo le. Với lối nghệ thuật tăng tiến, nhấn mạnh vào những điều bé nhỏ, làm cho nghịch cảnh éo le hơn. Mảnh tình đã nhỏ bé lại còn phải san sẻ “tý con con” tạo nên một cảm giác xót thương. Đây cũng chính là nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa. Hạnh phúc luôn là chiếc chăn quá hẹp.

Như vậy, bài thơ Tự tình đã hiện lên với những hình ảnh giản dị mà đặc sắc, hình ảnh giàu sức gợi cảm, tinh tế từ đó nói lên tâm trạng của chủ thể. Bài thơ hiện lên cả bi kịch và khát vọng sống hạnh phúc của Hồ Xuân Hương. Trong những lúc buồn tủi, bế tắc, người phụ nữ cố vươn lên nhưng lại vẫn bị rơi vào cái vòng quay luẩn quẩn, tù túng của xã hội đương thời.

Số 11: Phân tích Tự Tình 2

Trong hệ thống những bài thơ mang chứa tâm sự của Hồ Xuân Hương, “Tự tình” là một trong những bài thơ hay nhất. Bài thơ thể hiện nỗi buồn, nỗi cô đơn thấm thía của người yêu đời, tràn đầy sức sống nhưng gặp cảnh ngộ éo le, một con người luôn khao khát tình yêu nhưng chỉ gặp toàn dang dở, bất hạnh. Đó còn là sự bất hạnh của một mơ ước không thành.

Sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy sóng gió (nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX), Hồ Xuân Hương là người chứng kiến và phần nào chịu ảnh hưởng cái không khí sôi sục của phong trào quần chúng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người. Không khí ấy tác động đến tâm hồn vốn thông minh và giàu lòng trắc ẩn của bà.

Bà uy nghiêm, thức tỉnh, trăn trở về đời mình, một cuộc đời lắm éo le, bạc phận: Lấy chồng hai lần, hai lần làm lẽ và hai lần chồng đều chết sớm. Điều đó, với bà là những biểu hiện cụ thể, đầy nước mắt của nỗi đau “hồng nhan bạc phận”. Mở đầu bài thơ “Tự tình”, tác giả gợi ra một khoảng thời gian, một góc không gian xao xác tiếng gà.

Đây là một thứ không gian, thời gian nghệ thuật được vận dụng làm nền cho sự thổ lộ tâm trạng tác giả: “Cảnh khuya văng vẳng trống canh dồn”. “Văng vẳng” chính là từ tượng thanh nhưng ở đây nó vừa biểu thị tâm trạng, không khí, cái không khí buồn vắng lặng của một người thao thức giữa đêm khuya thanh vắng. Câu thứ hai nhức nhối một tâm sự:

“Trơ cái hồng nhan với nước non”

Hay nhất của câu thơ thứ hai là từ “trơ”. Trơ là trơ trọi, cô đơn, lẻ loi. Nhà thơ cảm nhận nỗi buồn hồng nhan. Một nỗi buồn “cụ thể” càng kinh khủng hơn khi cọ xát với toàn xã hội, toàn cuộc đời: “nước non”. Một nỗi buồn đè nặng lên tâm sự bà, lên số phận của người phụ nữ. Không chịu đựng nổi, bà muốn chống lại, thoát khỏi. “Chén rượu hương đưa” là một phương tiện. Không phải phương tiện duy nhất nhưng hầu như là cuối cùng cho một đè nén quá mức. Thế nhưng, bi kịch vẫn cứ là bi kịch:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”.

Câu thơ nữ sĩ gợi nhớ một câu thơ đầy trầm tư của Lí Bạch:

“Dùng gươm chém nước, nước chẳng dứt

Uống rượu tiêu sầu, sầu vẫn sầu”

Bất lực, câu thơ chuyển sang một sự cám cảnh sinh tình. Hồ Xuân Hương nói:

“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”

Trong quan điểm thẩm mĩ xưa, vầng trăng tượng trưng cho cuộc đời, tuổi tác của người phụ nữ. Câu “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” vừa là một hình ảnh đẹp, có thực nhưng đượm buồn. Cái buồn của một “vầng trăng khuyết”. Đối với thơ xưa, cảnh là tình, cảnh trăng khuyết man mác, gợi nhớ cuộc đời bà. Trong “mời trầu ” bà đã ẩn ý suy nghĩ như vậy.

Sang câu 5, 6 tứ thơ như đột ngột chuyển biến. Sự cụ thể trong miêu tả khiến việc tả cảnh trở nên thuần khiết. Một cảnh thực hoàn toàn:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây đá mấy hồn”

Nghệ thuật đảo ngữ và đối tạo nên sự sinh động và cảnh đầy sức sống. Một sức sống nhờ tài quan sát của bà như quẫy đạp, cựa mình. Cảnh này chỉ có thể là cảnh của “Bà chúa thơ nôm” chứ không phải của ai khác. Rõ ràng, dẫu đang rất buồn, rất cô đơn nhưng điều đó vẫn không suy giảm chất riêng của Hồ Xuân Hương.

Bản lĩnh, sức sống mãnh liệt, sự khao khát với cuộc đời khiến cho dù lòng đầy cám cảnh bà vẫn nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời, tha thiết, chứa chan sức sống. Đó là sự lí giải về những phản kháng, đối nghịch trong bản chất bà, tạo nên những vần thơ châm biếm đối lập. Vũ khí ấy hơn hẳn chén rượu “say rồi tỉnh”. Đó là phương tiện kì diệu nâng đỡ tâm hồn bà. Chỉ như thế mới có thể hiểu tâm trạng, tiếng thở dài của Hồ Xuân Hương, ở hai câu thơ kết:

“Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con!”.

Yêu đời là thế, sức sống mãnh liệt là thế mà cuộc đời riêng thì vẫn: “Xuân đi xuân lại lại.”, điệp từ chỉ cái vòng luẩn quẩn đáng ghét, vô vị của ngày tháng, cuộc đời. Điều này khiến bà không tránh khỏi một tiếng thở dài chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa cái tuần hoàn thời gian ấy là một “mảnh tình” đang bị san đi, sẻ lại… chia xới. Đối với trái tim thiết tha với đời kia, điều đó như một vết thương, nhức nhối.

Người ta nói rằng thơ là tâm trạng, là một bức thông điệp thẩm mĩ. Đọc “Tự tình”, là thấu hiểu được tâm sự ẩn chứa bi kịch của Hồ Xuân Hương. Là một nhân cách luôn khao khát hạnh phúc, là một tâm hồn tràn đầy sức sống, yêu đời lại bắt gặp toàn những dở dang, bất hạnh, điều đó tạo nên trong thơ bà có khi là một tiếng thở dài.

Một tiếng thở dài đáng quý của một người có hoài bão nhưng không thể thực hiện được, trách nhiệm là ở phía xã hội phong kiến, một xã hội mà hạnh phúc riêng đã đối lập thật gay gắt với cơ cấu xã hội chung. Trong chiều hướng ấy, “Tự tình” là một bài thơ đòi quyền hạnh phúc, một lời phản kháng độc đáo lại chứa chan tiếng nói bênh vực của người phụ nữ, tạo được sự thấu hiểu, đồng cảm với những cảnh ngộ éo le, trắc trở.

Số 12: Phân tích bài thơ Tự Tình 2

Hồ Xuân Hương là một nữ thi sĩ hiếm hoi nổi bật có tiếng của nền văn học trung đại Việt Nam. Bà có ảnh hưởng không hề nhỏ đối với văn chương sau này: Nét phóng túng và tiềm ẩn trong thơ của Hồ Xuân Hương luôn gây nguồn cảm hứng vô tận cho hậu thế. Xuân Diệu từng nói: “ Trong văn học dân tộc Việt Nam trước cách mạng ít có tác giả nào mà đời mình lại gắn liền với tác phẩm khăng khít như Hồ Xuân Hương”.

Lời thơ của bà là tiếng cười nhọn, cười sắc, cười gần về cái xã hội đầy rẫy bất công đối với người phụ nữ. Thân phận lẽ với trái tim luôn khát khao hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội xưa đã trở thành nguồn cảm hứng của thi sĩ. Tiêu biểu là Tự tình II nằm trong chùm thơ Tự tình của bà.

Mở đầu bài thơ Hồ Xuân Hương viết:

 “ Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non.”

Những nhà thơ lớn xưa nay đều là những nhà thơ cảm thức về thời gian. Trong bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương thì có tới hai bài thơ thể hiện cảm nhận về thời gian làm nền cho tâm trạng. Có thể nói, thời gian là thể lực nghịch đối với cuộc sống của con người. Thông thường, giữa không gian rợn ngợp, con người sẽ cảm thấy mình thật nhỏ bé vì cô đơn. Nhưng đối với Hồ Xuân Hương lại ngược lại, nhà thơ lại cảm nhận được sự cô đơn trước thời gian.

Nhắm mắt lại suy nghĩ về cuộc đời, từng nhịp thở của người phụ nữ trong đêm khuya thanh vắng, tĩnh lặng bỗng thấy “văng vẳng” từ xa vọng lại của tiêng trống cầm canh khắc khoải mong ngóng một điều gì đó. Nhưng càng mong lại càng không thấy, lại mang nỗi thất vọng. Âm thanh ấy không chỉ là bước đi của thời gian mà còn thể hiện nỗi chờ mong khắc khoải, đầy lo âu và tuyệt vọng của người đàn bà. Dường như, Hồ Xuân Hương đang lắng tai nghe từng bước đi của thời gian trong tâm trạng rối bời. So với câu thơ mở đầu của bài thơ Tự tình I:

“ Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom”

thì ở bài thơ này nỗi buồn càng tăng lên gấp bội. Trong khi tâm trạng như mối tơ vò không thể gỡ mà thời gian cứ thế gấp gáp trôi đi, đọng lại, để lại sự bẽ bàng, tủi hổ. “ Trơ” là một mình, cô đơn, trơ trọi ; “hồng nhan’’ để chỉ người phụ nữ má hồng. Hai chữ “hồng nhan” đi kèm với “cái” để cụ thể hóa.

Nghe sao lại rẻ rúng, mỉa mai đến vậy! Đã vậy, lại còn được đặt trong một không gian rộng lớn “nước non” càng tăng thêm phần rẻ rúng. Nhìn mà thấy thương! Câu thơ thừa đề không chỉ là sự dãi dầu mà còn cả phân cay đắng trong đó. Dù câu thơ chỉ nói lên 1 vế thành ngữ “hồng nhan’’ mà vẫn làm nổi bật vế ‘’ bạc phận’’. Vì vậy, nỗi xót xa càng ngẫm lại càng đau cho duyên phận hẩm hiu.

Trong cái hoàn cảnh cô đơn, buồn tủi ấy, Hồ Xuân Hương càng tuyệt vọng không lối thoát:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xé khuyết chưa tròn”

Câu thơ với nét đặc sắc là ẩn chủ ngữ, chỉ thấy hành động và trạng thái diễn ra. Với nỗi cô đơn, ê chề, não ruột ấy, nhân vật trữ tình đã mượn “chén rượu hương” để quên sầu, quên đi sự đời đầy bế tắc này! Nhưng “say lại tỉnh’’, càng tỉnh lại càng tháy cô đơn, chán nhường. Hương rượu này để lại vị dắng chát như hương vị tình, tuy chỉ là thoáng qua nhưng lại là vết thương lòng khó phai.

Giờ đây chỉ còn cái “phận ẩm duyên ôi”. Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên như một vòng tròn luẩn quẩn, tình duyên là một trò đùa. Trong đêm khuya thanh vắng, Hồ Xuân Hương “ngồi nhấn tàn canh” ngồi uống rượu một mình trong cô đơn đối diện với vầng trăng lạnh.

Uống rượu để say nhưng say lại tỉnh, lúc này ngắm trăng thì trăng sắp tàn, không những thế mà còn “khuyết chưa tròn”. Câu thơ không đơn giản chỉ là ngoại cảnh mà còn là tàn cảnh tạo nên sự đồng nhất giữa trằ và tâm hồn người nữ sĩ. Cảnh tình của Hồ Xuân Hương đã được thể hiện rõ quan hình tượng thơ chứa đựng hai lần bi kịch: buồn cay vì tuổi xuân không còn mà nhân duyên chưa trọn vẹn

Tuy nhiên, bên cạnh nỗi đau HXH lại chính là bản lĩnh Hồ Xuân Hương ( chỉ mình nữ thi sĩ mới có). Bản lĩnh ấy được thể hiện phần nào ở câu thừa đề “Trơ” không chỉ là sự tủi hổ, bẽ bàng mà còn là sự thách đố. “Trơ” được đặt trong không gian bao la “nước non” đã cho thấy sự bền gan thách đố nỗi niềm phẫn uất của XH đã lan tỏa khắp cả đất trời. Ở bài thơ Tự tình I bà viết:

“Oán hận trông ra trong ra khắp mọi chòm”

thì ở đây có lẽ vẫn là nỗi “oán hận” ấy mà “trông ra” thì thấy:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

 Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.”

Thiên nhiên dường như cũng mong nỗi oán hận, phẫn uất. Những sinh vật bé nhỏ mac rất yếu ớt lại càng yếu ớt hơn cả “nội cỏ hoa hèn” nhưng đám rêu kia sao lại không chịu mềm yếu? Nó phải mọc xiên,mà còn phải “xiên ngang mặt đất” mới thỏa lòng! Đá vốn rất rắn chắc, nay vào thơ Hồ Xuân Hương lại thêm sắc nhọn để “đêm toạc chân mây”. Biện pháp đảo ngữ trong hai câu luận đã làm nổi bật lên sự phẫn uất của thân phận rêu, đá.

Bên cạnh đó, việc sử dụng từ ngữ tài hoa kết hợp giữa những động từ mạnh “xiên”, “đâm” cùng bổ ngữ “ngang”, “toạc” đã bộc lộ sự bướng bỉnh, ngang ngạnh. Rêu thì xiên mặt đất, đá thì đâm toạc chân mây thành vạch trời oán hận, không chỉ là sự phẫn uất mà còn là sự phóng khoáng. Dù trong tình huống thê thảm nhất, cảnh vật trong thơ bà lúc nao cũng sinh động, căng tràn sức sống.

Thế nhưng, bi kịch Hồ Xuân Hương lại ở chỗ “bà không mảy may có cảm giác thua cuộc” nhưng kết quả bà lại thua, thua một cách thảm hại. Chính vậy, khép lại bài thơ là tâm trạng chán nhường, buồn tủi cho cảnh ngộ và thân phận:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con.”

“Ngán” là chán ngán, ngán ngẩm. Hồ Xuân Hương đã “ngán” lắm rồi cái cuộc đời bạc bẽo, éo le này. Xuân đi rồi xuân lại trở về với đất trời nhưng tuổi xuân của con người chẳng thế có lần thứ hai. Hai từ “lại” trong câu thơ có ý nghĩa khác nhau: “lại” đầu tiên có thể hiểu được là sự lăp lại ; “lại” thứ hai là sự trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi trẻ.

Biết bao chua chát, chán ngán, nặng nề mà Hồ Xuân Hương gửi vào trong chữ “lại” đầu tiên rồi càng thêm chua xót khi hai chữ “lại” cùng xuất hiện trong câu thơ. Nghệ thuật tăng tiến làm nghịch cảnh thêm éo le hơn: mảnh tình-san sẻ-tí-con con.Tình cảm vốn là thứ vô hình, ta chỉ có thể cảm nhận nó nhưng Xuân Hương lại biến một thứ vô hình thành hữu hình – “mảnh tình”. Chẳng phải là cuộc tình hay mối tình mà là “mảnh tình”. “Mảnh” nghe thôi đã thấy nhỏ bé biết nhường nào. Mà giờ đây phải “san sẻ” chỉ còn lại “tí con con” đã bé lại còn thêm bé hơn.

Trông thật xót xa, tôi nghiệp. Sau Xuân Hương, Nguyễn Khuyến cũng dùng từ tài tình như thế: “ Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Nhưng đặt trong hoàn cảnh của XH thì lại mang một ý nghĩa đặc biệt. Từng chữ của câu thơ kết hợp vs nhau như một sự sâu chuỗi tạo cảm giác đầy ngậm ngùi, đắng cay. Câu thơ được viết ra từ tâm trạng của người đã mang cảnh lấy chồng chung, từng mang thân phận làm lẽ ( bởi 2 lần bà lấy chồng bà đều làm vỡ lẽ )

“Chết cha cái kiếp lấy chồng chung

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng.”

Tuy nhiên, cái khái quát của nó lại lớn hơn một hoàn cảnh chung chồng. Đó là nỗi lòng của người phụ nữ trong thời phong kiến khi hạnh phúc đối với họ chỉ là chiếc khăn chật hẹp.

Bài thơ tuy diễn tả một tình cảm đáng thương, một số phận đáng thương của người phụ nữ xưa nhưng bài thơ lại cho thấy một vẻ đẹp tiềm ẩn ở trongg trái tim họ: khát khao hạnh phúc luôn cháy bỏng, mềm yếu nhưng lại mạnh mẽ vươn lên đáng để ta trân trọng.

Bài Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương
Bài Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương

Số 13: Cảm nhận về bài thơ Tự Tình 2

Được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm”, Hồ Xuân Hương đã để lại cho chúng ta những tác phẩm thơ Nôm thật sự xuất sắc, trong đó đa số là các bài thơ nói về thân phận người phụ nữ, cùng với nỗi niềm đồng cảm, thương cảm sâu sắc và khao khát được hạnh phúc. Trong các tác phẩm ấy có chùm thơ ba bài thơ Tự tình, được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời của bà. Mỗi bài thơ đều mang những nỗi niềm cảm xúc riêng nhưng tựu chung lại là nỗi buồn, nỗi cô đơn của một người phụ nữ khao khát yêu đương nhưng lại gặp phải những bất hạnh, đau đớn. Tự tình 2 được sinh ra trong niềm cảm hứng chung ấy.

Hồ Xuân Hương được sinh ra vào giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, khi mà xã hội đang chuyển mình đầy sóng gió. Cả xã hội khi ấy đều sục sôi cái tư tưởng đòi quyền sống, tự do và hạnh phúc. Và cái không khí ấy đã tác động mạnh mẽ tới tâm trí và hồn thơ của bà. Ngẫm lại số phận mình, hai lần lấy chồng, hai lần làm lẽ, hai lần chồng chết, cuộc đời bà là một chuỗi dài những tháng năm đau khổ, là những giọt nước mắt cho phận “hồng nhan”.

Có lẽ chính thế mà khi viết Tự tình 2, bà đã gợi mở ra không gian vắng lặng giữa đêm khuya thanh vắng, chỉ còn xao xác tiếng trống canh khuya:

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Một không gian bao la mở ra trước mắt chúng ta, thế nhưng không gian ấy lại vắng lặng, đìu hiu, cô quạnh đến vô cùng, chỉ còn tiếng trống canh lặng lẽ gióng lên từng hồi lạnh lẽo. Người ta cũng phải ngạc nhiên tự hỏi tại sao nhân vật trữ tình lại mở lời giữa lúc đêm khuya vắng thế này? Liệu còn điều gì khiến bà suy tư mà giật mình thức giấc hay vì cả đêm qua, bà chưa hề chợp mắt một phút nào chăng? Tiếng trống canh “dồn” dập, gấp gáp báo hiệu sự trôi chảy của thời gian, mỗi khắc trôi qua là tuổi xuân của bà lại trôi qua một chút. Đêm khuya là lúc người ta nghỉ ngơi, vậy tại sao bà còn ngồi đây với đầy nỗi niềm tâm sự?

Có lẽ là bởi vì sự cô đơn, sự buồn tủi, thao thức cho số kiếp của mình đang xâm chiếm lấy tâm hồn nhạy cảm của bà. Ở đây, Hồ Xuân Hương đã sử dụng từ láy “văng vẳng” – một từ láy tượng thanh miêu tả cái âm thanh vang vọng của tiếng trống canh trong đêm, và nó cũng là từ láy diễn tả cái không khí vắng lặng đến vô cùng của một con người đang thao thức giữa canh khuya.

Đến câu thơ thứ hai, người ta nhận thấy đằng sau nỗi thao thức ấy là một bầu tâm sự đang cần trút bỏ:

“Trơ cái hồng nhan với nước non”

“Hồng nhan” là một từ ngữ vốn dùng để chỉ những người phụ nữ xinh đẹp, ấy thế mà người phụ nữ ấy giữa canh khuya lại phải chịu cảnh “trơ” trọi một mình. Ấn tượng nhất trong câu thơ là từ “trơ”. Có lẽ chưa từng có một nhà thơ nào lại bạo gan trong cách sử dụng từ ngữ như thế! “Trơ” ở đây có lẽ Hồ Xuân Hương muốn nhắc tới sự cô đơn, lẻ loi, trơ trọi – một nỗi buồn bao trùm lấy cả không gian. Hồ Xuân Hương đã đặt ở câu thơ một từ ngữ định lượng “cái” để chỉ “hồng nhan”.

Đây là một sự cụ thể hóa cho cái nỗi buồn cho kiếp má hồng, giọng thơ chùng xuống thể hiện một sự não nề trong khung cảnh. Đặt chữ “trơ” lên đầu câu, bà muốn nhấn mạnh sự trơ trọi, đơn độc, cái buồn tủi của mình trong đêm vắng. Và cái buồn ấy càng cụ thể hơn khi nó được đặt bên cạnh một cái to lớn như “nước non”. Đến đây, ta chợt cảm khái rằng có phải chăng đây Hồ Xuân Hương đang muốn gợi đến hình ảnh của một người vợ lẽ đang mòn mỏi chờ chồng mình trong canh khuya của kiếp chung chồng cay đắng, tủi phận chăng?

Cái buồn rất dễ thấm vào tâm can con người, như Nguyễn Du đã nói “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, nó cũng thấm sang cả cảnh vật trong đêm vắng lặng này. Vậy nên ta mới cảm thấy cái bóng đêm kia quá lạnh lẽo, quá cô quạnh. Và khi cái buồn đang đè nặng, chi phối tâm trạng con người thì có lẽ chén rượu là phương tiện để giải sầu hiệu quả nhất. Thế nên, Hồ Xuân Hương cũng học theo người xưa “nâng chén để tiêu sầu”, nhưng có lẽ điều đó chỉ làm cho nỗi buồn càng thêm nặng nề, nỗi bi kịch vẫn là bi kịch không lối thoát:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”

Như một quy luật của tạo hóa, trăng tròn rồi lại khuyết, lặp lại theo một chu kì nhất định. Vầng trăng – vốn là tượng trưng cho cuộc đời, cho tuổi xuân của người con gái, vầng trăng “tròn” tức là đã đến tuổi gả chồng, cái tuổi đẹp nhất của người con gái. Thế nhưng, trăng trong thơ Hồ Xuân Hương lại chỉ khuyết chẳng tròn, và đã “xế” bóng, gợi lên tuổi xuân đang dần trôi đi của người con gái – nhân vật trữ tình trong bài thơ. Trăng đã xế, tuổi xuân đã qua, ấy vậy mà vẫn chưa có được hạnh phúc trọn vẹn. Phải chăng hình ảnh trăng chưa tròn là vì hạnh phúc của bà còn chưa viên mãn hay cũng là cuộc đời của bà, đã có tuổi mà hạnh phúc vẫn chẳng tròn đầy?

Những câu thơ nối tiếp vẫn nói lên nỗi đơn côi, lẻ bóng của nhân vật trữ tình thế nhưng lại với một sự chuyển biến khác:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn’

Nếu như bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh vắng lặng, đìu hiu của canh khuya cô quạnh, lời thơ dìu dặt, đượm buồn diễn tả cái tâm trạng chờ đợi mòn mỏi thì hai câu thơ này lại đột ngột chuyển mình mạnh mẽ. Hồ Xuân Hương đã dùng ở đây nghệ thuật đảo ngữ với tiết tấu nhanh, mạnh mẽ tạo nên một khung cảnh sinh động, chân thực và đầy sức sống.

Những đám rêu trên mặt đất được bóng trăng xiên ngang mà soi tỏ, những hòn đá vô tri còn được ánh trăng đâm xuyên qua những đám mây mà chiếu tới. Cảnh thực nhưng lại gợi cảm nhiều hơn gợi tả. Đến những thứ vô tri vô năng mà còn được ánh trăng soi tỏ, có đôi có cặp, cớ sao một kiếp hồng nhan lại phải chịu cảnh cô đơn một mình?

Hai câu thơ thôi mà toàn là những động từ mạnh “đâm toạc, xiên ngang” phải chăng nó đang bày tỏ cái nỗi lòng chất chứa sắp bùng nổ của nhà thơ? Lời thơ như là một sự phản ứng dữ dội cho kiếp sống cô độc của người phụ nữ ấy, nhân vật trữ tình không còn dịu dàng được nữa, bà muốn được giải thoát khỏi tâm trạng bức bối đang bủa vây lấy thân mình. Nghệ thuật đảo ngữ đã làm cho lời thơ thêm phần mạnh mẽ dứt khoát, táo bạo giống hệt tính cách của “bà chúa thơ Nôm”.

Thế nhưng, cái bộc phát tức giận đó chỉ dường như bùng lên trong giây lát để rồi bà lại trở về với cái nỗi buồn mênh mang trong lòng. Một sự chấp nhận, một sự bất lực, cam chịu mà bà phải thốt lên trong sự đau đớn:

“Ngán nỗi xuân qua xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con”.

Một câu thơ nhưng lại khiến người đọc cảm thấy một khoảng thời gian dài đằng đằng khi mà tuổi xuân của bà cứ trôi đi trong lặng lẽ, trong sự ngao ngán về cuộc đời. Mùa xuân đến trong mừng vui rộn rã thì tuổi xuân của bà cũng dần chảy trôi đi, ấy vậy mà hạnh phúc, tình yêu vẫn chỉ được hưởng một chút “con con”. “Mảnh tình” – chỉ là mảnh tình chứ chẳng được trọn vẹn, ấy vậy mà còn phải “san sẻ” thì còn đáng bao nhiêu nữa đây? Có lẽ đây là lời thở than đầy cay đắng của Hồ Xuân Hương cho cái kiếp vợ lẽ của mình, sự san sẻ yêu thương là một điều không ai muốn, vậy mà bà phải chịu:

“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”

Hai câu thơ cuối khép lại như một lời than thầm kín của người phụ nữ trong phận làm lẽ của xã hội xưa. Bởi một kiếp làm lẽ sẽ chẳng bao giờ được hưởng trọn tình yêu, hạnh phúc lứa đôi của mình.

Bài thơ được Hồ Xuân Hương viết lên để thể hiện tâm trạng và thái độ của mình trước duyên phận hẩm hiu, bà vừa uất ức, vừa đau xót muốn gắng gượng vươn lên nhưng bi kịch cứ nối dài bi kịch. Nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ là thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật với những từ ngữ sinh động gây ấn tượng mạnh mẽ. Mặc dù sử dụng thể thơ Đường nhưng những ngôn từ của bà đều hết sức thuần việt.

Ngôn từ khi dịu dàng, đằm thắm, gợi tả nỗi buồn, khi phá cách với nhịp điệu mãnh liệt, tất cả đều được sử dụng để miêu tả những cảm nhận của bà về nỗi buồn sự đời. Nghệ thuật đặc tả được bà sử dụng hết sức tinh tế cùng với nghệ thuật đảo ngữ tạo nên một Tự tình cực kỳ thành công về mặt cảm xúc và xây dựng hình tượng.

Tự tình 2 là bài thơ thể hiện tâm tư, tình cảm của Hồ Xuân Hương trước duyên phận của mình; vừa uất ức, tức giận, buồn tủi, lẻ loi, muốn vượt lên nhưng lại rơi vào bi kịch. Bài thơ là minh chứng cho khát vọng hạnh phúc mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương đồng thời khẳng định tài năng của bà, xứng đáng với danh xưng “bà chúa thơ Nôm”.

Số 14: Phân tích bài Tự Tình 2

Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Mỗi bài thơ là tiếng hát của trái tim, là những cảm xúc chân thành mà mãnh liệt của người nghệ sĩ. Bởi vậy, Diệp Tiến cho rằng, “thơ là tiếng lòng”. Trong số những “ tiếng lòng” trong thơ, ta bắt gặp nỗi lòng người phụ nữ sống trong xã hội xưa đầy xót xa, tủi hổ, nổi bật là Hồ Xuân Hương với tác phẩm “ Tự tình II”.

Thơ là thư kí trung thành của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ phản ánh cuộc sống con người, xã hội để qua đó, nhà thơ bộc bạch nỗi lòng mình. Họ như những con ong chăm chỉ bay xa để đem về hương phấn làm nơi mật ngọt, tái tạo tài tình bằng những cảm xúc cá nhân để tạo mật ngọt toả ngát cho đời.

Trong những con ong chăm chỉ như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Hồ Xuân Hương nổi lên là một hiện tượng văn học độc đáo chuyên viết về phụ nữ với thể loại trữ tình và trào phúng, kết hợp văn học dân gian và văn học bác học. Xuyên suốt các tác phẩm của bà là nỗi lòng người phụ nữ với những đau xót, buồn tủi về thân phận và khao khát một cuộc sống hạnh phúc, tự do. Bài thơ “ Tự tình II” đã thể hiện rõ điều đó. Mở đầu bài thơ, chúng ta như đồng cảm với tâm trạng cô đơn, buồn tủi của Hồ Xuân Hương:

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non.”

Câu thơ mở ra không gian vắng lặng, yên tĩnh trong đêm khuya tĩnh mịch. Trong không gian nghệ thuật ấy, cùng với bước đi vội vã của thời gian “ trống canh dồn”, “ trơ” lại “ cái hồng nhan với nước non”. “ Trơ” nghĩa là trơ trọi gợi lên nỗi cô đơn, cô độc nhưng cũng có nghĩa là trơ trẽn gợi lên nỗi xấu hổ, bẽ bàng. “Trơ” lại một “cái hồng nhan” gợi lên sự mỉa mai, rẻ rúng cùng nỗi tủi hổ, bẽ bàng, cô đơn của một thân phận phụ nữ nhỏ bé và bất hạnh. Không chỉ cô đơn, buồn khổ, bài thơ còn thấm đượm nỗi xót xa, bẽ bàng, nỗi đau thân phận của nhân vật trữ tình:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”

Cụm từ “ say lại tỉnh” tạo nên một vòng luẩn quẩn cho câu thơ cũng là vòng luẩn quẩn của thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Mượn rượu để men cay làm quên sự đời, quên đi những tủi hổ, bẽ bàng nhưng, hơi rượu cũng không thể xua tan đi nỗi đau thân phận. Như vậy, uống rồi say, say rồi tỉnh, tỉnh rồi đau, đau rồi lại uống.

Ở đây, người phụ nữ đau bởi nhận thức rõ “vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”. Hình ảnh ẩn dụ đầy sức gợi thể hiện rõ nỗi đau tột cùng của nhân vật trữ tình bởi tuổi xuân sắp qua đi như “ vầng trăng bóng xế” mà nhân duyên chưa trọn vẹn nên “ khuyết chưa tròn”. Dường như càng khao khát một hạnh phúc nhỏ nhoi, người phụ nữ càng xót xa, đau đớn cho phận mình. Đau đớn, xót xa ắt dẫn đến phẫn uất, phản kháng. Người phụ nữ đã phản kháng lại số phận để mong muốn thay đổi cuộc đời:

“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”

Phép đảo ngữ đưa những động từ mạnh “ xiên ngang”, “ đâm toạc” lên đầu câu nhấn mạnh sự phẫn uất phản kháng của người phụ nữ. “ Rêu”, “ đá” là những vật vô tri, bé nhỏ, yếu mềm chính là thân phận người phụ nữ tuy nhỏ bé, tầm thường, vô dụng trong xã hội “ trọng nam khinh nữ” nhưng cũng mang sức mạnh phản kháng, đấu tranh đòi quyền sống, quyền hạnh phúc.

Quyền được sống, được tự do yêu đương và nhu cầu hạnh phúc là điều nhỏ nhoi mà bất kỳ người phụ nữ nào cũng được hưởng. Nhưng, chế độ xã hội xưa không cho phép họ được sống với quyền lợi chân chính của mình. Xã hội với tư tưởng “ trọng nam khinh nữ”, với quan niệm vạn đời bất biến “ trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” đã ngang nhiên chà đạp lên cuộc đời người phụ nữ. Cố ngoi đầu lên họ lại bị dìm xuống sâu hơn nữa. Cố phản kháng họ lại chuốc thêm đau buồn:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mối tình san sẻ tí con con.”

Câu thơ thể hiện nỗi chán chường, ngao ngán khi tuổi xuân con người ra đi mà không bao giờ trở lại. “ Xuân” vừa là mùa xuân của đất trời vừa là tuổi xuân của con người. Cùng là “ xuân” thế nhưng xuân của đất trời đi rồi đến còn xuân của con người một đi không trở lại. Bởi thế, sao tránh khỏi nỗi đau buồn, tủi hổ!

Đã nhiều lần chính nhà thơ lên tiếng “ chém cha cái kiếp lấy chồng chung” nhưng rồi lại đau buồn bởi quy luật “ gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi” (Nguyễn Du). Khao khát hạnh phúc trọn vẹn nhưng cuối cùng chỉ còn lại sự xót xa của một thân phận hai lần làm lẽ. “ Mảnh tình san sẻ tí con con.”

Chỉ đơn độc, duy nhất một “ mảnh tình” nhưng cũng phải “ san sẻ” từng “ tí con con”. Tấm lòng cô độc mềm yếu nhưng cũng chẳng được vẹn toàn. Trong xã hội phong kiến, hạnh phúc với người phụ nữ như một chiếc chăn quá hẹp, người này ấm thì người kia lạnh “ kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”.

Cả bài thơ “ Tự tình II” toát lên nỗi đau thân phận của Hồ Xuân Hương cũng là nỗi đau của tất cả người phụ nữ trong xã hội đương thời. Đó là tâm trạng vừa đau buồn, vừa phẫn uất trước duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Tất cả khái quát thành quy luật như Nguyễn Du đã viết trong “ Truyện Kiều”:

“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”

“Tự tình II” giúp người đọc thấu hiểu nỗi đau thân phận và khát vọng mạnh mẽ muốn vươn lên số phận của người phụ nữ qua nỗi đau và khát vọng của Hồ Xuân Hương nhưng cũng giúp ta nhận ra và trân trọng tài năng độc đáo của “ Bà chúa thơ Nôm” trong nghệ thuật sử dụng từ ngữ và xây dựng hình ảnh. Quả là “ Nghệ thuật làm nên câu thơ, trái tim làm nên thi sĩ”.

“Tự tình II” chính là tiếng lòng của Hồ Xuân Hương đúng như nhận định “ Thơ là tiếng lòng” của Diệp Tiến. Tiếng lòng thiết tha vừa u buồn vừa phảng phất ánh sáng của khao khát, ước mơ hạnh phúc như một viên ngọc sáng thách thức bước đi nghiệt ngã của thời gian. Qua bao thế kỷ, Hồ Xuân Hương cùng tiếng thơ “ Tự tình” vẫn in sâu trong tâm trí độc giả ngàn đời.

Số 15: Cảm nhận Tự Tình 2

Hồ Xuân Hương là một trong những nữ sĩ tài ba bậc nhất của văn học Trung đại Việt Nam. Bà để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, giàu giá trị trên cả mảng thơ chữ Nôm và chữ Hán. Nổi bật trong tác phẩm của bà là tiếng nói thương cảm với số phận người phụ nữ và bài thơ Tự Tình (bài II) là một trong những bài thơ như vậy.

Bài thơ nằm trong chùm thơ Tự tình, gồm có tất cả ba bài, được viết theo thể thơ Đường luật. Tác phẩm là nỗi thương mình trong sự cô đơn khi phải chịu cảnh làm lẽ, khao khát hạnh phúc mãnh liệt. Đồng thời bài thơ cũng thể hiện thái độ bứt phá, vùng vẫy, muốn thoát khỏi cảnh ngộ éo le để có thể đạt được hạnh phúc, nhưng cuối cùng bi kịch vẫn hoàn bi kịch.

Bài thơ mở đầu là thời điểm canh khuya, khi con người đối diện thật nhất với chính mình, nhưng cũng chính lúc đó Xuân Hương tự nhận ra tình cảnh đáng thương của chính mình:

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Trong đêm khuya thanh vắng, nhịp gấp gáp của tiếng trống “dồn” càng trở nên vội vã, gấp gã hơn. Đó cũng chính là những bước đi thời gian vội vàng đang chảy trôi trước mắt người con gái. Đồng thời tiếng trống đó cũng chính là sự rối bời trong tâm trạng của nhân vật trữ tình.

Đối diện với nhịp thời gian vội vàng, gấp gáp là hình ảnh “trơ cái hồng nhan”. Chữ “trơ” được đặt ngay ở đầu câu nhấn mạnh nỗi cô đơn, trơ trọi của người phụ nữ. Nhưng bên cạnh nỗi đau đớn, xót tủi cho thân phận lại thể hiện một Xuân Hương thật bản lĩnh. “Trơ” không chỉ là sự bẽ bàng mà còn là thách thức với xã hội, với cuộc đời. Hai câu thơ đầu là tiếng than cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, hồng nhan mà bạc mệnh.

Trong cái cô đơn, tội nghiệp đến tột cùng ấy, con người tìm đến rượu để khuây khỏa nỗi niềm:

Chén rượu đưa hương say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn

Nhưng rượu cũng không thể làm cho nhân vật vơi đi nỗi cô đơn, sầu muộn. Chén rượu uống vào mà lại càng tỉnh hơn, để nhân vật trữ tình càng thấm thía hơn nỗi cô đơn, lẻ bóng của mình. Tìm đến trăng làm bạn, để tâm sự trò truyện thì lại nhận ra thực tại phũ phàng. Nỗi niềm chất chứa đã thấm dần và lan vào cảnh vật. Quả thực “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Hai câu thơ tác giả sử dụng rất thành công cụm từ: “say lại tỉnh” cho thấy cái vòng luẩn quẩn, tình duyên trở thành trò đùa của tạo hóa, càng uống lại càng tỉnh, lại càng nhận ra sự hẩm hiu duyên phận của chính mình; “khuyết chưa tròn” vầng trăng là ngoại cảnh mà cũng chính là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa cảnh vật và con người. Trăng sắp tàn mà vẫn khuyết cũng như con người tuổi xuân vội vã trôi qua mà tình duyên vẫn chưa trọn vẹn. Bốn câu thơ đầu đã khắc họa sâu sắc nỗi đau, bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ.

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”.

Các động từ mạnh “xiên, đâm” kết hợp với “ngang, toạc” đã thể hiện sự ngang ngạnh, phẫn uất đến tột cùng của nhân vật trữ tình. Nếu như người phụ nữ trung đại nổi bật lên với tính cách cam chịu, khuất phục trước số phận thì ở đây lại xuất hiện một người phụ nữ hoàn toàn khác. Những sinh vật nhỏ bé dường kia không chịu mềm yếu trước hoàn cảnh thực tại, phải mọc xiên, đâm ngang để tìm sự sống.

Đá phải kiên cường, rắn chắc để có thể đâm toạc chân mây. Biện pháp đảo ngữ trong hai câu thơ đã cho thấy sự phẫn uất của cỏ cây, đá đó đồng thời cũng chính là nỗi niềm của con người trước thực tại cuộc sống. Bởi vậy, hình ảnh rêu xiên ngang, đá đâm toạc chân mây cũng chính là sự phản kháng của người phụ nữ trước thực tại nhiều bất công, ngang trái.

Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con.

Trong câu thơ có hai chữ “xuân” xuất hiện, chữ “xuân” thứ nhất là tuổi xuân của con người, “xuân” thứ hai là mùa xuân của vạn vật. Hai chữ xuân này kết hợp với từ “lại” đã nhấn mạnh tuổi xuân của con người một đi không trở lại, trái ngược với mùa xuân của thiên nhiên đất trời, mỗi khi xuân của đất trời quay lại đồng nghĩa với tuổi xuân của con người ngày một rút ngắn, nỗi chán ngán lại càng gia tăng.

Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến, nhấn mạnh vào sự nhỏ bé dần, làm cho hoàn cảnh càng trở nên éo le hơn: “Mảnh tình san sẻ tí con con”. Mảnh tình vốn đã bé, đã nhỏ nay lại phải san sẻ lại càng trở nên ít ỏi, eo hẹp hơn. Tình cảnh đó thật xót xa, tội nghiệp. Hai câu thơ kết thể hiện nỗi lòng sâu kín của người phụ nữ trong xã hội cũ: với họ tình yêu, hạnh phúc thật mong manh, bé nhỏ.

Hồ Xuân Hương là bậc thầy trong sử dụng ngôn ngữ, thông qua khả năng diễn đạt tư tưởng, tình cảm của nhân vật trữ tình: tả âm thanh (văng vẳng), tả cảm giác (trơ, say, lại tỉnh, ngán), tả động thái (xiên ngang, đâm toạc),… Nghệ thuật đảo ngữ tài tình (xiên ngang, đâm toạc). Giọng điệu thơ phẫn uất, tủi hờn. Tất cả đã hòa quyện với nhau để diễn tả sự cô đơn, thân phận bé nhỏ của người phụ nữ trong xã hội cũ.

Với ngôn ngữ giản dị, giàu sức gợi cảm, sử dụng thành công phép đối, tác phẩm vừa nói lên số phận rẻ rúng, bi kịch người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đồng thời còn cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương nói riêng và của người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung.

Số 16: Cảm nhận bài thơ Tự Tình 2

Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa luôn là đề tài phổ biến trong văn học. Khi phân tích Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương, chúng ta sẽ thấy được nỗi buồn và cô đơn thấm thía của người phụ nữ luôn yêu đời và tràn đầy sức sống nhưng lại bị cuộc sống vùi dập với nhiều bất hạnh ngang trái.

Mở đầu bài thơ, hai câu đề gợi ra một không gian bao la, mờ mịt từ bom thuyền ở nơi dòng sông đến khắp mọi chòm xóm, thôn làng. Người phụ nữ thao thức suốt những canh dài. Tiếng gà gáy “văng vẳng” trên bom thuyền từ xa đưa tới. Đêm dài chuyển canh, mịt mùng vắng lặng mới nghe thấy tiếng gà gáy “văng vẳng” như thế.

Nghệ thuật lấy động (tiếng gà gáy) để diễn tả cái tĩnh lặng vắng vẻ của đêm dài nơi làng quê đã góp phần làm nổi bật tâm trạng “oán hận” của người phụ nữ thao thức suốt những canh trường. Nàng ngồi dậy, lắng tai nghe tiếng gà gáy sang canh, rồi “trông ra” màn đêm mịt mùng. Màn đêm như bủa vây người phụ nữ trong nỗi buồn cô đơn, oán hận:

“Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,

Oán hận trông xa khắp mọi chòm”.

Hai câu 3, 4 trong phần thực, tác giả tạo ra hai hình ảnh “mõ thảm” và “chuông sầu” đối nhau, hô ứng nhau, cực tả nỗi đau khổ, sầu tủi của riêng mình đang sống trong cảnh ngộ quá lứa lỡ thì, trắc trở trong tình duyên, vần thơ đầy ám ảnh. Phủ định để khẳng định tiếng “cốc” của “mõ thảm”, tiếng “om” của “chuông sầu”. Nữ sĩ đã và đang trải qua những đêm dài thao thức và cô đơn, đau cho nỗi đau của đời mình cô đơn như “mõ thảm”, chẳng ai khua “mà cũng cốc”, tủi cho nỗi tủi của riêng mình lẻ bóng chăn đơn như “chuông sầu” chẳng đánh “cớ sao om”.

Nỗi oán hận, đau buồn sầu tủi như thấm vào đáy dạ, tê tái xót xa, như đang toả rộng trong không gian “khắp mọi chòm”, như kéo dài theo thời gian của những đêm dài. “Om” là tiếng tượng thanh, tiếng chuông sầu, cũng là gợi tả nỗi thảm sầu tê tái, đau đớn đến cực độ. Câu hỏi tu từ đã làm cho giọng thơ thảm thiết, xoáy sâu vào lòng người như một lời than, như một tiếng thở dài tự thương mình trong nỗi buồn ngao ngán:

“Mõ thảm không khua mà cũng cốc,

Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?”

Có biết thời con gái, Hồ Xuân Hương đã có những vần thơ tươi xinh, phơi phới như “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” (Bánh trôi nước), “Hai hàng chân ngọc duỗi song song” (Đánh đu),… ta mới thấy hết nỗi thảm sầu về bi kịch cô đơn của nữ sĩ được diễn tả tê tái trong hai câu trong phần thực này.

Lời than tự tình trong cô đơn được khơi sâu trong phần luận, để mà “rầu rĩ” thêm, giận hờn thêm cho duyên phận hẩm hiu: “Trước nghe” đối với “sau giận”; “tiếng” hô ứng với “duyên”-, “rầu rĩ” là tâm trạng đối với “mõm mòm” là trạng thái. “Trước nghe những tiếng…”, là những tiếng gì? – Tiếng của miệng thế? Hay tiếng gà văng vẳng gáy, tiếng “chuông sầu”, tiếng “mõ thảm” đáng “cốc”, đang “ôm” trong lòng mình?

Giữa cảnh khuya thao thức, càng nghe càng thêm “rầu rĩ”, buồn tủi. Giữa lúc tàn canh thao thức, càng nghe càng “giận”, càng hờn về tình duyên bẽ bàng. Tình duyên của mình được ví với trái cây, không còn “má hây hây gió” (Xuân Diệu) nữa mà đã chín “mõm mòm”, nghĩa là quá chín, đã nẫu đi! “Duyên mõm mòm” là duyên phận hẩm hiu, quá lứa lỡ thì! Trong câu thơ như có nhiều lệ, nhiều tiếng thở dài, vừa than thân trách phận, vừa buồn tủi về con đường tình duyên.

Tiếng thơ tự tình của Hồ Xuân Hương là lời than tự thương mình, đồng thời thương cho những người đàn bà cùng cảnh ngộ đã luống tuổi mà vẫn cô đơn lẻ bóng: “Giật mình mình lại thương mình xót xa” (Truyện Kiều)Phần kết xuất hiện một tứ thơ rất lạ. Như một sự thách đố với số phận, với duyên số. Nữ sĩ vẫn bướng bỉnh trước bi kịch cô đơn của mình khi “duyên để mõm mòm” rồi:

“Tài tử văn nhân ai đó tá!

Thân này đâu đã chịu già tom!”

Vừa nghi vấn, vừa cảm thán, hai câu kết đầy nghịch lí. Nữ sĩ như vẫn còn tin vào tài năng của mình có thể làm xoay chuyển được duyên phận, vẫn hi vọng tìm được bạn đời trăm năm trong đám tài tử văn nhân. Câu 6 nữ sĩ viết: “Sau giận vì duyên để mõm mòm”, câu 8 bà lại viết: “Thân này đâu đã chịu già tom!”. “Già tom” nghĩa là rất già, già hẳn! Đó là một cách “nói cứng” thể hiện một thái độ “bướng bỉnh”, một bản lĩnh cứng cỏi trước ngang trái cuộc đời.

Đọc chùm thơ “Tự tình” cũng như tìm hiểu cuộc đời của nữ sĩ, về mặt tình duyên, ta thấy hạnh phúc tình yêu chưa một lần mỉm cười với Xuân Hương. Bài thơ “Cảm cựu kiêm trình cần chánh học sĩ Nguyên Hầu” (Nhớ người cũ, viết gửi cần chánh học sĩ Nguyễn Du – tước hầu) như một bóng quang âm soi tỏ một “mảnh tình riêng” của “bà chúa thơ Nôm”, giúp ta cảm nhận bài thơ “Tự tình” này:

“Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,

Mượn ai tới đây gửi cho cùng.

Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,

Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.

Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,

Phấn son cùng tủi phận long đong.

Biết còn mãi chút sương siu mấy,

Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong”

Bài thơ “Tự tình” gieo vần “om”, 5 vần thơ, vần nào cũng hóc hiểm, tài tình. Những vần thơ hóc hiểm ấy, một mặt thể hiện bút pháp điêu luyện, mặt khác đã tạo nên nhạc điệu, âm điệu như thắt, như nén lại cái “oán”, cái “hận”, cái “ngang bướng” của một tâm trạng; một cá tính rất Xuân Hương. Duyên số và hạnh phúc tình yêu của người phụ nữ là nội dung đầy ám ảnh đối với mỗi chúng ta khi đọc bài thơ “Tự tình” này của Xuân Hương.

“Tự tình” là tiếng than thân trách phận cho nỗi buồn cô đơn, về bi kịch tình yêu, là niềm khao khát hạnh phúc của người phụ nữ. Vì lẽ đó, “Tự tình” mang giá trị nhân bản sâu sắc.

Bài Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương
Bài Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương

Số 17: Phân tích Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương một nữ sĩ đại tài của văn học Việt Nam, bà được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Các vần thơ của bà tập trung nói về người phụ nữ với sự ý thức cao độ về vẻ đẹp hình thức và nhân cách. Nhưng đằng sau những vần thơ ấy còn là nỗi đau thân phận bị rẻ rúng. Nỗi niềm đó được thể hiện trong rất nhiều bài thơ của bà, và một trong những bài thơ đó không thể không nhắc đến bài Tự tình II.

Văn bản nằm trong chùm thơ Tự tình gồm có ba bài. Cả ba bài đều thể hiện nhất quán nỗi tự thương mình trong tình cảnh cô đơn, lẻ loi và khao khát hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt. Những vần thơ còn thể hiện sự vùng vẫy, bứt phá để dành hạnh phúc cho chính mình, nhưng cuối cùng vẫn phải nhận về thất bại cay đắng.

Trước hết thân phận người phụ nữ trong bài thơ được thể hiện đầy cay đắng xót xa, họ ý thức về thân phận mình, ý thức về tuổi thanh xuân trôi nhanh mà hạnh phúc lứa đôi chưa được trọn vẹn:

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Chén rượu đưa hương say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”

Trong đêm khuya tĩnh mịch, cái sự vật đều trở về trạng thái lặng thì tiếng trống “vắng vẳng” nghe càng trở nên da diết, dồn dập hơn, nó như thúc giục người phụ nữ về sự chảy trôi của thời gian, của thanh xuân. Câu thơ thứ hai diễn tả nỗi niềm trơ trọi, cô đơn của những người phụ nữ trong không gian quạnh hiu đó.

Từ “trơ” được đảo lên đầu câu càng nhấn mạnh hơn nữa vào thân phận bất hạnh của họ. Từ “hồng nhan” vốn được hiểu là người con gái xinh đẹp, có nhan sắc. Nhưng đến đầu thế kỉ XVIII chữ “hồng nhan” thường gắn liền với yếu tố “bạc mệnh”: để nói lên số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến: “Rằng hồng nhan tự thuở xưa/ Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu” hay “Hồng nhan quen thói má hồng đánh ghen”.

Trong bài thơ này, Hồ Xuân Hương dùng từ “hồng nhan” với ý nghĩa hồng nhan bạc mệnh, diễn tả nỗi niềm chua xót trước thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Trong nỗi đau của kẻ hồng nhan bạc mệnh, nhân vật trữ tình tìm đến rượu để quên, đến trăng để bầu bạn nhưng chén rượu uống vào muốn say mà lại càng tỉnh, ngắm trăng lại càng nhận rõ thân phận bất hạnh của bản thân. Trăng sắp tàn mà vẫn khuyết, cũng như con người thanh xuân sắp qua mà tình duyên vẫn còn lận đận, lỡ dở.

Bốn câu thơ đầu, khung cảnh nhuốm màu tâm trạng của nhân vật trữ tình, kết hợp với thủ pháp tương phản: một bên là con người cô đơn, nhỏ bé với một bên là không gian rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ (hồng nhan/ nước non), thời gian đêm mênh mông, quạnh vắng, lạnh lùng với sự bé nhỏ của người phụ nữ (vầng trăng, trống canh); rượu không thể làm con người khuây khỏa, say lại tỉnh,… tất cả những yếu tố đó đã góp phần làm nổi bật sự cô đơn, buồn chán của nhân vật trữ tình – người phụ nữ.

Không chỉ vậy, người phụ nữ còn ý thức về hạnh phúc và nỗi đau thân phận. ý thức về hạnh phúc ngày càng rời xa, nhân vật trữ tình có những phản ứng hết sức quyết liệt:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.”

Hai câu thơ thể hiện một sức sống mạnh mẽ, khỏe khoắn bằng những hình ảnh thơ hết sức độc đáo: rêu, đá. Rêu vốn là loài cây mềm mại, nhỏ bé nhưng dưới con mắt của tác giả những đám rêu tưởng nhỏ bé, yếu đuối đó lại “xiên ngang mặt đất” mà trỗi dậy tìm sự sống; hòn đá tưởng chừng như chỉ đứng bất động trước sự chảy trôi của thời gian lại có thể “đâm toạc chân mây”.

Dưới con mắt của Hồ Xuân Hương tất cả các sự vật tưởng như bất động, không có sự sống lại được tác giả cấp cho sức sống tràn trề, mạnh mẽ. Nhưng không dừng lại ở đó hình ảnh những sự vật đó kết hợp với cụm từ “xiên ngang” “đâm toạc” đã cho thấy sự bứt phá, không cam chịu số phận đau khổ, tủi hèn của nhân vật trữ tình.

Đặt trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ khi người phụ nữ luôn được giáo dục với tinh thần cam chịu, nhẫn nhục, an phận thủ thường thì câu thơ mang nhiều ý nghĩa tích cực, tiến bộ. Người phụ nữ trong bài thơ không chấp nhận số phận mà bộc lộ niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc, mở ra khả năng đấu tranh để đạt được tình yêu hạnh phúc về cho chính mình. Ý thơ này thống nhất với những bài thơ khác trong chùm thơ Tự tình của bà: “Thân này đâu đã chịu già tom” – khát vọng tình yêu được thể hiện nhất quán.

Nhưng trước thực tại quá đỗi phũ phàng, dường như người phụ nữ cũng phải chấp nhận: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại/ Mảnh tình san sẻ tí con con”, câu thơ cất lên đầy ai oán chua xót. Trong một bài thơ khác Hồ Xuân Hương đã từng viết: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung/ Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng” để cho thấy rõ hơn số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ. Tuổi xuân người con gái có được là bao nhiêu, xuân “lại lại” đồng nghĩa với thanh xuân người con gái ngày một ngắn lại, vậy mà mảnh tình cũng phải san sẻ, chia năm sẻ bảy. Câu thơ với cách dùng từ độc đáo, cho thấy sự nhỏ dần, ít dần của tình duyên: mảnh tình – nhỏ bé, san sẻ – càng ít hơn và cuối cùng phần nhận được chỉ còn lại “tí con con”.

Bằng khả năng điều khiển ngôn ngữ tài tình, Hồ Xuân Hương đã cho người đọc phần nào thấy được thân phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ, tình yêu bị san sẻ, hạnh phúc không thể với đến. Nhưng đồng thời còn thấy được khát khao hạnh phúc mãnh liệt của họ. Qua những vần thơ đó Hồ Xuân Hương cũng lên án xã hội phong kiến đã kìm kẹp nhu cầu hạnh phúc chính đáng của con người.

Số 18: Tự tình 2 phân tích

Hồ Xuân Hương là nữ sĩ tài ba ở nước ta vào cuối thế kỉ XVIII — đầu thế kỉ XIX. Ngoài tập “Lưu Hương kí” bà còn để lại khoảng 50 bài thơ Nôm, phần lớn là thơ đa nghĩa, vừa có nghĩa thanh vừa có nghĩa tục. Một số bài thơ trữ tình đằm thắm, thiết tha, buồn tủi… thể hiện sâu sắc thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, với bao khao khát sống và hạnh phúc tình duyên. Chùm thơ “Tự tình” phản ánh tâm tư tình cảm của Hồ Xuân Hương, của một người phụ nữ lỡ thì quá lứa, duyên phận hẩm hiu,… Bài thơi này là bài thứ hai trong chùm thơ Tự tình” ba bài.

Thi sĩ Xuân Diêu trong bài “Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm” đã viết: “Bộ ba bài thơ trữ tình này cùng với bài “Khóc vua Quang Trung” của công chúa Ngọc Hân làmị một khóm riêng biệt, làm tiếng lòng chân thật của người đàn bà tự nói về tình cảm bản thân của đời mình trong văn học cổ điển Việt Nam…” Ông lại nhận xét thêm về đỉệ thơ, giọng thơ: “…trong bộ ba bài thơ tâm tình này, bên cạnh bài thơ vẩn “ênh hẻ nênh và bài thơ vần “om” oán hận, thì bài thơ vần “on” này mong đợi, chon von”.

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Chén rượu hương đưa say lại tĩnh,

Vầng trăng bống xế khuyết chưa tròn.

Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.

Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con!”.

Hai trong ba bài thơ, nữ sĩ đều nói về đêm khuya, canh khuya. “Tự tình” bà vi “Tiếng gà vãng vẳng gáy trên bom – Oán hận trông ra khắp mọi chòm”. Ở bài thơ này cũng vậy, bà tỉnh dậy lúc canh khuya, hay thao thức suốt đêm khuya, tâm trạng ngổn gang phiền muộn. Âm thanh “văng vẳng” của tiếng trống từ một chòi canh xa đưa lại như thúc giục thời gian trôi nhanh, tuổi đời người đàn bà trôi nhanh: “Canh khuya văng vẳng trống canh dồn”. “Hồng nhan” là sắc mặt hồng, chỉ người phụ nữ. “Trơ” nghĩa là lì ra, trơ ra, chai đi, mất hết cảm giác. “Nước non”: chỉ cả thế giới tự nhiên và xã hội.

Câu thơ: “Trơ cái hồng nhan với nước non” nói lên một tâm trạng: con người đau buồn nhiều nỗi, nay nét mặt thành ra trơ đi trước cảnh vật, trước cuộc đời, tựa như gỗ đá, mất hết cảm giác. Nỗi đau buồn đã đến cực độ. Từ “cái” gắn liền với chữ “hồng nhan” làm cho giọng thơ trĩu xuống, làm nổi bật cái thân phận, cái duyên phận, cái duyên số đã quá hẩm hiu rồi.

Ta có cảm giác tiếng trống dồn canh khuya, thời gian như cơn gió lướt qua cuộc đời, lướt qua số phận và thân xác nhà thơ. Con người đang than thân trách phận ấy đã có một thời son trẻ tự hào: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”, có phẩm hạnh một “tấm lòng son” trọn vẹn, lại tài năng, thế mà nay đang trải qua những đêm dài cay đắng. Qua đó, ta thấy cái xã hội phong kiến buổi ấy chính là tác nhân đã làm xơ xác, khô héo phận hồng nhan.

Đằng sau hai câu đề là những tiếng thở dài ngao ngán. Cố vẫy vùng để thoát ra, bươn ra khỏi cái nghịch cảnh nhưng đâu dễ! Tiếp theo là hai câu thực:

“Chén rượu hương đưa say lợi tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.

Nghệ thuật đối rất thần tình: “Chén rượu” với “vầng trăng”, trên thì “hương đưa”, dưới lại có “bóng xế”, đặc biệt ba chữ “say lại tỉnh” vời “khuyết chưa tròn” đăng đối, hô ứng nhau làm nổi bật bi kịch về thân phận người đàn bà dang dở, cô đơn.

Muốn mượn chén rượu để khuây khoả lòng mình, nhưng vừa nâng chén rượu lên môi mùi hương phả vào mặt, đưa vào mũi. Tưởng uống rượu cho say để quên đi bao nỗi buồn, nhưng càng uống càng tỉnh. “Say lại tỉnh” để rồi tỉnh lại say, cái vòng luẩn quẩn ấy về duyên phận của nhiều phụ nữ đương thời, trong đó có Hồ Xuân Hương như một oan trái.

Buồn tủi cho thân phận, bao đêm dài thao thức đợi chờ, nhưng tuổi đời ngày một “bóng xể”. Bao hi vọng đợi chờ. Đến bao giờ vầng trăng mới “tròn”? Đến bao giờ hạnh phúc đến trong tám tay, được trọn vẹn, đầy đủ? Sự chờ mong gắn liển với nỗi niềm khao khát. Càng cô đơn càng chờ mong, càng chờ mong càng đau buồn, đó là bi kịch của những người đàn bà quá lứa lỡ thì, tình duyên ngang trái, trong đó có Hồ Xuân Hương.

Hai câu trong phần luận, tác giả lấy cảnh để ngụ tình. Đây là hai câu thơ tả cảnh “lạ lùng” được viết ra giữa đêm khuya trong một tâm trạng chán ngán, buồn tủi:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”.

Ý thơ cấu trúc tương phản để làm nổi bật cái dữ dội, cái quyết liệt của sự phản kháng. Từng đám rêu mềm yếu thế mà cũng “xiên ngang mặt đất” được! Chỉ có rải rác “đá mấy hòn” mà cũng có thể “đâm toạc chân mây” thì thật kì lạ! Hai câu thơ, trước hết cho ta thấy thiên nhiên tiềm ẩn một sức sống đang bị nén xuống đã bắt đầu bật lên mạnh mẽ vô cùng.

Thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương không chỉ mang màu sắc, đường nét, hình khối mà còn có gương mạt, có thái độ, có hành động, cũng “xiên ngang…”, cũng “đâm toạc”… mọi trở ngại, thế lực. Xuân Hương vốn tự tin và yêu đời. Con người ấy đang trải qua nhiều bi kịch vẫn cố gắng gượng với đời. Phản ứng mạnh mẽ, dữ dội nhưng thực tại vẫn chua xót. Đêm đã về khuya, giữa cái thiên nhiên dào dạt, bốn bề mịt mùng bao la ấy, người đàn bà hẩm hiu càng cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Chẳng thế mà trong bài “Tự tình”, nữ sĩ đã buồn tủi viết:

“Mõ thảm không khua mà cũng cốc,

Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?”.

Cả nỗi đau trần thế như dồn tụ lại đáy lòng một người đàn bà cô đơn. Khao khát được sống trong hạnh phúc, được làm vợ, làm mẹ như mọi người đàn bà khác. Nhưng “hồng nhan bạc mệnh”! Đêm càng về khuya, người đàn bà không thể nào chợp mắt được, trằn trọc, buồn tủi, thân đơn chiếc, thiếu thốn yêu thương, xuân đi rồi xuân trở về, mà tình yêu chỉ được “san sẻ tí con con”, phải cam chịu cảnh ngộ:

“Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con”.

Xuân đi qua, xuân trở lại, nhưng với người phụ nữ thì “mỗi năm mỗi tuổi như đuổi xuân đi”… Chữ “ngán” nói lên nỗi đau, nỗi buồn tủi của người đàn bà lỡ thì quá lứa, đang trải qua sự mòn mỏi, đợi chờ. Tình duyên, tình yêu như bị tan vỡ, tan nát thành nhiều “mảnh”, thế mà chua chát thay chỉ được “san sẻ tí con con”. Câu thơ là tiếng than thân trách phận. Phải chăng đây là lần thứ hai Hồ Xuân Hương chịu cảnh làm lẽ? Tinh đã vỡ ra thành “mảnh” lại còn bị “san sẻ”, đã “tí” lại “con con”. Mỗi chữ như rưng rưng những giọt khóc. Câu thơ này, tâm trạng này được nữ sĩ nói rõ thêm trọng bài “Lấy chồng chung”:

“Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,

Năm thì mười hoạ hay chăng chớ,

Môt tháng đôi lẩn có cũng không!.”.

Tóm lại, “Tự tình” là lời tự than, tự thương xót, buồn tủi cho duyên số, duyên phận hẩm hiu của mình. Càng thao thức cô đơn, càng buồn tủi. Càng buồn tủi, càng khao khát được sống trong hạnh phúc trọn vẹn, đầy đủ. Thực tại nặng nề, cay đắng bủa vây, khiến cái hồng nhan phơi ra, “trơ” ra với nước non, với cuộc đời. Người đọc vô cùng cảm thông với nỗi lòng khao khát sống, khao khát hạnh phúc của nữ sĩ và người phụ nữ trong xã hội cũ. Giá trị nhân bản là nội dung sâu sắc nhất của chùm thơ lự tình” của Hồ Xuân Hương.

Cách dùng từ rất đặc sắc, độc đáo thể hiện phong cách nghệ thuật Hồ Xuân Hương: “trơ cái hồng nhan”, “say lại tỉnh”, “khuyết chưa tròn”, “xiên ngang”, “đâm toạc”, “ngán nỗi”, “lại lại”, “tí con con”,… Chữ dùng sắc nhọn, cảnh ngụ tinh, diễn tả mọi đau khổ bi kịch về duyên số. Qua bài thơ này, ta càng thấy rõ Hồ Xuân Hương đã đưa ngôn ngữ dân gian, tiếng nói đời thường vào lời ca, bình dị hoá và Việt hoá thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bà xứng đáng là “Bà chúa thơ Nôm” của nền thi ca dân tộc.

Số 19: Phân tích bài Tự Tình 2 ngắn nhất

Nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương là một trong những cái tên sáng của làng thơ Việt Nam. Trong số khá nhiều tác phẩm mà bà để lại, tả cảnh ngụ tình chính là phong cách sáng tác chủ đạo. Những bài thơ của Hồ Xuân Hương hầu hết đầu nói về vẻ đẹp đức hạnh, sự hi sinh, thân phận mỏng manh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến khắc nghiệt. Trong đó, Tự tình cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách chủ đạo này.

Bài thơ không chỉ phản ánh cảm xúc của người phụ nữ nói chung mà còn thể hiện được những cung bậc cảm xúc của chính tác giả.Hai câu thơ đầu bài thơ vừa tả cảnh, nhưng đồng thời cũng là lột tả hình ảnh một người phụ nữ trống vắng, cô đơn giữa đêm khuya tĩnh mịch.

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Tác giả sử dụng từ láy “văng vẳng” để miêu tả một âm thanh vừa rõ ràng, lại vừa mơ hồ, không đo phương hướng nhưng lại có thể cảm nhận được ngày một rõ ràng. Bối cảnh thời gian của bài thơ là vào “đêm khuya” – thời điểm con người dễ dàng rơi vào những trạng thái cảm xúc khó lột tả nhất. Giữa “đêm khuya” ấy, có một người phụ nữ vẫn còn thao thức, nghĩ suy về cuộc đời của mình giữa tiếng trống canh văng vẳng gần xa.

Người phụ nữ trong bài thơ được miêu tả là “hồng nhan”, là một người có nhan sắc, nhưng nhan sắc ấy lại “trơ với nước non”. Có thể cảm nhận được thân phận cô độc, lẻ loi và nỗi buồn trống vắng khó tả trong lòng của người “hồng nhan” đó. Để giải nỗi lòng, người phụ nữ ấy đã tìm đến ly rượu nồng:

“Chén rượu hương đưa rồi lại tỉnh

Vầng trăng xế bóng khuyết chưa tròn”

Mượn rượu giải sầu dưới ánh trăng vốn là hình ảnh quen thuộc trong thi ca, là một hình ảnh đẹp đầy thi vị. Tiếc rằng những người mượn rượu giải sầu lại không thể dùng hương rượu nồng để xua đi bầu tâm sự. Người một lòng muốn say để quên đi tất cả, nhưng hương rượu nồng vào mũi dường như lại khiến tâm con người ta trở nên tỉnh táo hơn.

Nỗi lòng của người phụ nữ lại càng như được lột tả rõ ràng hơn. Vầng trăng khuyết dường như càng khiến sự cô đơn, tịch liêu trong bài thơ tăng lên bội phần. Hình ảnh đó giống như người phụ nữ tài giỏi, xinh đẹp, song tuổi xuân cứ lặng lẽ đi qua mà hạnh phúc thì không trọn vẹn.

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”

Hình ảnh loại rêu được đưa vào bài thơ thể hiện ngụ ý sâu xa của nữ thi sĩ. Điều mà bà muốn thể hiện ở đây chính là so sánh ẩn dụ giữa phụ nữ và loài rêu, mỏng manh bé nhỏ những sức sống mạnh mẽ, có thể tươi tốt trong bất cứ điều kiện khắc nghiệt nào. Cụm từ “xiên ngang mặt đất” cũng khiến người đọc liên tưởng tới sự phản kháng mạnh mẽ của chủ thể đối với những thứ lớn mạnh hơn.

Nối tiếp sự phản kháng mạnh mẽ đó là những viên đá nhỏ bé nhưng lại chứa đựng một sức mạnh to lớn, có thể “đâm toạc chân mây”. Giữa trời đất rộng lớn, những viên đá tưởng bé nhỏ mà lại không hề tầm thường chút nào. Đáng tiếc, dù có mạnh mẽ đối chọi, phản kháng thì người phụ nữ vẫn không thể thoát ra khỏi sợi dây số mệnh ràng buộc bản thân. Dù cố phản kháng, nhưng than nỗi chẳng thể nào thoát khỏi kiếp làm vợ lẽ.

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con”

Mùa xuân của thiên nhiên đi rồi lại tới, nhưng “xuân” của con người lại không như vậy. Tuổi trẻ là thứ chỉ đến một lần, đã đi rồi sẽ không thể nào trở lại. Bởi thế, người phụ nữ lại càng buồn hơn, càng đáng thương hơn khi tuổi xuân qua đi trong chờ đợi mỏi mòn, trong cảnh chung chồng, san sẻ tình cảm.Từ “ngán” được sử dụng thể hiện sự chán nản, nhưng cũng như tiếng khóc của tác giả cho những người phụ nữ số phận hẩm hiu, phải làm vợ lẽ dưới chế độ cũ, không có tiếng nói, không được coi trọng.

Tự tình là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách và tư tưởng chủ đạo của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương, thể hiện góc nhìn độc đáo, cá tính của bà về những vấn đề xoay quanh thân phận người phụ nữ trong chế độ cũ.

Số 20: Phân tích bài Tự Tình 2 lớp 12

“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương đã quệt rồi”

Hồ Xuân Hương – bà chúa thơ Nôm, một hiện tượng đặc biệt của thơ ca trung đại Việt Nam. Nữ thi sĩ có số phận éo le, ngang trái nên hồn thơ của bà là tiếng nói đại diện cho những người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến với một khát vọng tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Chùm thơ “Tự tình” của bà gồm ba bài là sự phản ánh đặc sắc tâm tư, tình cảm của nhà thơ_ một người phụ nữ “hồng nhan bạc phận” đường tình duyên không trọn vẹn, quá lứa lỡ thì. Trong đó “Tự tình bài II” được coi là bài thơ hay nhất, giàu cảm xúc và lắng đọng nhất.

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

…Mảnh tình san sẻ tí con con!”

Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng cái đặc sắc không phải viết bằng chữ Hán mà được viết bằng ngôn ngữ dân tộc chữ Nôm. Phải đến thời kì Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du thì phong trào làm thơ Nôm mới đạt đến đỉnh cao thực sự. Hồ Xuân Hương là người phụ nữ đa tài, đa tình mà số phận truân chuyên.

Bà là con vợ lẽ, lại đã từng muộn màng đường tình duyên, từng mang thân đi làm lẽ và sống trong cảnh góa bụa. Chính hoàn cảnh ấy là cảm hứng cho bà sáng tác chùm thơ “Tự tình”. Bài thơ “Tự tình II” là hình ảnh người phụ nữ cô đơn, lẻ loi trong đêm khuya thanh vắng than ngẫm, đau xót cho thân phận của mình.

Phân tích bài thơ theo bố cục đề thực luận kết của thể thơ Đường luật. Với hai câu thơ đầu là không gian, thời gian cùng với tâm trạng tê tái của người phụ nữ.

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Thời gian ở đây là lúc đêm khuya khi mà con người chìm sâu vào trong giấc ngủ để nghỉ ngơi sau một ngày lao động mệt mỏi, thì nhân vật trữ tình ở đây lại thao thức, trằn trọc không ngủ được. Không gian là khoảng không bao la, rộng lớn yên tĩnh, vắng lặng nghe thấy “văng vẳng trống canh dồn” báo hiệu thời gian trôi qua rất nhanh.

Nghệ thuật lấy động tả tĩnh lấy cái âm thanh “văng vẳng” của tiếng trống canh để nói cái không gian tĩnh lặng về đêm. Lấy cái ngoại cảnh để nói tâm cảnh. Là cảnh vật tác động đến con người hay là vì “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Đêm khuya thanh vắng là lúc con người ta trở nên bé nhỏ và lạc lõng vô cùng khi giường đơn gối chiếc đối diện với chính mình mà cảm thấy “trơ”. “Trơ”ở đây là trơ trọi, là cô độc chỉ có một mình, được đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh nỗi đau, sự bất hạnh của một người phụ nữ có “hồng nhan”.

Ấy là chỉ cái vẻ đẹp nhan sắc bên ngoài của người con gái “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” nhưng cũng là để nói đến cái phẩm hạnh “Tấm lòng son” bên trong. Chữ “cái” nhằm cụ thể hóa đối tượng diễn tả “cái hồng nhan” cho thấy sự tủi hổ, bẽ bàng khi nhan sắc, đức hạnh của người phụ nữ bị coi rẻ, bị mỉa mai.

“Nước non” chỉ cả thế giới tự nhiên và xã hội bên ngoài. “Trơ” phải chăng cũng là sự thách thức “nước non” của một con người có cá tính mạnh mẽ, táo bạo. Nó có cùng hàm nghĩa với chữ “trơ” trong câu thơ sau của Bà Huyện Thanh Quan: “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”. Vì lắm đau buồn mà nét mặt con người như trơ ra trước cảnh vật, trước mọi người như hóa đá không còn cảm giác. Người đọc tưởng như nghe được cả tiếng thở dài, ngao ngán của người phụ nữ trước duyên phận bẽ bàng.

Hai câu thực là lựa chọn của tác giả khi sầu tìm đến rượu, bà muốn mượn chút hương nồng để quên đi nỗi buồn nhưng càng uống lại càng tỉnh lại càng đau, nỗi buồn không nguôi trong vòng xoáy luẩn quẩn.

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”

Ngẩng đầu lên ngắm trăng mà trăng đã xế khi chưa lúc nào tròn. Vầng trăng ở đây vừa là hình ảnh thiên nhiên vừa là hình ảnh tượng trưng cho tuổi xuân của thi sĩ sắp qua đi mà tình yêu vẫn chưa bao giờ được trọn vẹn, được ắp đầy. Nghệ thuật đối trong hai câu thơ thật tài tình, đăng đối, hô ứng nhau cùng nhau làm nổi bật lên thân phận của một khách hồng nhan bạc mệnh tài hoa mà phải chịu cảnh dang dở. Nguyên do ấy là vì đâu? Phải chăng như Nguyễn Du đã từng nói về “Tài mệnh tương đố”, vì “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.

Nếu như bốn câu thơ đầu là hoàn cảnh và tâm trạng cô đơn, lẻ bóng của tác giả thì bốn câu thơ sau là ý thức phản kháng mạnh mẽ, là tâm thế muốn bứt phá, muốn thay đổi số phận của mình nhưng càng cố gắng, càng hy vọng, càng mong muốn bao nhiêu thì lại càng thất vọng, xót xa bấy nhiêu khi “Mảnh tình san sẻ tí con con”. Đó chính là bi kịch của người phụ nữ có duyên phận hẩm hiu.

Hai câu luận là hai câu thơ tả cảnh ngụ tình, mượn ngoại cảnh để nói cái “chí”, cái “tình”bên trong của mình.

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”

Rêu và đá là hai sự vật nhỏ bé nhưng không hề yếu mềm mà mang một sức sống mãnh liệt có thể “xiên ngang mặt đất” và “đâm toạc chân mây”, kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ, sử dụng các động từ mạnh “xiên”, “đâm” cộng với bổ ngữ “ngang”, “toạc” vừa nhấn mạnh trạng thái của thiên nhiên nhưng cũng là để nhấn mạnh tâm trạng của con người phẫn uất, phản kháng không chịu chấp nhận số phận. Bà căm ghét cái kiếp làm lẽ mà thốt lên rằng: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung/ Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”

Phản ứng của bà tuy mạnh mẽ, dữ dội nhưng thực tại vẫn đắng cay, chua chát. Hồ Xuân Hương sống vào khoảng thời gian cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Đây là thời kì mà chế độ phong kiến Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Sống trong một xã hội “trọng nam khinh nữ” với chế độ đa thê nhà thơ muốn cất lên tiếng nói nhằm đấu tranh cho nữ giới, đòi quyền bình đẳng, muốn được sống, được yêu thương và có được cuộc đời hạnh phúc. Nhưng việc ấy không hề dễ dàng bởi chính bản thân bà vẫn đang phải chịu số phận éo le, ngang trái.

Số phận của thi sĩ cũng chính là số phận của biết bao những người phụ nữ trong xã hội xưa. Chính điều đó đã khiến cho Nguyễn Du phải khóc than cho thân phận của nàng Tiểu Thanh, nàng Kiều và những người phụ nữ như Hồ Xuân Hương:

“Đau đớn thay thân phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Hai câu kết nói về tận cùng của sự đau khổ, chán chường, buồn tủi tác giả thương cho thân cho phận của chính mình:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con!”

“Ngán”ở đây là tâm trạng, cảm xúc ngao ngán, chán nản cuộc đời ngang trái. Xuân chỉ mùa xuân của đất trời, mùa của muôn hoa đua nở khoe sắc khoe hương, mùa của sum họp nhưng còn có hàm ý chỉ tuổi trẻ, tuổi xuân thì của người phụ nữ. Từ “Lại” cho thấy sự tuần hoàn lặp đi lặp lại. Mùa xuân của thiên nhiên, đất trời qua đi rồi trở lại, nó đến mang đi mùa xuân của con người mùa xuân ấy thì chỉ một đi để rồi “Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha” (Truyện Kiều).

Đáng lẽ mùa xuân tươi đẹp căng tràn nhựa sống trở về con người phải cảm thấy hớn hở, vui mừng thì thi sĩ lại càng cảm thấy thêm ê chề, ngao ngán bởi lẽ xuân đến là một lần tuổi đời lại thêm, tuổi trẻ dần qua đi mà bản thân mình vẫn đơn độc, thiếu thốn yêu thương khi “Mảnh tình san sẻ tí con con!” mảnh tình đã nhỏ bé lại còn san sẻ “Tí con con” tạo nên cảm xác xót thương, đau đớn, ngậm ngùi và ấm ức. Nghệ thuật tăng tiến nhấn mạnh vào những điều nhỏ bé càng làm cho nghịch cảnh càng trở nên éo le hơn.

Tự tình II là bài thơ tự than thân, tự bộc lộ, tự nói lên nỗi lòng của một người phụ nữ lận đường tình duyên nhưng luôn khao khát có được một tình yêu trọn vẹn xứng đáng với tấm chân tình của mình. Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ cho thấy tài năng thi ca của tâm hồn thi sĩ với việc sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, thủ pháp tả cảnh ngụ tình, dùng động từ mạnh kết hợp nghệ thuật đảo ngữ và các từ láy “văng vẳng”, “con con” với nghệ thuật tăng tiến càng làm cho bài thơ trở nên sâu sắc, thẫm đượm cái ý cái tình của người phụ nữ có nhiều nét độc đáo, mới lạ trong nền thơ ca văn học dân tộc.

Những hình ảnh giản dị với tâm trạng vừa buồn tủi, xót xa lại vừa uất ức cho thân kiếp làm lẽ của người phụ nữ đồng thời cũng là bi kịch và khát vọng hạnh phúc cá nhân của Hồ Xuân Hương. Bài thơ truyền tải ý nghĩa nhân văn sâu sắc tới độc giả dù sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhưng con người vẫn cố gắng vươn lên muốn thay đổi số phận, thay đổi nghịch cảnh mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn với hạnh phúc lứa đôi và tình duyên trọn vẹn.

Bài Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương
Bài Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương

Tổng kết

Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 20 mẫu phân tích Tự Tình 2 chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 11.

0/5 (0 Reviews)
Chúng tôi tạo ra Top10timkiem.vn nhằm mục đích cung cấp cho người đọc những thông tin, liệt kê một cách chi tiết nhất về mọi lĩnh vực trong cuộc sống.