Tổng hợp các bài mẫu phân tích 4 câu đầu bài Câu cá mùa thu tác giả Nguyễn Khuyến một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 5 mẫu phân tích 4 câu đầu bài Câu cá mùa thu (Thu Điếu) chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!
Dàn ý phân tích 4 câu đầu bài Câu cá mùa thu
I. Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, luận đề
II. Thân bài
Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ
- Nội dung, nghệ thuật
Phân tích
Hai câu thơ: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo – Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo mở ra một không gian nghệ thuật, một cảnh sắc mùa thu đồng quê. Chiếc ao thu nước trong veo có thể nhìn được rong rêu tận đáy, tỏa ra khí thu lạnh lẽo như bao trùm không gian. Không còn cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lạnh lẽo như vậy.
Trên mặt ao thu đã có một chiếc thuyền câu bé tẻo teo tự bao giờ. Một chiếc gợi tả sự cô đơn của thuyền câu. Bé tẻo teo nghĩa là rất bé nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự hun hút của cảnh vật (trong veo – bé tẻo teo). Đó là một nét thu đẹp và êm đềm.
Hai câu thực (Sóng nước theo làn hơi gợn tí – Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo) tả không gian hai chiều. Màu sắc hòa hợp, có sóng biếc với lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ làm cho chiếc lá thu màu vàng khẽ đưa vèo, làm cho sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn tí. Phép đối tài tình làm nổi bật một nét thu, tô đậm cái nhìn thấy và cái nghe thấy.
Ngòi bút của Nguyễn Khuyến rất tinh tế trong dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là một nhân tự mà sau này thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý: vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu).
III. Kết bài
Tổng kết vấn đề
Top 5 mẫu phân tích 4 câu đầu bài Câu cá mùa thu (Thu Điếu)
Số 1: Phân tích 4 câu đầu bài Câu cá mùa thu (Thu Điếu)
Thu điếu nằm trong chùm thơ thu gồm ba bài nức danh nhất về thơ Nôm cùa Nguyễn Khuyến. Bài thơ nói lên một nét thu đẹp tĩnh lặng nơi làng quê xưa, biểu lộ mối tình thu đẹp mà cô đơn, buồn của một nhà Nho nặng tình với quê hương đất nước. Thu điếu cũng như Thu ẩm, Thu vịnh chỉ có thể được Nguyễn Khuyến viết vào thời gian sau khi ông đã từ quan về sống ở quê nhà (1884)
Hai câu thơ: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo – Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo mở ra một không gian nghệ thuật, một cảnh sắc mùa thu đồng quê. Chiếc ao thu nước trong veo có thể nhìn được rong rêu tận đáy, tỏa ra khí thu lạnh lẽo như bao trùm không gian. Không còn cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lạnh lẽo như vậy.
Trên mặt ao thu đã có một chiếc thuyền câu bé tẻo teo tự bao giờ. Một chiếc gợi tả sự cô đơn của thuyền câu. Bé tẻo teo nghĩa là rất bé nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự hun hút của cảnh vật (trong veo – bé tẻo teo). Đó là một nét thu đẹp và êm đềm.
Hai câu thực (Sóng nước theo làn hơi gợn tí – Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo) tả không gian hai chiều. Màu sắc hòa hợp, có sóng biếc với lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ làm cho chiếc lá thu màu vàng khẽ đưa vèo, làm cho sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn tí. Phép đối tài tình làm nổi bật một nét thu, tô đậm cái nhìn thấy và cái nghe thấy.
Ngòi bút của Nguyễn Khuyến rất tinh tế trong dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là một nhân tự mà sau này thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý: vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu).
Bức tranh thu được mở rộng dần ra qua hai câu thơ:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Bầu trời thu xanh ngắt thăm thẳm, bao la. Áng mây, tầng mây (trắng hay hồng?) lơ lửng nhè nhẹ trôi. Thoáng đãng, êm đềm, tĩnh lặng và nhẹ nhàng. Không một bóng người lại qua trên con đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Vắng teo nghĩa là vô cùng vắng lặng không một tiếng động nhỏ nào, cũng gợi tả sự cô đơn, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ lúc nào cũng gợi tả một tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?
(Nhớ núi Đọi)
Ngõ trúc và tầng mây cũng là một nét thu đẹp và thân thuộc cùa làng quê. Thi sĩ như đang lặng ngắm và mơ màng đắm chìm vào cảnh vật.
Đến hai câu kết thì bức tranh thu mới xuất hiện một đối tượng khác:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu điếu nghĩa là mùa thu câu cá. Sáu câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc.. Mãi đến phần kết mới xuất hiện người câu cá. Một tư thế nhàn: tựa gối ôm cần. Một sự đợi chờ: lâu chẳng được. Một cái chợt tỉnh khi mơ hồ nghe cá đâu đớp động dưới chân bèo. Người câu cá như đang ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu.
Người đọc nghĩ về một Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ có một tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu đưa vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với một tiếng trên không ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người câu cá đang sống trong một tâm trạng cô đơn và lặng lẽ buồn. Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao đáng trọng.
Xuân Diệu đã hết lời ca ngợi cái diệu xanh trong Thu điếu. Có xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo.. và chỉ có một màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. Cảnh đẹp êm đềm, tĩnh lặng mà man mác buồn. Một tâm thế an nhàn và thanh cao gắn bó với mùa thu quê hương, với tình yêu tha thiết.
Mỗi nét thu là một sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiết, vần thơ: veo – teo – vèo – teo – bèo, phép đối tạo nên sự hài hòa cân xứng, điệu thơ nhẹ nhàng bâng khuâng… cho thấy một bút pháp nghệ thuật vô cùng điêu luyện, hồn nhiên – đúng là xuất khẩu thành chương. Thu điếu là một bài thơ thu, tả cảnh ngụ tình tuyệt bút.

Số 2: Phân tích 4 câu đầu Câu cá mùa thu
Mùa thu là một trong những đề tài lớn của thơ ca quả đât. Nói tới đề tài này trong thơ ca Nước Ta tất cả chúng ta hoàn toàn có thể kể tới rất nhiều tác giả với những sáng tác xếp vào hàng siêu phẩm, trong số đó có Nguyễn Khuyến với chùm ba bài thơ thu. Mỗi bài trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến là một bức tranh thu rực rỡ, và Câu cá mùa thu được nhìn nhận là ” nổi bật hình cho thơ ca mùa thu của làng cảnh Nước Ta ” ( Xuân Diệu ) .
Mùa thu là đề tài quen thuộc của thi ca. Thơ viết về mùa thu của văn học Trung đại Việt Nam thường miêu tả cảnh đẹp vắng vẻ, úa tàn và u buồn. Cảnh thu được ghi lại một cách ước lệ tượng trưng với những nét chấm phá, chớp lấy cái hồn của tạo vật. Thu điếu của Nguyễn Khuyến cũng mang nét thi pháp ấy.
Nhưng với cụ Tam nguyên – Nguyễn Khuyến được ca tụng là nhà thơ của làng quê Nước Ta. Gần suốt đời mình, ông gắn bó với thôn quê, hòa hợp và đồng cảm mảnh đất quê nhà. Thế nên, cảnh vật làng quê trong thơ ông hiện lên rất chân thực, giản dị và đơn giản, tinh xảo. Đọc Thu điếu, ta phát hiện một bức tranh thu đặc trưng của vùng chiêm trũng Bắc bộ, quê nhà của nhà thơ. Đấy chính là nét mới mẻ và lạ mắt của tác phẩm so với thi pháp truyền thống lịch sử của văn học Trung đại Nước Ta .”
Thu điếu ” được tác giả viết bằng chữ Nôm, làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Cảnh thu được miêu tả trong hầu hết 8 câu thơ, hình ảnh con người chỉ Open trực tiếp ở hai câu cuối bài. Cảnh trong bài vẫn là trời nước, gió, trúc – những thi liệu quen thuộc nhưng hồn thơ thì đã vượt ra khỏi khuôn sáo thi tứ cổ xưa .Cảnh thu trong bài được tiếp đón từ nhiều góc nhìn khác nhau : từ gần đến xa, từ thấp lên caọ, từ hẹp đến rộng … Dưới nhiều góc nhìn như vậy, cảnh sắc mùa thu được mở ra nhiều hướng thật sinh động và quyến rũ.
Từ ao thu đến trời thu rồi đến đường thôn xóm … toàn bộ đều toát lên cái hồn thu, cảnh thu xiết bao quen thuộc của làng quê đồng bằng Bắc Bộ. Cái hồn ấy được gợi lên từ những khung cảnh, những cảnh vật rất là thanh sơ : ao nhỏ trong vắt, thuyền câu bé tí, sóng biếc gợn, lá vàng khẽ đưa, tảng mây lơ lửng, ngõ trúc quanh co … sắc xanh của trời hoà lẫn cùng sắc xanh của nước tạo nên một khoảng trống xanh trong, dịu nhẹ, một chút ít sắc vàng của lá rụng trên cái nền xanh ấy khiến cảnh thu, hồn thu càng thêm phần sôi động .
Những đường nét, sắc tố … gợi lên trong tướng tượng của người đọc khung cảnh của một buổi sớm thu yên bình trên một làng quê miền Bắc với khung trời thu cao rộng, khoáng đạt, những ao chuôm trong vắt phản chiếu màu trời, màu lá, thôn xóm với những con đường nhỏ quanh co hun hút xanh màu tre trúc, gió thu dịu mát khẽ làm xao động mặt nước, nhiều lúc một vài chiếc lá rụng cắt ngang khoảng trống … Trong bức tranh thu này mọi cảnh vật hiện ra đều rất đỗi bình dị, dân dã .
Khung cảnh ấy vận thường hiển hiện vào mỗi độ thu về trên những làng quê và đi vào tâm thức của bao người, nhưng lần đầu tiên được Nguyễn Khuyến vẽ ra với nguyên cái thần thái tự nhiên của nó và khiến ta không khỏi ngỡ ngàng xúc động. Đó là một mùa thu trong trẻo, thuần khiết, mát lành đã bao lần đến trên quê hương của mỗi chúng ta.
Phải gắn bó tha thiết với quê nhà, phải có một tâm hồn nhạy cảm đến độ nào thì Nguyễn Khuyến mới hoàn toàn có thể tái hiện một cách tài tình toàn bộ vẻ đẹp xiết bao bình dị mà nên thơ của mùa thu làng quê Bắc Bộ vào trong những vần thơ tự nhiên, giản dị và đơn giản đến thế. Thơ thu Nước Ta giàu sang, rực rỡ hơn bởi những vần thơ như vậy của Nguyễn Khuyến
Số 3: Phân tích 4 câu đầu bài thơ Thu Điếu
“Thu điếu” cũng như hai bài thơ thu đều được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật bằng ngôn ngữ dân tộc chữ Nôm. Cảnh thu, tình thu được miêu tả hiện lên rõ nét trong bốn câu thơ.
Mở đầu là không gian, thời gian của mùa thu ở làng quê Bắc Bộ:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Không gian ở đây là ao thu. Ao là đặc trưng của vùng quê chiêm trũng quê hương của tác giả. Thời gian không phải là đầu thu có chút oi ả xen lẫn của mùa hạ mà có lẽ là lúc phân thu nên mới có hơi lạnh của sự “lạnh lẽo”. Tính từ “Trong veo” đặc tả độ trong của nước dường như có thể nhìn xuyên thấu xuống bên dưới, nó gợi ra sự thanh sạch và tĩnh lặng trên bề mặt ao.
Tính từ “lạnh lẽo” như càng làm cho sự vắng lặng tăng thêm. Không chỉ vậy “một chiếc thuyền câu” số từ chỉ số ít “một chiếc” cùng với tính từ “bé tẻo teo” gợi sự nhỏ bé đến vô cùng. Chiếc thuyền câu như co lại là một chấm trên nền của ao thu. Tác giả sử dụng nghệ thuật chấm phá điểm nhãn. Trên cái nền yên tĩnh của mặt ao xuất hiện một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Hai câu thơ đầu đã mở ra một không gian thu với cảnh sắc rất mộc mạc, giản dị mang nét đặc trưng chất thu, khí thu của làng quê Bắc Bộ.
Nếu như ở hai câu đề nổi bật lên là sự tĩnh lặng thì hai câu thực đã mang những nét vận động nhưng nó lại động để tĩnh. Lấy cái động của cảnh vật mà tả cái tĩnh của mùa thu chốn thôn quê.
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Hai hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng” tưởng chừng như không có mối liên hệ mà có một sự logic, chặt chẽ với nhau. Vì gió thổi làm cho sóng gợn, lá rơi. Cảnh vật chuyển động chẳng phải ào ạt của lá mùa thu như trong thơ Đỗ Phủ mà nó thật khẽ khàng, nhẹ nhàng sóng chỉ hơi gợn tí, lá chỉ khẽ đưa vèo. Các tính từ, trạng từ “biếc”, “tí”, “vàng”, “khẽ” được sử dụng thật tài tình, kết hợp với nhau tạo nên màu sắc, hình ảnh làm cho cảnh thu trở nên sống động có hồn.
Chữ “vèo”khiến cho Tản Đà khâm phục, tâm đắc vô cùng. Ông thổ lộ một đời thơ, ông mới có được một câu thơ vừa ý “Vèo trông lá rụng đầy sân”. Nguyễn Khuyến phải là một con người có một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm mới có thể cảm nhận được sự chuyển động mà như tĩnh tại. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đã được sử dụng thành công đem lại hiệu quả cao.
Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn . Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng thu. Tất cả cảnh vật đều hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh thoáng chút bâng khuâng, man mác, rất gần gũi, thân thiết với mọi người Việt Nam.

Số 4: Phân tích 4 câu đầu bài Câu cá mùa thu (Thu Điếu)
Mùa thu vốn là một đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam. Thu thường mang đến cho thi sĩ một nỗi buồn man mác, gợi nhớ hay nuối tiếc về một cái gì đó xa xôi, đầy bí ẩn. Dường như không ai vô tình mà không nói đến cảnh thu, tình thu khi đã là thi sĩ! Đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ thấy được điều đó. Cảnh mùa thu trong thơ ông không phải là mùa thu ở bất cứ miền nào, thời nào, mà là mùa thu ở quê ông, vùng đồng chiêm Bắc Bộ lúc bấy giờ.
Chỉ với bầu trời “xanh ngắt” (Thu vịnh), với cái nước “trong veo” của ao cá (Thu điếu), và cái “lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, làn ao lóng lánh bóng trăng loe” (Thu ẩm). Nguyễn Khuyến đã làm say đắm lòng bao thế hệ! Khi nhận xét về bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu có viết: “Bài thơ Thu vịnh là có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Vậy ta thử tìm hiểu xem thế nào mà “Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”?
Nếu như ở Thu vịnh, mùa thu được Nguyễn Khuyến đón nhận từ cái không gian thoáng đãng, mênh mông, bát ngát, với cặp mắt hướng thượng, khám phá dần các tầng cao của mùa thu để thấy được: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”, thì ở Thu điếu, nhà thơ không tả mùa thu ở một khung cảnh thiên nhiên rộng rãi, không phải là trời thu, rừng thu hay hồ thu, mà lại chỉ gói gọn trong một ao thu: ao chuôm là đặc điểm của vùng đồng chiêm trũng, vùng quê của Nguyễn Khuyến. Bốn câu đầu bài thơ thật hay và thật đẹp.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Câu thơ đầu tồn tại hai vần “eo”, câu thơ thể hiện sự co lại, đọng lại không nhúc nhích, cho ta một cảm giác lạnh lẽo, yên tĩnh một cách lạ thường. Không có từ “lẽo” và từ “veo” cũng đủ cho ta thấy cảnh tĩnh, nhưng thêm hai từ này lại càng thấy cảnh tĩnh hơn nữa. Khung ao tuy nhỏ nhưng tác giả lại không bị giới hạn mà mở rộng ra nhiều chiều, trong cái không khí se lạnh đó dường như làm cho làn nước ao ở độ giữa thu, cuối thu như trong trẻo hơn. Những tưởng trong “ao thu lạnh lẽo” ấy, mọi vật sẽ không xuất hiện, thế mà thật bất ngờ: Khung ao không trống vắng mà có “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”.
Có khung cảnh thiên nhiên và có dấu vết của cuộc sống con người, khiến cảnh thu thêm được phần nào ấm cúng. Chiếc thuyền “tẻo teo” trông thật xinh xắn. Câu thơ đọc lên, làm cho đối tượng miêu tả trở nên gần gũi và thân mật biết bao! Với hai câu mở đầu, nhà thơ sử dụng những từ ngữ gợi hình ảnh, tạo độ gợi cao: “lẽo”, “veo”, “tẻo teo” mang đến cho người đọc một nỗi buồn man mác, cảnh vắng vẻ, ít người qua lại. Và rồi hình ảnh:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Càng làm cho không khí trở nên tĩnh lặng hơn, nhà thơ đã dùng cái động của “lá vàng trước gió” để miêu tả cái tĩnh của cảnh thu làng quê Việt Nam. Những cơn gió mùa thu đã xuất hiện và mang theo cái lạnh trở về, khiến ao thu không còn “lạnh lẽo”, không còn tĩnh lặng nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá vàng khẽ đưa vèo”, cảnh vật dường như đã bắt đầu thay đổi hẳn đi!
Cơn “sóng biếc” nhỏ “hơi gợn tí” và chiếc lá “trước gió khẽ đưa vèo” tưởng như mâu thuẫn với nhau, nhưng thật ra ở đây Nguyễn Khuyến đã quan sát kĩ theo chiếc lá bay trong gió, chiếc lá rất nhẹ và thon thon hình thuyền, chao đảo liệng đi trong không gian, rơi xuống mặt hồ yên tĩnh. Quả là phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống thật sâu sắc thì Nguyễn Khuyến mới có thể cảm nhận được những âm thanh tinh tế, tưởng chừng như chẳng ai để ý đến như thế!
Qua bốn câu đầu bài thơ,tác giả đã cho thấy tài năng của mình trong việc dùng từ và một tâm hồn gắn bó tha thiết với thiên nhiên, đất nước, tấm lòng yêu nước thầm lặng nhưng không kém phần sâu nặng.
Số 5: Phân tích 4 câu đầu Câu cá mùa thu
Nguyễn Khuyến được mệnh danh là “Thi nhân của làng cảnh Việt Nam”, qua ngòi bút tài hoa và tình cảm gắn bó, hình ảnh làng quê Bắc Bộ thanh bình nhưng đầy chất thơ hiện lên sống động trong từng trang viết. Văn học. Nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông có thể kể đến chùm 3 bài thơ thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. Trong đó, bài thơ Câu cá mùa thu (Thu ẩm) được coi là “tiêu biểu nhất của thơ mùa thu làng cảnh Việt Nam”, bức tranh mùa thu được thể hiện rõ nét qua bốn câu thơ đầu. của bài viết.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ Nguyễn Khuyến đã mở ra một không gian cao rộng với những cảnh vật đặc trưng của vùng đồng chiêm trũng Bắc Bộ:
Nước ao lạnh trong vắt
Một chiếc thuyền đánh cá nhỏ bị teo
Cảnh vật được nhà thơ cảm nhận từ nhiều góc độ khác nhau, từ xa đến gần, từ thấp lên cao làm cho bức tranh mùa thu trở nên ấn tượng và sống động. Giữa không gian rộng lớn mang theo hơi se lạnh của “ao thu”, sự xuất hiện của chiếc thuyền câu “nhỏ bé” như một nét chấm phá cho bức tranh thơ mộng. Tính từ “lạnh” miêu tả cái lạnh của ao thu, còn “trong” cho ta ấn tượng về độ trong của nước. Câu thơ “Ao thu se lạnh, nước trong” gợi không khí se lạnh, không gian tĩnh lặng đặc trưng của mùa thu miền Bắc.
Giữa thiên nhiên trong trẻo nhưng yên tĩnh, sự xuất hiện của chiếc thuyền đánh cá nhỏ càng làm nổi bật vẻ yên bình của không gian. Số lượng từ “một” kết hợp với từ “nhỏ” tạo ra ấn tượng là vô cùng nhỏ.
Như vậy, chỉ bằng một vài nét chấm phá, nhà thơ Nguyễn Khuyến đã mở ra một bức tranh mùa thu xứ Bắc với những khung cảnh rất riêng, vừa mộc mạc, gần gũi nhưng cũng mới lạ, độc đáo. Nổi bật nhất trong hai câu kết là nét đặc trưng của tiết trời và khí trời mùa thu, đó là cái se lạnh của tiết trời và sự tĩnh lặng của không gian.
Sóng xanh theo làn sóng gợn nhẹ
Lá vàng khẽ đung đưa trong gió
Sang đến hai câu thơ tả thực, nhà thơ tập trung miêu tả những đường nét gợi cảm, sống động của mùa thu qua sóng xanh, lá vàng. “Hơi gợn sóng”, “hơi lắc lư” là những chuyển động rất nhẹ nhàng, rất nhẹ của sóng và lá cây mà nếu không đủ nhạy cảm sẽ không thể phát hiện ra. Có thể thấy nhà thơ Nguyễn Khuyến đã rất tinh tế khi cảm nhận được những biến chuyển tinh vi của tạo hóa, đó là những gợn sóng nhẹ trên mặt nước, chuyển động nhẹ nhàng của lá cây.
Bằng những hình ảnh tự nhiên, gần gũi kết hợp với nghệ thuật điêu luyện, Nguyễn Khuyến đã tạo nên sự liên kết chặt chẽ nhưng hài hoà giữa các sự vật: gió thổi với sóng, làm cho lá nhẹ nhàng. Mặt khác, các tính từ và trạng từ “biếc”, “vàng”, “tí”, “nhẹ”, “vo” được nhà thơ sử dụng rất hiệu quả trong hai câu thực, sự kết hợp giữa chúng không chỉ tạo nên bức tranh đẹp. . Bức tranh trở nên rõ ràng về màu sắc và âm thanh, mà còn làm cho mọi thứ trở nên sống động, gợi cảm hơn với những chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế.
Chỉ bằng những nét vẽ đơn giản, bốn câu thơ đầu đã mở ra một bức tranh mùa thu đẹp nhưng tĩnh lặng. Bức tranh không chỉ tả cảnh mà còn sống động, đặc biệt bởi nó chứa đựng cái “tình” của thi nhân. Đó là sự gắn bó thiết tha, tình yêu giản dị mà sâu sắc của nhà thơ đối với thiên nhiên, làng quê của mình. Đọc Câu cá mùa thu, nhất là bốn câu thơ đầu, ta như được hòa mình vào không gian quen thuộc mà độc đáo của mùa thu đồng bằng Bắc Bộ.

Tổng kết
Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 5 mẫu phân tích 4 câu đầu bài Câu cá mùa thu (Thu Điếu) chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 11.