Tổng hợp các bài mẫu phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong bài Chiếc thuyền ngoài xa của tác giả Nguyễn Minh Châu một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 15 mẫu phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!
Dàn ý phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng
I. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa và hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng.
II. Thân bài
a) Phân tích phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ Phùng
– Hoàn cảnh: Theo yêu cầu chụp một bức ảnh về thuyền và biển để hoàn thành bộ lịch cho năm sau, Phùng đã trở lại chiến trường cũ miền Trung để tìm kiếm một tấm ảnh nghệ thuật đắt giá.
– Phát hiện đầu tiên: một bức tranh đẹp từ cuộc sống tựa “bức họa cổ”
– Với Phùng đó là một hình ảnh vô cùng đẹp đẽ, một khung cảnh “đắt trời cho” mà khi thấy được anh như vỡ òa trong hạnh phúc.
– Khung cảnh không chỉ tác động đến thị giác mà còn tác động đến lý trí và tâm hồn Phùng:
+ Phùng đã vội đưa chiếc máy ảnh của mình lên bấm liên hồi để thu lấy tất cả những khoảnh khắc đẹp nhất của bức tranh cuộc sống.
+ Trong giây phút ấy, Phùng cảm nhận được sự trong ngần của chính tâm hồn mình.
+ Anh nhận ra rằng “cái đẹp chính là đạo đức”.
– Thông điệp về nghệ thuật sâu sắc được gửi gắm:
+ Để làm nên một tác phẩm nghệ thuật ý nghĩa đòi hỏi mỗi người nghệ sĩ phải có một quá trình sáng tạo lâu dài, bền bỉ.
+ Tác phẩm nghệ thuật có giá trị phải là một tác phẩm có tác động đến tư tưởng, tình cảm và tâm hồn con người, khiến cho “con người gần người hơn”.
b) Phân tích phát hiện thứ hai của Phùng
– Phát hiện thứ hai của Phùng là phát hiện về một cuộc đời đau thương ẩn sau sự hoàn mỹ, toàn bích của bức tranh nghệ thuật được Phùng khám phá trước đó.
– Một sự thật nghiệt ngã được phơi bày khi chiếc thuyền từ xa tiến lại gần bờ: Người đàn ông đánh vợ, người vợ cam chịu, nhẫn nhục.
– Đứng trước cảnh tượng đó, Phùng không khỏi ngạc nhiên, bất ngờ, ngỡ ngàng há hốc mồm như không hiểu chuyện gì đang xảy ra trước mắt mình.
– Hiện thực “phi đạo đức” xảy đến trước mắt , điều đó khiến Phùng không khỏi chua xót, cay đắng.
– Với phát hiện thứ hai, tác giả muốn gửi gắm đến một thông điệp đầy ý nghĩa:
+ Đằng sau vẻ đẹp hoàn mĩ có thể là những góc khuất xù xì, xấu xí của cuộc sống.
+ Nghệ thuật phải bắt nguồn từ cuộc sống và vì cuộc sống.
III. Kết bài
Khẳng định lại giá trị hai phát hiện của Phùng trong việc thể hiện tư tưởng của tác phẩm.
Top 15 mẫu phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng
Số 1: Phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn giàu tâm huyết, luôn trăn trở về một nền văn học xứng đáng với tầm vóc dân tộc và với sự kỳ vọng của nhân dân. Từ cảm hứng sử thi lãng mạn huyền ảo đã từng tạo nên vẻ đẹp rực rỡ trong các tác phẩm thời kì chiến tranh như Mảnh trăng cuối rừng, Dấu chân người lính, Cửa sông, … ông dần dần chuyển sang tính chất triết luận về những giá trị nhân bản đời thường, khám phá bản chất con người trong cuộc sống mưu sinh, trong hành trình tìm kiếm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Chiếc thuyền ngoài xa sáng tác năm 1983 là truyện ngắn rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai.
Đây là tác phẩm in đậm phong cách của Nguyễn Minh Châu: tự sự – triết lí nhân sinh. Trong tác phẩm này, nhà văn đã để cho nhân Phùng phát hiện ra vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương cùng những nghịch lý trớ trêu của gia đình hàng chài, qua đó thể hiện những chiêm nghiệm sâu sắc về nghệ thuật và cuộc đời.
Đầu tiên là phát hiện của Phùng về cảnh đẹp trong nghệ thuật. Đó là cảnh đất trời cho “mui thuyền in một nét mơ hồ, loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. Đối với người nghệ sĩ như anh, cảnh tượng ấy như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ, đạt đến độ mẫu mực của nghệ thuật. Từ đường nét đến màu sắc đều hài hoà và lại đẹp hơn nữa khi nhìn qua mắt lưới, tấm lưới. Cái đẹp được cảm nhận qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ với niềm đam mê nên vẻ đẹp ấy càng thêm phần lung linh, huyền ảo.
Đứng trước cảnh đẹp ấy, Phùng đã có sự xúc động đến tận cùng, mấy phút đầu anh cảm thấy bối rối, rồi mấy phút sau anh thấy trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Đó là giây phút anh đã phát hiện ra chân lý của sự toàn diện – cái đẹp chính là đạo đức, khi ấy anh đã được sống trong khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn, anh thực sự hạnh phúc khi tìm kiếm được cái đẹp để sáng tạo cho nghệ thuật.
Phát hiện thứ hai của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh lại đầy nghịch lí, nó bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Phùng đã chứng kiến từ chiếc ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi, cam chịu và một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, coi việc đánh vợ là một phương thức để giải tỏa những uất ức, đau khổ: chẳng nói chẳng rằng, lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng đau đớn: “Mày chết đi. cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Khi chứng kiến cảnh đó, anh kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn.
Sở dĩ anh có thái độ như vậy vì lúc trước anh từng có cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang lại, anh đã từng chiêm nghiệm bản thân cái đẹp chính là đạo đức vậy mà cảnh anh vừa bắt gặp trên mặt biển lại chẳng phải là đạo đức, là chân lý của sự toàn thiện. Phùng từng là người lính cầm súng chiến đấu để có được vẻ đẹp thanh bình của đất nước nên anh không thể chịu đựng được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách dã man, tàn bạo như vậy nên đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.
Nhưng chưa kịp thì ra can ngăn thì thằng Phác – con trai lão đàn ông đã kịp tới để che chở cho người mẹ đáng thương: không biết làm thế nào nó đã giành được chiếc thắt lưng, liền rướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng của người đàn ông để rồi nó đã bị cha tát hai cái khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. Rồi nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt. Thằng Phác đã thương mẹ theo cách của một đứa con còn nhỏ và chính điều này làm ta cảm động trước tình thương mẹ dạt dào của đứa nhỏ.
Phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ Phùng chính là phát hiện về sự thật cuộc đời. Sự thật cuộc sống của người dân hàng chài được hiện ra khi chiếc thuyền tiến sát vào bờ với hình ảnh người đàn ông bà người đàn bà lam lũ. Người đàn bà cao lớn, thô kệch, lưng áo bạc phếch và khuôn mặt đầy mệt mỏi. Người đàn ông với mái tóc tổ quạ, tấm lưng rộng, hai con mắt của lão đầy vẻ độc dữ.
Họ lầm lũi bước từ trên thuyền xuống, và chẳng nói chẳng rằng lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, rút chiếc thắt lưng rồi quất tới tấp vào lưng người đàn bà. Vừa quạt vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, mỗi nhát bóp là tiếng rên rỉ đau đớn. Kì quái thật, nhưng kì quái hơn là người đàn bà không hề kêu hay chống trả, chạy trốn mà nhẫn nhục chịu trận đòn. Thấy cảnh tượng đó, Phùng vô cùng kinh ngạc, chỉ biết há hốc mồm đứng nhìn, anh sững sờ đến ngỡ ngàng và bất bình vì cuộc đời vẫn tồn tại những ngang trái, đối với anh đây như câu chuyện cổ đầy quái đản.
Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn này cũng rất đáng chú ý. Người kể chuyện ở đây là nhân vật Phùng, hay nói đúng hơn, đó là sự hoá thân của tác giả vào nhân vật Phùng. Việc chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống của tình huống truyện, lời kể chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục.
Ngôn ngữ các nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người: giọng điệu lão đàn ông thật thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ đầy vẻ tục tĩu, hung bạo; những lời của người đàn bà thật dịu dàng và xót xa khi nói với con, thật đớn đau và thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận của mình; những lời của Đẩu ở toà án huyện rõ là giọng điệu của một người tốt bụng, nhiệt thành… Việc sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo như thế đã góp phần khắc sâu thêm chủ đề- tư tưởng của truyện ngắn.
Có thể thấy cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 là cảm hứng anh hùng cách mạng, còn sau năm 1975 là cảm hứng về nhân cách con người, là hành trình “khám phá con người bên trong con người” (Bakhtin). Theo mạch cảm hứng ấy, năm 1982 Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn Bức tranh; trong ý nghĩ tự phán xét, nhân vật hoạ sĩ đã vẽ một bức chân dung tự hoạ nhằm thể hiện “khuôn mặt bên trong của chính mình”.
Đáng lưu ý là, nếu trong truyện Bức tranh, Nguyễn Minh Châu hướng cái nhìn nghệ thuật vào thế giới nội tâm thì trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu lại hướng cái nhìn nghệ thuật ra thế giới bên ngoài, ra cuộc sống đời thường. Nếu truyện Bức tranh là sự tự nhận thức, tự phê phán của con người dưới ánh sáng của lương tâm, đạo đức, thì truyện Chiếc thuyền ngoài xa là sự nhận thức và phê phán cái xấu, cái ác trong cuộc sống thường ngày.
Cả hai tác phẩm đều được viết dưới sự chỉ đạo của quan điểm nghệ thuật: chỉ ra mặt xấu, mặt tối để góp phần hoàn thiện nhân cách con người, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đặc biệt, truyện Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thực sự sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng, thật đúng như Nguyễn Minh Châu từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.

Số 2: Cảm nhận về 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn giàu tâm huyết, luôn trăn trở về một nền văn học xứng đáng với tầm vóc dân tộc và với sự kỳ vọng của nhân dân. Từ cảm hứng sử thi lãng mạn huyền ảo đã từng tạo nên vẻ đẹp rực rỡ trong các tác phẩm thời kì chiến tranh như Mảnh trăng cuối rừng, Dấu chân người lính, Cửa sông, … ông dần dần chuyển sang tính chất triết luận về những giá trị nhân bản đời thường, khám phá bản chất con người trong cuộc sống mưu sinh, trong hành trình tìm kiếm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.
Chiếc thuyền ngoài xa sáng tác năm 1983 là truyện ngắn rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Đây là tác phẩm in đậm phong cách của Nguyễn Minh Châu: tự sự – triết lí nhân sinh. Trong tác phẩm này, nhà văn đã để cho nhân Phùng phát hiện ra vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương cùng những nghịch lý trớ trêu của gia đình hàng chài, qua đó thể hiện những chiêm nghiệm sâu sắc về nghệ thuật và cuộc đời.
Phát hiện thứ nhất của nhân vật người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đầy thơ mộng. Để có tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng phòng, Phùng đã tới một vùng biển từng là chiến trường cũ mà anh từng tham gia chiến đấu. Anh đã dự tính bố cục, phục kích mấy buổi sáng. Giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra một vẻ đẹp trời cho trên mặt biển sớm mờ sương, một cảnh đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ bắt gặp được một lần.
Nó đẹp như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mái thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mũi khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả bức tranh đó từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thật đơn giản và toàn bích. Đứng trước 1 sản phẩm nghệ thuật tuyệt vời của hóa công, người nghệ sĩ trở nên bối rối và trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào.
Chưa hết, trong giây lát, người nghệ sĩ còn khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Không cần lựa chọn xê dịch gì nữa, anh bấm liên thanh một hồi hết một trong những phần nào đó nào đó tư cuốn phim với cảm giác hạnh phúc tràn ngập tâm hồn. Đây chính là sự nhạy cảm của trái tim người người nghệ sĩ.
Dường như trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa biển trời mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mỹ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hòa, lãng mạn của cuộc đời. Anh yên tâm ngày mai có thể lên tàu trở về. Câu chuyện đến đây vẫn chưa có gì đặc biệt, chưa có đột biến.
Phát hiện thứ hai của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh lại đầy nghịch lí, nó bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Phùng đã chứng kiến từ chiếc ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi, cam chịu và một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, coi việc đánh vợ là một phương thức để giải tỏa những uất ức, đau khổ: chẳng nói chẳng rằng, lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng đau đớn: “Mày chết đi. cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Khi chứng kiến cảnh đó, anh kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn.
Sở dĩ anh có thái độ như vậy vì lúc trước anh từng có cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang lại, anh đã từng chiêm nghiệm bản thân cái đẹp chính là đạo đức vậy mà cảnh anh vừa bắt gặp trên mặt biển lại chẳng phải là đạo đức, là chân lý của sự toàn thiện. Phùng từng là người lính cầm súng chiến đấu để có được vẻ đẹp thanh bình của đất nước nên anh không thể chịu đựng được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách dã man, tàn bạo như vậy nên đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.
Nhưng chưa kịp thì ra can ngăn thì thằng Phác – con trai lão đàn ông đã kịp tới để che chở cho người mẹ đáng thương: không biết làm thế nào nó đã giành được chiếc thắt lưng, liền rướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng của người đàn ông để rồi nó đã bị cha tát hai cái khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. Rồi nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt. Thằng Phác đã thương mẹ theo cách của một đứa con còn nhỏ và chính điều này làm ta cảm động trước tình thương mẹ dạt dào của đứa nhỏ.
Biết Phùng đã chứng kiến sự tàn bạo của cha mình nên thằng bé Phác đâm ra căm ghét anh. Ba hôm sau, Phùng lại chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ, cảnh cô chị gái tước đoạt con dao găm mà thằng em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ người mẹ đáng thương. Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước đoạt con dao trên tay đứa em để không cho nó làm một việc trái với luân thường đạo lí.
Chắc rằng trong lòng cô bé cũng rất đau đớn khi chứng kiến cảnh bố đang hành hạ mẹ nhưng đồng thời cô cũng không thể để em làm một việc dại dột. Cô bé lúc đó là 1 điều tựa vững chắc của người mẹ, đã hành động đúng đắn để cản được việc làm dại dột của đứa em. Sau khi nhìn những cảnh đó diễn ra ngay trước mắt thì Phùng đã thể hiện bản chất của người lính là không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác nên đã xông ra can ngăn và đã bị người đàn ông đánh cho bị thương phải trở về trạm y tế của tòa án huyện.
Tất cả sự những sự việc diễn ra liên tiếp đó đã là Phùng cay đắng nhận ra rằng, đằng sau cái vẻ đẹp toàn bích, toàn thiện kia là những điều hết sức ngang trái, xấu xa và những nghịch cảnh trớ trêu của cuộc đời. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần. Bi kịch của gia đình thuyền chài kia đã như một thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng khiếp và ghê sợ.
Chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương rất đẹp, đầy thơ mộng với một vẻ đẹp trời cho, rất phù hợp để làm tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển. Phùng thực sự xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền và biển trước bình minh. Vốn là một người lính chiến trường vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, vì lẽ công bằng. Một người nhạy cảm như anh sao tránh khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra ngay sau cảnh đẹp của chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của cái xấu, cái ác.
Qua đây, Nguyễn Minh Châu muốn gửi đến người đọc những suy ngẫm hết sức sâu sắc: mỗi chúng ta và nhất là người nghệ sĩ không nên đơn giản sơ lược để mà nhìn nhận cuộc sống bởi cuộc sống rất đa dạng và phức tạp. Nó không chỉ có những vẻ đẹp như mơ và còn có cả những điều xấu xa, độc ác. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp thì hãy là một con người biết yêu ghét, vui buồn trước mọi lẽ thường tình, biết hành động để xứng đáng là một con người.
Số 3: Phân tích 2 phát hiện của Phùng
Nguyễn Minh Châu là nhà văn nổi bật của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Những tác phẩm của ông luôn chứa đựng nhiều triết lí nhân sinh sâu sắc. Ông luôn trăn trở về cuộc đời con người và sứ mệnh của người nghệ sĩ. “Chiếc thuyền ngoài xa” được xem là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương của tác giả. Bằng việcphân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng, ta sẽ thấy được cái nhìn đa chiều của chính tác giả về cuộc đời và con nghệ thuật.
“Chiếc thuyền ngoài xa” được sáng tác vào năm 1983, tiêu biểu cho hướng đi và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu ở giai đoạn đổi mới. Tác phẩm mang đậm yếu tố tự sự đi cùng với nhiều triết lí nhân sinh sâu sắc. Trong truyện, ông đã để nhân vật Phùng phát hiện ra 2 vấn đề tưởng chừng không liên quan đến nhau nhưng lại có mối quan hệ rất mật thiết. Đó là vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo hóa đầy thơ mộng, ảo diệu; trái ngược với cảnh bạo lực, những góc khuất của cuộc đời bình thường. Điều đó đã khiến nhân vật, bản thân tác giả và cả độc giả vỡ lẽ ra nhiều điều thú vị về cuộc đời và nghệ thuật.
Phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng – Nghệ sĩ Phùng được biết đến là nghệ sĩ nhiếp ảnh đầy thơ mộng và tâm huyết với nghề nghiệp. Để có được tấm ảnh lịch về biển đẹp nhất, anh đã quay lại vùng biển cũ nơi anh từng tham gia chiến đấu. Nhiều ngày trời, anh đã bố trí, phục kích để có thể chụp được bức ảnh ưng ý nhất. Và rồi sau cùng, “vẻ đẹp” trời cho ấy đã tới. Một cảnh đẹp mà có lẽ, anh chỉ có thể gặp được một lần duy nhất trong cuộc đời. Dưới đôi mắt của người nghệ sĩ, cảnh tượng ấy hiện lên đẹp “ như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ” .
Đó là khung cảnh buổi sớm tinh sương,xa xa có chiếc thuyền chài đang thu lưới giữa mặt biển: “mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa… đang hướng mặt vào bờ” . Cảnh sắc ấy đúng là có một không hai, kì diệu, tưởng chừng như chỉ là ảo ảnh. Từ không gian mênh mông của biển đến con người; từ màu sắc, đường nét đến ánh sáng,… tất cả đều hòa quyện với nhau rất hài hòa, tinh tế.
Đứng trước khung cảnh đẹp như mơ ấy, nghệ sĩ Phùng trở nên “bối rối ”, “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa ấy đã tác động mạnh mẽ vào tâm trí và trái tim của người nghệ sĩ. Nó khơi dậy những cảm xúc thăng hoa diệu kì mà bất cứ người làm nghệ thuật nào cũng đều khao khát. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, nhân vật đã khám phá ra chân lí của sự hoàn hảo, cảm thấy tâm hồn trở nên trong ngần. Người nghệ sĩ như được thanh lọc tâm hồn, dành toàn bộ trái tim và khối óc để thưởng thức và lưu giữ “khoảnh khắc trời cho” ấy.
Sau những say đắm với khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, người nghệ sĩ chưa hết bàng hoàng ấy đã đối mặt với phát hiện thứ hai. Giữa sự lung linh, ảo diệu của không gian, cảnh bạo lực gia đình hiện lên ngay trước mắt anh, khiến anh ngỡ ngàng và không kịp phản ứng. Từ chiếc ngư phủ tuyệt đẹp mà anh thầm cảm thán ấy, bước ra một người đàn bà xấu xí, cam chịu, theo sau là người đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác.
Lão ta rút chiếc thắt lưng ra, quật tới tấp vào người đàn bà với những lời nguyền rủa đau đớn: “ Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ” . Cảnh tượng ấy đến bất ngờ, khiến cho nhân vật Phùng chỉ biết “đứng há mồm ra mà nhìn” . Bởi lẽ chính bản thân anh cũng không thể tin được sự phũ phàng của hiện thực đang diễn ra phía trước. Anh vừa mới được chiêm ngưỡng một vẻ đẹp tuyệt vời trong cuộc đời người nghệ sĩ, khám phá ra chân lí của sự hoàn thiện; ấy vậy mà đằng sau vẻ đẹp đó lại là cảnh bạo lực dã man, tàn ác, vô đạo đức.
Sau những giây phút ngỡ ngàng, Phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng để thấy nghệ sĩ Phùng đã “ vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới” để can ngăn. Là một người lính bước ra từ khói lửa, anh hiểu và trân trọng sự bình yên của hiện tại. Do vậy, đối mặt với cái xấu xa trước mắt, anh đã không màng tới thành quả nghệ thuật mình phải cất công tìm kiếm để bảo vệ cho sự bình yên ấy.
Thế nhưng chưa kịp can ngăn, anh đã chứng kiến cảnh thằng Phác, con trai của người đàn bà xấu xí kia lao ra, giật lấy thắt lưng từ người đàn ông, “dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng” của cha nó. Để rồi chính nó lại bị cha tát hai cái, “ngã dúi xuống cát” . Nó lặng lẽ đưa tay lau những giọt nước mắt trên gương mặt “đầy những nốt rỗ chằng chịt” của người mẹ. Tình thương giản dị, bản năng của người con đối với mẹ mình đã khiến nhân vật Phùng cảm động, xót xa.
Ngỡ tưởng chỉ phải chứng kiến cảnh tượng đó một lần, thế nhưng bai ngày sau, nghệ sĩ Phùng tận mắt thấy được cảnh bạo lực ấy một lần nữa. Lần này, thằng Phác không còn chỉ lao ra che chở mẹ như trước, mà trên tay còn lăm lăm con dao, muốn xông vào người cha độc ác của mình. Chị nó, một cô bé yếu ớt đã tước đoạt con dao ấy, vật lộn với nó để ngăn em làm việc trái với luân thường đạo lí. Dù phải ngăn em, trơ mắt nhìn mẹ chịu bạo lực nhưng chắc hẳn cô bé ấy cũng rất đau đớn, xót xa tột cùng. Không thể để bạo lực tiếp diễn, nhân vật Phùng đã lao ra can ngăn và bị người đàn ông đánh cho bị thương. Anh phải đến trạm y tế để băng bó vết thương, chứng kiến thêm sự cam chịu, nhún nhường của người đàn bà ấy.
Sau tất cả, anh nhận ra rằng đằng sau cái vẻ đẹp của tạo hóa mà anh tưởng là vô cùng hoàn hảo kia là hiện thực rất đỗi phũ phàng. Hòa bình đã lập lại, thế nhưng hạnh phúc của từng con người, số phận với những nghịch cảnh riêng thì vẫn còn tồn tại. Thông qua cái nhìn của người nhiếp ảnh ấy, tác giả Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm nhiều triết lí nhân sinh về nghệ thuật và cuộc đời. Nghệ thuật, không phải chỉ là nhìn nhận ra vẻ đẹp trước mắt mà cần phải gắn với tình thương và hạnh phúc.
Chúng ta không thể chỉ nhìn ngắm vẻ bề ngoài mà bỏ đi bản chất của cuộc đời. Đôi khi đằng sau cái hào nhoáng, lấp lánh lại ẩn chứa biết bao nghịch cảnh trớ trêu. Đồng thời tác giả cũng nhắn nhủ con người không nên nhầm lẫn, đánh đồng vẻ bên ngoài với bản chất bên trong của sự việc mà phải có cái nhìn đa chiều, đa diện về cuộc sống. Nghệ thuật vốn bắt nguồn và nảy sinh từ cuộc sống nhưng cuộc sống luôn biến động, nhiều chiều, không phải lúc nào cũng đẹp và hoàn hảo như nghệ thuật.
Dù là phát hiện về nghệ thuật hay cuộc đời, Phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng thông qua nhân vật Phùng, chúng ta đều thấy được sự nghiêm túc với nghề, trái tim ấm nóng luôn yêu thương và thấu hiểu con người của tác giả Nguyễn Minh Châu. Đó là “quá trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu bên trong tâm hồn người” của ông, với những trăn trở sâu sắc về cuộc đời và con người, về ý nghĩa của nghệ thuật chân chính. Tác giả Nguyễn Minh Châu xứng đáng là “người mở đường tinh anh và tài năng của văn học Việt Nam thời kì đổi mới”.

Số 4: Phân tích nhân vật của Phùng qua 2 phát hiện
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống Mĩ, cũng là “người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học từ sau 1975. Ở giai đoạn trước, ngòi bút của ông theo khuynh hướng sử thi, đậm tính chiến đấu và thiên hướng trữ tình lãng mạn, thời kì sau chuyển sang cảm hứng thế sự cùng những vấn đề triết lí nhân sinh. “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu trong thời kì sau. Tác phẩm kể về chuyến đi thực tế của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, qua đó thể hiện cái nhìn sâu sắc của tác giả về vấn đề nghệ thuật và cuộc sống. Những phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng làm nổi bật tư tưởng của nhà văn.
Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng tìm đến vùng ven biển miền Trung (Trung trung bộ), nơi vốn là chiến trường cũ của anh, để chụp những tấm ảnh phục vụ cho chủ đề thuyền và biển của bộ lịch năm sau. Về lại mảnh đất một thời gắn bó trong cuộc sống đời thường, người nghệ sĩ đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của cuộc sống của người dân làng chài.
Sau bao ngày săn ảnh, Phùng đã chớp được một cảnh kì diệu về chiếc thuyền ngoài xa đang thu lưới trong biển sớm mờ sương: “mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa… đang hướng mặt vào bờ”. Với Phùng đây là khoảnh khắc kì diệu trong đời cầm máy của mình. Bởi từ khung cảnh sông nước đến con người ngư phủ, từ đường nét, màu sắc, ánh sáng tất cả đều hài hòa tuyệt đẹp. Trong con mắt Phùng, cảnh tượng đó giống như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ.
Đứng trước một bức tranh tuyệt tác của hóa công, người nghệ sĩ nhiếp ảnh trở nên “bối rối”, “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Điều đó cho thấy vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa đã tác động mãnh liệt đến tâm hồn của người nghệ sĩ khơi dậy những cảm xúc thăng hoa kì diệu. Trong khoảnh khắc đó, Phùng cảm giác đã khám phá ra được cái chân lí của sự hoàn thiện, khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn khiến cho Phùng nghĩ đến lời đúc kết của ai đó “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”.
Qua phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng về cái đẹp toàn bích, nhà văn Nguyễn Minh Châu không chỉ khám phá được phần nào hiện thực cuộc sống sau chiến tranh cũng như hành trình săn tìm nghệ thuật của người nghệ sĩ mà còn cho chúng ta thấy những chân lí cuộc đời.
Đằng sau cái đẹp của thiên nhiên, của nghệ thuật là vẻ đẹp của tâm hồn, của con người. Bức họa kia càng thêm sống động thực sự có linh hồn khi con người là chủ thể của bức tranh lại là những con người bình dị vùng ven biển miền Trung. Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa tác động mãnh liệt đến tâm hồn Phùng, điều này chứng tỏ tâm hồn của người nghệ sĩ rất dễ nhạy cảm, tinh tế trước cái đẹp của thiên nhiên con người. Đồng thời qua phát hiện thứ nhất này nhà văn muốn khẳng định, những tác phẩm nghệ thuật vô giá không phải tự nhiên mà có, nó là sản phẩm của một hành trình đi tìm cái đẹp, quá trình lao động miệt mài của người nghệ sĩ chân chính.
Khi bắt gặp cảnh đẹp người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình trong sáng vô ngần, từ đây nhà văn muốn nhấn mạnh khả năng nhân đạo hóa con người của nghệ thuật chân chính: cái đẹp có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Nói như Đốt-tôi-ép-xki:”cái đẹp cứu vớt con người”. Còn nhà văn Thạch Lam khẳng định: “văn chương là thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể vừa tố cáo, thay đổi thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn.
Phát hiện thứ hai của Phùng là cảnh mà Phùng nhìn thấy khi chiếc thuyền tiến thẳng vào. Phùng nhìn thấy bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ kia là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi, là đứa con muốn bảo vệ mẹ lao vào bố một cách bản năng. Nó bị cha cho cái bạt tai ngã dúi mặt xuống cát. Toàn cảnh đời ngang trái, sự thật phũ phàng.
Chứng kiến cảnh tượng đó người nghệ sĩ kinh ngạc đến sững sờ, anh như chết lặng bởi vì không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp kì diệu của tạo hóa kia là cái ác, cái xấu đến không thể tin được. Vừa mới đây thôi anh đã từng chiêm nghiệm: “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Thế mà cảnh tượng cuộc sống của người dân làng chài chẳng phải là đạo đức. Nghệ sĩ Phùng là người lính từng cầm súng bảo vệ cuộc sống con người cho nên trước cảnh đó anh thấy bất bình, thấy người đàn ông thật độc ác, tàn nhẫn. Khung cảnh nên thơ về chiếc thuyền ngoài xa đã nhanh chóng tan vỡ, thay cho cảm xúc thăng hoa chỉ còn lại đau đớn xót xa.
Qua phát hiện thứ hai này Nguyễn Minh Châu cho chúng ta thấy đằng sau bức tranh thuyền và biển tuyệt diệu là cuộc đời đầy khắc nghiệt với những mảnh đời tội nghiệp. Nhà văn muốn thể hiện cái đẹp của nghệ thuật dễ nắm bắt hơn cái đẹp của cuộc sống. Vì cái đẹp của cuộc sống cần có thêm hạnh phúc và tình thương. Và đôi cánh khi cái đẹp của ngoại cảnh làm khuất lấp cái xấu tồn tại ở đời sống.
Cuộc đời không đơn giản xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí với những mảng sáng tối, xấu đẹp, thiện ác, thật giả… Quan trọng là chúng ta đừng nhầm lẫn giữa hình thức bên ngoài và bản chất bên trong, chúng ta phải có cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống. Nghệ thuật vốn nảy sinh từ cuộc đời nhưng cuộc đời không phải bao giờ lúc nào cũng đẹp như nghệ thuật.
Phát hiện thứ ba của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng là ở tòa án huyện. Với tấm lòng nhân hậu và sự bất bình trước cái ác, cả Phùng và Đẩu đều hi vọng góp phần giải thoát cho người đàn bà hàng chài khỏi người chồng vũ phu, tàn nhẫn. Họ hoàn toàn tin vào thiện chí nhưng họ đã kinh ngạc trước một hiện thực chớ trêu: người đàn bà đau khổ ấy không muốn bỏ người chồng tàn nhẫn. Con người bị cầm tù bởi đói nghèo tăm tối và bạo lực ấy lại tuyệt đối không muốn giải thoát, thậm chí chị còn van xin: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”
Trước thái độ và hành động của người đàn bà hàng chài Phùng cảm thấy “căn phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá”, đó là cảm giác chân thực của người lính có trái tim nồng hậu không chấp nhận nổi sự bất công mong giành lại từng quyền sống cho con người. Bất bình trước sự cam chịu nhẫn nhục tới khó hiểu của những con người khốn khổ. Hiện thực với những mâu thuẫn éo le qua câu chuyện của người đàn bà thất học quê mùa nhưng sâu sắc từng trải đã khiến Đẩu và Phùng trở thành những người nông cạn, lòng tốt của các anh trở thành những lí thuyết đẹp đẽ nhưng phi thực tế.
Qua phát hiện thứ ba này, nhà văn muốn gửi gắm ba thông điệp đến người đọc. Cái xấu cũng có thể làm cái đẹp bị khuất lấp (tìm hiểu sâu gia đình hàng chài Phùng lại thấy cuộc sống nhức nhối ấy làm khuất lấp nhiều nét đẹp của không ít những thành viên trong gia đình). Nhà văn không chấp nhận cái nhìn hời hợt bên ngoài, càng không chấp nhận kiểu người đứng ngoài cuộc, đứng trên cao để phán xét. Và thông điệp thứ ba là: muốn giải quyết những vấn đề của cuộc sống không chỉ dựa vào những thiện chí, pháp luật bằng những lí thuyết đẹp đẽ mà xa rời thực tiến, ngược lại phải có những biện pháp thiết thực mang tính toàn xã hội mới có thể giải phóng tận gốc những vấn đề tồn tại trong cuộc sống.
Những phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng rất độc đáo, qua đó truyền tải những bức thông điệp của nhà văn. Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng phát biểu:”Sáng tác văn học là quá trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu bên trong tâm hồn người”. Thông điệp phát đi từ hình tượng “Chiếc thuyền ngoài xa” qua những phát hiện của nghệ sĩ Phùng là sự bổ sung hết sức thuyết phục cho thông điệp đó.
Số 5: Ý nghĩa 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tài năng với sức sáng tạo dồi dào, bằng cái tâm của người nghệ sĩ, ông luôn trăn trở trước những hiện thực của đời sống và đặt ra trách nhiệm của người nghệ sĩ khi đứng trước thực tại đó. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu được sáng tác trong giai đoạn đổi mới văn học, đồng thời cũng là tác phẩm điển hình cho quá trình chuyển hướng từ cảm hứng sử thi lãng mạn huyền ảo sang tính triết luận về những giá trị nhân bản đời thường. Trong truyện, thông qua hai phát hiện của nhân vật Phùng, tác giả Nguyễn Minh Châu đã thể hiện được những đánh giá, quan điểm về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật, giữa người nghệ sĩ và nhân dân.
Phát hiện đầu tiên của nhiếp ảnh gia Phùng là việc chứng kiến khung cảnh biển buổi sáng trong sương mai, đó là khung cảnh đẹp đẽ, tuyệt bích như bức họa mực tàu. Để hoàn thành nhiệm vụ chụp bộ ảnh lịch treo tết, Phùng đã tới một vùng biển để thực hiện tác nghiệp, đây cũng là nơi mà Phùng từng cùng đồng đội cầm súng chiến đấu. Sau nhiều ngày tác nghiệp, cuối cùng Phùng cũng đã bắt gặp được khung cảnh trời cho, đó là khung cảnh rộng lớn của biển với chiếc thuyền ngoài xa mà “mái thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào hầu sương mù màu trắng như có sữa pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”, trên thuyền là vài bóng người im phăng phắc.
Đứng trước khung cảnh trời cho ấy, Phùng đã bấm máy liên tục như sợ để lỡ mất dù chỉ là một khoảnh khắc. Bức tranh cảnh biển hài hòa, toàn bích đã làm cho trái tim người nghệ sĩ như có cái gì bóp thắt vào. Trong giây lát, Phùng đã nhận ra được chân lí của sự hoàn mĩ, thì ra đứng trước cảnh đẹp, trước sự hoàn mĩ của cuộc sống, tâm hồn người nghệ sĩ có thể được thanh lọc để trở nên trong trẻo hơn. Dường như trong bức tranh cảnh biển với chiếc thuyền ngoài xa, người nghệ sĩ ấy đã bắt gặp được cái tận thiện, tận mĩ, tâm hồn cũng được gột rửa để trong trẻo, tinh khôi hơn.
Nếu phát hiện đầu tiên của Phùng mang tính khám phá thì phát hiện thứ hai lại mang tính nghịch lí. Trong khung cảnh lung linh, tuyệt mĩ của cảnh biển Phùng ngỡ ngàng phát hiện ra cảnh bạo lực gia đình – sự thật tàn nhẫn trong góc khuất cuộc sống của những con người nghèo khổ. Từ một trong những chiếc thuyền bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi với vẻ ngoài cam chịu cùng một người đàn ông hung dữ, độc ác lấy việc đánh vợ làm phương thức giải tỏa mọi đau khổ. Người đàn ông vừa trút những trận đòn roi dã man lên người đàn bà tội nghiệp vừa rít lên bằng cái giọng đau đớn “ Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ”.
Khi chứng kiến cảnh bạo lực ấy, Phùng đã kinh ngạc mất mấy phút đầu vì anh không tưởng tượng được vì sao con người có thể đối xử tàn nhẫn với nhau đến vậy. Anh Phùng từng là người lính, từng cầm súng đấu tranh cho tự do, bảo vệ cho con người nên anh không thể chịu được khi chứng kiến cảnh đánh đập dã man của người đàn ông với vợ của mình, anh đã ném chiếc máy ảnh, phương tiện tác nghiệp của người nghệ sĩ để lao vào ngăn cản người đàn ông để bảo vệ người đàn bà.
Sau phát hiện mang tính nghịch lí này, Phùng đã cay đắng nhận ra rằng đằng sau vẻ đẹp toàn bích, hoàn thiện kia lại là những góc khuất đầy ngang trái, đau khổ của cuộc sống. Chiếc thuyền ở ngoài xa có thể tạo nên vẻ đẹp toàn bích, ảo diệu nhưng nếu đến gần lại thật đắng cay, đau khổ. Trong câu chuyện của người đàn bà tại tòa án huyện, Phùng nhận thức được chân lí éo le của cuộc sống. Hòa bình đã lập lại, con người phải đối mặt với những khó khăn mới, đó chính là cuộc sống đau khổ của thực tại. Qua đó Phùng ý thức được trách nhiệm của người nghệ sĩ, người nghệ sĩ đích thực không phải chỉ nhìn cuộc sống như chiếc thuyền ngoài xa mà cần thực sự thấu hiểu, đi sâu khám phá cuộc sống của con người, có như vậy tác phẩm được sáng tạo mới là nghệ thuật đích thực.
Thông qua hai phát hiện của nhân vật Phùng, tác giả Nguyễn Minh Châu đã đặt ra mối trăn trở về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời, giữa người nghệ sĩ và người dân. Qua truyện ngắn tác giả cũng đặt ra trách nhiệm của người nghệ sĩ: trước khi người nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp thì hãy học cách thấu hiểu, đồng cảm, yêu thương đối với con người.
Số 6: Phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn giàu tâm huyết, luôn trăn trở về một nền văn học xứng đáng với tầm vóc dân tộc và với sự kì vọng của nhân dân. Từ cảm hứng sử thi lãng mạn huyền ảo đã từng tạo nên vẻ đẹp rực rỡ trong các tác phẩm thời kì chiến tranh như Mảnh trăng cuối rừng, Dấu chân người lính, Cửa sông, … ông dần dần chuyển sang tính chất triết luận về những giá trị nhân bản đời thường, khám phá bản chất con người trong cuộc sống mưu sinh, trong hành trình tìm kiếm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Chiếc thuyền ngoài xa sáng tác năm 1983 là truyện ngắn rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai.
Đây là tác phẩm in đậm phong cách của Nguyễn Minh Châu: tự sự – triết lí nhân sinh. Trong tác phẩm này, nhà văn đã để cho nhân Phùng phát hiện ra vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương cùng những nghịch lí trớ trêu của gia đình hàng chài, qua đó thể hiện những chiêm nghiệm sâu sắc về nghệ thuật và cuộc đời.
Phát hiện thứ nhất của nhân vật người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đầy thơ mộng. Để có tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng phòng, Phùng đã tới một vùng biển từng là chiến trường cũ mà anh từng tham gia chiến đấu. Anh đã dự tính bố cục, phục kích mấy buổi sáng. Giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra một vẻ đẹp trời cho trên mặt biển sớm mờ sương, một cảnh đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ bắt gặp được một lần.
Nó đẹp như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mái thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào hầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mũi khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả bức tranh đó từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thật đơn giản và toàn bích.
Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt vời của hóa công, người nghệ sĩ trở nên bối rối và trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Chưa hết, trong giây lát, người nghệ sĩ còn khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Không cần lựa chọn xê dịch gì nữa, anh bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim với cảm giác hạnh phúc tràn ngập tâm hồn. Đây chính là sự nhạy cảm của trái tim người người nghệ sĩ.
Dường như trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa biển trời mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mĩ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hòa, lãng mạn của cuộc đời. Anh yên tâm ngày mai có thể lên tàu trở về. Câu chuyện đến đây vẫn chưa có gì đặc biệt, chưa có đột biến.
Phát hiện thứ hai của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh lại đầy nghịch lí, nó bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Phùng đã chứng kiến từ chiếc ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi, cam chịu và một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, coi việc đánh vợ là một phương thức để giải tỏa những uất ức, đau khổ: chẳng nói chẳng rằng, lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng đau đớn: “Mày chết đi. cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Khi chứng kiến cảnh đó, anh kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn.
Sở dĩ anh có thái độ như vậy vì lúc trước anh từng có cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang lại, anh đã từng chiêm nghiệm bản thân cái đẹp chính là đạo đức vậy mà cảnh anh vừa bắt gặp trên mặt biển lại chẳng phải là đạo đức, là chân lí của sự toàn thiện. Phùng từng là người lính cầm súng chiến đấu để có được vẻ đẹp thanh bình của đất nước nên anh không thể chịu đựng được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách dã man, tàn bạo như vậy nên đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.
Nhưng chưa kịp thì ra can ngăn thì thằng Phác – con trai lão đàn ông đã kịp tới để che chở cho người mẹ đáng thương: không biết làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng của người đàn ông để rồi nó đã bị cha tát hai cái khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. Rồi nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt.
Thằng Phác đã thương mẹ theo cách của một đứa con còn nhỏ và chính điều này làm ta cảm động trước tình thương mẹ dạt dào của đứa nhỏ. Biết Phùng đã chứng kiến sự tàn bạo của cha mình nên thằng bé Phác đâm ra căm ghét anh. Ba hôm sau, Phùng lại chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ, cảnh cô chị gái tước đoạt con dao găm mà thằng em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ người mẹ đáng thương. Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước đoạt con dao trên tay đứa em để không cho nó làm một việc trái với luân thường đạo lí. Chắc rằng trong lòng cô bé cũng rất đau đớn khi chứng kiến cảnh bố đang hành hạ mẹ nhưng đồng thời cô cũng không thể để em làm một việc dại dột.
Cô bé lúc đó là một điểm tựa vững chắc của người mẹ, đã hành động đúng đắn để cản được việc làm dại dột của đứa em. Sau khi nhìn những cảnh đó diễn ra ngay trước mắt thì Phùng đã thể hiện bản chất của người lính là không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác nên đã xông ra can ngăn và đã bị người đàn ông đánh cho bị thương phải trở về trạm y tế của tòa án huyện. Tất cả sự những sự việc diễn ra liên tiếp đó đã là Phùng cay đắng nhận ra rằng, đằng sau cái vẻ đẹp toàn bích, toàn thiện kia là những điều hết sức ngang trái, xấu xa và những nghịch cảnh trớ trêu của cuộc đời.
Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần. Bi kịch của gia đình thuyền chài kia đã như một thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng khiếp và ghê sợ.
Chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương rất đẹp, đầy thơ mộng với một vẻ đẹp trời cho, rất phù hợp để làm tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển. Phùng thực sự xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền và biển trước bình minh. Vốn là một người lính chiến trường vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, vì lẽ công bằng. Một người nhạy cảm như anh sao tránh khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra ngay sau cảnh đẹp của chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của cái xấu, cái ác.
Qua đây, Nguyễn Minh Châu muốn gửi đến người đọc những suy ngẫm hết sức sâu sắc: mỗi chúng ta và nhất là người nghệ sĩ không nên đơn giản sơ lược để mà nhìn nhận cuộc sống bởi cuộc sống rất đa dạng và phức tạp. Nó không chỉ có những vẻ đẹp như mơ và còn có cả những điều xấu xa, độc ác. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp thì hãy là một con người biết yêu ghét, vui buồn trước mọi lẽ thường tình, biết hành động để xứng đáng là một con người.

Số 7: Cảm nhận về 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, tác giả Nguyễn Minh Châu là một trong những “nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất” (Nguyên Ngọc). Trong những sáng tác của mình, Nguyễn Minh Châu luôn cảm nhận đời sống con người cả ở những sự kiện bề nổi lẫn những khuất lấp trong chiều sâu. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, đặc biệt là qua hai phát hiện tưởng chừng như mâu thuẫn, nghịch lí của người nghệ sĩ Phùng. Đó là phát hiện “một cảnh đắt trời cho” đầy thơ mộng của người nghệ sĩ và phát hiện về cảnh bạo lực gia đình mang tính hiện thực về cuộc đời của một con người giàu yêu thương và luôn trăn trở về cuộc đời và con người.
Trước hết, phát hiện thứ nhất về khung cảnh thiên nhiên thơ mộng đã được khắc họa đầy sinh động dưới đôi mắt tài hoa của người nghệ sĩ say mê cái đẹp. Sau những ngày phục kích, Phùng đã bắt gặp “một cảnh đắt trời cho”. Đó là bức tranh thiên nhiên hoàn mĩ với cảnh chiếc thuyền ngoài xa thấp thoáng, ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Đôi mắt tinh tường của người nghệ sĩ đã phát hiện một cảnh đẹp trời cho – vẻ đẹp mà cả đời bấm máy anh chưa từng bắt gặp.
Dường như tác giả đã vận dụng tối đa mọi giác quan cùng phác họa những nét vẽ đậm chất hội họa: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu trời sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Bức tranh có sự xuất hiện của thiên nhiên: “bầu trời mờ sương trắng”, “ánh mặt trời”, vừa có hình ảnh của con người: “Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng…”.
Trong khung cảnh có sự hài hòa về thiên nhiên và con người đó, người nghệ sĩ đã cảm nhận được vẻ đẹp của “cái đẹp tuyệt đỉnh”. Tất cả cảnh sắc trời ban đó hiện lên trước mắt anh giống như “bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, tạo nên “một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Khoảnh khắc nắm bắt được vẻ đẹp đó, người nghệ sĩ trở nên “bối rối” và “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Phùng đã có “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang lại”. Người nghệ sĩ dường như đã tìm thấy cái chân – thiện – mĩ của cuộc đời, cảm thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, gột rửa trở nên thật trong trẻo, tinh khôi.
Qua đó, chúng ta có thể thấy được cảm hứng triết lí về nghệ thuật: Vẻ đẹp của “cái đẹp tuyệt đỉnh” chính là sự giản dị, tự nhiên, đồng thời, “cái đẹp là đạo đức”, có tác dụng “thanh lọc”, khiến con người trở nên cao khiết, thánh thiện, không gợn đục.
Tuy nhiên, đằng sau phát hiện về bức tranh tuyệt bích đó là một cảnh tượng đầy nghịch lí. Đó chính là phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ về cảnh bạo hành diễn ra trong chiếc thuyền bước ra trong làn sương sớm. Từ điểm nhìn trực diện, rõ nét: “chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ trước tôi đứng”, tác giả đã tái hiện những hình ảnh chân thực về con người. Từ chiếc thuyền bước ra một người đàn bà cao lớn, với những đường nét thô kệch, vẻ mặt mệt mỏi, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới cùng người đàn ông với tấm lưng rộng và cong, mái tóc tổ quạ, đi chân chữ bát, hàng lông mày cháy nắng, hai con mắt đầy vẻ độc dữ.
Nhưng những gì diễn ra sau đó mới thực sự khiến Phùng bàng hoàng: người chồng hùng hổ rút chiếc thắt lưng, “chẳng nói chẳng rằng” quật tới tấp vào lưng người đàn bà” với những hành động hung bạo, dã man như một con thú. Tuy nhiên, điều làm Phùng kinh ngạc là sự cam chịu của người vợ, “không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy”. Cảnh bạo hành chỉ kết thúc khi anh con trai giằng thắt lưng, phản kháng lại người bố để bảo vệ mẹ. Đứng trước cảnh tượng đầy nghịch lí đó, người nghệ sĩ nhiếp ảnh như “chết lặng”, không tin những gì đang diễn ra trước mắt: “kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há hốc mồm ra mà nhìn”.
Sau đó, dường như không thể chịu đựng thêm được nữa và không thể làm ngơ trước cảnh bạo hình, Phùng đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới”. Phùng không thể ngờ được đằng sau phát hiện về một cảnh đắt giá trời cho lại là cái xấu, cái ác không thể tin nổi. Đó là hiện thực đầy gai góc, gồ ghề, ngang trái và đối lập hoàn toàn với vẻ đẹp tuyệt bích, bình yên của tác phẩm nhiếp ảnh.
Tác giả Nguyễn Minh Châu đã đặt ra hai phát hiện về nghệ thuật và cuộc đời tưởng chừng như đầy nghịch lí nhưng lại có mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ. Khi xây dựng hai phát hiện này, tác giả đã gián tiếp thể hiện quan niệm triết lí nhân sinh độc đáo: Cuộc sống con người vốn đa chiều, phức tạp. Hiện thực không phải là bức tranh màu hồng mà là bức tranh lẫn lộn những mảng tối sáng, cái đẹp, cái thiện tồn tại song song cùng cái xấu, cái ác. Nếu chỉ đứng từ xa, con người sẽ chỉ nhìn thấy một hiện thực mờ ảo như chiếc thuyền thấp thoáng, ẩn hiện trong làn sương sớm giữa biển khơi. Chỉ khi có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, chúng ta mới phát hiện được những nghịch lí cùng sự khuất lấp của cuộc sống phức tạp.
Như vậy, hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả với những ý nghĩa triết lí nhân sinh độc đáo, đồng thời làm nổi bật quan niệm của tác giả về mối quan hệ giữa nghệ thuật và con người. Đó cũng chính là một trong những nền tảng khắc họa giá trị nhân đạo sâu sắc và giá trị hiện thực của tác phẩm.
Số 8: Phân tích 2 phát hiện của Phùng
Người nghệ sĩ là người luôn kiếm tìm cái đẹp, trân trọng và giữ gìn chúng. Thế nhưng, không phải cái đẹp nào cũng “đơn giản và toàn bích” mà đôi khi chứa đựng sau vẻ đẹp “toàn bích” ấy là cả một sự thật đau đớn đến ngỡ ngàng. Và câu chuyện của nhiếp ảnh gia Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu là một câu chuyện như thế. Khi mà người nghệ sĩ Phùng tưởng chừng như đã tìm ra được vẻ đẹp chân lý của cuộc đời mình thì một sự thật không ngờ về cuộc đời và số phận những người lao động nghèo ở làng chài đã khiến anh phải suy nghĩ lại. Đó có lẽ là hai phát hiện lớn nhất của cuộc đời anh.
Câu chuyện bắt đầu khi Phùng được trưởng phòng yêu cầu chụp một bức ảnh nghệ thuật về thuyền và biển cho bộ lịch mới. Vậy là anh được đề nghị đi thực tế để bổ sung và anh đã chọn nơi chiến trường xưa mình đã từng chiến đấu để vừa lấy tư liệu vừa thăm người bạn thân tên Đẩu đang làm chánh án toà án huyện ở đây.
Sau bao ngày “phục kích” trên bãi biển thế nhưng Phùng chưa có bức ảnh nào làm anh ưng ý. Cho đến một hôm khi trời còn mù sương và lác đác mưa, Phùng đã phát hiện ra một con thuyền tuyệt đẹp ở ngoài xa đang dần tiến vào bờ. Đó là phát hiện đầu tiên của Phùng ở chuyến đi này, một phát hiện đã khiến anh “ngẩn” người bởi vẻ đẹp của nó.
Khung cảnh biển rộng lớn, bao trùm bởi ánh ban mai, một chiếc thuyền với những đường nét mờ ảo dần tiến lại. Vẻ đẹp ấy tuyệt mỹ đến nỗi mà Phùng phải thốt lên “có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy”. Con thuyền chầm chậm tiến vào “mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum hướng mặt vào bờ…”.Bức ảnh tuyệt đẹp đến nỗi Phùng đã so sánh nó “như một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ” với một sự trân trọng đầy quý giá.
Cái đẹp của bức tranh ấy được nhìn qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ lại càng đẹp đẽ, lộng lẫy hơn bội phần. Và chính Phùng đã phải xúc động trước vẻ đẹp đó. Anh cảm thấy “bối rối”, cảm thấy như “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Bởi lẽ anh cho rằng, giây phút anh chứng kiến cái đẹp kia chính là giây phút anh tìm được “cái chân lý của sự toàn thiện”, “cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đúng, đó là bởi vì người nghệ sĩ cả đời chuyên tâm kiếm tìm cái đẹp, cái đẹp khiến tâm hồn họ rung động, khiến họ “bối rối” và bức tranh kia lại “đơn giản và toán bích” quá đỗi, khiến Phùng không thể cưỡng lại được. Anh cảm tưởng như tâm hồn mình đã được cái đẹp đó “thanh lọc”, trở nên trong ngân hơn bao giờ hết.
Ít có người nghệ sĩ nào lại có được những phút giây thăng hoa như thế trong cuộc đời của mình. Và Phùng là số ít người bắt gặp được cái đẹp mà đôi khi cả đời người cũng không thể tìm thấy. Anh đã thực sự hạnh phúc khi bắt gặp được cái đẹp tuyệt mỹ kia, một phần bởi sự may mắn, nhưng cũng là bởi sự tinh tế, nhạy bén của tâm hồn nghệ sĩ trong anh. Phát hiện đó có thể được coi là một quan niệm về cái đẹp trong vũ trụ của Nguyễn Minh Châu, ông cho rằng cái đẹp đều xuất phát từ những sự vật, sự việc bình thường trong đời sống. Ý nghĩa thứ hai của vẻ đẹp ấy đó là thứ con người ta đạt được qua quá trình lao động với lòng kiên nhẫn kiên trì mới có được thành quả nhường ấy!
Thông qua nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn thể hiện một tấm lòng yêu nghệ thuật, say mê cái đẹp, không chấp nhận thứ nghệ thuật sơ sài, đồng thời ông cũng khẳng định “cái đẹp chính là đạo đức”. Và người nghệ sĩ chân chính, với lòng say mê của mình sẽ có được kết quả như mong muốn.
Cái đẹp không kéo dài, vậy nên Phùng đã “gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm “liên thanh” một hồi hết một phần tư cuộn phim, thu vào chiếc pra-ti-ca cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang lại”. Thế nhưng, anh lại không biết rằng, sau vẻ đẹp đó lại không “đơn giản”. Vẻ đẹp đó chứa đựng một sự thật đau đớn về số phận của những con người lao động nghèo nơi làng chài này. Và đó chính là phát hiện thứ hai của anh trong chuyến đi này, mang lại cho anh một cái nhìn mới về cuộc đời, bài học về trách nhiệm của người nghệ sĩ.
Thời gian xoay vần, bức tranh không còn sự tĩnh lặng nữa, thay vào đó là sự chuyển động. Và cái đẹp mà Phùng vừa tưởng là “đạo đức” kia chợt bị câu quát “Cứ ngồi im đấy. Động đậy tao giết cả mày giờ” phá tan nát. Bức tranh “toàn bích” kia lại bị xé toang bởi hình ảnh của hai con người bước ra từ chiếc thuyền trong mơ ấy. Hai con người mang đầy dáng vẻ “thô kệch, xấu xỉ”, điển hình của những con người vùng biển bước đi chậm rãi tiến vào bờ. Người đàn bà “cao lớn, với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt”, khuôn mặt xám xịt “mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt”,còn người đàn ông với “tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát” và “đôi mắt đầy vẻ độc dữ” dường như muốn đâm thủng tấm lưng của người đàn bà đi trước. So với vẻ đẹp của con thuyền thì cảnh tượng ấy thật “thảm hại” làm sao!
Thế nhưng, đó chẳng phải là điều khủng khiếp nhất mà Phùng thấy sau vẻ đẹp như mơ kia, điều khủng khiếp nhất là khi Phùng phải chứng kiến một cảnh bạo lực tưởng chừng như thời trung cổ. Người đàn ông “rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa” rồi thẳng tay “quật tới tấp vào lưng người đàn bà” và rít lên những tiếng oán hận “mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Một cảnh tượng khủng khiếp cứ thế diễn ra trước mắt người nghệ sĩ, ngay sau bức tranh đẹp tuyệt vời mà anh vừa định nghĩa bằng “đạo đức”. Thế nhưng, mặc người đàn ông đánh đập, gào thét trong oán hận, người đàn bà vẫn cam chịu đến nhẫn nhục “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”.
Lúc đó, Phùng đã kinh ngạc tới mức “đứng há mồm ra nhìn” bởi lẽ khung cảnh tĩnh lặng trên con thuyền của buổi bình minh vẫn còn khiến anh ngây ngất. Và có lẽ, khi chứng kiến cảnh tượng đó, Phùng đã ngỡ ngàng đến mức không kịp trở tay như thế. Và càng ngạc nhiên tột độ hơn, khi cái bóng của thằng bé Phác – con của vợ chồng người đàn bà hàng chài chạy đến bên mẹ “như một viên đạn trên đường lao tới đích nhắm”. Nó đã dùng hết sức lực của mình “giằng lấy chiếc thắt lưng, (…) vung chiếc khoá sắt quật vào khuôn ngực trần” của cha nó.
Chỉ vừa mới choáng ngợp trước cảnh đẹp của thiên nhiên, thì giờ đây là cảm giác không thể tin nổi khi phải chứng kiến một cảnh tượng khủng khiếp nhất trong đời sống. Một người lính như Phùng có gì chưa từng chứng kiến, kể cả cái chết, nhưng những cảnh tượng đau lòng chồng đánh vợ, con đánh cha diễn ra trước mắt khiến anh không thể tin được lại vẫn còn ngay cả khi đất nước đã hoà bình.
Thế nhưng, hiện thực vẫn là hiện thực, chiến tranh đã qua đi, ác liệt đã qua đi nhưng cái đói, cái nghèo thì vẫn còn. Hai vợ chồng người đàn bà hàng chài ấy đã bị cuộc sống mưu sinh bức ép mà dẫn tới cảnh tượng bạo lực khủng khiếp như Phùng đã chứng kiến. Thêm vào đó, việc sinh đẻ nhiều làm cho cái vòng đói nghèo mãi luẩn quẩn, không có lối thoát.
Phát hiện thứ hai của Phùng là cảnh tượng bạo lực gia đình, một cảnh tượng mà những tưởng đã dần dần chấm dứt sau chiến tranh. Từ đó, Nguyễn Minh Châu muốn chỉ ra rằng đằng sau vẻ đẹp tuyệt bích, đôi khi lại là những cảnh tượng đau lòng vô cùng. Người nghệ sĩ phải là người đi sâu, tìm tòi được cái góc khuất phía sau vẻ đẹp đó, chứ không phải hời hợt, nông cạn trong cái đẹp bề ngoài. Cái đẹp và cái xấu xa đôi khi chỉ cách nhau một tấm mành mỏng và người làm nghệ thuật phải biết khai thác cả những vấn đề xấu xa để đi sâu tìm hiểu con người, số phận và tâm hồn của họ.
Hai phát hiện của nhân vật Phùng là hai phát hiện mang tính trái ngược. Thế nhưng chính điều đó lại làm nổi bật lên chủ đề của tác phẩm cũng như dụng ý mà tác giả muốn gửi gắm. Cuộc sống là một bài học mà chúng ta phải lật giở từng trang, hiểu sâu về nó, chứ không phải chỉ ngắm nhìn qua cái vẻ ngoài đẹp tuyệt mỹ. Và người nghệ sĩ là người có trách nhiệm khám phá mọi góc cạnh của cuộc đời, của con người để hiểu thấu họ.
Số 9: Phân tích nhân vật của Phùng qua 2 phát hiện
Nhà văn Nguyễn Minh Châu là một trong những tác giả nổi tiếng của làng văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Ông được coi là người “mở đường tài năng và tinh anh nhất”. Trước năm 1975, ông là một cây bút sử thi lãng mạn, viết nhiều về đề tài người lính. Tuy nhiên, sau năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời tư thế sự với vấn đề đạo đức, và triết lý nhân sinh. Ông khám phá con người trong cuộc đời mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc, khám phá hạt ngọc ẩn dấu, khuất lấp trong mỗi con người. Tiêu biểu cho những kiếm tìm đề tài và trách nhiệm của người nghệ sĩ là tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, in trong tập truyện cùng tên năm 1987.
Truyện ngắn được ra đời tháng 8/1983, khi cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc qua đi. Đất nước bước vào thời kì mới, thời kỳ độc lập thống nhất. Cuộc sống thời bình với muôn mặt của đời sống, đặt ra nhu cầu nhận thức lại về hiện thực và cuộc sống con người trước đây do hoàn cảnh của chiến tranh chưa được đặt ra. Là một tác phẩm đáp ứng được nhu cầu ấy, ”Chiếc thuyền ngoài xa” đã trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu và tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự, xu hướng chung của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Truyện ngắn được chia thành ba phần. Phần một: từ đầu cho đến “lưới vó biến mất”. Ở phần này, tác giả đi sâu vào kể về hai phát hiện của nhân vật Phùng. Phần hai: tiếp theo đến “giữa phá” là câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toàn án huyện. Và phần ba còn lại – tác giả nói về bức ảnh được chọn vào bộ lịch năm ấy.
Tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh tuyệt đẹp được người nghệ sĩ Phùng ghi lại vào một buổi sáng mờ sương ở một phá nước miền Trung. Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, được cấp trên giao cho chụp một bức ảnh chủ đề thuyền và biển để đăng trong bộ lịch năm ấy. Anh đã đi thực tế tại tại vùng biển miền Trung nơi trước kia đã từng chiến đấu và có người bạn ở đó. Khi đến đây anh bắt gặp một bức tranh tuyệt đẹp đó là hình ảnh của thuyền và biển trong sương sớm. Đây cũng chính là tình huống độc đáo của truyện qua đó ta thấy được nhiều điều trong cuộc sống này. Nhưng sau bức tranh ấy Phùng lại có phát hiện mới.
Trước tiên, truyện ngắn này có một tình huống truyện hết sức độc đáo. Tình huống là vấn đề then chốt đối với truyện ngắn. Nhà văn tìm được tình huống độc đáo sẽ khiến bạn đọc cuốn hút theo câu truyện. Tình huống chính là tình thế xảy ra câu truyện, khi nhân vật ở trong tình thế ấy sẽ bộc lộ rõ nhất bản chất, tính cách, phẩm chất của con người. Tình thế cũng có thể là bước ngoặt làm thay đổi số phận, nhận thức hoặc có khi bộc lộ ra những cốt lõi sâu thẳm tiềm ẩn trong truyện. Tình huống truyện của “Chiếc thuyền ngoài xa” là tình huống nhận thức, khám phá.
Đây là một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lý. Tình huống của truyện được thể hiện qua hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Tình huống đã giúp Phùng nhận ra được nhiều điều về cuộc sống, con người và nghệ thuật. Cuộc đời vốn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, bất ngờ và đầy nghịch lý. Cần đến gần cuộc sống để khám phá sự thực bên trong và chiều sâu bản chất. Cần có cái nhìn đa diện nhiều chiều để hiểu rõ bên trong số phận và tâm hồn con người. Nghệ thuật phải luôn gắn liền với cuộc sống thì mới có ý nghĩa.
Phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ Phùng là khung cảnh thiên nhiên hoàn mĩ, đẹp thơ mộng. Người nghệ sĩ phát hiện ra một vẻ đẹp trên mặt biển mờ sương. Đó là cảnh một chiếc thuyền trong buổi sớm mai đang dần tiến vào bờ, cảnh tượng khiến cho người nghệ sĩ cảm thấy may mắn và hạnh phúc khi được chứng kiến một bức tranh tuyệt vời đến như vậy. Nó giống như “một bức tranh mực tàu của một họa sĩ thời cổ”. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe …chiếu vào”. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con đang dần tiến vào bờ. Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến màu sắc ánh sáng đều hài hòa với nhau làm nên một vẻ đẹp toàn bích. Tác giả gọi đó là cảnh “đắt” trời cho, vẻ đẹp mà trong cuộc đời diễm phúc lắm may ra bắt gặp được một lần.
Nghệ sĩ Phùng tự nhận ra rằng cái đẹp chính là đạo đức. Trước bức tranh mực tàu ấy Phùng cảm thấy bối rối trong tim anh như có cái gì đang bóp chặt lấy. Đó là khoảnh khắc trong ngần của cuộc đời. Người nghệ sĩ cảm thấy tràn ngập niềm hạnh phúc, anh thấy được cảm xúc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận được chân – thiện – mĩ của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn mình được thanh lọc trở nên trong trẻo và thanh khiết. Thông qua cảm xúc của nhân vật Phùng, tác giả đưa ra quan niệm về cái đẹp. Cái đẹp phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con người đến cái chân – thiện – mĩ, cái đẹp là đạo đức.
Thế nhưng cảnh càng đẹp bao nhiêu thì thực tế cuộc sống lại đen tối bấy nhiêu. Đó chính là phát hiện thứ hai của Phùng trước khung cảnh tuyệt vời ấy. Hiện thực nghiệt ngã của con người với số phận bất hạnh của những con người nơi đây đặc biệt là người đàn bà hàng chài hiện lên. Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ ấy là người phụ nữ xấu xí và người đàn ông hung dữ, cặp vợ chồng hiện thân cho sự lam lũ đói khổ.
Chính khuôn mặt nét người của họ đã nói lên phần nào cái cuộc sống khổ cực mà họ phải chịu. Người vợ “trạc ngoài 40”, “mặt rỗ”, “thân hình cao lớn thô kệch”, “lưng áo bạc phếch”, “gương mặt lộ rõ sự mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới”… dường như bao nhiêu sương gió nắng mưa của đất trời đã chiếu thẳng vào người đàn bà ấy vậy. Còn người đàn ông thì cũng chẳng hơn gì: “có tấm lưng rộng”, đi chân chữ bát khuôn mặt “độc, dữ”. Cả hai người đều là hiện thân của sự nhọc nhằn, nghèo khó của người dân hàng chài.
Một cảnh tượng diễn ra khiến cho nghệ sĩ Phùng không thể nào tin vào mắt mình và cái cảnh đẹp kia bỗng chốc biến thành một hình ảnh vô cùng thậm tệ. Hai con người khổ sở ấy đi vào phía bãi xe tăng hỏng và thật bất ngờ trước cảnh tượng ấy: “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng … lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két…”.
Trong “chiếc thuyền ngoài xa”, một sự thật còn trớ trêu, cay đắng nữa: Cha con lão làng chài coi nhau như kẻ thù “Thằng bé chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng…lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông… liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực lão đàn ông”. Người nghệ sĩ Phùng như cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu của cái máy ảnh mà anh dày công sáng tạo nghệ thuật bỗng hiện hình một sự thật cuộc sống xót xa.
Tấm ảnh về chiếc thuyền thì rất đẹp, nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp. Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống: “Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối” (Nam Cao). Những giọt nước mắt của người đàn bà hàng chài nhỏ xuống lấp đầy những nốt rỗ chằng chịt kia. Một cảnh tượng nghiệt ngã đối lập với cái cảnh đẹp như ngư phủ của con thuyền.
Với hai phát hiện ấy Phùng chợt nhận ra rằng cuộc đời không đơn giản một chiều mà chứa nhiều nghịch lý ngang trái, mâu thuẫn. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, đẹp và xấu thiện và ác. Ở đây nhà văn khẳng định đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, hình thức bên ngoài với nội dung bên trong. Khi nhìn nhận đánh giá cuộc đời thì phải có cái nhìn đa chiều nhiều phía.
Nếu truyện ngắn chỉ dừng lại ở đây chắc chắn sẽ không đủ sức hút có thể để lại dư âm trong lòng người đọc. Chính vì thế mà những tâm sự của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện được viết ra. Sau khi chứng kiến cảnh bạo hành dã man bên chiếc xe tăng hỏng, Phùng đã nói với chánh án Đẩu từng là chiến hữu của anh để nhờ giúp đỡ.Phùng và Đẩu đều có ý tốt mong cho người phụ nữ ấy thoát khỏi người chồng vũ phu. Chính vì vậy người đàn bà hàng chài đã đươc chánh án Đẩu mời đến tòa án huyện và giải pháp được đưa ra là li hôn với chồng.
Người đàn bà hàng chài đến tòa án huyện ban đầu chị tỏ ra rất sợ hãi khép nép sau khi nghe những phân tích và sự giúp đỡ của Đẩu thì chị bỗng bình tĩnh và thay đổi cách xưng hô không còn khép nép nữa mà nói ra những tâm sự những suy nghĩ của bản thân mình. Những lời tâm sự của chị đã khiến người đọc cũng phải ngỡ ngàng. Vẻ đẹp tâm hồn ẩn sâu bởi cái vẻ ngoài xấu xí, của người phụ nữ ấy đã khiến chánh án Đẩu và nhân vật Phùng nhận ra được nhiều điều.
Người đàn bà kể lại cuộc đời mình rằng: Trước kia bà cũng là một người con nhà khá giả, nhưng sau một trận thủy đậu làm cho bà dỗ hết mặt không ai thèm lấy bà. Khi ấy ông chồng của bà lại là người làm vườn. Bố mẹ mất đi người đàn ông ấy đã cứu vớt cuộc đời của bà chính vì thế mà bà bị đánh đập nhưng cũng không nỡ bỏ người chồng đồng thời cũng là ân nhân của mình. Hiện giờ cuộc sống của bà khổ về cả vật chất lẫn tinh thần.
Gia đình bà sống cùng nhau trên một con thuyền nhỏ. Con thuyền ấy vừa là phương tiện kiếm sống lại cũng là ngôi nhà che nắng che mưa. Bà thường xuyên bị đánh đập, ba ngày một trận nhẹ năm ngày một trận nặng. Thế nhưng bà không hề chống lại chồng mình, cam chịu, nhẫn nhục, bà coi một việc bị đánh là một chuyện đương nhiên, thậm chí sợ các con nhìn thấy bà xin chồng đánh khi vào bờ.
Khi nghe những lời khuyên của Đẩu và Phùng, biết lòng tốt của họ nhưng bà nhất quyết không bỏ chồng vì người chồng là chỗ dựa tinh thần lớn nhất của gia đình nhất là khi phong ba bão táp. Người đàn bà cần chồng vì còn phải nuôi những đứa con kia. Và hơn nữa trên thuyền cũng có những lúc gia đình hạnh phúc vui vẻ. Người đàn bà chắt chiu những hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường khi nhìn thấy các con được ăn no.
Thị nhận lỗi, cho rằng đẻ nhiều con là cái tội của mình. Trong suy nghĩ của Phùng, Đẩu và thằng Phác người đàn ông kia là kẻ thô lỗ, độc ác, dã man đáng lên án. Nhưng với người vợ thấu hiểu và cảm thông, người đàn ông ấy cũng chỉ là nạn nhân, hắn trước kia hiền lành lắm, cũng vì cuộc sống nghèo khổ quá nên mới như vậy. Từ đó cho thấy người đàn bà hàng chài tuy là một người phụ nữ không học hành, xấu xí nhưng lại có một trái tim nhân hậu tiêu biểu cho nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Thị là người chấp nhận hi sinh để sống cho các con, một người vị tha và sâu sắc lẽ đời.
Trước những lẽ ấy thoạt đầu Đẩu và Phùng nghiêm nghị thấy bất bình nhưng về sau thì như vỡ lẽ ra nhiều điều. Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi nanh vuốt quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người đàn bà bất hạnh. Qua câu chuyện của người đàn bà, Phùng càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con người.
Cuộc sống này không chỉ sống cho riêng mình hay nó vốn là cái mình nhìn thấy trên bề nổi mà nó là phần chìm bên trong câu chuyện kia. Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài đã đem đến cho người đọc một thông điêp, một triết lý. Đó là phải nhìn mọi việc một cách toàn diện. Đó mới là cái giá trị đích thực của cuộc sống này. Từ một người đàn bà nhút nhát sợ hãi người đàn bà trở nên sâu sắc làm cho hai người đành phải để người phụ nữ ấy về với gia đình mình.
Câu chuyện kết thúc khi bức ảnh tuyệt bích được chọn in trong tấm lịch năm ấy và bức tranh còn được treo mãi trong những gia đình sành nghệ thuật. Điều này khẳng định giá trị nghệ thuật của bức tranh. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã đi sâu vào tiềm thức của Phùng như một trải nghiệm mà mỗi khi nhìn vào bức ảnh anh lại nhớ đến nó.
Với anh, khi đứng trước bức ảnh đen trắng lại thấy một màu hồng trong buổi sớm ban mai và nhìn kĩ hơn nữa lại thấy bước ra từ trong tranh là người đàn bà hàng chài lam lũ. Như vậy nếu hiểu bức tranh thuyền và biển kia là hình ảnh của nghệ thuật và người đàn bà hàng chài bước ra từ trong tranh là hình ảnh của cuộc đời thì nghệ thuật và cuộc đời phải gắn liền với nhau. Nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống thì cũng phải gắn liền vời cuộc sống. Nghệ thuật phải luôn gắn liền với cuộc sống thì mới có ý nghĩa.
Với cách xây dựng tình huồng truyện độc đáo, mới lạ, mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về cuộc đời, và cách trao ngòi bút cho nhân vật kể chuyện (nhân vật Phùng), “Chiếc thuyền ngoài xa” đã để lại ấn tượng sâu đậm. Thành công của Nguyễn Minh Châu là đã đem đến cho người đọc một tác phẩm đầy tính triết lý và chiêm nghiệm về cuộc đời, con người và cả nghệ thuật. Những triết lý luôn đúng với mọi thời đại.
Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống, dũng cảm thể hiện những góc khuất của cuộc đời ngay trong chế độ xã hội tốt đẹp của chúng ta. Đúng như lời của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: Mỗi người trong cõi đời, nhất là người nghệ sĩ, không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người. Cần một cách nhìn đa dạng nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự – triết lí của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

Số 10: Ý nghĩa 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn có nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà. Xuyên suốt quá trình sáng tác của mình, ông đã cho thấy một ngòi bút tài năng với quá trình sáng tạo không ngừng nghỉ. Bằng lối văn nhẹ nhàng mà sâu sắc, ông đã gửi gắm vào các hình tượng nhân vật của mình những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc sống, cuộc đời.
Tác phẩm thành công và tiêu biểu nhất cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu phải kể đến Chiếc thuyền ngoài xa, một truyện ngắn được sáng tác vào năm 1983, viết về số phận con người giữa cuộc sống những ngày sau cách mạng. Trong tác phẩm, hai phát hiện độc đáo của nghệ sĩ Phùng được xem là chi tiết tiêu biểu để tác giả gửi gắm tư tưởng mình một cách sâu sắc và đầy đủ nhất.
Phùng là một người lính trở về từ cuộc chiến “vào sinh ra tử” của đất nước. Sau cách mạng, anh làm nghề nhiếp ảnh. Nhiệm vụ của Phùng được trưởng phòng giao phó là tạo ra được một tác phẩm nghệ thuật về thuyền và biển để hoàn thiện đủ cho bộ lịch năm sau. Theo yêu cầu đó, Phùng đã bắt tay vào công việc, trở lại chiến trường cũ miền Trung Trung Bộ, anh bắt đầu hành trình tìm kiếm một tấm ảnh nghệ thuật đắt giá. Cũng từ đây, Phùng có những phát hiện mới mẻ về nghệ thuật và cuộc đời.
Phát hiện đầu tiên của Phùng là một bức tranh đẹp từ cuộc sống tựa “bức họa cổ thời tàu”. Dưới cặp mặt tinh tế và nhạy cảm của người nghệ sĩ, Phùng đã phát hiện một vẻ đẹp tận thiện, tận mỹ, đó là cảnh biển với “Mái thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mũi khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Đó là một hình ảnh vô cùng đẹp đẽ, một khung cảnh “đắt trời cho” mà khi Phùng thấy được như vỡ òa trong hạnh phúc.
Khung cảnh không chỉ tác động đến thị giác mà còn tác động đến lý trí và tâm hồn Phùng. Sợ lỡ mất giây phút diệu kỳ ấy, Phùng đã vội đưa chiếc máy ảnh của mình lên bấm liên hồi để thu lấy tất cả những khoảnh khắc đẹp nhất của bức tranh cuộc sống. Khung cảnh đẹp đẽ được phát hiện sau bấy lâu tìm kiếm đã làm trái tim Phùng thực sự rung động và hạnh phúc.
Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa không gian mờ sương của biển cả khiến lòng người nghệ sĩ trở nên trong trẻo, tinh khôi, trong giây phút đó, Phùng cảm nhận được sự trong ngần của chính tâm hồn mình, anh nhận ra rằng “cái đẹp chính là đạo đức”. Có thể thấy qua phát hiện đầu tiên của Phùng, tác giả đã gửi gắm một thông điệp về nghệ thuật sâu sắc: Để làm nên một tác phẩm nghệ thuật ý nghĩa đòi hỏi mỗi người nghệ sĩ phải cất công tìm tòi, khám phá, bỏ công sức và quá trình lâu dài, bền bỉ. Tác phẩm nghệ thuật có giá trị phải là một tác phẩm có tác động đến tư tưởng, tình cảm và tâm hồn con người, khiến cho “con người gần người hơn”.
Phát hiện thứ hai của Phùng là phát hiện về 1 cuộc đời đau thương ẩn sau sự hoàn mỹ, toàn bích của bức tranh nghệ thuật được Phùng khám phá trước đó. Một sự thật nghiệt ngã được phơi bày khi chiếc thuyền từ xa tiến lại gần bờ. Một người đàn bà ấy có ngoại hình cao lớn, thô kệch, khuôn mặt mệt mỏi bước ra từ chiếc thuyền, đi cùng một người đàn ông mái tóc tổ quạ, hai con mắt tràn đầy vẻ giận dữ, độc ác. Họ bước xuống thuyền, đi nhanh vào bãi bờ, người đàn ông nhanh chóng lấy chiếc thắt lưng lo bản quất tới tấp vào người vợ của mình.
Hành động hùng hổ, người đàn giáng xuống tấm thân người đàn bà những nhát quất đầy hung bạo. Vừa đánh hắn vừa nghiến răng ken két, con mắt tràn ngập sự giận dữ. Vừa đánh hắn vừa quát: “Mày chết đi. cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ”, cứ mỗi nhát danh của hắn là một tiếng rên rỉ đầy đau đớn cất lên. Nhưng kỳ lạ là người đàn bà ấy không hề phản kháng, trách móc hay chạy trốn để thoát khỏi trận đòn roi tàn nhẫn mà lặng lẽ cam chịu.
Đứng trước cảnh tượng đó, Phùng không khỏi ngạc nhiên, bất ngờ, ngỡ ngàng há hốc mồm như không hiểu chuyện gì đang xảy ra trước mắt mình. Với một người từng chiến đấu nơi chiến trận để giành lại độc lập, yên vui cho nhân dân, bắt gặp cảnh bất công khiến Phùng không chịu được, Phùng cũng không thể nào chấp nhận một hiện thực nghiệt ngã, cuộc sống và số phận con người sau chiến tranh lại trớ trêu, khổ cực đến như vậy.
Cũng vừa mới đây thôi, bức tranh nghệ thuật đẹp đẽ đã khiến anh nhận ra cái đẹp chính là đạo đức, vậy mà một hiện thực “phi đạo đức” lại vừa xảy đến trước mắt , điều đó khiến Phùng không khỏi chua xót, cay đắng. Với phát hiện thứ hai, tác giả muốn gửi gắm đến người đọc một thông điệp đầy ý nghĩa về nghệ thuật và cuộc sống, giống như nhà văn Nam Cao từng nói “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” nghệ thuật phải bắt nguồn từ cuộc sống và vì cuộc sống.
Hai phát hiện của Phùng đều gắn liền với hình ảnh chiếc thuyền chài vùng biển. Ở khoảng cách xa, trong màn sương sớm, chiếc thuyền hiện lên thật đẹp, đó là vẻ đẹp của nghệ thuật. Khi tiến lại gần, một hiện thực trần trụi được hiện ra, đó là thực tế của cuộc sống. Nghệ thuật không thể che giấu những thô ráp, nghiệt ngã của cuộc sống, nghệ thuật phải bắt nguồn từ cuộc sống, phản ánh cuộc sống. Để có được điều ấy, đòi hỏi người nghệ sĩ phải dành tâm sức tìm kiếm, sáng tạo, phải đặt cả trí tuệ và tâm hồn mình vào mỗi tác phẩm. Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa trở thành chi tiết đầy ý nghĩa trong hai phát hiện độc đáo của Phùng.
Có thể nói, hai phát hiện của Phùng là yếu tố quyết định và làm nên tầng giá trị tư tưởng cho truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa. Bằng vốn sống phong phú cùng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Minh Châu làm nên thành công của tác phẩm.
Số 11: Phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tài năng với sức thông minh dồi dào, bằng cái tâm của người nghệ sĩ, ông luôn trằn trọc trước những hiện thực của đời sống và đặt ra nghĩa vụ của người nghệ sĩ lúc đứng trước thực tại đấy. “Chiếc thuyền ngoài xa” là 1 trong những truyện ngắn hoàn hảo nhất của Nguyễn Minh Châu được sáng tác trong công đoạn đổi mới văn chương, cùng lúc cũng là tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn chuyển hướng từ cảm hứng sử thi lãng mạn ảo huyền sang tính triết luận về những trị giá nhân văn đời thường. Trong truyện, phê chuẩn 2 phát hiện của đối tượng Phùng, tác giả Nguyễn Minh Châu đã trình bày được những bình chọn, ý kiến về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật, giữa người nghệ sĩ và dân chúng.
Phát hiện trước tiên của thợ chụp ảnh Phùng là việc chứng kiến quang cảnh biển buổi sáng trong sương mai, đấy là quang cảnh đẹp tươi, tuyệt bích như bức họa mực tàu. Để chấm dứt nhiệm vụ chụp bộ ảnh lịch treo tết, Phùng đã đến 1 lãnh hải để tiến hành tác nghiệp, đây cũng là nơi nhưng Phùng từng cùng đồng chí cầm súng tranh đấu. Sau nhiều ngày tác nghiệp, rốt cục Phùng cũng đã bắt gặp được quang cảnh trời cho, đấy là quang cảnh bao la của biển với chiếc thuyền ngoài xa nhưng “mái thuyền in 1 nét mơ hồ lòe nhòe vào hầu sương loạn sắc trắng như có sữa pha tí chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”, trên thuyền là vài bóng người ồm im phăng phắc.
Đứng trước quang cảnh trời cho đó, Phùng đã bấm máy liên tiếp như sợ để lỡ mất dù chỉ là 1 giây phút. Bức tranh cảnh biển hài hòa, toàn bích đã khiến cho trái tim người nghệ sĩ như có cái gì bóp thắt vào. Trong giây khắc, Phùng đã trông thấy được chân lí của sự hoàn mĩ, té ra đứng trước cảnh đẹp, trước sự hoàn mĩ của cuộc sống, tâm hồn người nghệ sĩ có thể được thanh lọc để phát triển thành trong trẻo hơn. Chừng như trong bức tranh cảnh biển với chiếc thuyền ngoài xa, người nghệ sĩ đó đã bắt gặp được cái tận thiện, tận mĩ, tâm hồn cũng được tẩy rửa để trong trẻo, tinh khôi hơn.
Nếu phát hiện trước tiên của Phùng mang tính khám phá thì phát hiện thứ 2 lại mang tính nghịch lí. Trong quang cảnh lung linh, tuyệt mĩ của cảnh biển Phùng ngỡ ngàng phát xuất hiện cảnh bạo lực gia đình – sự thực tàn nhẫn trong góc khuất cuộc sống của những con người nghèo đói. Từ 1 trong những chiếc thuyền bước ra 1 người phụ nữ xấu xí, mỏi mệt với bề ngoài cam chịu cùng 1 người con trai ung dữ, ác nghiệt lấy việc đánh vợ làm phương thức xả stress mọi đau buồn. Người con trai vừa trút những trận đòi roi man rợ lên người phụ nữ khổ thân vừa rít lên bằng cái giọng đớn đau “ Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ”.
Khi chứng kiến cảnh bạo lực đó, Phùng đã ngạc nhiên mất mấy phút đầu vì anh ko hình dung được tại sao con người có thể đối xử tàn nhẫn với nhau tới vậy. Anh Phùng từng là người lính, từng cầm súng tranh đấu cho tự do, bảo vệ cho con người nên anh chẳng thể chịu được lúc chứng kiến cảnh đánh đập man rợ của người con trai với vợ của mình, anh đã ném chiếc máy ảnh, công cụ tác nghiệp của người nghệ sĩ để dấn thân ngăn cản người con trai để bảo vệ người phụ nữ.
Sau phát hiện mang tính nghịch lí này, Phùng đã đắng cay trông thấy rằng đằng sau vẻ đẹp toàn bích, hoàn thiện kia lại là những góc khuất đầy trớ trêu, đau buồn của cuộc sống. Chiếc thuyền ở ngoài xa có thể hình thành vẻ đẹp toàn bích, ảo diệu nhưng mà nếu tới gần lại thật cay đắng, đau buồn. Trong câu chuyện của người phụ nữ tại tòa án huyện, Phùng nhận thức được chân lí trái ngang của cuộc sống.
Hòa bình đã lập lại, con người phải đương đầu với những gian truân mới, đấy chính là cuộc sống đau buồn của thực tại. Qua đấy Phùng tinh thần được nghĩa vụ của người nghệ sĩ, người nghệ sĩ thực sự chẳng phải chỉ nhìn cuộc sống như chiếc thuyền ngoài xa nhưng cần thực thụ thấu hiểu, đi sâu khám phá cuộc sống của con người, có tương tự tác phẩm được thông minh mới là nghệ thuật thực sự.
Thông qua 2 phát hiện của đối tượng Phùng, tác giả Nguyễn Minh Châu đã đặt ra mối trằn trọc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời, giữa người nghệ sĩ và người dân. Qua truyện ngắn tác giả cũng đặt ra nghĩa vụ của người nghệ sĩ: trước lúc người nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp thì hãy học cách thấu hiểu, đồng cảm, mến thương đối với con người.
Số 12: Cảm nhận về 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng
Nói về Nguyễn Minh Châu và những sáng tác của ông Tô Hoài đã có những lời thật đúng đắn rằng “Đọc Nguyễn Minh Châu, người ta thấy cuộc đời và trang sách liền nhau. Chặng đường đời hôm nay cũng như từng đoạn sáng tạo trên trang giấy của tài năng.
Những cái tưởng như bình thường lặt vặt trong cuộc sống hằng ngày dưới con mắt và ngòi bút của Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý”. Quả thực đúng vậy, đọc nhiều những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là các tác phẩm thời kỳ hậu chiến, từ những năm 80 trở đi, khi nhà văn từ giã đề tài chiến tranh để đi sâu vào vấn đề đạo đức thế sự, và số phận con người trong xã hội thời kỳ đổi mới, ta thấy trong những câu chuyện bình thường, luôn ẩn hiện nhiều tầng triết lý. Đặc biệt là lối kể, lối viết đi sâu vào nội tâm, cũng như những câu chuyện riêng của từng nhân vật, đã mang đến cho người đọc nhiều trải nghiệm ấn tượng.
Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất trong đời sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Thông qua bước chân và hai phát hiện đặc sắc của nhiếp ảnh gia Phùng, tác giả đã mang đến cho người đọc những triết lý nhân sinh sâu sắc về cách nhìn nhận vấn đề trong cuộc sống, mối tương quan giữa cuộc đời và nghệ thuật, đồng thời cũng bộc lộ nhưng niềm trăn trở của ông về số phận của con người trong xã hội những năm tháng sau chiến tranh.
Nhân vật Phùng trong câu chuyện của Nguyễn Minh Châu vốn từng là một người lính tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, sau khi hòa bình lập lại Phùng đảm nhận vị trí một nhiếp ảnh trong một tòa soạn báo. Để có được một bức ảnh về miền biển in trong cuốn lịch cuối năm mà trưởng phòng giao phó, Phùng đã tìm về một vùng biển miền Trung, nơi đã từng là chiến trường cũ, đồng thời cũng là dịp để anh ghé thăm Đẩu- người đồng đội cũ của mình. Sau suốt nhiều ngày chờ đợi, săn tìm, nhưng Phùng vẫn chưa có cho mình một bức ảnh thật ưng ý, bởi lẽ anh là một người yêu nghệ thuật và luôn có những yêu cầu rất cao về thẩm mỹ, chính vì vậy Phùng không cho phép mình sơ sài, hời hợt.
Phùng phải chờ đợi suốt hơn tuần liền mà cuộn phim trong máy vẫn chẳng xê dịch mấy. Nhưng may mắn thay, dường như ông thời biết được tấm lòng của người nghệ sĩ nên đã để anh chứng kiến được một khung cảnh hoàn mỹ, cái mà Phùng ví như cảnh “đắt” trời cho, cả đời người nghệ sĩ khéo cũng chưa thấy được một lần. Đây cũng chính là phát hiện đầu tiên của Phùng trong chuyến đi công tác.
Buổi sớm định mệnh hôm ấy, khi Phùng đang loay hoay núp sau chiếc xe tăng cũ để trú cơn mưa phùn lất phất, thì từ đằng xa bỗng có một con thuyền lưới cá dần dần cập bến trong ánh sương lẫn ban mai mờ mờ tựa như một “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”.
Vẻ đẹp ấy được Nguyễn Minh Châu phác lại bằng những nét vẽ thật giản đơn và cổ điển “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ…”. Người nghệ sĩ với tấm lòng tôn thờ sự hoàn mỹ trong nghệ thuật đã không thể kiềm lòng mà nhận định rằng khung cảnh trước mắt anh quả thực là một vẻ đẹp “đơn giản và toàn bích”.
Phùng đứng trước phát hiện bất ngờ này hoàn toàn trở nên bối rối, tựa như một chàng trai khi đối diện với tình đầu, “trái tim như có gì đó bóp thắt vào”, một cảm giác mà trước đây Phùng chưa thấy bao giờ. Tất cả đều bộc lộ niềm sung sướng, hạnh phúc đến tột cùng của người nghệ sĩ khi may mắn bắt gặp được cảnh tượng quý giá nhất trong đời cầm máy.
Ngay trước phát hiện tuyệt vời về cảnh “đắt” trời cho lúc buổi sương sớm, Phùng đã tưởng như mình vừa khám phá được một định nghĩa mới của cái đẹp rằng “bản thân cái đẹp là đạo đức”, thậm chí đầu óc Phùng lúc này chỉ toàn những xúc cảm tuyệt vời khi tưởng như mình vừa phát hiện ra chân lý của sự toàn thiện, tuyệt mỹ, khám phá ra cái “khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Phải nói rằng trước cảnh đẹp trời ban, trái tim Phùng dường như vừa được khai mở và có một vầng sáng vĩ đại soi chiếu, khiến tâm hồn của người nghệ sĩ trở nên rộng mở và thăng hoa đến tột cùng của xúc cảm.
Không chần chừ lâu, Phùng lập tức đưa máy lên bấm “liên thanh” hết ba phần tư cuốn phim mà chẳng cần “xê dịch” gì nữa, dường như anh đã thu vào chiếc máy ảnh của mình tất cả cái “khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập trong tâm hồn mình, do cái đẹp ngoại cảnh mang lại”.
Có thể nói rằng đối với nghệ sĩ Phùng, cũng như đối với tất cả những người yêu nghệ thuật, hết lòng vì cái đẹp, thì việc bắt được một cảnh “đắt” trời cho như vậy là niềm hạnh phúc không gì có thể sánh bằng. Cảnh một chiếc thuyền lưới cá, cũ, nhỏ và đơn sơ, cùng với những ngư dân từ từ cập bến có thể nói là một cảnh tượng khá quen thuộc và bình thường ở miền biển.
Tuy nhiên chính những thứ tưởng chừng nhỏ nhặt, giản đơn ấy, khi kết hợp với nhau, lại trở thành bức tranh mỹ cảnh hiếm có trong đôi mắt đa cảm của người nghệ sĩ. Phát hiện đầu tiên của Phùng trong chuyến công tác dài ngày có nhiều ẩn ý, đầu tiên là quan niệm về cái đẹp trong vũ trụ của Nguyễn Minh Châu hầu như đều xuất phát từ những sự vật, sự việc thực bình thường, mà người nghệ sĩ chân chính phải dùng tấm lòng chân thành, tinh tế và nhạy cảm để phát hiện và ghi nhận.
Thứ hai nữa, phát hiện của Phùng còn là tượng trưng cho những vẻ đẹp duy mỹ, không tỳ vết, là những thứ mà con người hằng theo đuổi ao ước đạt được, tuy nhiên để đạt được nó con người ta đều phải trải qua quá trình lao động miệt mài, lòng kiên nhẫn thì mới nhận được quả ngọt.
Không chỉ vậy, bằng ngòi bút tinh anh Nguyễn Minh Châu còn thông qua nhân vật Phùng để thể hiện tấm lòng yêu nghệ thuật sâu sắc của một người nghệ sĩ chân chính, nhất quyết không chịu chấp nhận những thứ nghệ thuật sơ sài, gượng ép, đồng thời cũng bộc lộ quan điểm “bản chất của cái đẹp là đạo đức”, dù rằng trong phát hiện đầu tiên, triết lý này vẫn chưa được khai mở rõ ràng, mà chỉ được nêu ra thông qua nhân vật Phùng, trong lúc anh mải mê bối rối, say mê với cảnh đẹp tuyệt đỉnh trước mắt.
Cuối cùng tổng kết lại sau tất cả những ẩn ý về phát hiện đầu tiên của Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn chỉ ra rằng đằng sau những cái đẹp vốn có của tự nhiên đó chính là vẻ đẹp tâm hồn của con người. Bởi lẽ nếu không có một tâm hồn nhạy cảm trước cái đẹp, lòng kiên nhẫn, say mê với công việc, bất chấp thời gian, thời tiết có lẽ Phùng đã chẳng thể bắt lấy cái cảnh toàn bích như một bức tranh của danh họa thời cổ, để rồi phải ngây người vì quá đỗi sung sướng trước thành quả mà mình đạt được.
Tuy nhiên tình huống truyện trở nên đặc sắc hơn khi Phùng tiếp tục có phát hiện thứ hai, một phát hiện dường như đã đánh vỡ nát cái mộng tưởng, cũng như niềm sung sướng tự hào khi bản thân phát hiện ra cái đẹp toàn bích và chân lý của cuộc đời người nghệ sĩ. Ngay lúc Phùng thu máy, chuẩn bị đi về để hoàn thành báo cáo, thì chiếc thuyền cũng cập bến, bức tranh dần tan đi cái vẻ tĩnh lặng, yên bình, thay vào đó là sự vận động đến từ những con người trên chiếc thuyền. Cái “đạo đức” mà Phùng hằng tâm niệm bỗng chốc bị câu nói “Cứ ngồi im đấy. Động đậy tao giết cả mày bây giờ” phá nát, một câu hăm dọa ghê gớm, đã xé toang bức tranh hiền hòa người nghệ sĩ vừa kịp thu vào trong máy, trước sự ngỡ ngàng của anh.
Ngay sau đó, Phùng thấy bước xuống từ chiếc thuyền đó một người đàn bà cao lớn, đường nét thô kệch xấu xí, khuôn mặt rỗ và xám xịt vì thức đêm, người đàn ông đi sau, lưng còng, tóc tổ quạ, chân đi chữ bát, khuôn mặt dữ tợn nhìn chòng chọc như muốn đâm thủng tấm lưng rách rưới của người đàn bà. Tất cả cảnh tượng ấy, đều chỉ có thể tóm gọn lại bằng hai chữ “thảm hại”, và chắc chắn khác xa so với những gì Phùng tưởng tượng về hình tượng người dân chài kéo lưới, nhưng thực tế thì luôn sẵn sàng tát vào mặt kẻ mộng mơ là thế.
Tuy nhiên điều khủng khiếp hơn còn ở phía sau, khi Phùng tận mắt chứng kiến 1 cuộc ẩu đả đơn phương, 1 cuộc bạo lực gia đình ghê gớm, khi gã đàn ông rút chiếc thắt lưng liên tiếp quất vào người đàn bà, vừa đánh vừa rít lên những tiếng oán hận, mà có lẽ chỉ có kẻ thù mới dành cho nhau “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ. Còn người đàn bà lại cam chịu, không chống trả, cứ mặc cho người đàn ông chửi rủa đánh đập.
Phùng khi chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng ấy đã không thể tin vào mắt mình, bởi lẽ trước đó cái cảnh gia đình yên ấm, sum họp trên chiếc thuyền nhỏ vào buổi bình minh còn khiến anh ngây ngất, say mê chưa dứt, thì những gì diễn ra dường như khiến anh không kịp trở tay. Phùng kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu chỉ biết đứng há hốc mồm ra nhìn, điều đó khiến ta liên tưởng đến cảm giác của Phùng trong phát hiện đầu tiên, Phùng cũng ngỡ ngàng như thế.
Có thể nói rằng trong một buổi sáng Phùng đã hai lần gây ra, não bộ không kịp tiếp thu những gì mà anh nhìn thấy, một lần là vì choáng ngợp trước vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hóa, còn một lần khác là cảm giác không thể tin nổi trước khi buộc phải chứng kiến những cảnh tượng xấu xí nhất của cuộc sống. Gia đình vốn là hạt giống là điển hình của một xã hội, nó có tốt đẹp thì đất nước mới có thể đi lên. Một con người có nhiều năm tháng buôn ba trên khắp các chiến trường, chiến đấu vì lý tưởng giải phóng đất nước và con người, thâm tâm Phùng những tưởng sau chiến tranh đất nước yên bình, sẽ chẳng còn những cảnh tượng khủng khiếp và đau lòng, mà chỉ còn những cảnh đẹp của thế gian.
Thế nhưng hiện thực đã chứng minh rằng, suy nghĩ của Phùng thực còn quá nông cạn, cuộc sống và số phận của nhiều con người vẫn còn đang chìm trong đau thương, trước đây họ đau khổ vì chia ly vì chiến tranh, mất mát, thì đến hôm nay dù hòa bình đã lập lại nhưng gánh nặng của họ lại là đói nghèo, sự khuyết thiếu văn hóa. Hai vợ chồng người đàn bà làng chài là những điển hình rõ rệt nhất, đói nghèo bức ép khiến họ phải vật lộn mưu sinh, trình độ thấp dẫn tới cảnh tượng bạo lực gia đình và phải đối mặt với sự vỡ kế hoạch, làm gánh nặng trên đôi vai hai vợ chồng càng tăng thêm, điều đó đã trở thành một vòng luẩn quẩn không lối thoát.
Như vậy trong phát hiện thứ hai của nhân vật Phùng, thông qua cảnh tượng khủng khiếp ấy, Nguyễn Minh Châu đã vén ra bức màn đang che mắt những con người làm nghệ thuật, ông chỉ ra rằng đằng sau những vẻ đẹp tuyệt mỹ, toàn bích nhiều khi lại chính là những cảnh tượng đau thương nhất. Người nông cạn chỉ nhìn thấy cái đẹp, cái hoàn hảo như lòng mình mong ước, nhưng người nghệ sĩ thực sự lại phải là người đào sâu tìm kỹ, phát hiện được cả những góc khuất và đặc biệt là có tấm lòng nhân hậu, quan tâm đến số phận những con người tội nghiệp đang bị che lấp bởi vỏ bọc đẹp đẽ.
Nghệ thuật không chỉ là nghệ thuật mà nó còn phải gắn liền với cuộc đời, vẫn biết rằng cái đẹp đều xuất phát từ cuộc đời, nhưng chẳng phải cuộc đời nào cũng đẹp và hoàn toàn đẹp, người ta vẫn nhìn thấy đâu đó những sự sứt sẹo, những cái xấu xa đang hiện diện đầy rẫy và đôi khi chỉ cách cái đẹp toàn mỹ một bức màn thật mỏng, và sẵn sàng đánh vỡ những cái đẹp tưởng như trong ngần, tuyệt diệu nhất.
Điều đó chỉ ra một con đường mới cho những người làm nghệ thuật, có lẽ rằng họ phải thay đổi cách nhìn nhận về cái đẹp, thay vì đi mãi một lối mòn săn tìm cái đẹp của tạo hóa, của trời ban, phải chăng họ còn nên nhìn vào cuộc đời, vào thực tế để khai thác những hạt ngọc quý trong tâm hồn con người, như cái cách mà Nguyễn Minh Châu đã khai thác vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà làng chài. Nếu ví cái đẹp như lớp màng mỏng che lấp cái xấu, thì ngược lại cái xấu xí lại như lớp vỏ xù xì, thô ráp bao bọc lấy cái đẹp, mà không phải người nghệ sĩ nào cũng đủ sự tinh tế, nhạy cảm và lòng yêu thương để khai thác và cảm nhận được nó.
Chiếc thuyền ngoài xa là một tác phẩm đặc sắc với cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, lồng ghép nhiều triết lý nhân sinh và quan niệm làm nghệ thuật. Đặc biệt trong tình huống truyện trên bãi biển, hai phát hiện của Phùng với sự đối lập nhau rõ nét đã làm nổi bật chủ đề câu chuyện cũng như dụng ý mà tác giả muốn hướng tới – việc tìm kiếm cái đẹp trong tâm hồn con người, cũng như đi tìm câu hỏi cho mối liên quan giữa nghệ thuật và cuộc sống.

Số 13: Phân tích 2 phát hiện của Phùng
Nguyễn Minh Châu là nhà văn gắn với những sáng tác trình bày niềm say mê đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người Việt Nam. Trong đấy, tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là điển hình cho ý kiến của ông rằng văn chương phải gắn bó, gần gụi với cuộc sống. Nhân vật Phùng là 1 nghệ sĩ nhiếp ảnh có niềm say mê nghệ thuật, trong chuyến đi công việc của mình, anh đã có được 2 phát hiện lạ mắt về nghệ thuật và cuộc đời.
Trước hết là phát hiện của Phùng về cảnh đẹp trong nghệ thuật. Ấy là cảnh đất trời cho “mui thuyền in 1 nét mơ hồ, loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha tí chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. Đối với người nghệ sĩ như anh, cảnh tượng đó như 1 bức tranh mực tàu của 1 danh họa thời cổ, đạt tới độ mẫu mực của nghệ thuật. Từ đường nét tới màu sắc đều hài hoà và lại đẹp hơn nữa lúc nhìn qua mắt lưới, tấm lưới. Cái đẹp được cảm nhận qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ với niềm say mê nên vẻ đẹp đó càng thêm phần lung linh, ảo huyền.
Đứng trước cảnh đẹp đó, Phùng đã có sự xúc động tới cùng tận, mấy phút đầu anh cảm thấy lúng túng, rồi mấy phút sau anh thấy trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Ấy là phút chốc anh đã phát xuất hiện chân lý của sự toàn diện – cái đẹp chính là đạo đức, lúc đó anh đã được sống trong giây phút trong ngần của tâm hồn, anh thực thụ hạnh phúc lúc kiếm tìm được cái đẹp để thông minh cho nghệ thuật.
Phát hiện thứ 2 của người nghệ sĩ Phùng chính là phát hiện về sự thực cuộc đời. Sự thực cuộc sống của người dân hàng chài được xuất hiện lúc chiếc thuyền tiến sát vào bờ với hình ảnh người con trai bà người phụ nữ lam lũ. Người phụ nữ cao mập, thô kệch, lưng áo bạc phếch và bộ mặt đầy mỏi mệt. Người con trai với mái tóc tổ quạ, tấm lưng rộng, 2 con mắt của lão đầy vẻ độc dữ. Họ lầm lũi bước từ trên thuyền xuống, và chẳng nói chẳng rằng lão con trai ngay lập tức phát triển thành hùng hổ, rút chiếc dây lưng rồi quất đến tấp vào lưng người phụ nữ.
Vừa quạt vừa thở hồng hộc, 2 hàm răng nghiến ken két, mỗi nhát bóp là tiếng rên rẩm đớn đau. Dị hình thật, nhưng mà dị dạng hơn là người phụ nữ chẳng phải kêu hay chống trả, chạy trốn nhưng nhẫn nhục chịu trận đòn. Thđó cảnh tượng đấy, Phùng hết sức ngạc nhiên, chỉ biết há hốc miệng đứng nhìn, anh bàng hoàng tới ngỡ ngàng và bất bình vì cuộc đời vẫn còn đó những trớ trêu, đối với anh đây như câu chuyện cổ đầy quái lạ.
Để có được phát hiện thứ nhất, người nghệ sĩ phải trằn trọc kiếm tìm và tuyển lựa, cảnh đẹp ở rất xa nhưng mà vì niềm say mê và khát vọng góp sức cho nghệ thuật nên phải đi kiếm tìm. Phát hiện thứ 2 lại ở rất gần, ngay kế bên cuộc sống mỗi người, nhưng mà đấy lại là sự thực trần truồng và thô ráp, chỉ mang những nỗi cực khổ, bất bình. Thỉnh thoảng ta cứ mải miết đeo đuổi những thứ xa vời nhưng bỏ lỡ những sự thực ngay trước mắt. Ở cả 2 phát hiện đều có hình ảnh chiếc thuyền, lúc ở ngoài xa, chiếc thuyền là vẻ đẹp của nghệ thuật lung linh, ảo huyền, lúc về gần cũng là khi sự thực cuộc đời xuất hiện.
Như vậy, qua 2 phát hiện của đối tượng Phùng, ta đã thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa nghệ thuật và cuộc sống nhưng chiếc thuyền chính là hiện thân. Nghệ thuật phải về gần với cuộc sống, trái lại cuộc sống là chất liệu, nguồn cung ứng cái đẹp cho nghệ thuật, để rồi nghệ thuật quay quay về làm đẹp cho cuộc đời.
Số 14: Phân tích nhân vật của Phùng qua 2 phát hiện
Nguyễn Minh Châu là 1 nhà văn giàu nhiệt huyết, luôn trằn trọc về 1 nền văn chương xứng đáng với tầm vóc dân tộc và với sự hy vọng của dân chúng. Từ cảm hứng sử thi lãng mạn ảo huyền đã từng hình thành vẻ đẹp đặc sắc trong các tác phẩm thời gian chiến tranh như Mảnh trăng cuối rừng, Dấu chân người lính, Cửa sông, … ông dần dần chuyển sang thuộc tính triết luận về những trị giá nhân văn đời thường, khám phá thực chất con người trong cuộc sống mưu sinh, trong hành trình kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện tư cách.
Chiếc thuyền ngoài xa sáng tác 5 1983 là truyện ngắn rất điển hình cho hướng tiếp cận đời sống từ giác độ sự thế của nhà văn ở công đoạn sáng tác thứ 2. Đây là tác phẩm in đậm cá tính của Nguyễn Minh Châu: tự sự – triết lí nhân sinh. Trong tác phẩm này, nhà văn đã để cho nhân Phùng phát xuất hiện vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương cùng những nghịch lí ngang trái của gia đình hàng chài, qua đấy trình bày những chiêm nghiệm thâm thúy về nghệ thuật và cuộc đời.
Phát hiện thứ nhất của đối tượng người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đầy thơ mộng. Để có tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo đề xuất của trưởng phòng, Phùng đã đến 1 lãnh hải từng là trận mạc cũ nhưng anh từng tham dự tranh đấu. Anh đã dự trù bố cục, mai phục mấy buổi sáng. Giây phút đó đã đến, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát xuất hiện 1 vẻ đẹp trời cho trên mặt biển sớm mờ sương, 1 cảnh đẹp nhưng cả đời bấm máy có nhẽ anh chỉ bắt gặp được 1 lần. Nó đẹp như 1 bức tranh mực tàu của 1 danh họa thời cổ. Mái thuyền in 1 nét mơ hồ lòe nhòe vào hầu sương loạn sắc trắng như sữa có pha tí chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.
Vài bóng người mập lẫn trẻ em ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mũi khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả bức tranh đấy từ đường nét tới ánh sáng đều hài hòa và đẹp, 1 vẻ đẹp thật dễ dàng và toàn bích. Đứng trước 1 thành phầm nghệ thuật hoàn hảo của hóa công, người nghệ sĩ phát triển thành lúng túng và trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Chưa hết, trong giây khắc, người nghệ sĩ còn khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái giây phút trong ngần của tâm hồn. Không cần tuyển lựa di dịch gì nữa, anh bấm liên thanh 1 hồi hết 1 phần tư cuốn phim với cảm giác hạnh phúc tràn trề tâm hồn. Đây chính là sự mẫn cảm của trái tim người người nghệ sĩ.
Chừng như trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa biển trời mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mĩ, thấy tâm hồn mình như được tẩy rửa, phát triển thành trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hòa, lãng mạn của cuộc đời. Anh yên tâm mai sau có thể lên tàu trở về. Câu chuyện tới đây vẫn chưa có gì đặc thù, chưa có đột biến.
Phát hiện thứ 2 của đối tượng nghệ sĩ nhiếp ảnh lại đầy nghịch lí, nó bất thần và ngang trái như trò đùa quái ác của cuộc sống. Phùng đã chứng kiến từ chiếc ngư phủ đẹp như trong mơ đó bước ra 1 người phụ nữ xấu xí, mỏi mệt, cam chịu và 1 lão con trai thô kệch, dữ dằn, ác nghiệt, coi việc đánh vợ là 1 phương thức để xả stress những uất ức, đau buồn: chẳng nói chẳng rằng, lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc dây lưng quật đến tấp vào lưng người phụ nữ, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, 2 hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại chửi rủa bằng cái giọng đớn đau: “Mày chết đi. cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ”.
Khi chứng kiến cảnh đấy, anh ngạc nhiên tới mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há miệng ra nhưng nhìn. Sở dĩ anh có thái độ tương tự vì khi trước anh từng có cái giây phút hạnh phúc tràn trề tâm hồn do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đem lại, anh đã từng chiêm nghiệm bản thân cái đẹp chính là đạo đức vậy nhưng cảnh anh vừa bắt gặp trên mặt biển lại không hề là đạo đức, là chân lí của sự toàn thiện. Phùng từng là người lính cầm súng tranh đấu để có được vẻ đẹp yên bình của non sông nên anh chẳng thể chịu đựng được lúc chứng kiến cảnh lão con trai đánh vợ 1 cách man rợ, hung tàn tương tự nên đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào đến.
Nhưng chưa kịp té ra can ngăn thì thằng Phác – đàn ông lão con trai đã kịp đến để chở che cho người mẹ đáng thương: ko biết làm thế nào nó đã giằng được chiếc dây lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần lực lưỡng cháy nắng của người con trai để rồi nó đã bị cha tát 2 cái khiến thằng bé lao đao ngã dúi xuống cát. Rồi nó âm thầm đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên bộ mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ dằng dịt. Thằng Phác đã thương mẹ theo cách của 1 đứa con còn bé và chính điều này làm ta cảm động trước tình thương mẹ dạt dào của đứa bé.
Biết Phùng đã chứng kiến sự hung tàn của cha mình nên thằng nhỏ Phác đâm ra khinh ghét anh. Ba hôm sau, Phùng lại chứng kiến cảnh người con trai đánh vợ, cảnh cô chị gái tước đoạt con dao găm nhưng thằng em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ người mẹ đáng thương. Chị thằng Phác, 1 cô nhỏ yếu đuối nhưng dũng cảm, đã phải vật lộn để tước đoạt con dao trên tay đứa em để ko cho nó làm 1 việc trái với luân thường đạo lí. Chắc rằng trong lòng cô nhỏ cũng rất đớn đau lúc chứng kiến cảnh bố đang hành tội mẹ nhưng mà cùng lúc cô cũng chẳng thể để em làm 1 việc dại khờ.
Cô nhỏ khi đấy là 1 điểm tựa kiên cố của người mẹ, đã hành động đúng mực để cản được việc làm dại khờ của đứa em. Sau lúc nhìn những cảnh đấy diễn ra ngay trước mắt thì Phùng đã trình bày thực chất của người lính là chẳng thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác nên đã xông ra can ngăn và đã bị người con trai đánh cho bị thương phải trở về trạm y tế của tòa án huyện. Tất cả sự những sự việc diễn ra liên tục đấy đã là Phùng đắng cay trông thấy rằng, đằng sau cái vẻ đẹp toàn bích, toàn thiện kia là những điều cực kỳ trớ trêu, xấu xa và những nghịch cảnh ngang trái của cuộc đời.
Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, 1 khoảng cách đủ để hình thành vẻ đẹp ảo huyền nhưng mà sự thực cuộc đời lại ở rất gần. Bi kịch của gia đình thuyền chài kia đã như 1 thứ thuốc rửa quái lạ làm những thước phim diệu huyền nhưng anh dày công chụp được bỗng hiện ảnh thật kinh khủng và ghê sợ.
Chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương rất đẹp, đầy thơ mộng với 1 vẻ đẹp trời cho, rất thích hợp để làm tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển. Phùng thực thụ xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền và biển trước rạng đông. Vốn là 1 người lính trận mạc vào sinh ra tử, Phùng khinh ghét mọi sự áp bức bất công, chuẩn bị làm tất cả vì điều thiện, vì lẽ công bình. 1 người mẫn cảm như anh sao tránh khỏi nỗi giận dữ lúc phát xuất hiện ngay sau cảnh đẹp của chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của cái xấu, cái ác.
Qua đây, Nguyễn Minh Châu muốn gửi tới người đọc những suy ngẫm cực kỳ thâm thúy: mỗi chúng ta và nhất là người nghệ sĩ ko nên dễ dàng sơ lược để nhưng nhìn nhận cuộc sống bởi cuộc sống rất nhiều chủng loại và phức tạp. Nó ko chỉ có những vẻ đẹp như mơ và còn có cả những điều xấu xa, ác nghiệt. Trước lúc là 1 nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp thì hãy là 1 con người biết yêu ghét, vui buồn trước mọi lẽ thường tình, biết hành động để xứng đáng là 1 con người.
Số 15: Ý nghĩa 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tài năng với sức sáng tạo dồi dào, bằng cái tâm của người nghệ sĩ, ông luôn trăn trở trước những hiện thực của đời sống và đặt ra trách nhiệm của người nghệ sĩ khi đứng trước thực tại đó. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu được sáng tác trong giai đoạn đổi mới văn học, đồng thời cũng là tác phẩm điển hình cho quá trình chuyển hướng từ cảm hứng sử thi lãng mạn huyền ảo sang tính triết luận về những giá trị nhân bản đời thường.
Trong truyện, thông qua hai phát hiện của nhân vật Phùng, tác giả Nguyễn Minh Châu đã thể hiện được những đánh giá, quan điểm về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật, giữa người nghệ sĩ và nhân dân.
Đứng trước một bức tranh tuyệt tác của hóa công, người nghệ sĩ nhiếp ảnh trở nên “bối rối”, “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Điều đó cho thấy vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa đã tác động mãnh liệt đến tâm hồn của người nghệ sĩ khơi dậy những cảm xúc thăng hoa kì diệu. Trong khoảnh khắc đó, Phùng cảm giác đã khám phá ra được cái chân lí của sự hoàn thiện, khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn khiến cho Phùng nghĩ đến lời đúc kết của ai đó “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”.
Qua phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng về cái đẹp toàn bích, nhà văn Nguyễn Minh Châu không chỉ khám phá được phần nào hiện thực cuộc sống sau chiến tranh cũng như hành trình săn tìm nghệ thuật của người nghệ sĩ mà còn cho chúng ta thấy những chân lí cuộc đời. Đằng sau cái đẹp của thiên nhiên, của nghệ thuật là vẻ đẹp của tâm hồn, của con người.
Bức họa kia càng thêm sống động thực sự có linh hồn khi con người là chủ thể của bức tranh lại là những con người bình dị vùng ven biển miền Trung. Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa tác động mãnh liệt đến tâm hồn Phùng, điều này chứng tỏ tâm hồn của người nghệ sĩ rất dễ nhạy cảm, tinh tế trước cái đẹp của thiên nhiên con người. Đồng thời qua phát hiện thứ nhất này nhà văn muốn khẳng định, những tác phẩm nghệ thuật vô giá không phải tự nhiên mà có, nó là sản phẩm của một hành trình đi tìm cái đẹp, quá trình lao động miệt mài của người nghệ sĩ chân chính.
Khi bắt gặp cảnh đẹp người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình trong sáng vô ngần, từ đây nhà văn muốn nhấn mạnh khả năng nhân đạo hóa con người của nghệ thuật chân chính: cái đẹp có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Nói như Đốt-tôi-ép-xki:”cái đẹp cứu vớt con người”. Còn nhà văn Thạch Lam khẳng định: “văn chương là thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể vừa tố cáo, thay đổi thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn.
Nếu phát hiện đầu tiên của Phùng mang tính khám phá thì phát hiện thứ hai lại mang tính nghịch lí. Trong khung cảnh lung linh, tuyệt mĩ của cảnh biển Phùng ngỡ ngàng phát hiện ra cảnh bạo lực gia đình – sự thật tàn nhẫn trong góc khuất cuộc sống của những con người nghèo khổ. Từ một trong những chiếc thuyền bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi với vẻ ngoài cam chịu cùng một người đàn ông hung dữ, độc ác lấy việc đánh vợ làm phương thức giải tỏa mọi đau khổ. Người đàn ông vừa trút những trận đòn roi dã man lên người đàn bà tội nghiệp vừa rít lên bằng cái giọng đau đớn “ Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ”.
Khi chứng kiến cảnh bạo lực ấy, Phùng đã kinh ngạc mất mấy phút đầu vì anh không tưởng tượng được vì sao con người có thể đối xử tàn nhẫn với nhau đến vậy. Anh Phùng từng là người lính, từng cầm súng đấu tranh cho tự do, bảo vệ cho con người nên anh không thể chịu được khi chứng kiến cảnh đánh đập dã man của người đàn ông với vợ của mình, anh đã ném chiếc máy ảnh, phương tiện tác nghiệp của người nghệ sĩ để lao vào ngăn cản người đàn ông để bảo vệ người đàn bà.
Chứng kiến cảnh tượng đó người nghệ sĩ kinh ngạc đến sững sờ, anh như chết lặng bởi vì không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp kì diệu của tạo hóa kia là cái ác, cái xấu đến không thể tin được. Vừa mới đây thôi anh đã từng chiêm nghiệm: “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Thế mà cảnh tượng cuộc sống của người dân làng chài chẳng phải là đạo đức. Nghệ sĩ Phùng là người lính từng cầm súng bảo vệ cuộc sống con người cho nên trước cảnh đó anh thấy bất bình, thấy người đàn ông thật độc ác, tàn nhẫn. Khung cảnh nên thơ về chiếc thuyền ngoài xa đã nhanh chóng tan vỡ, thay cho cảm xúc thăng hoa chỉ còn lại đau đớn xót xa.
Qua phát hiện thứ hai này Nguyễn Minh Châu cho chúng ta thấy đằng sau bức tranh thuyền và biển tuyệt diệu là cuộc đời đầy khắc nghiệt với những mảnh đời tội nghiệp. Nhà văn muốn thể hiện cái đẹp của nghệ thuật dễ nắm bắt hơn cái đẹp của cuộc sống. Vì cái đẹp của cuộc sống cần có thêm hạnh phúc và tình thương. Và đôi cánh khi cái đẹp của ngoại cảnh làm khuất lấp cái xấu tồn tại ở đời sống.
Cuộc đời không đơn giản xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí với những mảng sáng tối, xấu đẹp, thiện ác, thật giả… Quan trọng là chúng ta đừng nhầm lẫn giữa hình thức bên ngoài và bản chất bên trong, chúng ta phải có cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống. Nghệ thuật vốn nảy sinh từ cuộc đời nhưng cuộc đời không phải bao giờ lúc nào cũng đẹp như nghệ thuật.
Trước những lẽ ấy thoạt đầu Đẩu và Phùng nghiêm nghị thấy bất bình nhưng về sau thì như vỡ lẽ ra nhiều điều. Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi nanh vuốt quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người đàn bà bất hạnh. Qua câu chuyện của người đàn bà, Phùng càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con người.
Cuộc sống này không chỉ sống cho riêng mình hay nó vốn là cái mình nhìn thấy trên bề nổi mà nó là phần chìm bên trong câu chuyện kia. Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài đã đem đến cho người đọc một thông điệp, một triết lí. Đó là phải nhìn mọi việc một cách toàn diện. Đó mới là cái giá trị đích thực của cuộc sống này. Từ một người đàn bà nhút nhát sợ hãi người đàn bà trở nên sâu sắc làm cho hai người đành phải để người phụ nữ ấy về với gia đình mình.
Câu chuyện kết thúc khi bức ảnh tuyệt bích được chọn in trong tấm lịch năm ấy và bức tranh còn được treo mãi trong những gia đình sành nghệ thuật. Điều này khẳng định giá trị nghệ thuật của bức tranh. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã đi sâu vào tiềm thức của Phùng như một trải nghiệm mà mỗi khi nhìn vào bức ảnh anh lại nhớ đến nó. Với anh, khi đứng trước bức ảnh đen trắng lại thấy một màu hồng trong buổi sớm ban mai và nhìn kĩ hơn nữa lại thấy bước ra từ trong tranh là người đàn bà hàng chài lam lũ.
Như vậy nếu hiểu bức tranh thuyền và biển kia là hình ảnh của nghệ thuật và người đàn bà hàng chài bước ra từ trong tranh là hình ảnh của cuộc đời thì nghệ thuật và cuộc đời phải gắn liền với nhau. Nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống thì cũng phải gắn liền với cuộc sống. Nghệ thuật phải luôn gắn liền với cuộc sống thì mới có ý nghĩa.

Tổng kết
Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 15 mẫu phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 12.