Tổng hợp các bài mẫu phân tích 2 câu đầu bài Chiều tối của tác giả Hồ Chí Minh một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 10 mẫu phân tích 2 câu thơ đầu bài Chiều tối chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!
Dàn ý phân tích 2 câu đầu bài Chiều tối
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả:
- Hồ Chí Minh ko chỉ là 1 vị lãnh tụ lớn lao nhưng mà còn là 1 danh nhân bản hóa của dân tộc.
- Hồ Chí Minh để lại cho giang sơn 1 sự nghiệp văn chương khổng lồ
- Giới thiệu tác phẩm:
- Tác phẩm được trích trong tập thơ Nhật Kí trong tù của Bác
- Bài thơ trình bày tình yêu tự nhiên và tấm lòng béo lao của Hồ Chủ tịch
II. Thân bài
*Hai câu thơ đầu: bức tranh tự nhiên miền sơn cước.
– Không gian: bao la => làm nổi trội sự độc thân, lẻ loi của con người và cảnh vật.
– Thời gian: chiều tối – thời điểm rốt cục của 1 ngày => con người, vạn vật mệt mỏi, cần được ngơi nghỉ.
– Điểm nhìn: từ dưới lên cao => phong độ thung dung, sáng sủa của tác giả.
– Cảnh vật: hiện ra 2 hình ảnh:
+ “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ”
> Cánh chim là hình ảnh thân thuộc trong thi ca cổ đại.
> “Quyện điểu” (chim mỏi): 1 cái nhìn tinh tế, cảm nhận rất sâu tình trạng bên trong của sự vật.
→ Hình ảnh thơ có hồn và nhuốm màu tâm cảnh của thi nhân nặng nề lê bước trên đường đi đày và khao khát 1 chốn ngừng chân.
+ “Cô vân mạn mạn độ thiên ko”
> “Cô vân”: chòm mây độc thân, lẻ loi → gợi cảm giác buồn vắng.
> “Mạn mạn”: chỉ sự trôi chậm chậm, lờ lững → ko gian rộng, khoáng đãng, gợi sự thung dung thoải mái trong tâm hồn thi nhân.
> “Độ thiên ko”: dịch chuyển từ chân mây này sang chân mây kia →Tâm cảnh lẻ loi, lạc điệu trước khoảng ko rộng lớn.
– Tuy nhiên câu thơ dịch bỏ mất từ “cô” nên đã làm cắt bớt sự lẻ loi, và ko chuyển hết nghĩa của từ láy “mạn mạn” → chưa chuyển tải được hết nỗi lòng trong tâm hồn Bác
+ “Cô vân” => “chòm mây”: chưa sát nghĩa => làm mất đi thuộc tính cô độc, độc thân của áng mây trên bầu trời.
+ “mạn mạn” => “trôi nhẹ”: chưa sát nghĩa => làm mất đi tư thế chậm trễ, uể oải, lờ lững ko muốn vận động của áng mây.
=> Bức tranh tự nhiên mang vẻ đẹp cổ đại nhưng mà bình dị, thân cận. Ẩn sau bức tranh đấy là vẻ đẹp tâm hồn Bác: yêu tự nhiên và phong độ thung dung tự tại trong cảnh ngộ hà khắc.
* Tiểu kết: Bằng văn pháp chấm phá, hình ảnh ước lệ biểu trưng, tả cảnh ngụ tình => Bức tranh tự nhiên chiều tối hiện lên thật đẹp và khoáng đãng. Qua ấy thấy được vẻ đẹp tâm hồn của thi nhân.
III. Kết bài
Nêu cảm tưởng, nghĩ suy của em về bài thơ Chiều tối
Top 10 mẫu phân tích 2 câu đầu bài Chiều tối
Số 1: Phân tích 2 câu đầu bài Chiều tối
Hai câu đầu chiều tối là những vần thơ cô đọng, hàm súc, lắng đọng nhiều dư ba tạo nên những cảm nhận sâu sắc trong tâm hồn người đọc. Không chỉ là những nét vẽ về thiên nhiên, mà còn là bức tranh tâm trạng của tâm hồn con người.
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
cô vân mạn mạn độ thiên không”
Dịch:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Mở ra trước mắt người đọc là không gian buổi chiều tà, một không gian không chỉ là khoảng trống, khoảng chờ, khoảng nghỉ của vũ trụ mà còn là khoảng thời gian tâm trạng, nó luôn luôn gợi buồn và tạo điểm tựa để những xúc cảm trong tâm hồn người yêu thiên nhiên có thể trào dâng những mạch cảm xúc sâu sắc.
Ở đây, có thể thấy trong khoảng thời gian này, vạn vật dường như đã đi vào thế nghỉ ngơi, đều mang chút u buồn, đơn độc và hoang vu của không gian rừng sâu hiểm trở. Cánh chim mỏi mải miết tìm về chốn nghỉ ngơi, phải chăng cánh chim mỏi mệt ấy cũng phần nào cũng gợi cho ta cảm giác về sự mệt nhọc của những bước chân người đi đường.
Thời điểm viết bài thơ, cũng là lúc bác đang bị đi đày, có lẽ hình ảnh cánh chim đơn độc và mỏi mết trong khoảng trời của nó phần nào gợi sự đồng cảm trong lòng Người, đồng thời cánh chim ấy cũng còn là biểu tượng cho sự vùng vẫy, tự do, phải chăng nó cũng phần nào nói cho ta về khát vọng phá tan xiềng xích nô lệ, và lập lại tự do, hòa bình. Một câu thơ thôi mà mở ra biết bao liên tưởng và cảm nhận. Đến câu thơ thứ hai, cảm xúc như trôi về một miền không gian mờ ảo hơn.
Bản dịch thơ không truyền tải được hết nội dung mà câu thơ gốc gợi nên, “cô vân” là hình ảnh đám mây đơn độc, lạnh lẽo còn bản dịch chỉ truyền tải đơn thuần là chòm mây, do đó không gợi hết ra được những gì mà tác giả muốn lột tả. Cô vân. phải chăng mang dáng dấp của tâm hồn người đi đường đơn độc, mang cảm giác trống trải, lạc lõng của người lữ hành mệt nhọc.
Nó bắc một cây cầu liên tưởng cho ta đi vào thế giới tâm hồn người đọc, rằng ở đây, nhân vật trung tâm của bức tranh chiều tà đang đơn độc trong hành trình tù đày, cũng đồng thời là tâm trạng trống vắng hoang hoải của kẻ chí lớn, muốn thực hiện một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử, cánh chim là những gì đầy hoài bão mênh mông, giống như giấc mơ vĩ đại của lịch sử dân tộc mà Bác ấp ủ.
Chỉ với 2 câu thơ mở đầu, Bác đã mở ra một chiều sâu của liên tưởng, của hàm súc và dư ba, cứ như thế, khiến người đọc càng muốn tìm về những vần thơ Bác để không chỉ cảm nhận mà còn để thấu hiểu sâu sắc.

Số 2: Phân tích 2 câu thơ đầu bài Chiều tối
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ lớn lao, là nhà chính trị tài 3, là nhà văn hóa của loài người. Bác để lại rất nhiều tác phẩm rực rỡ, nổi trội trong số ấy là bài thơ “chiều tối” trang tập thơ “Ngục trung nhật ký”. Bài thơ là bức tranh tự nhiên cuộc sống con người và qua ấy thấy được vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh dù cảnh ngộ hà khắc tới đâu vẫn luôn hướng về sự sống ánh sáng.
Thật vậy, 2 câu thơ đầu là bức tranh tự nhiên và tâm hồn, ý chí nghị lực của Người.
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng ko”
“Chim mỏi” là cánh chim mỏi mệt sau 1 ngày nặng nhọc kiếm ăn. Nhưng ở nguyên lý là “quyện điểu” tức là chim trở về, quay về, “lầm tác thụ” là về rừng tìm chốn ngủ.
Cánh chim chưa được dịch sát nghĩa, chưa làm nổi lên được văn pháp nghệ thuật lạ mắt. Từ ấy ta thấy được quang cảnh chiều tối làm người ta nhớ tới quê hương, gia đình, tự nhiên thanh bình ấm áp.
Cách chim là 1 hiện không xa lạ trong thơ Đường, thơ ca cổ khiến bài thơ mang vẻ đẹp cổ đại. Liên kết điểm nhìn tự nhiên từ thấp lên cao gợi cảm nhận về tự nhiên rộng lớn bao la.
“Chòm mây trôi nhẹ” được dịch là “cô vân mạn mạn” ko sát nghĩa. “Cô vân” là 1 chòm mây, 1 đám mây lẻ loi. “mạn mạn” là lờ lững, nhẹ nhõm làm hiện lên 1 bầu trời lẻ loi, 3 la bao la, hào phóng.
Bằng điểm nhìn từ thấp lên cao liên kết với lối chấm phá đơn sơ chỉ 1 chòm mây, 1 cánh chim trời, Hồ Chí Minh đã bao quát được cả 1 ko gian rộng lớn. Đấy là cảnh trời mây, rừng núi miền Quảng Tây Trung Quốc khi trời chiều thật rộng lớn, thanh bình, thân yêu.
Mặc dầu trong cảnh ngộ đầy cửa ải vô cùng gian khổ nặng nhọc, bị xiềng xích tay chân, đi dăm 3 cây số đường rừng mỗi ngày. Trời chiều với đất khách quê người thông thường người ta có tâm cảnh mỏi mệt, ngao ngán, động lòng buồn nhớ quê hương gia đình, thế nhưng mà người tù Hồ Chí Minh vẫn cảm thu được vẻ đẹp rộng lớn, hào phóng, thanh bình, ấm áp, thân yêu cả Miền Quảng Tây.
Qua ấy, có thể thấy Hồ Chí minh là người có tâm hồn mẫn cảm, giao hòa với tự nhiên cùng lúc là người có ý chí nghị lực, quên đi cảnh ngộ đầy cửa ải cực nhọc của mình để vui vẻ, để ngắm nhìn cảnh vật tự nhiên và thả hồn mình bay bổng cộng với 1 chòm mây, 1 cánh chim trời.

Số 3: Phân tích 2 câu đầu Chiều tối
Mùa thu năm 1942, Nguyễn Ái Quốc bị bắt khi vừa đặt chân lên đất Trung Quốc bắt đầu những ngày tháng đày ải lao khổ trong nhà tù Tưởng Giới Thạch. Không hề bị xét xử, không hề luận tội, Bác bị chuyển đi hết nhà lao này đến nhà lao khác chỉ với mục đích đày đọa:
“Quế Lâm, Liễu Châu lại Quế Lâm
Đá qua, đá lại bóng chuyền nhau”
Nhưng vượt lên tất cả, người vẫn mở rộng lòng mình để chan hòa với vạn vật và giành tình yêu thương cho hết thảy. “Chiều tối” là một bài thơ nằm trong mạch cảm hứng như thế với hai câu thơ mở đầu đầy sức gợi:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây lơ lửng giữa tầng không)
Hai câu thơ có sức gợi sâu sắc mở ra bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà, khi những ánh sáng của một ngày đang dần yếu ớt, tàn lụi. Đó là thời khắc cuối cùng của một ngày và với người tù nhân, đó cũng là chặng cuối cùng của một ngày đày ải. Thời gian và hoàn cảnh như thế gây nên trạng thái mệt mỏi, chán chường vậy mà ở đây cảm hứng của Bác thật tự nhiên.
Dường như người tù lúc ấy đang ngước mắt lên nhìn bầu trời và chợt thấy cánh chim mệt mỏi bay về tổ ếm, chòm mây chầm chậm trôi qua lưng trời. Khung cảnh thiên nhiên được khắc họa bằng những nét chấm phá (dùng điểm để nói diện) không tả mà người đọc vẫn cảm thấy được cái âm u, vắng vẻ, quạnh hiu và mang dư vị buồn của cảnh vật.
Trong thơ ca cổ điển phương Đông, cánh chim bay về tổ, về núi rừng thường mang ý nghĩa biểu tượng cho buổi chiều tà. Đó là hình ảnh “Chim bay về núi tối rồi” trong ca dao; là cánh “Chim hôm thoi thót về rừng” trong Truyện Kiều. Cánh chim đó vừa mang ý nghĩa không gian lại vừa có ý nghĩa thời gian.
Cánh chim có nét tương đồng với tình cảnh của người tù: Suốt một ngày bay đi kiếm ăn, cánh chim đã mỏi, chỉ mong muốn “tầm túc thụ” – tìm một nơi yên bình nào đó để nghỉ ngơi và người tù thì cũng đã mệt mỏi rã rời sau một ngày chuyển lao vất vả. Trong ý thơ ấy có biết bao sự hòa hợp, cảm thông giữa tâm hồn nhà thơ với thiên nhiên, cảnh vật. Cội nguồn của sự cảm thông ấy chính là tình yêu thương mênh mông mà Người dành cho mọi sự sống trên đời.
Góp thêm vào bức tranh của buổi chiều thu còn là cảnh: “Chòm mây lơ lửng giữa tầng không”. Câu thơ dịch tuy hay nhưng làm mất đi chữ ‘cô” – “cô vân”, làm cho chòm mây dường như mất đi cái cô đơn, lẻ loi trên nền trời bao la. Cụm từ “cô vân” có sức gợi hình ảnh bầu trời càng rộng lớn, bao la bao nhiêu thì cái cô đơn, lẻ loi của chòm mây càng được đặc tả bấy nhiêu.
Với chòm mây ấy, không gian như mênh mông vô tận và thời gian như thể ngừng trôi. Cánh chim, chòm mây cô lẻ đó có vẻ gì tương đồng với người tù đang trên đường chuyển lao khổ ải: lẻ loi trong cảnh tù đày và khát khao được trở về đất nước.
Chỉ với hai câu thơ mà dưới cặp mắt nghệ sĩ của người tù cách mạng, bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà hiện lên chân thực và sống động, ở đó, cánh chim và chòm mây trở nên có hồn khi có một người nghệ sĩ, vượt qua những đày đọa của bản thân, đang hướng cặp mắt của mình giao hòa cùng thiên nhiên.
Thiên nhiên thâm thìa nỗi buồn vì cảnh buồn, người buồn và cánh chim bay về tổ gợi niềm ước mong sum họp nhưng vượt lên trên tất cả, người tù vẫn mở rộng hồn mình để chan hoa, giao cảm với thiên nhiên. Hai câu thơ mang vẻ đẹp cổ điển nhưng vẫn đầy chất hiện đại của một hồn thơ chiến sĩ, một tinh thần thép luôn vận động hướng ra ánh sáng, hướng về cuộc sống:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Người tù không đi vào đêm tối hoang lạnh mà mải vui với niềm vui của cuộc sống ấm áp. Hai câu thơ ngắn gọn một lần nữa chứng minh cho một hồn thơ yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, con người, vượt lên hoàn cảnh của mình để chan hòa, giao cảm với tất cả.
“Vần biết rằng người không chút rảnh
Trong khi đánh giặc vẫn là thơ”…
Số 4: Phân tích 2 câu thơ đầu của bài Chiều tối
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại, là nhà chính trị tài ba, là nhà ăn hóa của nhân loại. Bác để lại rất nhiều tác phẩm đặc sắc, nổi bật trong số đó là bài thơ “chiều tối” trang tập thơ “Ngục trung nhật ký”.
Bài thơ là bức tranh thiên nhiên cuộc sống con người và qua đó thấy được vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh dù hoàn cảnh khắc nhiệt đến đâu vẫn luôn hướng về sự sống ánh sáng.
Thật vậy, hai câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên và tâm hồn, ý chí nghị lực của Người.
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
“Chim mỏi” là cánh chim mệt mỏi sau một ngày vất vả kiếm ăn. Nhưng ở nguyên tắc là “quyện điểu” nghĩa là chim trở về, trở lại, “lầm tác thụ” là về rừng tìm chốn ngủ.
Cánh chim chưa được dịch sát nghĩa, chưa làm nổi lên được bút pháp nghệ thuật độc đáo. Từ đó ta thấy được khung cảnh chiều tối làm người ta nhớ đến quê hương, gia đình, thiên nhiên yên bình ấm áp.
Cách chim là một hiện thân thuộc trong thơ Đường, thơ ca cổ khiến bài thơ mang vẻ đẹp cổ điển. Kết hợp điểm nhìn thiên nhiên từ thấp lên cao gợi cảm nhận về thiên nhiên bao la rộng lớn.
“Chòm mây trôi nhẹ” được dịch là “cô vân mạn mạn” không sát nghĩa. “Cô vân” là một chòm mây, một đám mây cô đơn. “mạn mạn” là lững lờ, nhẹ nhàng làm hiện lên một bầu trời cô đơn, ba la rộng lớn, phóng khoáng.
Bằng điểm nhìn từ thấp lên cao kết hợp với lối chấm phá đơn sơ chỉ một chòm mây, một cánh chim trời, Hồ Chí Minh đã bao quát được cả một không gian bao la. Đó là cảnh trời mây, rừng núi miền Quảng Tây Trung Quốc lúc trời chiều thật bao la, yên bình, thân thương.
Mặc dù trong hoàn cảnh đầy ải hết sức gian nan vất vả, bị xiềng xích chân tay, đi dăm ba cây số đường rừng mỗi ngày. Trời chiều với đất khách quê người thông thường người ta có tâm trạng mệt mỏi, chán chường, chạnh lòng buồn nhớ quê hương gia đình, thế nhưng người tù Hồ Chí Minh vẫn cảm nhận được vẻ đẹp bao la, phóng khoáng, yên bình, ấm ấp, thân thương cả Miền Quảng Tây.
Qua đó, có thể thấy Hồ Chí Minh là người có tâm hồn nhạy cảm, giao hòa với thiên nhiên đồng thời là người có ý chí nghị lực, quên đi hoàn cảnh đầy ải cực nhọc của mình để vui vẻ, để ngắm nhìn cảnh vật thiên nhiên và thả hồn mình bay bổng cùng với một chòm mây, một cánh chim trời.

Số 5: Phân tích 2 câu đầu bài Chiều tối
Hồ Chí Minh được nhân loại biết đến không chỉ là một vị lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam mà còn được biết đến như một nhà văn, nhà thơ lớn của thế kỷ XX. Ngoài văn chính luận, người còn để lại cho đời một sự nghiệp thơ ca đáng trân trọng. Trong đó nổi bật nhất là tập thơ Nhật ký trong tù. Tập thơ này như một cuốn nhật ký bằng thơ ghi lại những chặng đường giải lao đầy gian nan vất vả của người tù. Nhưng bằng bản lĩnh thép, tinh thần thép Người đã vượt qua hoàn cảnh tù đày để hướng về ánh sáng. Bài thơ Chiều tối là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của tập Nhật ký trong tù:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Tháng 8/1942, Bác Hồ sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của bạn bè quốc tế về cuộc cách mạng ở Việt Nam. Sau mười lăm ngày đi bộ khi vừa tới thị trấn Túc Vinh, tỉnh Quảng Tây, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ và bị “mười bốn trăng tê tái gông cùm” trong gần ba mươi nhà lao của tỉnh Quảng Tây.
Trong thời gian này Người đã sáng tác tập thơ Nhật ký trong tù gồm 134 bài thơ bằng chữ Hán. Bài thơ “Mộ” (Chiều tối) được xem là áng thơ tuyệt bút, được Người làm trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo.
Bài thơ mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà trên đường Bác bị giải lao. Chỉ vài nét chấm phá, hai câu đầu của bài thơ đã để lại một tiểu hoạ về cảnh thiên nhiên vùng sơn cước ở thời điểm “chiều tối”.
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không”
Thiên nhiên hiện lên với hai nét chấm phá: cánh chim và áng mây mang màu sắc cổ thi rõ nét. Hai hình ảnh ấy tạo nên bầu không gian khoáng đãng, cao rộng, thể hiện điểm nhìn lên của tác giả “luôn ngẩng cao đầu trong hoàn cảnh tù đày”.
Buổi chiều ấy dường như ta đã bắt gặp đâu đó trong thơ xưa: “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà” hay “Chiều tà bảng lảng bóng hoàng hôn” (Bà Huyện Thanh Quan). Cánh chim và chòm mây vốn là những thi liệu rất quen thuộc trong thơ cổ thường dùng để miêu tả cảnh chiều tối như một bút pháp miêu tả thời gian. Lý Bạch trong bài thơ Độc tọa Kính Đình san cũng đã từng viết:
“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn
(Chim trời bay đi mất
Mây lẻ trôi một mình)”
Điều mới mẻ ở đây là nếu như trong thơ cổ, cánh chim thường bay về chốn vô tận vô cùng, vô định, gợi cảm giác xa xăm, phiêu dạt, chia lìa, mang cái buồn thương u uẩn thì cánh chim trong thơ Bác lại gần gũi yêu thương hơn bao giờ hết.
Nó chỉ là cánh chim tìm về tổ ấm sau một ngày dài mỏi mệt kiếm ăn. Cái hay nằm ở chỗ, nhìn cánh chim bay mà thấy được “quyện điểu”, thấy được trong dáng bay của cánh chim có sự mỏi mệt của nó. Nghĩa là nhà thơ nhìn thấy được sự vận động bên trong của cánh chim kia. Đây chính là tình cảm nhân đạo của Hồ Chí Minh.
Cái nhìn ấy thể hiện tình cảm nhân ái bao la của Người đối với cảnh vật. Đúng như Tố Hữu đã từng viết “Bác ơi tim Bác mênh thống thế/ Ôm cả non sông mọi kiếp người”. Qua đó ta thấy thêm một nét nghĩa mới: người tù dường như cũng đồng cảm với cánh chim kia, Người như cũng muốn được dừng chân sau một ngày đày ải “Năm mươi ba cây số một ngày/ Áo mũ dầm mưa rách hết giày”.
Cùng với “Quyện điểu quy lâm”, là “Cô vân mạn mạn”. Bài thơ dịch khá uyển chuyển, nhưng đã làm mất đi vẻ lẻ loi, trôi nổi, lững lờ của đám mây. Người dịch đã bỏ sót chữ “cô” và chưa thể hiện được hết nghĩa của hai từ láy “mạn mạn”. Căn cứ vào phần nguyên âm ta thấy, hình ảnh đám mây cô đơn, lẻ loi đang chầm chậm trôi qua bầu trời.
Nó không chỉ làm cho bầu trời thêm cao, thêm khoáng đãng mà còn gợi lên nỗi buồn bâng của người tù trên đất khách quê người. Nhưng buồn mà không bi lụy, không hiu hắt như trong thơ cổ điển. Mặc dù câu thơ dịch: “Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không” chưa được sát nghĩa nhưng dù sao cũng thấy cái hay riêng của nó.
Chòm mây trôi nhẹ nhàng, nhàn tản như chính tâm hồn người tù chiến sĩ ung dung tự tại, bị giải tù mà như đang thưởng ngoạn cảnh trời chiều và thả tâm hồn thi sĩ chứ không còn là cảnh tù đày mệt mỏi nữa. Qua đó ta thấy tác giả không hề để lộ cái mệt mỏi, cô đơn của chính mình. Đó chính là TINH THẦN THÉP vĩ đại của người tù – thi sĩ Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, hai câu đầu bài thơ có phảng phất nỗi buồn của lòng người, của tâm trạng người tù nhưng cảnh buồn mà không chút bi lụy. Th.s Nguyễn Đức Hùng nhận xét rằng “Những buổi chiều như vậy, đâu có thiếu trong văn chương cổ kim; nhưng nếu cảnh ấy qua cái nhìn của một Lý Bạch tiêu diêu, một Khuất Nguyên u uất chắc chắn sẽ đầy ảm đạm, thê lương. Còn ở đây, nếu không rõ xuất xứ, nhiều người sẽ lầm tưởng “Mộ” là bài thơ của thời Thịnh Đường”.
Thành công của bài thơ chính là yếu tố cổ điển kết hợp với hiện đại, giữa tâm hồn thi sĩ và tinh thần thép của người tù cách mạng. Bài thơ đã làm người đọc xúc động trước tình cảm nhân ái bao la của người tù chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh dù trong hoàn cảnh tù đày nơi đất khách quê người nhưng Người vẫn vượt lên trên tất cả mọi sự khổ đau, đọa đày vè thể xác để đưa đến cho người đọc những vần thơ tuyệt bút. Qua bài thơ ta càng hiểu, càng yêu hơn lãnh tụ Hồ Chí Minh của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Số 6: Phân tích 2 câu thơ đầu bài Chiều tối
“Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh được viết từ 2/8/1942 đến 10/9/1943 khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ, đày đọa khắp các nhà lao tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trong số 133 bài thơ “Nhật ký trong tù” có một số bài ghi lại những thời khắc đáng nhớ trong ngày: Buổi sớm, Buổi trưa, Quá trưa, Chiều hôm, Chiều tối, Hoàng hôn, Nửa đêm… Mỗi bài là một nỗi niềm trong những tháng ngày “ác mộng”.
“Chiều tối” (Mộ) là bài thất ngôn tứ tuyệt số 31 trong “Nhật ký trong tù”. Bài thơ số 32 là bài “Đêm ngủ ở Long Tuyền”. Vậy, bài “Chiều tối” ghi lại cảnh xóm núi lúc ngày tàn trên con đường từ Thiên Bảo đến Long Tuyền vào tháng 10/1942.
Đây là nguyên tác bài thơ:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không,
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”.
Một cái nhìn man mác, một thoáng ước mơ thầm kín về một mái ấm, một chỗ dừng chân…của nhà thơ trên con đường lưu đày khổ ải muôn dặm, được hé lộ qua bài thơ, đọc qua tưởng như chỉ tả cảnh chiều tối nơi xóm núi xa lạ.
Hai câu đầu tả bầu trời lúc ngày tàn. Hai nét vẽ “động” cánh chim mỏi mệt (quyện điểu) bay về rừng xa, tìm cây trú ẩn, một áng mây cô đơn, lẻ loi (cô vân) đang lững lờ trôi (mạn mạn). Câu trúc hai câu thơ đăng đối, âm điệu thơ nhẹ, thoáng buồn.
Người chiến sĩ bị lưu đày ngước mắt nhìn bầu trời, dõi theo cánh chim bay và áng mây trôi nhẹ mà lòng man mác. Rất tinh tế, nét vẽ ngoại cảnh đã thoáng hiện tâm cảnh. Câu thơ dịch của Nam Trân tuy chưa thể hiện được chữ “cô” trong “cô vân” nhưng khá hay:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không”.
Hai câu thơ 1, 2 mang vẻ đẹp cổ điển: tả ít mà gợi nhiều chỉ 2 nét phác họa (chim bay, mây trôi) mà gợi lên cái hồn cảnh vật, ngày tàn, màn đêm buông xuống dần, tạo vật như đang chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi, mệt mỏi. Nghệ thuật lấy điểm vẽ điện, lấy động tả tĩnh được vận dụng sáng tạo.
Nhìn chim bay, mây trôi mà cảm thấy bầu trời bao la hơn, cảnh chiều tối êm ả, tĩnh lặng hơn. Cảnh chiều tối ở xóm núi này còn mang tính ước lệ, nó mở rộng liên tưởng và cảm xúc thẩm mỹ trong tâm hồn mỗi chúng ta,…nhớ về một cánh chim bay trong “Truyện Kiều”: “Chim hôm thoi thót về rừng”; nhớ đến một cánh chim bay mỏi và hình ảnh người lữ thứ trong chiều sương lạnh nhớ nhà:
“Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa, khách bước dồn”
(Chiều hôm nhớ nhà)
Trở lại bài “Chiều tối”, áng mây cô đơn lẻ loi đang lơ lửng, trôi nhẹ trên bầu trời là hình ảnh ẩn dụ về người lưu đày trên con đường khổ ải xa lắc! Ngôn ngữ thơ hàm súc, biểu cảm, vừa tả cảnh vừa tả tình, thoáng nhẹ mà đầy ấn tượng, dư ba.
“Chiều tôi” – một bài thơ mang màu sắc cổ điển hàm súc kết hợp với tính chất trẻ trung, hiện đại, bình dị. Tứ thơ vận động từ cảnh đến tình, từ trong bóng tối đến sự sống, đến ánh sáng và tương lai. Nét vẽ tinh tế, thể hiện một hồn thơ “bát ngát tình”. Bài thơ thấm đượm một tình yêu mênh mông đối với tạo vật và con người. Trong đoạ đầy gian khổ, tâm hồn Bác vẫn dào dạt sự sống.

Số 7: Phân tích 2 câu đầu Chiều tối
“Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh là tập thơ ghi lại cảm xúc trong chuỗi ngày bị giam hãm ở nhà lao Trung Quốc. Đọc thơ của Hồ Chí Minh, người đọc nhận ra những dòng cảm xúc rất bình dị, đời thường. “Mộ” là một bài thơ như vậy, tái diễn lại một khoảnh khắc khi sắp kết thúc một ngày, là chiều tối. Điều đó được thể hiện rất rõ qua 2 câu thơ đầu bài.
Hai câu thơ đầu Bác đặc tả cảnh thiên nhiên núi rừng với hai hình ảnh tiêu biểu cánh chim mỏi mệt và đám mây cô đơn:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Dịch:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Với bút pháp chấm phá điểm nhãn, ước lệ tượng trưng mang đậm chất cổ điển của thi pháp phương Đông Bác đã khắc họa hình ảnh cánh chim mỏi mệt đang bay tìm chốn ngủ. Đó là chi tiết gợi không gian mênh mông, gợi ý niệm thời gian buổi chiều đã về.
Trong thơ ca không ít lần ta có bắt gặp hình ảnh cánh chim ấy là “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có viết: “Chim hôm thoi thót về rừng” hay của bà Huyện Thanh Quan: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” rồi trong “Tràng Giang” của Huy Cận là hình ảnh “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa”.
Từ “quyện” trong câu thơ mang nghĩa mỏi mệt chỉ tâm thế tồn tại của con người, là định ngữ cho danh từ “điểu”, được dùng để đặc tả cho hình ảnh cánh chim. Cánh chim ở đây không chỉ được Bác quan sát trong sự vận động mà còn được cảm nhận từ bên trong là “Chim mỏi”. Nhà thơ đã dùng cái hữu hạn của cánh chim để nói cái vô hạn của bầu trời.
Trong khoảng trời mênh mông ấy chỉ có cánh chim nhỏ nhoi bay với đôi cánh mệt mỏi. Bác đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tả hoạt động của tự nhiên để gợi thân phận, tâm trạng của mình. Ở đây vừa có sự đối lập vừa có nét tương đồng. Đối lập là nếu con chim bị lạc đàn, bay mỏi sau một ngày kiếm ăn vất vả nhưng vẫn thoải mái tự do vào rừng tìm chốn ngủ còn nhà thơ vẫn bị kìm kẹp, giam cầm.
Tương đồng tâm trạng giữa người tù và cánh chim chiều. Phải chăng sau một ngày đi đường dài cổ đeo gông chân vướng xiềng Bác đã thấm mệt nên nhìn cánh chim bay Bác cũng cảm nhận được điều ấy, Bác cũng muốn được nghỉ ngơi sau ngày tù dài lê bước “Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa rách hết giày”. Cội nguồn của sự đồng điệu ấy là tình yêu vô bờ mà Bác dành cho sự sống của vạn vật.
Không chỉ vậy Người còn quan sát thấy hình ảnh đám mây trôi chầm chậm trên nền trời mênh mông, bao la gợi ý niệm lữ thứ, cô đơn. Đây cũng là một thi liệu rất quen thuộc trong thơ xưa. Thôi Hiệu đã từng viết: “Bạch vân thiên tải không du du” (Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay) hay đó là đám mây xanh ngắt trong thơ Nguyễn Khuyến với câu “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”.
Tuy nhiên mây trong thơ Bác không gợi sự vĩnh viễn mà mang tâm trạng cô đơn, lẻ loi của người khách băn khoăn không biết tương lai sẽ đi đâu về đâu nhưng trong bản dịch chưa thực sự lột tả được ý nghĩa của từ “cô”.
Chỉ với vài nét đặc tả, chấm phá lấy linh hồn của thiên nhiên mà vẽ nên một bức tranh buổi chiều tối ảm đạm, yên ả. Cánh chim và đám mây đã từng xuất hiện trong thơ Lý Bạch: “Chúng điểu cao phi tận/ Cô vân độc khứ nhàn”. Đó là nét cổ điển mà Hồ Chí Minh kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại thể hiện ước muốn được tự do, được nghỉ ngơi như cánh chim, như đám mây trên trời cao.
Trong hai câu thơ đầu chỉ đặc tả cảnh thiên nhiên nhưng ẩn đằng sau lớp ngôn từ đó là tư thế và tâm hồn của thi nhân. Ta không thấy có chân dung của người tù khổ ải mà chỉ thấy phong thái ung dung, tao nhã của thi nhân mặc khách dù chân vướng xiềng lê từng bước trên đường đi, cảnh chiều mênh mông rợn ngợp nhưng tâm hồn Bác vẫn hướng về thiên nhiên, quát sát từng chi tiết vận động của cảnh vật.
Nếu không phải là một người yêu thiên nhiên tha thiết, một con người có nghị lực phi thường, bản lĩnh kiên cường vượt lên trên hoàn cảnh làm sao có được sự tự do về tinh thần. Nhà lao, xiềng xích có thể giam cầm thân thể Bác chứ không thể trói buộc được tâm hồn thi nhân.
Số 8: Phân tích 2 câu thơ đầu của bài Chiều tối
Một tác phẩm hay là tác phẩm hàm chứa giá trị tư tưởng sâu sắc. Ở đó, ta không chỉ thấy được tài năng của người viết mà còn chứa đựng cả một tâm hồn, một cốt cách của thi nhân. Bài thơ Chiều tối là một bài thơ như thế, Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ kính yêu của đất nước, một nhà thơ của dân tộc mang một tình cảm lớn lao với Tổ Quốc đã viết nên những vần thơ chạm vào đáy hồn nhân thế. Mà có lẽ, bài thơ còn giá trị cho đến tận mãi về sau.
“Chim mỏi về rừng tìm cây ngủ,
Chòm mây nhẹ giữa tầng không”
Sau ngày dài kiếm ăn, từng đàn chim nối đuôi nhau trở về nơi rừng mong tìm chốn nghỉ ngơi.Cánh chim mỏi mệt đập nhẹ giữa không trung trong buổi chiều tàn. Chòm mây cô độc trôi lững lờ giữa khoảng không vô định, cảnh vật tuy nhẹ nhàng nhưng mang một nỗi buồn man mác.
Lạ kì thay, là cảnh buồn hay chính nơi tâm hồn người tù nhân cũng đang ưu sầu nơi chốn xa quê hương.Thời khắc của ngày tàn cũng là khi màn đêm buông xuống, đây là lúc người ta tạm gác mọi công việc để trở về nơi gia đình quây quần bên bữa cơm gia đình.
Phải chăng ngay lúc ấy, Bác cũng đang khát khao được đứng nơi đất nước mình, được cùng nhân dân, cùng những người con dân tộc sum họp. Vậy mà, thực tại muôn nỗi khó khăn, bởi vậy mà cảnh cũng đeo sầu, đám mây cô độc,cánh chim mỏi mệt là những hình ảnh ẩn dụ cho những lúc yếu lòng, cảm thấy cô đơn, lẻ loi của Người nơi đất khách quê người.
Nỗi nhớ quê hương da diết trong tâm khảm nhà thơ, càng cô độc bao nhiêu thì nỗi nhớ lại càng lớn bấy nhiêu. Bằng biện pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc, tâm trạng của Bác được bộc lộ rõ rệt.Cảnh và tình tuy hai mà một – người mang nỗi niềm, cảnh cũng chẳng thể nào vui.
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Không gian sinh hoạt mở ra thật giản dị. Người con gái xay ngô giữa bầu trời đêm bình yên đến lạ kì. Giữa bao nhiêu cái kì vĩ, lớn lao khác, Bác lại nhìn về cảnh lao động – xay ngô tối. Chắc hẳn, Bác đã rất trân trọng cái khoảnh khắc này, trân trọng sức lao động của con người trong mỗi khoảnh khắc của thời gian.
Phải có một tâm hồn tinh tế, nhà thơ mới có thể nhận ra được vẻ đẹp rất đỗi bình dị trong đời sống như thế. Đó là vẻ đẹp của con người giữa cuộc đời thiếu thốn, tuy vất vả mà rất đỗi ấm cúng, đáng quý, đáng yêu. Hình ảnh con người lao động hoà hợp với vẻ đẹp thiên nhiên làm cho bức tranh chiều tối dường như ấm áp hơn, sinh động hơn.
Đem đến sức sống cho cảnh núi rừng, dù buồn nhưng tràn trề nhựa sống. Dường như, đó là khát khao hướng tới sự sống, hướng tới những điều tốt đẹp, ước mơ vươn tới tự do cho muôn người, sống trong gian khổ tù đày ta lại càng trân trọng cuộc sống lao động . Từ “hồng” trở thành nhãn tự, là trung tâm của bài thơ. Ngọn lửa không đơn thuần chỉ là một sự vật, mà nó là biểu tượng cho ngọn lửa của cách mạng, ngọn lửa của tình yêu hòa bình.
Ngọn lửa xua tan đi màn đêm lạnh giá, xua tan đi những nỗi mệt mỏi của ngày dài, xưa tan nỗi trầm tư trong lòng người tù cách mạng. Ngọn lửa hồng thắp lên niềm tin vào một tương lai tốt đẹp cho dân tộc, hơn hết là sự bình yên trong lao động của nhân dân.
Đọc bài thơ, ai cũng sẽ có riêng cho mình những suy ngẫm.Với em, bài thơ không chỉ cho em thấy được tình yêu Tổ Quốc của Bác, mà qua đó càng trân trọng hơn cuộc sống lao động của những con người chân chất giản dị, thêm trân trọng cuộc sống tự do hòa bình mà thế hệ chúng em hôm nay có được. Từ đó, càng kính yêu Bác Hồ với tấm lòng bao la rộng lớn, thêm tự hào về hồn thơ lớn của dân tộc.
Đồng thời, cho em bài học về thái độ sống trước cuộc đời, trong bão bùng gian lao, trước những gian khó, thử thách của cuộc sống vẫn giữ vững niềm tin, hướng tới ngọn lửa hồng, hướng tới một tương lai đầy hi vọng.Thử thách của hiện tại dù khiến bản thân áp lực nhưng không thể làm ta gục ngã, mệt mỏi có thể chùn chân nhưng không được lùi về phía sau, hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ở phía sau bạn. Hãy giữ vững tinh thần lạc quan trong mọi hoàn cảnh.

Số 9: Phân tích 2 câu đầu bài Chiều tối
Hồ Chí Minh là một cái tên mà tất cả con dân Việt Nam đều ghi tạc trong tim với một lòng yêu quý, kính trọng vô bờ bến. Trong quá trình tìm lại tự do cho dân tộc, Bác đã phải chịu rất nhiều khổ cực, gian khó, đã rất nhiều lần bị bắt giam, chuyển từ nhà tù này sang nhà tù khác, bị đánh đập, tra tấn dã man. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ở Người vẫn ánh lên một tinh thần lạc quan, một niềm tin vào một ngày mai tươi sáng. Bài thơ “Chiều tối” nằm trong tập thơ “Nhật kí trong tù” đã thể hiện được phần nào tinh thần ấy của Người. Bài thơ chỉ đơn giản là tả lại cảnh nơi thôn dã vào một buổi chiều tối, thế nhưng ẩn chứa trong đó là một ước mơ tự do cho bản thân, ước mơ được quay trở lại quê hương để tiếp tục sứ mệnh của mình.
Bài thơ được sáng tác khi Bác bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Bức tranh chiều tối được nhìn qua cặp mắt của người tù tay đeo gông chân vướng xiềng:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không.”
Dịch thơ:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.”
Buổi chiều thường là lúc đoàn tụ, nhưng cũng là khi con người ta thấy vô cùng cô đơn nếu không có một chốn để về. Cánh chim mỏi sau một ngày kiếm ăn cũng đã bay về tổ của mình. Trên không trung chỉ còn lững lờ một chòm mây.
Giữa thiên nhiên bao la hùng vĩ, con người và cảnh vật đều như dừng lại, chỉ có chòm mây ấy vẫn nhẹ nhàng trôi, càng làm nổi bật lên sự yên ắng, êm ả của buổi chiều tối nơi rừng núi. Chòm mây ấy cũng giống như Bác, đang trong tình cảnh tù tội, vẫn phải cô độc bước đi. Chòm mây cô đơn, lặng lẽ, Bác cũng lặng lẽ, cô đơn.
Tuy thế, phải là một người có lòng yêu thiên nhiên, phải có một tâm thái ung dung, bình tĩnh, lạc quan, vượt lên mọi gông cùm về thể xác để ngắm thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên như thế. Thân xác mỏi rã rời vì phải đi cả ngày đường vất vả, nhưng Bác vẫn dõi mắt theo cánh chim về tổ, tầng mây lững lờ trôi lúc chiều về.
Tuy chỉ hai câu thơ bảy chữ, nhưng cũng đã khiến cho người đọc tưởng tượng ra được cảnh chiều muộn nơi rừng núi thật mênh mông, âm u, vắng vẻ, quạnh quẽ. Đồng thời, cũng nói lên niềm mong ước quay trở về với quê hương, ước mong được tự do như đám mây kia.
Bài thơ “Chiều tối” là một bài thơ tiêu biểu cho nét đẹp cổ điển và hiện đại trong thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ chỉ đơn giản là tả về phong cảnh thiên nhiên và con người nơi xóm núi khi chiều muộn, đồng thời, cũng ẩn chứa trong đó nỗi niềm ước mong được tự do, được sum họp của Người. Đồng thời, ở Bác, chúng ta vẫn luôn thấy ánh lên một vẻ đẹp của tinh thần quên mình, của một trái tim giàu lòng yêu thương luôn biết quan tâm đến những điều bình dị nhất.
Số 10: Phân tích 2 câu thơ đầu bài Chiều tối
Mùa thu 5 1942, Nguyễn Ái Quốc bị bắt lúc vừa đặt chân lên đất Trung Quốc mở đầu những tháng ngày đày cửa ải lao khổ trong nhà đá Tưởng Giới Thạch. Không hề bị xét xử, chẳng phải luận tội, Bác bị chuyển đi hết ngục thất này tới ngục thất khác chỉ với mục tiêu đày đọa:
“Quế Lâm, Liễu Châu lại Quế Lâm
Đá qua, đá lại bóng chuyền nhau”
Nhưng vượt lên tất cả, người vẫn mở mang lòng mình để chan hòa với vạn vật và giành tình mến thương cho hết thảy. “Chiều tối” là 1 bài thơ nằm trong mạch cảm hứng như thế với 2 câu thơ khởi đầu đầy sức gợi:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên ko”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây lửng lơ giữa tầng ko)
Hai câu thơ có sức gợi thâm thúy mở ra bức tranh tự nhiên buổi chiều tà, lúc những ánh sáng của 1 ngày đang dần yếu đuối, tàn lụi. Đấy là thời điểm rốt cục của 1 ngày và với người tội phạm, ấy cũng là chặng rốt cục của 1 ngày đày cửa ải. Thời gian và cảnh ngộ như thế gây nên tình trạng mỏi mệt, ngao ngán vậy nhưng mà ở đây cảm hứng của Bác thật thiên nhiên.
Nghe đâu người tù khi đấy đang ngước mắt lên nhìn bầu trời và chợt thấy cánh chim mỏi mệt bay về tổ ếm, chòm mây chầm chậm trôi qua lưng trời. Khung cảnh tự nhiên được khắc họa bằng những nét chấm phá (dùng điểm để nói diện) ko tả nhưng mà người đọc vẫn cảm thấy được cái ảm đạm, vắng tanh, quạnh quẽ và mang dư vị buồn của cảnh vật.
Trong thơ ca cổ đại phương Đông, cánh chim bay về tổ, về núi rừng thường mang ý nghĩa tượng trưng cho buổi chiều tà. Đấy là hình ảnh “Chim bay về núi tối rồi” trong ca dao; là cánh “Chim hôm thoi thót về rừng” trong Truyện Kiều. Cánh chim ấy vừa mang ý nghĩa ko gian lại vừa có ý nghĩa thời kì.
Cánh chim có nét đồng nhất với cảnh ngộ của người tù: Suốt 1 ngày bay đi kiếm ăn, cánh chim đã mỏi, chỉ mong muốn “tầm túc thụ” – tìm 1 nơi thanh bình nào ấy để ngơi nghỉ và người tù thì cũng đã mỏi mệt rời rã sau 1 ngày chuyển lao nặng nhọc.
Trong ý thơ đấy có biết bao sự hòa hợp, thông cảm giữa tâm hồn thi sĩ với tự nhiên, cảnh vật. Khởi thủy của sự thông cảm đấy chính là tình mến thương mênh mang nhưng mà Người dành cho mọi sự sống trên đời. Góp thêm vào bức tranh của buổi chiều thu còn là cảnh: “Chòm mây lửng lơ giữa tầng ko”.
Câu thơ dịch tuy hay nhưng mà làm mất đi chữ ‘cô” – “cô vân”, khiến cho chòm mây hình như mất đi cái lẻ loi, độc thân trên nền trời rộng lớn. Cụm từ “cô vân” có sức gợi hình ảnh bầu trời càng bao la, rộng lớn bao lăm thì cái lẻ loi, độc thân của chòm mây càng được đặc tả bấy nhiêu.
Với chòm mây đấy, ko gian như mênh mang bất tận và thời kì như thể dừng trôi. Cánh chim, chòm mây cô lẻ ấy có vẻ gì đồng nhất với người tù đang trên đường chuyển lao khổ cửa ải: độc thân trong cảnh tù tội và khao khát được trở về tổ quốc.
Chỉ với 2 câu thơ nhưng mà dưới cặp mắt nghệ sĩ của người tù cách mệnh, bức tranh tự nhiên buổi chiều tà hiện lên chân thật và chân thật, ở ấy, cánh chim và chòm mây trở thành có hồn lúc có 1 người nghệ sĩ, vượt qua những đày đọa của bản thân, đang hướng cặp mắt của mình giao hòa cùng tự nhiên.
Thiên nhiên thâm thìa nỗi buồn vì cảnh buồn, người buồn và cánh chim bay về tổ gợi niềm ước mơ sum vầy nhưng mà vượt lên trên tất cả, người tù vẫn mở mang hồn mình để chan hoa, giao cảm với tự nhiên. Hai câu thơ mang vẻ đẹp cổ đại nhưng mà vẫn đầy chất đương đại của 1 hồn thơ chiến sĩ, 1 ý thức thép luôn di chuyển hướng ra ánh sáng, hướng về cuộc sống:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Người tù ko đi vào đêm hôm hoang lạnh nhưng mà mải vui với thú vui của cuộc sống ấm áp.
Hai câu thơ ngắn gọn 1 lần nữa chứng minh cho 1 hồn thơ yêu tự nhiên, yêu cuộc sống, con người, vượt lên cảnh ngộ của mình để chan hòa, giao cảm với tất cả.
“Vần biết rằng người ko chút rảnh
Trong lúc đánh giặc vẫn là thơ”…

Tổng kết
Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 10 mẫu phân tích 2 câu đầu bài Chiều tối chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 11.