Top 10 mẫu phân tích 2 câu thơ cuối bài Chiều tối chi tiết nhất

223
Top 10 mẫu phân tích 2 câu cuối bài Chiều tối chi tiết nhất
Top 10 mẫu phân tích 2 câu cuối bài Chiều tối chi tiết nhất
4.7/5 - (16 votes)

Tổng hợp các bài mẫu phân tích 2 câu cuối bài Chiều tối của tác giả Hồ Chí Minh một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 10 mẫu phân tích 2 câu thơ cuối bài Chiều tối chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Dàn ý phân tích 2 câu cuối bài Chiều tối

I. Mở bài

– Nêu vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ.

– Khái quát về hoàn cảnh sáng tác bài thơ Chiều tối.

– Dẫn dắt đi vào phân tích hai câu thơ cuối bài thơ Chiều tối.

II. Thân bài

– Hai câu thơ miêu tả rất cụ thể đời sống thường nhật. Đó là cảnh cô em xóm núi đang cần mẫn xay ngô và lò than rực hồng tỏa ra ánh sáng và người đi đường như quên đi cảnh ngộ của riêng mình, hoà vào không khí lao động.

– Điểm nhìn của nhà thơ lúc này không phải là đỉnh trời nữa mà là mặt đất. Người đã ghi lại hình ảnh của cô gái xay ngô. Hình ảnh này nổi bật trong bức tranh chiều tối.

– Bác đã quên cảnh ngộ của mình để cảm nhận cuộc sống xung quanh. Bác như hoà vào không khí lao động ở xóm núi, đồng cảm với nỗi vất vả của người lao động.

– Cô gái xay ngô và bếp lửa rực hồng gợi tới cảnh gia đình đầm ấm, bộc lộ khát vọng, ước mơ thầm kín của người tù bị lưu đày trên đất khách về cuộc sống tự do.

– Có hai chi tiết cần chú ý:

+ Một là hình ảnh cô gái xuất hiện đã hướng người đọc từ không gian cảnh vật của mây trời, chim muông trở về với đời sống con người. Đâv cũng là đặc điểm của câu chuyển trong bất cứ bài thơ tứ tuyệt nào của Bác.

+ Con người trong thơ của Bác vừa khoẻ khoắn, nó mang lại niềm vui trong cuộc sống lao động. Nó làm dịu đi nỗi cô đơn của người đi đường. Người đi đường trong phút chốc cũng cảm thấy hơi ấm của sự sống, của tự do.

+ Hai là hình ảnh rực hồng của lò than. Chữ “hồng” thật đáng chú ý. Đấy là “thi nhãn” (con mắt của nhà thơ) hay là “nhãn tự” (chữ có mắt). Hoàng Trung Thông cho rằng “Chữ hồng sáng bừng lên. Nó cân lại, chỉ là một chữ thôi với hai mươi bảy chữ khác dầu nặng đến mấy chăng nữa”.

– Bài thơ có sự vận động của không gian, thời gian từ lúc chiều muộn cho đến chiều tối, từ không gian núi rừng hiu quạnh đến không khí đầm ấm của gia đình. Từ nỗi buồn cô đơn, thấm mệt của người tù bị lưu đày đến niềm vui tìm thấy trong lao động. Sự vận động ấy chỉ có ở sự cảm nhận, cái nhìn đầy lạc quan và tình yêu thương con người của một tâm hồn “Nâng niu tất cả chỉ quên mình”.

III. Kết bài

– Nêu cảm nhận của em về bài thơ Chiều tối trích Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh.

Top 10 mẫu phân tích 2 câu cuối bài Chiều tối

Số 1: Phân tích 2 câu cuối bài Chiều tối

Bài thơ “Chiều tối” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất nằm trong tập “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh. Bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh Người đang trên đường bị áp giải chuyển lao từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Có thể nói bài thơ như một bức tranh hài hòa, giao quyện giữa bức tranh thiên nhiên và cuộc sống của con người, hay chính là sự kết hợp giữa bức tranh hiện thực đời sống và tinh thần thép của người tù cộng sản Hồ Chí Minh.

Có người nào được như Bác, có tinh thần nào lạc quan và yêu đời hơn tinh thần của Bác? Dù trong hoàn cảnh bị chuyển lao cực khổ nhưng trên đường đi Bác vẫn dùng tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của mình để ghi lại những khung cảnh thiên nhiên và con người để rồi qua đó gửi gắm những nỗi niềm, tâm sự và cảm xúc thầm kín của mình.

Ở hai câu thơ cuối, trong không gian thiên nhiên của buổi hoàng hôn hiện lên bóng dáng của con người, sự sống của con người đã làm sống dậy bức tranh, trở thành tâm điểm của cả bức tranh. Sự xuất hiện của cuộc sống con người đã xua tan đi nỗi cô đơn, lẻ loi của người tù cách mạng:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết lò than đã rực hồng)

Nơi thôn quê miền sơn cước có bóng dáng của một thiếu nữ đang xay ngô chuẩn bị cho bữa tối, quả thực đây là một hình ảnh – cảnh tượng hết sức đời thường, bình dị và dân dã. Thế nhưng chính cái đời thường ấy lại là chất xúc tác mạnh mẽ mang đến những cảm xúc phi thường trong tâm hồn người thi sĩ. Nơi miền sơn cước khi chiều tối vắng vẻ lại hiện lên hình ảnh cô gái thôn nữ đang mải miết xay ngô, một hình ảnh tuyệt đẹp về con người trong lao động.

Chính vẻ trẻ trung, hăng say lao động ở cô thôn nữ đã xua tan đi cái âm u, tĩnh mịch và hoang vắng của núi rừng khi vào đêm. Những hoạt động sinh hoạt đời thường gợi lên trong lòng tác giả cảm giác ấm cúng hạnh phúc và no đủ, hơn thế hoạt động của con người chính là hơi ấm của sự sống, không chỉ xua tan đi nỗi cô đơn mà còn mang đến niềm vui trong lòng người tù trên miền đất xa lạ.

Hình ảnh “lô dĩ hồng” – lò than rực hồng kết thúc bài thơ và cũng chính là nhãn tự của bài thơ, từ điểm nhìn này bức tranh đời sống con người trở nên ấm áp hơn, màu hồng của lò than là ánh sáng của hy vọng, của niềm tin và sức sống. Điểm nhìn này cũng quay ngược trở lại khắc họa rõ thời khắc chuyển giao từ ngày sang tối của thời gian, không gian. Màn đêm đã bao phủ toàn bộ cảnh vật, đến nỗi chỉ một lò than có thể rực hồng nổi bật trong đêm tối của rừng núi sơn cước.

2 câu cuối bài thơ “Chiều tối” thực sự là một bức tranh tuyệt đẹp về đời sống con người giản dị mà ấm cúng. Người tù cộng sản Hồ Chí Minh đã bằng những nét tinh tế, trong trẻo nhất của tâm hồn yêu thiên nhiên, cuộc sống để có thể vẽ nên một bức tranh kỳ diệu trong hoàn cảnh đặc biệt – trên đường đi chuyển lao tù.

Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh
Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh

Số 2: Phân tích 2 câu thơ cuối bài Chiều tối

Bác Hồ là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đồng thời Người cũng là một thi sĩ rất tài năng trên diễn đàn thi ca Việt. Người để lại cho chúng ta rất nhiều tác phẩm lớn, phải kể đến như Nhật ký trong tù, Bản án chế độ thực dân Pháp, … Trong đó, hoàn cảnh ra đời của Nhật ký trong tù có lẽ là đặc biệt nhất khi nó được viết lên trong những năm tháng Người bị giam cầm ở nhà lao Tưởng Giới Thạch. Và trong một lần chuyển lao từ nhà lao Tĩnh Tây sang Thiên Bảo một buổi chiều tà, Người đã có cảm hứng viết lên bài thơ Chiều tối.

Bài thơ chứa đựng bức tranh thiên nhiên buổi chiều đẹp thanh bình cùng với đó là bức tranh đời sống con người nơi thôn dã. Tất cả được hòa quyện thật đẹp đẽ qua ngòi bút của Hồ Chí Minh, đặc biệt là bức tranh về con người.

” Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

Dịch thơ: “Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng”.

Bài thơ Chiều tối được mở ra bằng bức tranh thiên nhiên mang phong vị cổ điển vừa đẹp tĩnh lặng, lại êm đềm và thanh bình. Bức tranh thiên nhiên ấy đã diễn tả được tình yêu thiên nhiên vô cùng sâu sắc của Hồ Chí Minh vừa thể hiện một tinh thần, ý chí thép của Người, dù trong gian khổ vẫn luôn có phong thái ung dung, đĩnh đạc của một thi sĩ.

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”

Nhưng người ta thường nói rằng thiên nhiên nếu như không có con người thì thật là buồn tẻ. Vậy nên ở đây, hai câu cuối của bài thơ Chiều tối, Hồ Chí Minh đã vẽ lên cho người đọc một không gian với cuộc sống của con người:

” Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

Dịch thơ: “Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng”.

Hai câu thơ là bức tranh về cuộc sống của con người nơi thôn dã. Giữa bức tranh ấy có cô thôn nữ trẻ đang ngồi xay ngô trước hiên nhà cạnh lò than ấm rực đỏ. Đây có lẽ là một hình ảnh vô cùng quen thuộc của một bản làng nơi xóm núi buổi chiều tà khi mà những người phụ nữ đang chuẩn bị cho bữa tối của gia đình.

Nếu như trong hai câu thơ đầu tiên của Chiều tối, người ta thấy hiện ra ở đó là một khung cảnh buổi chiều tà thì ở hai câu sau, thời gian đã dịch chuyển dần sang buổi tối. Kế đó, hình ảnh người thôn nữ hiện lên vừa trẻ trung, vừa sống động. Cô là hiện thân của vẻ đẹp thanh xuân tươi trẻ, vẻ đẹp của lao động và vẻ đẹp của quan điểm mỹ học hiện đại.

” Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc”

Hồ Chí Minh đã gọi người thôn nữ ấy là “sơn thôn thiếu nữ”. Tiếng gọi ấy như một tiếng gọi thân thương vừa trìu mến, thiết tha vừa gợi lên cho người đọc thấy một sức sống thanh xuân tươi trẻ tràn trề. Hơn thế nữa, cô gái ấy đang thực hiện công việc hàng ngày của mình vừa chăm chỉ, cần cù vừa khéo léo.

Ánh lên ở đây là vẻ đẹp của con người lao động, vừa khỏe khoắn, vừa bình dị biết bao. Không như thơ văn cổ thường hay miêu tả vẻ đẹp của những tiểu thư danh giá, đài các, sống trong lầu son, vẻ đẹp của cô thôn nữ ở đây lại khác đến vô cùng. Nó không hề yểu điệu, mà vô cùng mạnh mẽ, nhưng cũng không kém phần dịu dàng, nữ tính.

Vẻ đẹp thứ ba trong hình ảnh người thiếu nữ mà Hồ Chì Minh muốn nhắn nhủ đó là vẻ đẹp của quan điểm mỹ học trong thơ ca hiện đại. Nếu trong thơ ca xưa, con người chỉ là sự điểm xuyết, tô điểm, đường viền cho bức tranh thiên nhiên:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”.

Thì giờ đây, con người trong thơ ca hiện đại là người làm chủ thiên nhiên, là trung tâm của bức tranh thiên nhiên chứ không còn lẻ loi, cô độc, bé nhỏ trước thiên nhiên nữa.

Bức tranh cô thôn nữ xay ngô là bức tranh cuộc sống lao động bình dị của những người lao động nghèo và nó càng trở nên đáng quý hơn biết bao khi đặt vào trong khung cảnh âm u, lạnh lẽo của núi rừng buổi chiều tà. Một hình ảnh con người giữa bao la là núi rừng gợi lên biết bao ấm áp của tình người, gợi lên cả niềm hạnh phúc khi được sống giữa tự do, được lao động bình dị nữa.

Bằng bút pháp chấm phá cổ điển, Hồ Chí Minh chỉ gợi tả hình ảnh một cô thôn nữ xa lạ thế nhưng đó lại là hình ảnh tượng trưng cho hơi ấm của con người giữa nơi rừng núi. Ở nơi sâu thẳm núi non này, gặp một chút tình người thì thấy thật hạnh phúc biết bao nhiêu!

Trong thơ văn xưa, con người và thiên nhiên hiện lên chỉ với sự lạnh lẽo, cô đơn cùng cực:

“Nghìn non bóng chim tắt

Muôn nẻo dấu người không

Thuyền đơn ông tới bến

Một mình câu tuyết sông”

Vậy mới thấy, trong thơ Bác, con người hiện lên chẳng hề buồn tẻ, lạc lõng chút nào mà luôn luôn mạnh mẽ, làm chủ thiên nhiên, vũ trụ.

Kết thúc bài thơ, Hồ Chí Minh đã đặc tả hình ảnh của một bếp lửa hồng:

“Xay hết lò than đã rực hồng”

Công việc của cô thôn nữ kết thúc thì trời cũng sập tối hẳn và bên cạnh cô, ánh lửa hồng le lói của bếp lửa đã bừng lên. Hình ảnh bếp lửa ấy đẩy không gian trong Chiều tối từ tối lại trở lên sáng tươi hơn. Nó cũng là biểu tượng cho vòng quay của thời gian, từ sáng vào tối, từ tối lại sáng trở lại. Đặc sắc nhất ở hai câu thơ này là hình ảnh “ma bao túc – bao túc ma hoàn”- sự lặp lại hành động ấy cũng là sự lặp lại của ánh sáng, của thời gian và không gian.

Từng vòng quay đều đều lặng lẽ của chiếc cối xay ngô ấy cũng là vòng quay của thời gian. Và không thể kể đến một chữ thần đã làm bật sáng cả bài thơ Chiều tối – chữ “hồng”. Ở đây, Hồ Chí minh không dùng “rực đỏ”, hay “rực sáng” mà Người sử dụng từ “rực hồng”. “Hồng” – một màu sắc rất nhẹ nhàng, gợi lên sự bình yên, êm dịu. Nhưng chỉ một từ ngữ này thôi mà cả không gian trong thơ sáng bừng lên, xóa hết đi mọi sự mệt mỏi và vất vả.

Màu hồng của bếp lửa nhuốm lên không gian xóa đi hết sự vội vã, nặng nề của ba câu thơ đầu. Chỉ một chữ đó thôi là khiến ta thấy thật ấm lòng biết bao nhiêu. Bởi bếp lửa ấy gợi cho ta quê hương, gợi cho ta hình ảnh của gia đình quây quần. Đó cũng là lòng mong mỏi của Bác – người con xa quê, được trở về với quê hương yêu dấu.

Chỉ với hai câu thơ ngắn ngủi, vậy mà người đọc chúng ta đã cảm nhận được biết bao điều. Với thể thơ truyền thống thất ngôn bát cú, cùng với nghệ thuật chấm phá, vẽ mây nảy trăng, Hồ Chí Minh đã vẽ lên bức tranh về cuộc sống của con người nơi thôn dã.

Bức tranh ấy vô cùng sống động bởi vẻ đẹp của con người và con người trong đó cũng đã trở thành nhân vật trung tâm của bức tranh thiên nhiên. Con người ở đó không hề buồn tẻ, cô đơn mà vô cùng tươi trẻ, ấm áp. Nó cho thấy quan niệm nhân sinh mỹ học hiện đại của Hồ Chí Minh đồng thời cũng cho thấy được sự vận động khỏe khoắn trong mạch thơ của Người.

Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh
Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh

Số 3: Phân tích 2 câu cuối Chiều tối

Nguyễn Ái Quốc không chỉ là một nhà văn hóa, một anh hùng dân tộc lỗi lạc mà còn là nhà văn, nhà thơ lớn. Người đã để lại một sự nghiệp văn chương phong phú về thể loại, đa dạng về phong cách và sâu sắc về tư tưởng. Trong đó bài thơ “Mộ” là một ví dụ. Bài thơ “Mộ” (“Chiều tối”) của Nguyễn Ái Quốc thể hiện được tình yêu thiên nhiên và tình yêu quê hương đất nước sâu sắc. Đặc biệt thể hiện qua 2 câu thơ cuối:

Thời gian từ chiều muộn đã chuyển sang chiều tối. Cảm xúc của con người không còn thoáng buồn nữa mà đã thấy vui. Không gian cũng bừng sáng lên màu đỏ “rực hồng” của lò than:

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng.

Hình ảnh cô gái xay ngô tối trở thành hình ảnh trung tâm của bài thơ, toát lên vẻ trẻ trung, khỏe mạnh sống động. Vẻ đẹp của bức tranh thể hiện ở hình ảnh người lao động. Tâm hồn Hồ Chí Minh luôn hướng về tương lai, về nơi có ánh sáng ấm áp của sự sống.

Câu thơ mang đậm sắc thái hiện đại. Tác giả sử dụng thành công cấu trúc lặp liên hoàn: “Ma bao túc”,”bao túc ma” hành động xay ngô lặp đi lặp lại diễn tả vòng tuần hoàn của cối xay ngô.

Ở đó người ta nhận ra nhịp điệu trôi chảy của thời gian nhưng kì diệu chính là ở chỗ nhịp điệu của thời gian hoà vào nhịp điệu trong cuộc sống. Buổi chiều êm ả đã kết thúc để bước vào đêm tối, song đêm tối không lẽo âm u mà bừng sáng bằng ngọn lửa hồng.

Từ hai câu đầu đến hai câu cuối của bài thơ “Chiều tối” là sự vận động của tứ thơ từ nỗi buồn sang niềm lạc quan, từ bóng tối ra ánh sáng. Hai câu trên cảnh buồn và lòng cũng không vui.

Hai câu thơ lại là một niềm vui thể hiện ở hình ảnh ánh lửa hồng bỗng rực sáng lên.Ánh lửa hồng là niềm vui của con người làm tan đi cái cô đơn, mệt mỏi tàn lụi của buổi chiều nơi núi rừng hiu quạnh. Đó cũng chính là nét cổ điển nhưng vẫn khá hiện đại của bài thơ.

Sự vận động của hình tượng thơ từ thiên nhiên quạnh vắng đến con người lao động, đến sự sống đến ánh sáng và tương lai được thể hiện hết sức tự nhiên, giàu cảm xúc. Sự vận động này trong tư tưởng Hồ Chí Minh nằm xuyên suốt trong các bài thơ của tập “Nhật kí trong tù”.

Bài thơ kết lại bằng chữ “hồng “chính là nhãn tự của bài thơ thu được cả linh hồn sức sống của toàn bài. Cả bức tranh bừng sáng bởi chữ”hồng”đó. Nó thể hiện niềm tin tưởng ý chí, nghị lực kiên cường của người tù cộng sản Hồ Chí Minh.

Số 4: Phân tích 2 câu thơ cuối của bài Chiều tối

Bài thơ Chiều tối là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình của Hồ Chí Minh, thông qua những cảm nhận hình ảnh, sự vật trên đường chuyển lao, Bác đã rất tinh tế bộc lộ những cảm nghĩ nội tâm, tâm trạng của mình. Chính vì vậy, qua bức tranh thiên nhiên và đời sống con người miền sơn cước, ta thấy được những nét đẹp ẩn giấu trong tâm hồn lớn của một nghệ sĩ, chiến sĩ- Hồ Chí Minh. Đó là tâm hồn yêu thiên nhiên, cuộc sống, con người và phong thái lạc quan, nghị lực phi thường luôn khao khát tự do cho dân tộc.

Chiều tối là khoảng thời gian cuối cùng của một ngày, đối với Bác thời khắc này đánh dấu chặng cuối cùng của một ngày đày ải nơi biên cương xa xứ. Xét trong hoàn cảnh tù đày trên miền sơn cước giữa thời khắc bóng đêm đang dần bao phủ, đáng lẽ ra phải là thời điểm con người thấy mệt mỏi và chán chường nhất.

Thế nhưng đối với Bác, cảm hứng thơ lại đến thật tự nhiên và giản dị. Nổi bật lên trong bài thơ chiều tối là bức vẽ phát hoạ những nét sinh động về đời sống con người trong 2 câu thơ cuối.

Thơ của Hồ Chí Minh có một điểm rất độc đáo: mạch thơ, hình ảnh thơ cũng như tư tưởng thơ ít khi tĩnh lại mà thường vận động một cách đầy khỏe khoắn và bất ngờ, hướng về sự sống và ánh sáng:

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xây hết lò than đã rực hồng

Nếu như nói về cảnh thì sự chuyển cảnh trong câu thơ này cũng rất đỗi tự nhiên. Khi đêm đã buông xuống, tấm màn đen của nó đã bao trùm lên toàn cảnh vật thì nhà thơ chỉ có thể hướng tầm nhìn về phía có ánh sáng.

Đó chính là ánh sáng soi tỏ hình ảnh một cô thôn nữ xay ngô để chuẩn bị bữa cơm chiều. Ở câu thơ thứ ba, người dịch đã thêm chữ “tối” Không có trong nguyên tác. Từ nay không sai nhưng lại làm cái tinh tế của bài thơ mất mát đi ít nhiều. Nó vừa làm lộ ý thơ, vừa khiến cho nội dung kém đi sự gợi mở.

Lê Chí Viễn còn phát hiện ra thêm một điểm vô cùng tinh vi ở câu thơ này. Đảo ngữ “ma bao túc” “bao túc mà hoàn” khiến cho câu thơ trở nên thật hấp dẫn và đặc biệt. Thời gian trôi tình theo cánh chim và làn mây, theo những vòng xoay ngô cuối của người thiếu nữ, quay mãi, quay mãi và đến khi cô ấy phải dừng lại thì lo than đã rực Hồng, nó dịch lên một thứ ánh sáng tuyệt đẹp.

Thứ ánh sáng tỏa ra từ phía lò than kia không chỉ là thứ ánh sáng thắp lên trong đêm tối tăm, mịt mù mà còn là ánh sáng của niềm tin, của hy vọng mà Bác vẫn luôn luôn tin tưởng và gửi gắm. Đọc thơ Bác, buồn nhưng vẫn tràn ngập niềm tin và hy vọng có lẽ là vì vậy.

Hai câu thơ đầu là cảnh buồn, cảnh chiều muộn với hình ảnh cánh chim và con người đều mỏi mệt trước giờ khách tàn lụi nhưng hai câu thơ sau lại là một niềm vui, một niềm tin háo hức, mong chờ qua hình ảnh đúng lửa hồng.

Chỉ một hình ảnh nhỏ nhưng lại có thể cân chỉnh cả bài thơ, khiến cho bài thơ sáng rực lên sự ấm áp. Sự sống, ánh sáng và niềm vui của con người được hiện lên ở trung tâm của bức tranh được nhà thơ vẽ ra đã tỏa sáng, xua tan cái cô quạnh, cái mệt mỏi của cảnh chiều nơi núi rừng.

Nguyễn Du đã từng nói: “ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Chân lý ấy khá ứng với hai câu thơ đầu tiên. Nhưng ở hai câu thơ này, ta phải nhấn mạnh rằng do cảnh buồn nên người cũng muốn buồn theo. Tuy vậy, ở hai câu thơ sau thì niềm vui đã quay trở lại. Sự hy vọng, niềm tin thông qua hình ảnh gọi lửa hồng đã khiến cho bài thơ trở nên vui tươi và dạo dực hơn hẳn…

Mới biết mọi niềm vui, nỗi buồn của Bác Hồ đều gắn bó với niềm vui, nỗi buồn của đất nước. Quyền hành nỗi bất hạnh của riêng mình, của tù ngục, khổ đau, Bác vẫn đau đầu lo cho nước nhà…

Với nghệ thuật tả cảnh vừa cổ điển lại có nét hiện đại cùng với ngôn từ linh hoạt, sáng tạo, 2 câu cuối bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh là tiêu biểu cho phong cách thơ Bác. Qua bài thơ này, người đọc hiểu được những gian khổ Bác từng trải qua trong hành trình cứu nước, thấy được vẻ đẹp của một tâm hồn lớn dù có phải đối mặt với nghịch cảnh đến đâu vẫn luôn hướng về sự sống và ánh sáng tự do.

Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh
Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh

Số 5: Phân tích 2 câu cuối bài Chiều tối

Hồ Chí Minh là một cái tên mà tất cả con dân Việt Nam đều ghi tạc trong tim với một lòng yêu quý, kính trọng vô bờ bến. Trong quá trình tìm lại tự do cho dân tộc, Bác đã phải chịu rất nhiều khổ cực, gian khó, đã rất nhiều lần bị bắt giam, chuyển từ nhà tù này sang nhà tù khác, bị đánh đập, tra tấn dã man. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ở Người vẫn ánh lên một tinh thần lạc quan, một niềm tin vào một ngày mai tươi sáng.

Bài thơ “Chiều tối” nằm trong tập thơ “Nhật kí trong tù” đã thể hiện được phần nào tinh thần ấy của Người. Bài thơ chỉ đơn giản là tả lại cảnh nơi thôn dã vào một buổi chiều tối, thế nhưng ẩn chứa trong đó là một ước mơ tự do cho bản thân, ước mơ được quay trở lại quê hương để tiếp tục sứ mệnh của mình.

Bài thơ có hai bức tranh rõ nét: hai câu đầu là cảnh hoàng hôn, hai câu sau là cảnh sinh hoạt.

Không gian thay đổi, khung cảnh sinh hoạt của một bản làng miền núi được mở ra một cách tự nhiên:

“Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng”

Hai câu thơ sử dụng bút pháp điểm nhãn của thơ cổ điển, nhưng hình ảnh thơ bình dị, chân thực lại được ghi bởi bút pháp hiện thực. Hình ảnh cô gái mải miết xay ngô và xay xong bên lò lửa rực hồng gợi bức tranh đời sống có vẻ đẹp bình dị, ấm cúng, yên vui. Riêng đối với người tù mệt mỏi, mất tự do thì cảnh ấy trở nên vô cùng hấp dẫn, quý giá, thiêng liêng, vì nó lệ thuộc về thế giới tự do.

Chỉ có ai đã từng trải qua những cánh đời đau khổ đầy giông bão mới thấy hết giá trị của từng phút giây cảnh đời bình yên. Do đó bức tranh đời sống trở thành nguồn thơ dạt dào, thể hiện niềm xao xuyến, sự rung động mãnh liệt hồn thơ.

Lò lửa hồng là hình ảnh nổi bật trung tâm của bức tranh thơ, làm nổi rõ hình ảnh của cô gái. Nó sưởi ấm bức tranh thiên nhiên hiu hắt. lạnh lẽo và sưởi ấm tâm hồn nhà thơ. Vậy là, hình ảnh cuộc sống con người là điểm hội tụ vẻ đẹp bài thơ, tỏa sáng ánh và hơi ấm xung quanh.

Hình ảnh lò lửa hừng hực đặt bên cạnh cô gái tạo ra vẻ đẹp trẻ trung, đầy sức sống của cảnh thơ. Hoàng Trung Thông cho rằng chữ hồng là nhãn tự của bài thơ là vì vậy. Ý thơ cuối khỏe, đẹp bộc lộ niềm vui, lòng yêu đời, yêu cuộc sống, tinh thần lạc quan của Bác.

Giữa cảnh buồn của thiên nhiên như trong thơ cổ, cô sơn nữ hiện lên như một điểm sáng, làm cho cả bức tranh trở nên sinh động, vui tươi hơn. Đó chính là nét cố điển mà hiện đại trong thơ của Hồ Chí Minh. Bức tranh vừa có người, vừa có hoạt động khỏe khoắn của con người trong đó. Đó chính là nét đẹp, nét đáng quý của người dân lao động.

Cô gái đang miệt mài xay ngô bên lò than rực hồng để chuẩn bị bữa tối. Ở đây, bản dịch thơ không đảm bảo được nghệ thuật của bản chữ Hán. Bác đã lặp lại hai chữ “bao túc” ở cuối câu thứ ba và đầu câu thứ tư, như những vòng xoay nối tiếp nhau của cô gái, như sự tuần hoàn của thời gian, trời đã tối, tối dần.

Bức tranh vừa ấm áp bởi cảnh tượng lao động khỏe khoắn của người thôn nữ lao động, vừa bởi cái ánh hồng của bếp lò. Đó chỉ là một thứ hạnh phúc bình dị, vậy mà Bác vẫn gạt bỏ hết những đau đớn, mệt mỏi về thân xác để cảm nhận được.

Hình tượng thơ vận động rất tự nhiên, bất ngờ, khỏe khoắn: từ lạnh lẽo, hắt hiu đến ấm nóng, sum vầy, từ tối đến sáng, từ buồn sang vui… đó là điểm đặc sắc trong phong cách thơ của Bác, thể hiện niềm tin yêu cuộc đời dù đang ở trong những tháng ngày đau khổ nhất.

Bài thơ Chiều tối có sự hài hòa giữa phong cách cổ điển với hiện đại, giữa thiên nhiên với tâm hồn. Bài thơ đã cho người đọc thưởng thức bức tranh thiên nhiên đẹp và cảm nhận được vẻ đẹp của tâm hồn lớn. Một tâm hồn phong phú, giàu cảm xúc, một tình cảm hồn hậu, thiết tha với thiên nhiên, cuộc sống con người; luôn hướng về sự sống và ánh sáng, một tinh thần lạc quan trong gian khổ.

Số 6: Phân tích 2 câu thơ cuối bài Chiều tối

Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam, là danh nhân văn hóa thế giới. Tài sản Người để lại cho nhân dân ta không chỉ bao gồm những giá trị sống sâu sắc mà còn có cả những sáng tác thơ ca xuất sắc.

Bài thơ “Chiều tối” chính là một trong những thi phẩm tiêu biểu nhất của Người. Trong bài thơ, Hồ Chí Minh đã tái hiện một bức tranh thiên nhiên hài hòa giữa cảnh vật và cuộc sống con người. Đồng thời gửi gắm tư tưởng và tinh thần ung dung, lạc quan của người chiến sĩ cộng sản.

“Chiều tối” (Mộ) được sáng tác vào năm 1943, vào thời gian Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, trên đường di chuyển từ nhà giam Tĩnh Tây đến nhà giam Thiên Bảo, đi qua tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc. Trong hai câu thơ cuối, khi thời khắc cuối cùng của ban ngày đã đến, bóng đêm đang bao phủ xuống vạn vật, bức tranh thiên nhiên dưới ánh nhìn của nhà thơ đã hiện lên bóng sáng của con người, của cuộc sống sinh hoạt đời thường:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết lò than đã rực hồng)

Giữa núi rừng hoang vu, bỗng hiện lên dáng hình của một thiếu nữ đang bận rộn xay ngô để chuẩn bị cho bữa cơm tối. Đây là một hình ảnh bình dị, gần gũi nhưng chính nó lại là chất xúc tác cho dòng cảm xúc đang trào dâng trong lòng thi sĩ. Hình ảnh ấy diễn tả vẻ đẹp tuyệt vời về con người lao động trẻ trung, hăng say.

Sự xuất hiện của hơi thở con người đã trở thành tâm điểm và thổi hồn cho bức tranh thiên nhiên, xua tan sự âm u hoang vắng của núi rừng về đêm, xua tan nỗi cô đơn, lẻ loi của người tù cách mạng.

Từ đó, thiên nhiên bỗng hòa quyện vào cuộc sống con người, tạo nên bức tranh ấm áp, xinh đẹp. Hình ảnh “lô dĩ hồng” – lò than rực hồng là nét vẽ hoàn thiện bức tranh, kết thúc bài thơ, đồng thời cũng là nhãn tự bài thơ. Ánh than hồng không những làm bừng sáng cả không gian đang bị bóng tối bao trùm mà còn gửi gắm niềm tin, hy vọng, sự lạc quan vào tương lai của người chiến sĩ cách mạng.

Bài thơ sử dụng thành công thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển và hiện đại. Ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc với những hình ảnh vận động tự nhiên, bất ngờ từ bóng tối đến ánh sáng… Bút pháp gợi tả thiên nhiên với những hình ảnh bình dị, gần gũi mà giàu xúc cảm. Từ đó, 2 câu thơ cuối đã khắc họa bức tranh bức tranh cuộc sống con người nơi núi rừng hoang dã.

Đặc biệt giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh, thể hiện tinh thần lạc quan, niềm tin dai dẳng của Người vào tương lai phía trước. Với những giá trị sâu sắc, “Chiều tối” đã trở thành một trong những thi phẩm tiêu biểu của hồn thơ Hồ Chí Minh và thời đại. Dù cho bao năm tháng trôi đi, độc giả vẫn luôn rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên và cảm xúc nhân vật trữ tình trong tác phẩm.

Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh
Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh

Số 7: Phân tích 2 câu cuối Chiều tối

Bác Hồ – người Cha già muôn vàn kính yêu của dân tộc, đã mở ra con đường cứu nước, giúp dân tộc ta có được độc lập, tự do, thoát khỏi kiếp nô lệ lầm than. Người không chỉ là một con người đầy tài trí, tinh thông văn hóa các dân tộc mà còn là người am hiểu văn thơ. Nhật kí trong tù của Người là một trong những tập thơ xuất sắc nhất trong nền thơ ca Việt.

Tập thơ đó được viết trong những năm tháng Người bị giam cầm ở nhà tù Tưởng Giới Thạch. Mỗi bài thơ là một câu chuyện Người kể lại về cuộc sống trong tù, là mơ ước, là khát khao được tự do của Người. Trong số đó, bài thơ Chiều tối là một bài thơ hay nhất, là bức tranh thiên nhiên và con người cùng hòa quyện.

Trong cả tập thơ Nhật kí trong tù, có lẽ Chiều tối là bài thơ có hoàn cảnh ra đời đặc biệt nhất. Bài thơ được gợi cảm hứng và được viết lên sau lần Bác Hồ phải chuyển trại giam từ Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Và trong lần ấy, Người đã viết lên Chiều tối để ca ngợi bức tranh thiên nhiên đẹp mơ màng cùng với đó là bức tranh về cuộc sống con người trong buổi chiều hôm.

Được viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt cổ điển, bài thơ vừa là tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của Người, vừa thể hiện ý chí mãnh liệt vượt lên trên mọi hoàn cảnh của Hồ Chí Minh. Nếu như trong hai câu đầu, nét bút chấm phá của Hồ Chí Minh đã gợi tả lên một khung cảnh thiên nhiên chiều tối đầy thanh bình thì ở hai câu sau, Người lại vẽ lên khung cảnh của cuộc sống con người nơi thôn dã:

“Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng”.

Vẫn là nét bút chấm phá quen thuộc, nhưng ở đây Hồ Chí Minh còn sử dụng thêm biện pháp ước lệ của thơ ca cổ khi vẽ lên hình ảnh cô thôn nữ xóm núi. Vậy nên, bức tranh về cuộc sống con người ấy hiện lên thật chân thực và sống động.

Trên nền của không gian nơi thôn dã, hình ảnh người thôn nữ trở thành nhân vật trung tâm của bức tranh. Hồ Chí Minh dù vẫn còn đang lê bước chân mình trong xiềng xích, thế nhưng Hồ Chí Minh vẫn cảm nhận được thật rõ vẻ đẹp của con người lao động.

Nếu như ở hai câu thơ trên, hình ảnh thiên nhiên đang đi vào chiều tối, đàn chim cũng đang trở về tổ của mình để nghỉ ngơi sau một ngày mỏi mệt, và đám mây cũng lững lờ trôi nhàn tản trên bầu trời, thì hai câu sau, nhịp thơ lại nhanh hẳn lên để thể hiện nhịp sống của con người lao động.

Khi thiên nhiên đang dần bước vào giai đoạn nghỉ ngơi thì con người vẫn đang tiếp tục nhịp sống thường ngày của mình và dường như nhịp sống ấy còn gấp gáp hơn nữa.

Con người giờ đây trở thành chủ thể trung tâm của bức tranh thiên nhiên. Cô thôn nữ trong bức tranh thơ đang chăm chỉ lao động cần mẫn, không ngừng nghỉ, “ma bao túc” rồi lại “bao túc ma hoàn” – một vòng lặp tuần hoàn. Những vòng quay lặp lại ấy đang vun vút xay ngô còn thời gian đang trôi dần đi trong tĩnh lặng. Con người trong thơ Bác chẳng tĩnh lặng, buồn tẻ như trong thơ bà Huyện Thanh Quan:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Mà con người ở đây dù trời xế tà thì họ vẫn đang vận động, đang lao động trong cuộc sống hằng ngày. Chính hành động ấy đã góp phần làm tăng thêm tính sống động, góp thêm hơi ấm con người cho bức tranh thiên nhiên thanh bình kia.

Con người trong Chiều tối đã trở thành chủ thế làm chủ thiên nhiên chứ chẳng bị thiên nhiên bức ép như trong thơ cổ xưa nữa. Hai câu thơ tả thiên nhiên thật tĩnh lặng, im lìm đến nhường nào thì hai câu thơ này lại đột nhiên sôi nổi hẳn lên.

Chính cuộc sống con người đã mang thêm phần hơi ấm cho khung cảnh thiên nhiên. Không chỉ vậy, Người còn gọi người con gái đang xay ngô bên bếp lửa kia là “sơn thôn thiếu nữ” – một từ thật gợi lên bao nhiêu cảm xúc. “Thiếu nữ” – một cô gái trẻ, tràn trề thanh xuân, đó là tiếng gọi thân thương, trìu mến, gợi tả niềm vui sướng, hân hoan khi bắt gặp con người chốn hoang sơ này.

Hơn thế nữa, hình ảnh “cô em xóm núi” không xuất hiện một mình đơn độc như cánh chim ở trên mà bên cạnh còn là một “lò than” nóng hổi đang dần “rực hồng”. Trong một buổi chiều tà dần tối, không khí đang dần trở lên cóng lạnh thì một bếp lửa hồng ánh lên kia thật làm người ta ấm lòng biết bao.

Chẳng những nó sưởi ấm không khí mà còn sưởi ấm cả tâm hồn của người thi sĩ. Nó ấm áp và lan tỏa biết nhường nào. Bếp lửa “rực hồng” ấy qua con mắt tinh tế của người thi sĩ cũng thể hiện niềm lạc quan, niềm tin tưởng của người cộng sản rằng ngày mai sẽ luôn tươi sáng, rực hồng như bếp lửa kia.

Từng câu thơ trong Chiều tối của Hồ Chí Minh chẳng hề nhắc tới một khái niệm thời gian, thế nhưng từ khi nhìn thấy bức tranh thiên nhiên rồi đến bức tranh con người, người đọc vẫn nhận thấy sự luân chuyển của thời gian theo cánh chim, theo làn mây, theo cả những vòng quay xay ngô của cô thôn nữ.

Cô thôn nữ xay xong ngô thì lò than cũng hồng rực lên, tức là trời đã sập tối hẳn. Buổi chiều qua rồi buổi tối đến nhưng cái tối của buổi đêm không hề âm u mà lại rất ấm áp, rất sáng bởi có bếp lửa hồng đã làm rực lên tất cả.

Sự vận động, luân chuyển liên tục từ sáng vào tối rồi lại từ tối trở lại sáng. Nếu cả bài thơ là một bầu trời lẻ loi, cô đơn buồn tủi thì hai câu thơ cuối với sự xuất hiện của con người, của bếp lửa đã làm ấm lòng người thi sĩ và người đọc chúng ta rất nhiều.

Cô thôn nữ và bếp lửa hồng đã châm lên ngọn lửa sưởi ấm cả khung cảnh cô đơn của người tù xa quê nơi xứ người. Cũng từ đó, nó như tiếp thêm cho con người đang bị xiềng xích kia niềm tin và sức mạnh, niềm lạc quan để vượt qua nghịch cảnh khó khăn này.

Bài thơ Chiều tối là sự kết hợp của bức tranh thiên nhiên và bức tranh con người lao động. Bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng nhưng bức tranh con người lại sinh động, chân thực và ấm áp vô cùng. Tổng thể của bức tranh ấy là tâm hồn yêu thiên nhiên, niềm lạc quan, tin tưởng của người tù xa quê vào cuộc sống, vượt lên trên nghịch cảnh.

Bằng thể thơ cổ thất ngôn tứ tuyệt cùng với các biện pháp chấm phá, ước lệ cổ điển, Hồ Chí Minh đã vẽ lên bức tranh Chiều tối thật hài, nổi bật lên hình ảnh con người trong 2 câu thơ cuối. Có thể nói, đây là một trong những bài thơ hay nhất trong các tác phẩm thơ ca của Hồ Chủ tịch. Không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên, niềm tin cuộc sống mà nó còn thể hiện một tinh thần, ý chí sắt đá trong tâm hồn thi sĩ của Hồ Chí Minh.

Số 8: Phân tích 2 câu thơ cuối của bài Chiều tối

“Chiều tối” là bài thơ được Hồ Chí Minh viết trong thời điểm gần kết thúc của một chuyến chuyển lao. Bài thơ là một bức tranh vẽ cảnh chiều tối nơi núi rừng – cảnh đẹp bởi nó ánh lên sự sống ấm áp của con người. Qua đó, bộc lộ một tâm hồn thi nhân nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, một tấm lòng nhân hậu đối với con người, một phong thái ung dung luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai.

Cảnh chiều tối là một đề tài quen thuộc của văn chương. Khung cảnh buổi chiều về tối thường dễ sinh tình vì thế, buổi chiều đã đi vào bao áng thơ kim cổ, làm nên những vần thơ tuyệt tác. Thơ chiều cổ điển thường man mác một nỗi buồn đìu hiu, hoang vắng trong sự tàn tạ của thời gian, hoặc trĩu nặng nỗi buồn tha hương lữ thứ. Ở đây, bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ tượng trưng tác giả đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho cảnh chiều:

Nếu như ở hai câu thơ đầu bằng bút pháp cổ điển Bác đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho bức tranh, thì trong hai câu thơ sau, Bác tập trung làm nổi bật hình tượng trung tâm của bức tranh. Từ bút pháp cổ điển Bác chuyển hẳn sang bút pháp hiện đại.

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng

(Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết lò than đã rực hồng)

“Xóm núi” là hình ảnh giản dị biểu tượng cho sự sống bình yên của con người. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn với hình ảnh người thiếu nữ. Vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sống của người thiếu nữ với tư thế lao động (xay ngô) trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều. Điều đáng lưu ý ở đây là hình tượng người thiếu nữ trong thơ Bác hoàn toàn khác với hình tượng người thiếu nữ trong thơ xưa.

Người phụ nữ trong thơ xưa thì thường được ví như “Liễu yếu đào tơ” và sống trong cảnh “Phòng khuê khép kín”, chỉ biết “cầm, kì, thi, hoạ” là đủ. Còn người thiếu nữ trong thơ Bác thì gắn liền với công việc lao động bình dị, đời thường, khỏe khoắn đầy sức sống. Phải chăng chính cái sức sống ấy của người thiếu nữ đã làm nên vẻ đẹp lung linh cho bức tranh.

Trong thơ xưa, những bức tranh vẽ cảnh chiều đều có bóng dáng con người nhưng sao lẻ loi, cô độc và hiu hắt quá. Con người ở đây mang nặng một nỗi niềm hoài cổ, một nỗi sầu muộn:

“Lom khom dưới núi tều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

(Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)

Hay:

“Gác mái ngư ông về viễn phố,

Gõ sừng mục tử lại cô thôn”

(Chiều Hôm Nhớ Nhà – Bà Huyện Thanh Quan)

Còn con người trong thơ Bác, lại là con người lao động đầy sức sống. Chính hai từ “thiếu nữ” đã làm bừng lên sức sống của bức tranh. Cô gái miệt mài xay ngô và hình như cô không chú ý đến những gì xung quanh mình.

Cối xay vẫn cứ quay và quay tít “ma bao túc” rồi “bao túc ma” và khi ngô đã xay xong “bao túc ma hoàn” thì cô mới nhìn thấy “lò than đã rực hồng”. Hình ảnh “lò than đã rực hồng” hiện lên trong đêm tối càng làm nổi bật hình ảnh người thiếu nữ. Toàn bộ cảnh thiên nhiên đang chìm trong màu xám nhạt chuyển sang màu tối. Cũng vì thế hình ảnh lò than rực hồng có sức lôi cuốn đặc biệt. Bài thơ kết thúc bằng chữ “hồng”, có thể nói đó chính là chỗ đẹp nhất của bài thơ.

Đó chính là ánh lửa hồng của cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc gia đình, ánh lửa hồng của sự sống, của niềm lạc quan. Chữ “hồng” đặt ở cuối bài thơ soi rõ vẻ đẹp của người thiếu nữ, toả ánh sáng và hơi ấm xua đi cái buồn vắng của bức tranh chiều tối nơi rừng núi.

Hai câu thơ đã cho ta thấy được cái nhìn ấm áp đầy yêu thương, trân trọng của Bác đối với con người lao động. Buổi “Chiều tối” nơi miền rừng núi quạnh hiu, hoang vắng, lẽ ra rất đỗi buồn bã, thê lương trước mắt người tù bị xiềng xích, bị giải đi với biết bao nỗi gian lao vất vả, nhưng trái lại đó là tiếng reo vui. Chữ “hồng” ở cuối bài đã làm nên tiếng reo vui ấy, tạo cho bài thơ âm hưởng nồng ấm, dạt dào.

“Chiều tối” là một tác phẩm đậm đà màu sắc cổ điển mà cũng rất hiện đại, thể hiện một cách tự nhiên và phong phú vẻ đẹp của hình ảnh người tù – thi sĩ, người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh. Bài thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của Bác. Điều đặc biệt ở đây là cảm quan thiên nhiên của Bác gắn liền với cảm quan nhân đạo, cảm quan về sự sống.

Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh
Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh

Số 9: Phân tích 2 câu cuối bài Chiều tối

Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại đáng kính của cả dân tộc, ngôi sao Khuê soi sáng con đường cách mạng Việt Nam đi đến thành công thắng lợi. Không những thế, Người còn là danh nhân văn hóa với sự nghiệp văn học đồ sộ, thành công trên nhiều thể loại khác nhau.

Nổi tiếng và tiêu biểu nhất phải kể đến tập “Ngục trung nhật kí” (Nhật kí trong tù) hoàn thành từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943. Giữa chốn gông cùm xiềng xích những áng thơ vẫn cất lên ngời ngời tư tưởng cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng. Trong đó “Mộ” (Chiều tối) chính là bài thơ mang giá trị nội dung và nghệ thuật độc đáo.

Trong hai câu thơ cuối, hình ảnh con người xuất hiện bình dị và tràn đầy sức sống:

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng

(Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết, lò than đã rực hồng)

Bức tranh thiên nhiên dần khép lại, nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt của con người nơi sơn cước. Không gian chiều tà giờ đây đã bị bóng tối đã lấp đầy phủ kín không gian.

Trên đoạn đường bị giải đi, Hồ Chí Minh bắt gặp hình ảnh “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc”, không phải là giai nhân yểu điệu, mà là cô thôn nữ đang hăng say uyển chuyển với công việc của mình.

Một vẻ đẹp trẻ trung, khỏe khoắn và tràn đầy sức sống trong lao động thường ngày. Hiếm có nhà thơ nào lại tinh tế để khám phá ra được sức hấp dẫn trong những điều bình dị nhất như vậy. Nguyên tác, Hồ Chí Minh dùng từ “sơn thôn thiếu nữ” thể hiện sự tôn trọng, ngưỡng mộ vẻ đẹp của cô gái.

Nhưng rất tiếc ở bản dịch đã bị chuyển thành “Cô em xóm núi”, ít nhiều bị mất đi tính hình tượng mà tác giả cố ý xây dựng. Cấu trúc điệp liên hoàn được sử dụng trong câu 3 và 4: “ma bao túc” – “bao túc ma hoàn” tạo ra sự nhịp nhàng, uyển chuyển khéo léo. Đặc biệt cái hồn cả cả bài thơ đọng lại trong nhãn tự “hồng”.

Hình ảnh “lô dĩ hồng” bừng lên thứ ánh sáng để xua tan đi bóng tối và sự mệt mỏi, sưởi ấm không gian vẫn đang hiu quạnh vắng vẻ ở hai câu thơ đầu tiên. Một chữ “hồng” ấy thôi cũng đủ để thổi bùng lên bao nhiêu ý chí, khát vọng và quyết tâm của người thi nhân – người chiến sĩ cách mạng trong cảnh cầm lao.

Hai câu thơ cuối của bài thơ “Chiều tối” đã tô điểm bức tranh trở nên hoàn hảo, có cảnh, có người. Con người hiện lên không nhỏ bé, cô lập mà thật kỳ vĩ, làm chủ cả không gian, thời gian, lấp đầy khoảng trống thiên nhiên đem đến. Ý thơ còn bộc lộ được sức sống mãnh liệt cũng như tinh thần sắt đá của tác giả Hồ Chí Minh.

“Mộ” (Chiều tối) tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh. Giữa gông cùm và xiềng xích, tâm hồn người thi nhân vẫn cất lên tiếng lòng tha thiết với cảnh vật, con người hữu tình. Bút pháp ước lệ tượng trưng, lấy động tả tĩnh, lấy mây điểm trăng cùng sự kết hợp cổ điển xen lẫn hiện đại đã tạo nên một bài thơ xuất sắc cả về nội dung và giá trị nghệ thuật.

Số 10: Phân tích 2 câu thơ cuối bài Chiều tối

Bài thơ “Chiều tối” của tác giả Hồ Chí Minh được viết trong tập thơ Nhật ký trong tù, ghi lại những ngày tháng tác giả chịu cảnh tù đày ở nhà lao của Tưởng Giới Thạch.

Trong hoàn cảnh bị giải đi hết nhà tù này tới nhà tù khác, thân thể mệt mỏi bởi tay chân bị gông cùm xiềng xích nhưng tâm hồn của tác giả vẫn vô cùng ý chí, sắt đá, thể hiện sự lãng mạn và lòng yêu đời của nhà thơ.

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng

Hai câu thơ cuối bài Chiều tối sử dụng bút pháp cổ điển từ “Hồng” chính là nhãn tự của bài thơ. nó là hình ảnh bị dị nhưng vô cùng chân thực được tác giả ghi lại một cách tinh tế, sâu sắc. Hình ảnh con người hiện lên khi đang làm việc gợi lên sức sống mãnh liệt, vẻ đẹp giản dị của cô gái khi đang làm việc thể hiện một cuộc sống thanh bình, yên vui của núi rừng sơn cước.

Hình ảnh bếp lửa lò than rực hồng mang lại cho bài thơ một luồng sinh khí mới, nó làm cho cả bài thơ như sáng bừng lên, ấm áp sự sống mới tươi vui, bình yên của nhịp sống con người.

Đồng thời nó cũng thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời trong thơ của Hồ Chí Minh, dù trong hoàn cảnh bị tù đày mệt mỏi, bởi sự áp giải của chế độ Tưởng Giới Thạch nhưng Bác không hề nao núng hay tỏ thái độ lo lắng sợ hãi.

Trong tâm thế nào thì tác giả vẫn luôn yêu đời tin tưởng vào con đường tương lai mà mình đã lựa chọn. Đó chính là con đường cách mạng theo chủ nghĩa Mác – Lênin, giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân đế quốc, giành quyền độc lập về tay người dân lao động vô sản.

Bài thơ “Chiều tối” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ hiện đại xen lẫn cổ điển trong thơ của Hồ Chí Minh. Bài thơ đã mang tới người đọc một bức tranh thiên nhiên vô cùng sinh động tươi đẹp.

Đồng thời cho chúng ta thấy tâm hồn thanh cao, tinh thần lạc quan yêu đời của tác giả, dù trong hoàn cảnh nào tác giả vẫn lạc quan tin tưởng vào cuộc sống vào tương lai.

Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh
Bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh

Tổng kết

Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 10 mẫu phân tích 2 câu cuối bài Chiều tối chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 11.

0/5 (0 Reviews)
Chúng tôi tạo ra Top10timkiem.vn nhằm mục đích cung cấp cho người đọc những thông tin, liệt kê một cách chi tiết nhất về mọi lĩnh vực trong cuộc sống.