Tổng hợp các bài mẫu phân tích 16 câu giữa Vội vàng của tác giả Xuân Diệu một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 5 mẫu phân tích 16 câu giữa bài Vội vàng chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!
Dàn ý phân tích 16 câu giữa Vội vàng
I. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về tác giả Xuân Diệu và bài thơ Vội vàng
– Dẫn dắt, giới thiệu phần thứ 2 của bài thơ.
II. Thân bài
– Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói. Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng của nhà thơ: tương phản đối lập để chỉ ra một đời người chỉ có một tuổi xuân; tuổi trẻ một đi không trở lại.
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
⇒ Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: tới – qua, non – già, hết – mất, rộng – chật, tuần hoàn – bất phục hoàn, vô hạn – hữu hạn – để khẳng định một chân lý – triết lý: tuổi xuân một đi không trở lại. Phải quý tuổi xuân.
– Cách nhìn nhận về thời gian cũng rất tinh tế, độc đáo, nhạy cảm. Và mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn chia phôi hoặc tiễn biệt, hờn vì xa cách, sợ vì phai tàn sắp sửa.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
– Cũng là gió, là chim… nhưng gió thì thào vì hờn, chim bỗng ngừng hót, ngừng rao vì sợ! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng làm nổi bật nghịch lý giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian:
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
– Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn, vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
III. Kết bài
Những vần thơ của Xuân Diệu giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong Vội vàng về màu thời gian, về sắc thời gian và tuổi trẻ.
Top 5 mẫu phân tích 16 câu giữa bài Vội vàng
Số 1: Phân tích 16 câu giữa Vội vàng
Thơ Xuân Diệu tinh tế, gợi cảm, độc đáo trong chất liệu cũng như trong bút pháp thi ca. Nhắc tới ông, ta không thể không nhắc tới một bài thơ in đậm dấu ấn và phong cách của ông: Vội vàng. Bài thơ vừa như một nguồn cảm xúc trào dâng vừa là tuyên ngôn sống của một nhà thơ khao khát yêu đời. Đặc biệt, nếu phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang phần thơ thứ hai, nhà thơ đã thể hiện quan niệm nhân sinh mới mẻ về thời gian và tuổi trẻ.
Thời gian trong thơ ca trung đại là thời gian “tuần hoàn” nghĩa là thời gian được hình dung như 1 vòng tròn liên tục tái diễn, hết 1 vòng lại quay về vị trí xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn “tĩnh”, lấy cả sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo cho thời gian. Còn đối với Xuân Diệu, ông có quan niệm rất mới về thời gian:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Nếu người xưa luôn yên tâm bình thản trước sự trôi chảy của thời gian bởi họ quan niệm thời gian là tuần hoàn thì Xuân Diệu lại quan niệm thời gian, mùa xuân, tuôi trẻ một đi không trở lại.
Thế nên ông luôn hốt hoảng lo âu khi thời gian trôi mau. Điều thi sĩ sợ là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bới thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cách sử dụng cặp từ đối lập “tới – qua”, “non – già” đã cho thấy sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước bước đi của thời gian.
Cùng với hàng loạt câu thơ văn xuôi theo lối định nghĩa cùng sự lặp lại liên tiếp điệp ngữ “nghĩa là”, Xuân Diệu đã khẳng định chắc nịch một sự thật hiển nhiên không gì phủ nhận: Dù xuân đương tới, xuân còn non nhưng xuân sẽ qua, sẽ già, sẽ hết và tuổi trẻ cũng mất. Đối diện với sự thật hiển nhiên mà phũ phàng ấy, Xuân Diệu không khỏi thảng thốt. Liên tiếp các dấu phẩy được huy động tạo nên điệu thơ ngậm ngùi, nghẹn ngào:
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
“Lòng tôi” và “lượng trời” vốn đã là hai thế cực tương phản của sự hạn hữu và vô hạn. Tuy nhiên trong góc nhìn của Xuân Diệu thì cái vốn hữu hạn như đời người lại được mở rộng đến vô cùng “lòng tôi rộng” còn thứ vốn tưởng chừng vô hạn trong thời gian của đất trời lại trở nên nhỏ bé “lượng trời cứ chật”.
Một loạt hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ “rộng” – “chật”, “xuân tuần hoàn” – “tuổi trẻ chẳng hai lần”, “còn” – “chẳng còn”. Điều đó đã góp phần làm nổi bật tâm trạng tiếc nuối trước thời gian, cuộc đời.
Sự hạn hữu của đời người với thời gian được thể hiện rõ nét nhất ở dòng thơ “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”. Đúng vậy, giữa cái mênh mông của vũ trụ, vô cùng, vô tận của thời gian, tuổi trẻ, sự sống của con người bỗng trở nên quá ngắn ngủi. Nhưng ở đây, Xuân Diệu không tiếc cho mình, tiếc cho tuổi trẻ mà điều ông tiếc nhất chính “cả đất trời”.
Suy ngẫm về điều đó, Xuân Diệu càng cảm nhận thấm thía sự phôi pha, phai tàn đang âm thầm diễn ra trong lòng vũ trụ trên cả hai trục không gian và thời gian.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàm sắp sửa
Thời gian vốn vô hình, vô ảnh, không mùi, không vị, đi vào thơ Xuân Diệu bỗng có mùi, có vị chia phôi, dường như khắp không gian đâu đâu cũng vọng lên khúc chia li, lời than thầm tiễn biệt. Tựa như ta nghe thấy có chút gì xao xuyến rưng rưng vừa uất ức nghẹn ngào vừa tiếc nuối hụt hẫng trong từ “rớm” ấy.
Gió đùa trong lá không phải là những âm than vui tươi, sống động của thiên nhiêm mà vì hờn tủi trước sự trôi chảy của thời gian. Chim hót những bản nhạc chào xuân rộn ràng bỗng ngừng bặt, chẳng có mối nguy hiểm hiểm nào cả, mà vì chúng sợ độ tàn phai, héo úa. Vậy là vạn vật cứ thế chảy trôi theo quy luật vận hành tự nhiên của nó mà không sao cưỡng lại được.
Khép lại phần thơ là dòng thơ tràn ngập cảm xúc:
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Đến đây thi sĩ đã vỡ lẽ chẳng bao giờ có thể tắt nắng buộc gió, níu giữ mãi tuổi trẻ mùa xuân ở lại. Phép điệp “chẳng bao giờ” được lặp lại hai lần càng nhấn mạng thêm tâm trạng bàng hoàng tiếc nuối ấy. Khát vọng cháy bỏng, ước muốn táo bạo đã tan thành mấy khói. Chỉ còn lại nỗi bàng hoàng, thảng thốt mà càng trở nên da diết hơn với dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Và trong sự bất lực, Xuân Diệu dường như tìm ra một cách giải quyết.
“Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm”
Lời thơ như một lời giục giã, thúc giục con người hãy đứng lên đừng buồn vì sự chia ly sẽ đến mà lãng quên đi thực tại. “Mau đi thôi”, mau cố gắng trân trọng lấy từng phút giây hiện tại để tận hưởng bữa tiệc tươi vui mà thiên nhiên mùa xuân đã bày sẵn trước mắt ta.
Chỉ với 16 câu thơ nhưng dường như Xuân Diệu đã cho ta thấy một quan niệm nhân sinh rất tiến bộ về thời gian, về mùa xuân và tuổi trẻ của tác giả. Ta cũng nhận ra mặc dù Xuân Diệu thể hiện tâm trạng nuối tiếc thời gian và cuộc đời nhưng qua đó ta còn bắt gặp một khát khao mạnh mẽ, một tình yêu say đắm mà ông dành cho đời.

Số 2: Cảm nhận 16 câu giữa bài thơ Vội vàng
Xuân Diệu là một trong những thi sĩ lớn của phong trào Thơ Mới. Nhắc tới Xuân Diệu là nhắc tới một hồn thơ lãng mạn, rộn rực, bâng khuâng. Đó là một tâm hồn luôn thiết tha, gắn bó với cuộc đời. Khát khao giao cảm đấy đã được kết tinh lại trong bài thơ “Vội vã”. Đây là một trong những bài thơ mang đậm dấu ấn hồn thơ Xuân Diệu và nhất là cảm nhận của ông về thời kì được trình bày trong khổ 2 bài thơ.
Bài thơ Vội vã in trong tập Thơ thơ – thi phẩm đầu tay của “Ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu. Nếu ở khổ thơ đầu, Xuân Diệu gây ấn tượng với người đọc bằng bức tranh tự nhiên tươi vui tràn đầy sức sống thì ở những dòng thơ tiếp theo thi sĩ lại trình bày những suy nghĩ trằn trọc về thời kì, về cuộc sống.
Qua đoạn 2, người đọc cảm thu được thi sĩ Xuân Diệu đã đưa ra những phát hiện về sự chảy trôi của thời kì. Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ với cách ngắt nhịp lẻ 3/5 như một sự vỡ vạc. Bước chân của thời kì cứ thế nhưng trôi đi qua từng câu chữ
“Xuân đương tới tức là xuân đương qua
Xuân còn non tức là xuân sẽ già”
Các trạng thái của thời kì tuần tự được nêu ra. Nhưng đó ko phải là quang cảnh tấp nập nhưng là những trạng thái đối lập “đương tới” – “đương qua” và “còn non” – “sẽ già”. Các trạng thái đấy cũng chính là sự tiếp nối của chúng trong vòng xoay của thời kì.
Thời kì vận động ko ngừng, mọi thứ cũng ko ngừng thay đổi. Nếu trong văn học trung đại, thời kì là một vòng tròn tuần hoàn ko ngừng lặp lại của sinh lão bệnh tử. Vì vậy, con người trung đại tuy ý thức được sự nhỏ nhỏ của mình trước dòng chảy của thời kì nhưng rất ít lúc ta thấy họ cất lời than vãn vì cuộc sống ngắn ngủi. Như Mãn Giác thiền sư từng viết
“Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai”
(Cáo tật thị chúng – Mãn Giác thiền sư)
Nhưng trong thời đại Thơ mới, con người đã ý thức rõ sự hạn hữu của đời người. Thời kì ko còn là vòng tròn vô tận nhưng là một đường thẳng tuyến tính. Trong dòng chảy của thời kì, con người chỉ như một hạt cát nhỏ nhỏ giữa sa mạc.
Thời kì vô tận nhưng đời người hạn hữu. Vì vậy nhưng đứng trước thời kì con người thường thấy mình nhỏ nhỏ bất lực, chỉ có thể buông xuôi nhìn thời kì qua lẽ tay. Mới lúc nào mùa xuân còn tươi đẹp thì mai này nó sẽ trở thành già cỗi như một quy luật thế tất
“Hoa nở để nhưng tàn
Trăng tròn để nhưng khuyết”
(Hoa nở để nhưng tàn – Xuân Diệu)
Bước đi của màu xuân cũng là bước đi của thời kì và bước đi của đời người. Phép điệp “tức là” càng nhấn mạnh thêm sự bất thần có phần hốt hoảng về dòng chảy của thời kì của cuộc đời. Người ta thường chỉ tiếc mọi thứ lúc nó đã qua đi, lúc nó chỉ còn là kỷ niệm nhưng Xuân Diệu là tiếc mùa xuân ngay lúc nó đang tới, ngay lúc ông đang đắm mình trong bức tranh xuân đấy.
Đó ko chỉ là mùa xuân của đất trời nhưng còn là mùa xuân của đời người. Phân tích bài thơ vội vã đoạn 2 để thấy Xuân Diệu còn lấy thời kì của đời người để làm thước đo cho thời kì của vũ trụ.
“Nhưng xuân hết tức là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Ko cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi xanh chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Những câu thơ được nối kết nhau bởi từ “xuân”. Điệp từ “xuân” được lặp lại để nhấn mạnh mùa xuân của đất trời cũng như nhấn mạnh mùa xuân của tuổi xanh. Đó đều là những gì đẹp nhất của đất trời, của đời người. Phân tích bài thơ Vội vã đoạn 2, những tưởng thời kì bốn màu xuân hạ thu đông cứ thể nhưng chảy trôi mặc kệ sự tồn tại của con người, nhưng trong những dòng thơ của Xuân Diệu chúng lại có mối quan hệ gắn kết với nhau.
Thời kì tự nhiên kết thúc “xuân hết” nhưng kéo theo đó “tôi cũng hết”. Câu thơ vang lên như nhue một tiếng thở dài cùng đất trời. Tuổi xanh qua đi thì sự tồn tại của “tôi” cũng trở thành vô nghĩa. Bởi tuổi xanh qua đi, tình yêu ko còn thì mọi thứ cũng cứ thế nhưng trôi đồng hành dòng chảy của thời kì. “Lòng tôi” và “lượng trời” vốn đã là hai thế cực tương phản của sự hạn hữu và vô hạn.
Tuy nhiên trong góc nhìn của Xuân Diệu thì cái vốn hữu hạn như đời người lại được mở rộng tới vô cùng “lòng tôi rộng” còn thứ vốn tưởng chừng vô hạn trong thời kì của đất trời lại trở thành nhỏ nhỏ “lượng trời cứ chật”.
Phân tích bài thơ vội vã đoạn 2 còn cho thấy thời kì đất trời dường cũng đang trêu chọc con người. Mùa xuân của đất trời dù sẽ lặp lại nhưng màu xuân của đời người – tuổi xanh thì vĩnh viễn ko thể quay trở lại. Vì thế dù thời kì có lặp lại thì mọi thứ cũng vô nghĩa bởi lúc đó “tôi” ko còn là “tôi” của hôm nay. Như chính Xuân Diệu đã từng nói
“Cái bay ko đợi cái trôi
Từ tôi phút đấy sang tôi phút này”
(Đi thuyền – Xuân Diệu)
Sự hạn hữu của đời người với thời kì được trình bày rõ nét nhất ở dòng thơ “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”. Trời đất cứ thế nhưng xoay vần nhưng tôi sẽ ko vĩnh hằng cùng đất trời. Lúc này, hứa ước ba sinh hay một cuộc sống chốn thiên đường cũng ko thể xoa dịu tâm hồn thi nhân.
Bởi lẽ điều ông cần ko phải là hạnh phúc ở một kiếp nào khác nhưng phải là được tận hưởng hương sắc cuộc đời được hạnh phúc ngay trong phút chốc ngày nay lúc tuổi xanh đang tới, tình yêu đang xuân sắc.
Thế nhưng, phân tích bài thơ Vội vã đoạn 2, người đọc sẽ thấy dù biết trước “tôi” sẽ ko tồn tại vĩnh viễn để đón nhận tự nhiên đất trời tươi đẹp nhưng Xuân Diệu ko tiếc cho mình, tiếc cho tuổi xanh nhưng điều ông tiếc nhất chính “cả đất trời”. Xuân Diệu dường như đang tiếc nuối vì ko thể tận hưởng hết mọi hương sắc của cuộc đời.
Qua đây ta thấy những dòng thơ này, hệ thống từ ngữ, hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ “rộng” – “chật”, “xuân tuần hoàn” – “tuổi xanh chẳng hai lần”, “còn” – “chẳng còn”. Điều đó đã góp phần làm nổi trội tâm trạng tiếc nuối trước thời kì, cuộc đời.
Trước dòng chảy đấy ko chỉ Xuân Diệu cảm thấy hối tiếc nhưng mọi vật cũng mang màu sắc u buồn, đầy mất mát chia ly.
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt”
Tháng năm – thời kì ko được cảm nhận qua sự thay đổi biến thiên của vạn vật trôi qua kẽ lá nhưng được cảm nhận bằng khứu giác “mùi tháng năm”. Lúc phân tích bài thơ vội vã đoạn 2, ta nghe có chút gì xao xuyến rưng rưng vừa uất ức nghẹn ngào vừa tiếc nuối hụt hẫng trong từ “rớm” đấy.
Hóa ra thời kì ko vô tình như ta vẫn thường nghĩ nhưng tháng năm dường như cũng đang tiếc nuối cho chính bản thân mình. Ý thơ đấy gợi ta liên tương tới cảm nhận của Đoàn Phú Tứ
“Màu thời kì ko xanh
Màu thời kì tím ngát
Hương thời kì ko nồng
Hương thời kì thanh thanh”
(Màu thời kì – Đoàn Phú Tứ)
Cuộc chia ly báo trước ko thể nào thoát khỏi. Ko chỉ thời kì nhưng cả ko gian cũng tràn trề dự cảm chia li. Đó là ko gian rộng lớn của cả núi sông. Cảnh vật tươi đẹp ngày nay rồi sẽ trở thành quá khứ.
Mỗi phút mỗi giây đều trôi đi ko níu lại được. Cuộc chia ly mỗi phút mỗi giây vẫn cứ diễn ra như thế. Phân tích bài thơ Vội vã đoạn 2, người đọc thấy rằng từ cảm nhận chung về cả ko gian rộng lớn, Xuân Diệu khởi đầu vẽ ra cuộc chia ly của vạn vật một cách cụ thể hơn
“Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”
Vẫn là hình ảnh chim, gió nhưng ko còn rộn ràng vui tươi của khúc ca yến oanh hay của cành tơ phơ phất nhưng cũng hòa vào bản nhạc buồn chia ly của núi sông. Cơn gió ko reo vui cùng cành lá, đem lời ca thú vui lan tỏa tới mọi người nhưng cơn gió đấy chỉ “thì thào trong lá biếc” dường như đang hờn giận điều gì.
Tới tiếng chim ko còn gảy khúc tình si nhưng bỗng dưng lặng im. Hót để nhưng chi lúc cuối cùng vẫn phải nói lời ly biệt. Phân tích bài thơ Vội vã đoạn 2, người đọc phát xuất hiện giải pháp nhân hóa đã được sử dụng tinh tế để góp phần tô đậm thêm nỗi buồn vạn vật trước thời khắc biệt ly sắp tới.
Mỗi sự vật dường như đang tiễn biệt chính mình, ko gian cất lên khúc hát tiễn biệt thời kì. Mọi thứ cứ thế chảy trôi theo quy luật vận hành tự nhiên của nó ko sao cưỡng lại được.
Trước bài ca ly biệt của núi sông, thi nhân cũng cất lên một tiếng thở dài cùng đất trời đầy nuối tiếc.
“Chẳng bao giờ ôi! chẳng bao giờ nữa”
Câu thơ như một lời kêu đầy hốt hoảng và bất lực. Hốt hoảng bởi lẽ cuộc sống trần gian ngắn ngủi nhưng hương sắc cuộc đời lại mênh mông lúc thi nhân vừa phát hiện một chốn bồng lai nơi hạ giới. Bất lực là bởi trước dòng chảy của thời kì con người lại ko thể xoay vần hoá nhi cứ thế nhưng bị cuốn trôi đi ko sao níu giữ.
Phép điệp “chẳng bao giờ” được lặp lại hai lần càng nhấn mạng thêm tâm trạng sững sờ tiếc nuối đấy. Phân tích bài thơ Vội vã đoạn 2, ta còn thấy thán từ “ôi” xuất hiện như một sự uất nghẹn giữa dòng thơ. Câu thơ vì thế nhưng càng trở thành da diết hơn.
Tuy sững sờ hốt hoảng tiếc nuối nhưng Xuân Diệu ko buông xuôi. Ông bất lực trước dòng chảy của thời kì nhưng ko buông bỏ, ngồi im kì vọng thời kì trôi. Xuân Diệu đã tìm ra một cách khắc phục.
“Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm”
Lời thơ như một lời hối thúc, thúc giục con người hãy đứng lên đừng buồn vì sự chia ly sẽ tới nhưng quên lãng đi thực tại. Thời kì chảy trôi nhưng ngày nay “mùa chưa ngả chiều hôm” cuộc sống vẫn đang tiếp tục, cảnh sắc trần gian vẫn tồn tại đầy tươi đẹp quyến rũ lòng người.
Vì vậy, buồn nhưng chi, thất vọng trước điều ko thể thay đổi để làm gì. “Mau đi thôi”, mau quyết tâm trân trọng lấy từng phút giây ngày nay để tận hưởng bữa tiệc tươi vui nhưng tự nhiên mùa xuân đã bày sẵn trước mắt ta. Phân tích bài thơ Vội vã đoạn 2, người đọc cảm thu được đây chính là một lẽ sống tích cực. Một thanh âm trong trẻo xóa tan đi khúc nhạc u buồn chia ly.
Bằng những nét phác họa tự nhiên cùng với việc sử dụng từ ngữ khôn khéo, Xuân Diệu đã vẽ ra một cuộc chia ly của núi sông. Giọng thơ như phân tích làm hai, thi sĩ đang tự nói với chính mình, thổ lộ nỗi lòng mình nhưng dường như lời nói đấy cũng hướng ra ngoài.
Trên cái nền chia ly đấy, người ta dễ rơi vào những xúc cảm tiêu cực buồn chán, oán than, phẫn nộ, bỏ mặc buông xuôi cuộc đời. Nhưng Xuân Diệu lại ko bỏ mặc hay phẫn nộ trước cuộc đời. Bởi ông hiểu đó là điều thế tất của cuộc sống.
Vì vậy, Xuân Diệu ko oán than hờn trách nữa ông chấp nhận và quyết tâm sống hết mình từng phút giây ngắn ngủi nhưng đầy hương sắc. Vì thế, vội vã ko phải là lối sống tiêu cực nhưng là một khát khao mãnh liệt sống trọn với cuộc đời. Phân tích bài thơ Vội vã đoạn 2 người đọc sẽ thấy khát khao sống cháy bỏng của thi nhân
Tóm lại, phân tích bài thơ Vội vã đoạn 2, người đọc trông thấy tuy trình bày tâm trạng nuối tiếc thời kì và cuộc đời nhưng qua đó ta còn bắt gặp một khát khao mạnh mẽ, một tình yêu say đắm nhưng ông dành cho đời. Lời thơ cũng vì thế là chính là tiếng lòng của Xuân Diệu dành cho người cho đời. Đọc mỗi dòng thơ, ta càng thêm yêu thêm quý những quan niệm sống mới mẻ đầy tích cực được thi sĩ Xuân Diệu truyền tải trong thơ.
Số 3: Phân tích 16 câu giữa bài thơ Vội vàng
Xuân Diệu là 1 trong những thi sĩ béo của phong trào Thơ Mới. Nói đến Xuân Diệu là nói đến 1 hồn thơ lãng mạn, rộn rực, bâng khuâng. Đấy là 1 tâm hồn luôn khẩn thiết, gắn bó với cuộc đời. Khao khát giao cảm đó đã được kết tinh lại trong bài thơ “Vội vã”. Đây là 1 trong những bài thơ mang đậm dấu ấn hồn thơ Xuân Diệu và nhất là cảm nhận của ông về thời kì được trình bày trong khổ 2 bài thơ.
Bài thơ Vội vã in trong tập Thơ thơ – thi phẩm đầu tay của “Ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu. Nếu ở khổ thơ đầu, Xuân Diệu gây ấn tượng với người đọc bằng bức tranh tự nhiên tươi vui chan chứa nhựa sống thì ở những dòng thơ tiếp theo thi sĩ lại trình bày những nghĩ suy trằn trọc về thời kì, về cuộc sống.
Qua đoạn 2, người đọc cảm thu được thi sĩ Xuân Diệu đã đưa ra những phát hiện về sự chảy trôi của thời kì. Khởi đầu đoạn thơ là 2 câu thơ với cách ngắt nhịp lẻ 3/5 như 1 sự vỡ vạc. Bước chân của thời kì cứ thế nhưng trôi đi qua từng câu chữ
“Xuân đương đến tức là xuân đương qua
Xuân còn non tức là xuân sẽ già”
Các hiện trạng của thời kì tuần tự được nêu ra. Mà đấy không hề là quang cảnh tấp nập nhưng là những hiện trạng đối lập “đương đến” – “đương qua” và “còn non” – “sẽ già”. Các hiện trạng đó cũng chính là sự nối tiếp của chúng trong khoảng xoay của thời kì.
Thời kì chuyển di ko dừng, mọi thứ cũng ko dừng thay đổi. Nếu trong văn chương trung đại, thời kì là 1 vòng tròn tuần hoàn ko dừng lặp lại của sinh lão bệnh tử. Thành ra, con người trung đại tuy tinh thần được sự bé nhỏ của mình trước dòng chảy của thời kì mà rất ít lúc ta thấy họ cất lời than vãn vì cuộc sống ngắn ngủi. Như Mãn Giác thiền sư từng viết
“Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai”
(Cáo tật thị chúng – Mãn Giác thiền sư)
Mà trong thời đại Thơ mới, con người đã tinh thần rõ sự hạn hữu của đời người. Thời kì ko còn là vòng tròn vô tận nhưng là 1 đường thẳng tuyến tính. Trong dòng chảy của thời kì, con người chỉ như 1 hạt cát bé nhỏ giữa sa mạc.
Thời kì bất tận nhưng đời người hạn hữu. Thành ra nhưng đứng trước thời kì con người thường thấy mình bé nhỏ bất lực, chỉ có thể buông xuôi nhìn thời kì qua lẽ tay. Mới lúc nào mùa xuân còn tươi đẹp thì mai này nó sẽ trở thành già cỗi như 1 quy luật thế tất
“Hoa nở để nhưng tàn
Trăng tròn để nhưng khuyết”
(Hoa nở để nhưng tàn – Xuân Diệu)
Bước đi của màu xuân cũng là bước đi của thời kì và bước đi của đời người. Phép điệp “tức là” càng nhấn mạnh thêm sự bất thần có phần hoảng hốt về dòng chảy của thời kì của cuộc đời. Người ta thường chỉ tiếc mọi thứ lúc nó đã qua đi, lúc nó chỉ còn là kỷ niệm mà Xuân Diệu là tiếc mùa xuân ngay lúc nó đang tới, ngay lúc ông đang đắm mình trong bức tranh xuân đó.
Đấy ko chỉ là mùa xuân của đất trời nhưng còn là mùa xuân của đời người. Phân tách bài thơ vội vã đoạn 2 để thấy Xuân Diệu còn lấy thời kì của đời người để làm thước đo cho thời kì của vũ trụ.
“Nhưng xuân hết tức là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng mà lượng trời cứ chật
Ko cho dài thời trẻ của trần giới
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi xanh chẳng 2 lần thắm lại
Còn trời đất mà chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Những câu thơ được nối kết nhau bởi từ “xuân”. Điệp từ “xuân” được lặp lại để nhấn mạnh mùa xuân của đất trời cũng như nhấn mạnh mùa xuân của tuổi xanh. Đấy đều là những gì hấp dẫn nhất của đất trời, của đời người. Phân tách bài thơ Vội vã đoạn 2, những tưởng thời kì 4 màu xuân hạ thu đông cứ thể nhưng chảy trôi mặc xác sự còn đó của con người, mà trong những dòng thơ của Xuân Diệu chúng lại có mối quan hệ gắn kết với nhau.
Thời kì tự nhiên hoàn thành “xuân hết” mà kéo theo đấy “tôi cũng hết”. Câu thơ vang lên như nhue 1 tiếng thở dài cùng đất trời. Tuổi xanh qua đi thì sự còn đó của “tôi” cũng trở thành bất nghĩa. Bởi tuổi xanh qua đi, tình yêu ko còn thì mọi thứ cũng cứ thế nhưng trôi đồng hành dòng chảy của thời kì. “Lòng tôi” và “lượng trời” vốn đã là 2 thế cực tương phản của sự hạn hữu và vô hạn.
Ngoài ra trong góc nhìn của Xuân Diệu thì cái vốn hữu hạn như đời người lại được mở mang tới cực kỳ “lòng tôi rộng” còn thứ vốn tưởng chừng vô hạn chỉ mất khoảng của đất trời lại trở thành bé nhỏ “lượng trời cứ chật”.
Phân tách bài thơ vội vã đoạn 2 còn cho thấy thời kì đất trời dường cũng đang trêu chọc con người. Mùa xuân của đất trời dù sẽ lặp lại mà màu xuân của đời người – tuổi xanh thì vĩnh viễn chẳng thể quay quay về. Vì vậy dù thời kì có lặp lại thì mọi thứ cũng bất nghĩa bởi khi đấy “tôi” ko còn là “tôi” của bữa nay. Như chính Xuân Diệu đã từng nói
“Cái bay ko đợi cái trôi
Từ tôi phút đó sang tôi phút này”
(Đi thuyền – Xuân Diệu)
Sự hạn hữu của đời người với thời kì được trình bày rõ nét nhất ở dòng thơ “Còn trời đất mà chẳng còn tôi mãi”. Trời đất cứ thế nhưng xoay vần mà tôi sẽ ko vĩnh hằng cùng đất trời. Khi này, hứa ước 3 sinh hay 1 cuộc sống chốn thiên đàng cũng chẳng thể an ủi tâm hồn thi nhân.
Bởi lẽ điều ông cần không hề là hạnh phúc ở 1 kiếp nào khác nhưng phải là được hưởng thụ hương sắc cuộc đời được hạnh phúc ngay trong phút giây hiện nay lúc tuổi xanh đang tới, tình yêu đang xuân sắc.
Thế mà, phân tách bài thơ Vội vã đoạn 2, người đọc sẽ thấy dù biết trước “tôi” sẽ ko còn đó vĩnh viễn để đón chờ tự nhiên đất trời tươi đẹp mà Xuân Diệu ko tiếc cho mình, tiếc cho tuổi xanh nhưng điều ông tiếc nhất chính “cả đất trời”. Xuân Diệu hình như đang nhớ tiếc vì chẳng thể hưởng thụ hết mọi hương sắc của cuộc đời.
Qua đây ta thấy những dòng thơ này, hệ thống từ ngữ, hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ “rộng” – “chật”, “xuân tuần hoàn” – “tuổi xanh chẳng 2 lần”, “còn” – “chẳng còn”. Điều đấy đã góp phần làm nổi trội tâm cảnh nhớ tiếc trước thời kì, cuộc đời.
Trước dòng chảy đó ko chỉ Xuân Diệu cảm thấy hối tiếc nhưng mọi vật cũng mang màu sắc u buồn, đầy mất mát chia ly.
“Mùi tháng 5 đều rớm vị chia lìa
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt”
Tháng 5 – thời kì ko được cảm nhận qua sự chỉnh sửa biến thiên của vạn vật trôi qua kẽ lá nhưng được cảm nhận bằng khứu giác “mùi tháng 5”. Lúc phân tách bài thơ vội vã đoạn 2, ta nghe có chút gì xao xuyến rưng rưng vừa uất ức nghẹn ngào vừa nhớ tiếc hụt hẫng trong từ “rớm” đó.
Hóa ra thời kì ko vô tình như ta vẫn thường nghĩ nhưng tháng 5 hình như cũng đang nhớ tiếc cho chính bản thân mình. Ý thơ đó gợi ta liên tương tới cảm nhận của Đoàn Phú Tứ
“Màu thời kì ko xanh
Màu thời kì tím ngát
Hương thời kì ko nồng
Hương thời kì thanh thanh”
(Màu thời kì – Đoàn Phú Tứ)
Cuộc chia ly báo trước chẳng thể nào thoát khỏi. Ko chỉ thời kì nhưng cả ko gian cũng tràn trề dự cảm chia phôi. Đấy là ko gian bao la của cả núi sông. Cảnh vật tươi đẹp hiện nay rồi sẽ biến thành dĩ vãng. Mỗi phút mỗi giây đều trôi đi ko níu lại được.
Cuộc chia ly mỗi phút mỗi giây vẫn cứ diễn ra như thế. Phân tách bài thơ Vội vã đoạn 2, người đọc thấy rằng từ cảm nhận chung về cả ko gian bao la, Xuân Diệu khởi đầu vẽ ra cuộc chia ly của vạn vật 1 cách chi tiết hơn
“Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn rã bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”
Vẫn là hình ảnh chim, gió mà ko còn rộn rã vui mừng của khúc ca yến anh hay của cành tơ phất phơ nhưng cũng hòa vào bản nhạc buồn chia ly của núi sông. Cơn gió ko reo vui cùng cành lá, đem lời ca thú vui lan tỏa tới mọi người nhưng cơn gió đó chỉ “thì thào trong lá biếc” hình như đang giận dỗi điều gì.
Tới tiếng chim ko còn gảy khúc tình si nhưng tự dưng lặng yên. Hót để nhưng chi lúc chung cuộc vẫn phải nói lời ly biệt. Phân tách bài thơ Vội vã đoạn 2, người đọc phát xuất hiện giải pháp nhân hóa đã được sử dụng tinh tế để góp phần tô đậm thêm nỗi buồn vạn vật trước thời điểm biệt ly sắp tới.
Mỗi sự vật hình như đang tiễn biệt chính mình, ko gian cất lên khúc hát tiễn biệt thời kì. Mọi thứ cứ thế chảy trôi theo quy luật vận hành thiên nhiên của nó ko sao cưỡng lại được.
Trước bài ca ly biệt của sông núi, thi nhân cũng cất lên 1 tiếng thở dài cùng đất trời đầy nhớ tiếc.
“Chẳng bao giờ ôi! chẳng bao giờ nữa”
Câu thơ như 1 lời kêu đầy hoảng hốt và bất lực. Hoảng hốt bởi lẽ cuộc sống dương thế ngắn ngủi mà hương sắc cuộc đời lại mênh mang lúc thi nhân vừa phát hiện 1 chốn bồng lai nơi hạ giới. Bất lực là bởi trước dòng chảy của thời kì con người lại chẳng thể xoay vần hoá nhi cứ thế nhưng bị cuốn trôi đi ko sao níu giữ.
Phép điệp “chẳng bao giờ” được lặp lại 2 lần càng nhấn mạng thêm tâm cảnh sững sờ nhớ tiếc đó. Phân tách bài thơ Vội vã đoạn 2, ta còn thấy thán từ “ôi” hiện ra như 1 sự uất nghẹn giữa dòng thơ. Câu thơ thành ra nhưng càng trở thành da diết hơn.
Tuy sững sờ hoảng hốt nhớ tiếc mà Xuân Diệu ko buông xuôi. Ông bất lực trước dòng chảy của thời kì mà ko buông bỏ, ngồi im hy vọng thời kì trôi. Xuân Diệu đã tìm ra 1 cách khắc phục.
“Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm”
Lời thơ như 1 lời thúc giục, hối thúc con người hãy đứng lên đừng buồn vì sự chia ly sẽ tới nhưng quên lãng đi thực tại. Thời kì chảy trôi mà hiện nay “mùa chưa ngả chiều hôm” cuộc sống vẫn đang tiếp tục, cảnh sắc dương thế vẫn còn đấy đầy tươi đẹp thu hút lòng người.
Thành ra, buồn nhưng chi, bế tắc trước điều chẳng thể chỉnh sửa để làm gì. “Mau đi thôi”, mau quyết tâm trân trọng lấy từng khoảnh khắc hiện nay để hưởng thụ bữa tiệc tươi vui nhưng tự nhiên mùa xuân đã bày sẵn trước mắt ta. Phân tách bài thơ Vội vã đoạn 2, người đọc cảm thu được đây chính là 1 lẽ sống hăng hái. 1 thanh âm trong trẻo xóa tan đi khúc nhạc u buồn chia ly.
Bằng những nét phác họa tự nhiên cộng với việc sử dụng từ ngữ khôn khéo, Xuân Diệu đã vẽ ra 1 cuộc chia ly của sông núi. Giọng thơ như phân tích làm 2, thi sĩ đang tự nói với chính mình, thổ lộ nỗi lòng mình nhưng hình như lời nói đó cũng hướng ra ngoài.
Trên cái nền chia ly đó, người ta dễ rơi vào những xúc cảm thụ động buồn phiền, ân oán than, phẫn nộ, bỏ mặc buông xuôi cuộc đời. Mà Xuân Diệu lại ko bỏ mặc hay phẫn nộ trước cuộc đời.
Bởi ông hiểu đấy là điều thế tất của cuộc sống. Thành ra, Xuân Diệu ko ân oán than hờn trách nữa ông bằng lòng và quyết tâm sống hết mình từng khoảnh khắc ngắn ngủi mà đầy hương sắc. Vì vậy, vội vã không hề là lối sống thụ động nhưng là 1 khao khát mãnh liệt sống trọn với cuộc đời. Phân tách bài thơ Vội vã đoạn 2 người đọc sẽ thấy khao khát sống cháy bỏng của thi nhân
Tóm lại, phân tách bài thơ Vội vã đoạn 2, người đọc nhìn thấy tuy trình bày tâm cảnh nhớ tiếc thời kì và cuộc đời mà qua đấy ta còn bắt gặp 1 khao khát mạnh bạo, 1 tình yêu si mê nhưng ông dành cho đời. Lời thơ cũng thành ra là chính là tiếng lòng của Xuân Diệu dành cho người cho đời. Đọc mỗi dòng thơ, ta càng thêm yêu thêm quý những quan niệm sống mới mẻ đầy hăng hái được nhà thơ Xuân Diệu truyền tải trong thơ.

Số 4: Phân tích 16 câu giữa Vội vàng
Trong “Thi nhân Việt Nam”, nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng khẳng định: “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dạt dào chưa từng có ở chỗ nước non lặng lẽ này”. Nhắc tới Xuân Diệu, ta không thể không nhắc tới một bài thơ in đậm dấu ấn, phong cách của ông – Vội vàng.
Được rút ta từ tập “Thơ thơ”, “Vội vàng” là nỗi ám ảnh thời gian và lòng ham yêu, khát sống đến cuống quýt của Xuân Diệu. Nếu phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang phần thơ thứ hai, nhà thơ giải thích lí do phải sống vội vàng.
Tại sao Xuân Diệu lại vội vàng tiếc nuối mùa xuân ngay khi xuân còn đang thắm. Có lẽ vì thi sĩ có quan niệm rất mới về thời gian:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.
Nếu người xưa luôn yên tâm bình thản trước sự trôi chảy của thời gian bởi họ quan niệm thời gian là tuần hoàn thì Xuân Diệu lại quan niệm thời gian, mùa xuân, tuổi trẻ một đi không trở lại. Thế nên Xuân Diệu luôn hốt hoảng lo âu khi thời gian trôi mau. Thi sĩ không chỉ tiếc mùa, tháng, ngày mà tiếc từng khoảng khắc, từng phút giây. Ở một bài thơ khác, nhà thơ cũng từng nói:
Tôi từ phút ấy trôi qua phút này
Điều thi sĩ sợ là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bới thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cách sử dụng cặp từ đối lập “tới – qua”, “non – già” đã cho thấy sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước bước đi của thời gian.
Cùng với hàng loạt câu thơ văn xuôi theo lối định nghĩa cùng sự lặp lại liên tiếp điệp ngữ “nghĩa là”, Xuân Diệu đã khẳng định chắc nịch một sự thật hiển nhiên không gì phủ nhận: Dù xuân đương tới, xuân còn non nhưng xuân sẽ qua, sẽ già, sẽ hết và tuổi trẻ cũng mất.
Đối diện với sự thật hiển nhiên mà phũ phàng ấy, Xuân Diệu không khỏi hoảng thốt. Liên tiếp các dấu phẩy được huy động tạo nên điệu thơ ngậm ngùi, nghẹn ngào.
Để tăng sức thuyết phục mọi người tin vào chân lí: mùa xuân tuổi trẻ là tuyến tính, Xuân Diệu đã chủ động đối thoại, tranh luận bác bỏ ý nghĩ cố hữu của mọi người là mùa xuân vẫn tuần hoàn:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Với Xuân Diệu, tuổi trẻ không thắm lại nên cũng không thể nói mùa xuân là tuần hoàn. Thế là Xuân Diệu tiếc mùa xuân mà thực chất là tiếc tuổi trẻ. Và đó là nguyên cớ xâu xa khiến thi sĩ vội vàng một nửa khi xuân mới bắt đầu:
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuân tôi tiếc cả đất trời
Đúng vậy, giữa cái mênh mông của vũ trụ, vô cùng, vô tận của thời gian, tuổi trẻ, sự sống của con người bỗng trở nên quá ngắn ngủi, mong manh chỉ như bóng câu qua cửa sổ, như cái chớp mà thôi. Suy ngẫm về điều đó, day dứt về điều đó, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi mà mới mẻ trong thơ ca Việt.
“Với quan niệm một đi không trở lại và bằng tâm hồn rất đỗi nhạy cảm tới mức có thể nghe thấu cả sự mơ hồ” (Thế Lữ), Xuân Diệu cảm nhận thấm thía sự phôi pha, phai tàn đang âm thầm diễn ra trong lòng vũ trụ trên cả hai trục không gian và thời gian.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa.
Thời gian thì rớm vị chia phôi, khắp không gian đâu đâu cũng vọng lên khúc chia li, lời than thầm tiễn biệt. Gió đùa trong lá không phải là những âm thanh vui tươi, sống động của thiên nhiên mà vì hờn tủi trước sự trôi chảy của thời gian. Chim hót những bản nhạc chào xuân rộn ràng bỗng ngừng bặt, chẳng có mối nguy hiểm hiểm nào cả, mà vì chúng sợ độ tàn phai, héo úa.
Vậy là vạn vật không thể cưỡng lại quy luật tàn phai nghiệt ngã của tạo hóa. Chịu ảnh hưởng sâu sắc thuyết tương giao trong tượng trưng Phá, Xuân Diệu chẳng những đã đem đến những cảm nhận tinh tế rất mới, rất Tây, rất hiện đại về thời gian:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi.
Thời gian vốn vô hình, vô ảnh, không mùi, không vị, đi vào thơ Xuân Diệu bỗng có mùi, có vị chia phôi. Thơ trung đại, kể cả thơ mới cũng hiếm có câu thơ nào có cách cảm nhận như vậy.
Khép lại phần thơ thứ nhất – phần lí giải vì sao phải sống vội vàng là dòng thơ tràn ngập cảm xúc:
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm
Đến đây thi sĩ đã vỡ lẽ chẳng bao giờ có thể tắt nắng buộc gió, níu giữ mãi tuổi trẻ mùa xuân ở lại. Khát vọng cháy bỏng, ước muốn táo bạo đã tan thành mấy khói. chỉ còn lại nỗi bàng hoàng, thảng thốt còn in dấu trong dấu chấm cảm giữa dòng thơ và dấu chấm lửng cuối dòng thơ.
Không thể buộc gió, chẳng thể tắt nắng để níu giữ mãi hương sắc mùa xuân, Xuân Diệu đã hối thúc mình và mọi người hãy sống vội vàng, hãy chạy đua cùng thời gian: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm.” Lời giục giã hối thúc mang sắc điệu mạnh mẽ, quyết liệt bởi kiểu câu cầu khiến có sử dụng dấu chấm cảm giữa dòng.
Có thể nói câu thơ “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm” rất điển hình, tiêu biểu cho hồn thơ vội vàng cuống quýt của Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8. Không chỉ ở “Vội vàng”, Xuân Diệu luôn hối thúc giục giã mọi người cần sống mau, sống vội:
Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi
– Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai
Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn
– Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ
Em, em ơi tình non sắp già rồi!
“Mùa chưa ngả chiều hôm” là một cách kết hợp từ mới lạ, thú vị. Xuân Diệu đã dùng từ chỉ thời gian cuối ngày để chỉ thời điểm cuối mùa. “Mùa chưa ngả chiều hôm” là mùa chưa tàn, chưa úa, vì thế hãy vội vàng mau chóng tận hưởng hương sắc của nó.
Có thể thấy, Xuân Diệu có cách cảm nhận về thời gian khác lạ như vậy là nhờ vào “sự ý thức sâu xa về sự sống của cá thể”. Quan niệm mới mẻ ấy của Xuân Diệu đã khiến cho ta phải trâng trọng từng phút giây của cuộc đời, tận hưởng một cuộc sống trọn vẹn và đầy ý nghĩa.
Quan đoạn thơ, ta đã thấy được niềm khát khao sống mãnh liệt, cháy bỏng của ông Hoàng thơ tình Việt nam. Từ đó, chúng ta thêm trân trọng quan niệm nhân sinh, tích cực, tiến bộ. Cũng như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa thấy trong thơ ca truyền thống”.
Số 5: Cảm nhận 16 câu giữa bài thơ Vội vàng
Nhà thơ Xuân Diệu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. “Vội vàng” được đánh giá là một bài thơ “rất Xuân Diệu”.
Bài thơ bắt đầu bằng bốn câu thơ ngũ ngôn tưởng như lệch nhịp so với toàn bài, nói lên một ước muốn lạ thường:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Ngay những câu mở đầu, Xuân Diệu đã bộc bạch thổ lộ lòng mình trực tiếp bằng hai chữ “tôi muốn” đầy chủ động. Ước muốn ấy không phải dời non lấp bể, đắp lũy xây thành, đi “phù địa trục” như những bậc trí chủ thời xưa, mà là một ước muốn tưởng như dị thường: “tắt nắng, buộc gió”.
Thi sĩ muốn tắt nắng để màu không nhạt, muốn buộc gió để hương đừng bay – những ước muốn đoạt quyền tạo hóa. Vậy là hóa ra chẳng có ước muốn dị kì nào ở đây, điều thi sĩ muốn là níu giữ màu và hương bên đời để những gì tươi đẹp nhất không bị nhạt phai – một mong muốn chính đáng.
Nhịp thơ nhanh, những câu thơ tựa như khúc dạo đầu đầy hứng khởi của một tâm hồn nồng nàn nhựa sống. Những câu thơ sau lí giải sâu hơn về lí do mà tâm hồn thi sĩ nảy sinh những ước muốn ấy.
Xuân Diệu đã phát hiện ra cả một thiên đường trên mặt đất với bao màu sắc, âm thanh và ánh sáng:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Bức tranh cuộc sống hiện ra tựa như một bữa tiệc trần gian với chân thức sẵn bày, mời gọi hấp dẫn. Hai chữ “Này đây” được nhắc đến nhiều lần không gợi sự thừa thãi trong câu chữ, mà tô đậm không gian và thời gian thơ, đó là ngay lúc này và ở tại đây.
Nơi đây – nơi cuộc sống trần thế với bao điều hấp dẫn, chính là cái phần ngon nhất mà nhà thơ muốn ôm trọn vào lòng. Nơi có bướm ong dập dìu, yến anh tình tự. Nơi có màu xanh đồng nội, màu lá phất phơ. Nơi có âm thanh của khúc tình si, có ánh sáng của bình minh tựa như hàng mi chớp dịu. Tất cả đều gợi ra một bức tranh thiên nhiên ngồn ngộn sự sống, dạt dào sắc xuân.
Qua lăng kính luyến ái của thi sĩ, mọi thứ đều hiện lên có đôi có lứa, tươi ròng sự sống. Chính Xuân Diệu chứ không phải ai khác, đã “đốt cảnh bồng lai xua ai nấy về hạ giới”, người “xây lầu thơ trên một tấm lòng trần gian”, luôn gắn bó sâu sắc với cuộc đời trần thế.
Không “thoát lên tiên” mơ theo cảnh bồng lai như Thế Lữ, không tìm về chốn thôn quê để ủ mình trong yên bình như Nguyễn Bính, không lẩn trốn vào quá khứ nơi có những “bóng ma sợ soạng” như Chế Lan Viên, trong mắt Xuân Diệu, thế giới đẹp nhất là cuộc sống trần thế, tại đây và ngay lúc này. Chẳng thế mà từng có lần nhà thơ tự bộc bạch:
Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất
Nhưng có lẽ cái đặc sắc và để lại ấn tượng sâu nhất trong mỗi người là câu thơ: “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần” – một câu thơ “hoàn toàn Xuân Diệu”. Thi sĩ đã hữu hình hóa cái vô hình, đã vật chất hóa một khái niệm thời gian bằng vị cảm. Và còn đặc biệt hơn, cái điều thi sĩ cảm được từ tháng giêng lại là một cặp môi gần của phụ nữ – nó vừa quyến rũ, vừa tươi hồng, vừa mời gọi.
Chính niềm say mê tha thiết với hương sắc trần thế mà trong thi sĩ đã nảy sinh cảm xúc lo sợ thời gian trôi sẽ làm nhạt phai thanh sắc của đời. Bởi thế mà ngay sau những câu thơ tươi vui kia, mạch thơ chuyển ngay sang những điệu thơ trầm lặng, trĩu nặng suy tư:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Xuân Diệu bằng nhãn quan tinh nhạy của mình, đã nhìn thấy cái đương qua ngay trong cái đương tới, cái sẽ già ngay trong cái còn non. Không phải ngẫu nhiên mà thi sĩ có những cảm xúc ấy.
Người xưa quan niệm thời gian tuần hoàn, lấy sinh mệnh vũ trụ để tính vòng đời, họ tin đời người là kiếp luân hồi, đi rồi sẽ trở lại. Còn Xuân Diệu nhìn thời gian trong sự tuyến tính để có những nhận thức đúng đắn về đời người. Vậy là xét cho cùng, tiếc nuối thời gian âu cũng là một biểu hiện khác của lòng yêu cuộc sống. Và đúng như Hoài Thanh nói: “khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”.
Trước dòng đời ngược xuôi trôi dạt, đôi mắt tinh nhạy của người nghệ sĩ nhìn đâu cũng thấy chia li xa cách:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng buồn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa…
Tháng năm được cảm nhận qua mùi, qua vị. Mùi và vị của nó chính là chia phôi. Câu thơ được chuyển đổi cảm giác, sự tương giao giữa các giác quan khiến cho ta tưởng như người thi sĩ nhìn đâu cũng thấy chia lìa, đi đâu cũng thấy chia phôi. Cả đoạn thơ man mác bâng khuâng, ngậm một nỗi tiếc nuối bùi ngùi.
Tất cả hiện vật, sự vật trên thế gian đều không được vẹn tròn ngày vui. Núi sông thì buông lời than tiễn biệt, gió chim thì đều mang nỗi nợ phải bay đi, phải lìa tổ. Quả thật mọi cuộc vui đều có lúc tàn. Cảm nhận rất rõ được điều ấy, thi sĩ thốt lên trong sự tiếc nuối: “Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa…”, để rồi ngay sau đó là lời giục giã: “Mau đi thôi. Mùa chưa ngả chiều hôm”.
Sau những tiếc nuối ngậm ngùi, nhà thơ bộc lộ một khao khát mãnh liệt – khao khát được giao cảm tận độ với đời, hưởng trọn thanh sắc của thời tươi, khao khát tận hưởng và tận hiến:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Ba chữ “Ta muốn ôm” đứng biệt lập ở giữa đoạn thơ, gợi tư thế chủ động, tâm thế sẵn sàng của một chủ thể đang đứng giữa đất trời, dang rộng vòng tay đón trọn hương đời. Từ đó, một loạt cụm từ “ta muốn” xuất hiện trong mỗi dòng thơ – một cách bộc bạch lòng mình trực tiếp của một thi sĩ thơ mới có xúc cảm luôn nồng nàn.
Những gì thi sĩ muốn là được giao cảm với thiên nhiên, với sự sống: từ mây, gió, cánh bướm đến tình yêu, cỏ cây, non nước. Mức độ giao cảm cũng dần mãnh liệt hơn: từ ôm, riết, đến say, thâu, và sau cùng là cắn.
Dường như thi sĩ muốn ôm cho hết, say cho tận, thâu cho cùng mọi điều đẹp nhất của cuộc đời, để được hưởng cảm giác “chếnh choáng, đã đầy, no nê”. Câu thơ cuối cùng như một sáng tạo đặc biệt, gợi cảm giác mạnh như một nốt vĩ thanh vút lên ở cuối bài trong một thi phẩm tràn trề cảm xúc cảm giác: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. “Xuân hồng” vừa gợi màu, vừa gợi vị, vừa đập vào thị giác, vừa tác động đến cảm giác.
Một lần nữa thi sĩ hữu hình hóa cái vô hình, coi xuân hồng như phần tươi ngon nhất của cuộc đời, muốn cắn và nuốt trọn nó. Một cái kết mạnh đã cho Xuân Diệu tổng kết triết lý nhân sinh của mình: Vì lẽ cuộc đời trôi đi không đứng đợi mà con người cần sống tận hưởng và tận hiến trong từng giây phút cuộc đời, nhất là khi còn đang ở tuổi trẻ. Đó là triết lý bất diệt với thời gian, mang giá trị nhân sinh cao cả.
Xuân Diệu lại một lần nữa góp vào thi đàn Việt Nam một tuyệt phẩm. Bên cạnh những vần thơ rất hay về tình yêu, còn có những vần thơ nhân sinh sâu sắc. Vội vàng xứng đáng được coi là một tuyệt tác cho mọi thời.

Tổng kết
Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 5 mẫu phân tích 16 câu giữa bài Vội vàng chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 11.