Top 10 mẫu dàn ý phân tích hình tượng con Sông Đà chi tiết nhất

267
Top 10 mẫu dàn ý hình tượng con Sông Đà chi tiết nhất
Top 10 mẫu dàn ý hình tượng con Sông Đà chi tiết nhất
4.7/5 - (16 votes)

Tổng hợp các bài mẫu dàn ý hình tượng con Sông Đà của Nguyễn Tuân một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 10 mẫu dàn ý phân tích hình tượng con Sông Đà chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Top 10 mẫu dàn ý hình tượng con Sông Đà

Số 1: Dàn ý hình tượng con Sông Đà

I. Mở bài

  • Đôi nét về nhà văn Nguyễn Tuân, tác phẩm Người lái đò sông Đà.
  • Dẫn dắt giới thiệu hình ảnh con sông Đà với hai vẻ đẹp tiêu biểu: hung bạo và trữ tình.

II. Thân bài

  1. Khái quát chung

– “Người lái đò sông Đà” trích từ bài tùy bút Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân.

– Tác phẩm là kết quả của một chuyến đi đầy gian khổ và thú vị lên vùng Tây Bắc rộng lớn và xa xôi. Vừa để thỏa mãn thú vui phiêu lưu mạo hiểm, vừa để tìm lại vẻ đẹp thiên nhiên, “lửa thử vàng” trong tâm hồn những con người lao động, chiến đấu nơi miền sơn cước hùng vĩ và thơ mộng ấy.

  1. Phân tích

a) Sông Đà hung bạo

– Sông Đà ghềnh đá “bờ sông dựng vách”, vách núi cao chen chúc lòng sông hẹp:

“Chỉ có mặt trời vào đúng thời điểm trong ngày bên bờ sông …”

Con hổ và con nai có thể nhảy qua sông, nhẹ tay có thể ném hòn đá từ bờ sông này sang bờ sông bên kia.

“Ngồi trong cabin phà bên kia đường, mùa hè cũng lạnh, tôi có cảm giác như đang đứng trong ngõ nhìn lên khung cửa sổ tầng hai vừa tắt đèn điện”.

=> So sánh vừa chính xác, vừa tinh tế, vừa bất ngờ, vừa lạ lẫm.

– Thác sông Đà: “Dài hàng cây số, nước rung rinh, đá đập sóng, sóng đánh, gió thổi quanh năm như đòi nợ thuê”. Hình ảnh con sông Đà hung dữ, dữ dội như luôn muốn hủy diệt con người.

– Cửa hút nước vùng Tà Mường Vát: “Nước ở đây thở nghe như miệng cống nghẹt”, “giếng sâu đục vào các giác hút thì kéo bè gỗ xuống hoặc hút thuyền xuống rồi đánh nước. chúng tan rã ”.Sự so sánh độc đáo khiến sông Đà không khác gì một con thủy quái với tiếng kêu thảm thiết như muốn khủng bố tinh thần và đe dọa con người.

– Tiếng thác sông Đà:

Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng chỉ huy dàn nhạc giao hưởng, hùng tráng bản nhạc của gió, của thác, của sóng, của đá.

Thoạt đầu, tác giả mới đưa vào bài hát là “phẫn uất”, “van xin”, “khiêu khích”, “giọng điệu khinh bỉ nhưng chế giễu”. Rồi đột nhiên âm thanh được phóng đại đến mức tối đa, các nhạc cụ bùng cháy hét lên bản nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh cao sôi động và cuồng nhiệt: “Nó gầm lên như tiếng trâu ngàn. Những giấc mơ nép mình giữa rừng tre rừng rực lửa cháy réo rắt đàn trâu đốt ”Liên tưởng vô cùng phong phú, tiếng thác sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì tiếng đàn. động đất rừng, động đất hoặc núi lửa thời tiền sử. Dùng lửa để miêu tả nước, dùng rừng để miêu tả sông.

– Đặc biệt nhất là những ghềnh đá sông Đà: Cả một chân trời đá trên hòn đảo nào cũng trông “chênh vênh”, “nhăn nheo”, “méo mó”. Với ba loại vi khuẩn microlithic, tất cả đều cực kỳ nguy hiểm.

=> Sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một của con người”.

b) Sông Đà trữ tình

– Dòng sông Đà không chỉ có “thác báo, hổ dữ hi sinh trên sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy mặc đọng lại trong lòng người. Từ trên máy bay nhìn xuống, “dòng sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu sóng ngọn tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, hoa gạo nở rộ”.

– Màu sắc của sông thay đổi theo mùa:

“Mùa xuân xanh ngọc bích”, khác với sông Gâm, sông Lô là “trai xanh”.

Nước sông mùa thu “chín đỏ từ từ như da mặt người bầm vì uống rượu”. Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và mê đắm lòng người.

– Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với cảnh vật hai bên sông vô cùng gợi: lá non đâm chồi trên nương ngô, con nai “ngóc đầu nhung khỏi cỏ sương”.

– Con sông Đà như gợi lên những cảm xúc sâu lắng trong lịch sử Việt Nam: “Bờ sông hoang sơ như thuở sơ sử. Bờ sông hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích xưa êm đềm như có từ thời Lý, Trần, Lê … “

=> Sông Đà hiện ra với vẻ đẹp thơ mộng.

III. Kết bài

Cảm nhận về vẻ đẹp của sông Đà, tài năng nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.

Bài Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân
Bài Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân

Xem thêm:

Số 2: Dàn ý phân tích hình tượng con Sông Đà

I. Mở bài

– Là một nhà văn tài hoa, độc đáo, Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái gì dữ dội, mãnh liệt hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước

– Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết, ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, cỏ cây trên đất nước mình. Bút kí “Người lái đò sông Đà” đã thể hiện đậm nét phong cách Nguyễn Tuân. Cảm hứng về dòng sông Đà “hung bạo và trữ tình” chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân biến vùng sông nước ấy thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc.

II. Thân bài

  1. Khái quát:

– “Người lái đò sông Đà” rút từ tập tùy bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân.

– Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp ông đến với Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958.

– Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng khác nhau, sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới đã đem lại cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.

– Đến với những tác phẩm của Nguyễn Tuân là ta đang đến với một tâm hồn vô cùng phong phú, với những phát hiện hết sức tinh tế, độc đáo về quê hương. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước ấy cũng chính là tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông Đà dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông. Chỉ có N.T mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước N.T có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ. Cũng không có ai như Nguyễn, để có thể hạ bút viết đúng 3 câu về màu sắc nước sông Đà đã phải có mấy lần bay ngang qua miền sông ấy. Dòng sông Đà trong cảm nhận của nhà văn có hai nét tính cách đối lập: hung bạo và trữ tình.

  1. Phân tích:

a) Sông Đà hung bạo:

– Vách đá “đá bờ sông dựng vách thành” và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách:

+ “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”

+ Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách

+ “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”

-> So sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như N.T luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng nay ăm ắp để tìm cho được một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.

– Gió trên sông Đà: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm ” -> bằng lối viết tài hoa, những câu văn diễn đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người.

– Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát: “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác” -> Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.

– Âm thanh thác nước sông Đà:

+ Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá.

+ Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…” -> Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, N.T quả là đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật.

– Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá: “Cả một chân trời đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó” -> Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vi thạch trận.

+ Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì “hất hàm” đứa thì “thách thức”, “mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo”, sóng nước “đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền”

+ Trùng vi thạch trận thứ II: Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng nhiều cửa tử, cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn

+ Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở ngay giữa.

-> Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một của con người”. Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút VN.

b) Sông Đà trữ tình:

– Dòng sông Đà không chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo”

– Màu sắc dòng sông thay đổi theo mùa:

+ “Mùa xuân xanh màu ngọc bích”, khác với sông Gâm, sông Lô “màu xanh canh hến”.

+ Mùa thu nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa” -> Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.

– Đến với sông Đà, hăm hở, say mê đến nỗi tác giả như thấy mình như đang “sắp đổ ra sông Đà”. Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa… lặng tờ “như từ Lí, đời Trần, đời Lê”.

-> Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài hoa bậc nhất của nền văn học Việt Nam.

III. Kết bài

Phong cách Nguyễn Tuân độc đáo và phong phú. Ở tùy bút “Người lái đò sông Đà” chúng ta thấy phong cách giá trị của ông thể hiện rõ nhất là sự nhọn sắc của giác quan nghệ sĩ đi đôi với một kho chữ nghĩa giàu có và đầy màu sắc, lối văn rất mực tài hoa. Dòng sông Đà “hung bạo và trữ tình” chảy mãi trong dòng văn học nước nhà như niềm yêu mến và tự hào về cỏ cây sông núi quê hương của nhà văn Nguyễn Tuân.

Bài Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân
Bài Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân

Số 3: Phân tích hình tượng con Sông Đà dàn ý

I. Mở bài

  • Giới thiệu đôi nét về nhà văn Nguyễn Tuân, tác phẩm Người lái đò sông Đà.
  • Dẫn dắt giới thiệu về hình tượng con sông Đà với hai nét đẹp tiêu biểu: hung bạo và trữ tình.

II. Thân bài

  1. Khái quát chung

– “Người lái đò sông Đà” rút từ tập tùy bút “Sông Đà” (1960) của Nguyễn Tuân.

– Tác phẩm là thành quả của chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi. Vừa thỏa mãn thú phiêu lãng vừa để tìm kiếm vẻ đẹp thiên nhiên và “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên miền sông núi hùng vĩ và thơ mộng đó.

  1. Phân tích

a) Sông Đà hung bạo

– Vách đá sông Đà “đá bờ sông dựng vách thành” và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp:

  • “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời…”
  • Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách
  • “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.

=> So sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng.

– Thác nước sông Đà: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ suýt”. Hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người.

– Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác”. Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.

– Âm thanh thác nước sông Đà:

Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá.

Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: “Nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông.

– Đặc biệt nhất là thạch trận sông Đà: Cả một chân trời đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Với ba trùng vi thạch trận đều vô cùng nguy hiểm.

=> Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một của con người”.

b) Sông Đà trữ tình

– Dòng sông Đà không chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo”.

– Màu sắc dòng sông thay đổi theo mùa:

  • “Mùa xuân xanh màu ngọc bích”, khác với sông Gâm, sông Lô “màu xanh canh hến”.
  • Mùa thu nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.

– Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: Lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương”.

– Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa lặng tờ như từ Lí, đời Trần, đời Lê…”

=> Sông Đà hiện lên với nét đẹp thơ mộng.

III. Kết bài

Cảm nhận về vẻ đẹp của con sông Đà, tài năng nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.

Số 4: Dàn ý hình tượng con Sông Đà

I. Mở bài

  • Giới thiệu khái quát về nhà văn Nguyễn Tuân (những đặc điểm cơ bản về tiểu sử, con người, cuộc đời, các sáng tác tiêu biểu, phong cách nghệ thuật,…)
  • Giới thiệu khái quát về tác phẩm “Người lái đò sông Đà” (khái quát hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, đề tài, chủ đề, đặc sắc về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,…)
  • Giới thiệu khái quát về đối tượng cần phân tích: Hình tượng con sông Đà.

II. Thân bài

  • Tính cách hung bạo, dữ dội của sông Đà
  • Dòng chảy: mọi dòng sông đều chảy về hướng đông thì chỉ có duy nhất sống Đà chảy về hướng bắc.
  •  Những vách đá dựng đứng.

Mặt ghềnh Hát Loong:

  • Điệp từ “xô” được lặp lại nhiều lần đã diễn tả cuộc truy đuổi quyết liệt của sông Đà.
  • Sử dụng từ láy “gùn ghè”, “cuồn cuộn” thể hiện dáng vẻ giận dữ, đầy dữ dội, hậm hực.
  • Những thác nước với âm thanh vang dội, mạn rợn và hoang dại.

Những cái hút nước:

  • Tác giả đã sử dụng hình ảnh so sánh “hút nước như những cái giếng bê tông” kết hợp liên tưởng “trên mặt cái hút nước xoáy tít đáy đang lừ lừ những cánh quạ đàn” với cách dùng từ độc đáo “xoáy tít đáy” gợi ấn tượng những hút nước sâu và nguy hiểm
  • Miêu tả âm thanh của những cái hút nước bằng biện pháp so sánh và nhân hóa “nước ở đây thở và kêu như cửa sông cái bị sặc”, “giếng sâu”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”
  • Hình nh ảnh liên tưởng, so sánh độc đáo “những con thuyền đi qua quãng đó phải chèo thật nhanh y như ô tô sang số ấn ga để hút qua”.
  • Mượn góc nhìn của điện ảnh để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả để người đọc có thể cảm nhận rõ nét về dòng sông.

Thạch trận:

  • Sử dụng biện pháp nhân hóa để làm rõ chân dung, hình dáng, tính cách của từng hòn đá –
  • Sông Đà đã giao nhiệm vụ cho chúng bày binh bố trận thành ba tuyến: có hàng tiền vệ, tuyến giữa, boong ke chìm, pháo đài nổi. V
  • Chúng đã huy động sức mạnh tổng lực của mình để uy hiếp tinh thần con người  với những binh pháp đầy bí hiểm
  • Tính cách thơ mộng, trữ tình của sông Đà
  •  Từ trên máy bay nhìn xuống, dòng sông Đà uốn lượn mềm mại, duyên dáng.
  • Màu sắc: Sắc nước sông Đà thay đổi, biến ảo kì diệu
  • Dưới điểm nhìn của một cố nhân: dòng sông mang vẻ đẹp cổ kính,mang màu sắc Đường thi.

Dưới điểm nhìn của một du khách:

  • Sông Đà hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng và hoang sơ: thể hiện qua hai hình ảnh so sánh gợi cảm giữa cái cụ thể với cái trừu tượng.
  • Vẻ đẹp tràn đầy sức sống: thể hiện qua hàng loạt các hình ảnh sinh động, gợi cảm, những nương ngô đang nhú lên những lá non đầu mùa, những khóm cỏ gianh đang ra những búp nõn

III. Kết bài

Khái quát lại những nét cơ bản của hình tượng con sông Đà và nêu cảm nghĩ của bản thân.

Bài Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân
Bài Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân

Số 5: Dàn ý phân tích hình tượng con Sông Đà

I. Mở bài

– Giới thiệu về nhà văn Nguyễn Tuân, nội dung tác phẩm Người lái đò sông Đà.

– Giới thiệu hình ảnh con sông Đà với hai vẻ đẹp: hung bạo và trữ tình.

II. Thân bài

  1. Người đẹp bạo lực

– Bờ sông:

  • “xây dựng một bức tường”, bay lên, đứng lên.
  • Sông hẹp đến nỗi “có lần hươu và hổ nhảy từ bờ sông này sang bờ sông bên kia”.
  • “Mặt sông nơi ấy chỉ còn lại buổi trưa”, “mùa hè em đi đò se lạnh”.
  • Khi đi qua đoạn đường này, người dân có cảm giác như đang “đứng trong ngõ mà nhìn lên ô cửa sổ tầng 2 vừa tắt đèn điện”.

=> Trước mắt là một khúc sông Đà vừa sâu, vừa hẹp, tối tăm và lạnh lẽo đến mức ai qua đây cũng phải rùng mình sợ hãi.

– Ghềnh:

  • Ghềnh Hát Lọng “dài hàng cây số, đá lởm chởm, quanh năm sóng gió…”.
  • Những từ “lăn lộn”, “gắt gỏng” nghe vừa ghê rợn vừa gợi lên những hình ảnh ghê rợn về nơi này.
  • Được mô tả là người đòi nợ

=> Nó có thể gây ra rất nhiều nguy hiểm mà con người không thể lường trước được.

– Bibulous:

  • Nhìn từ xa, những dòng nước xoáy trên sông như lúm đồng tiền trên má cô gái, có thể kéo thuyền xuống đáy sông đánh tan tành.
  • Các cửa hút nước giống như giếng bê tông được thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.
  • “Nước ở đây thở nghe như tiếng cống nghẹt”.

– Thác nước:

  • Tiếng thác nước nghe như “ai oán”, nghe như “van xin”, “khiêu khích”, giọng nói tuy gay gắt nhưng “giễu cợt”.
  • “Bấy giờ nó gầm lên…”, so sánh tiếng thác nước sông Đà với tiếng đàn trâu mộng ngàn đánh phá vòng vây của rừng.

– Đá sông Đà:

  • “Một chân trời toàn đá”
  • Mặt đá nào cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nheo”, “méo mó”.
  • Rồi chúng cũng bao vây thành một khối đá giống như hình bát quái trên sông Đà.
  1. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

– Sông Đà “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu bạc tóc gáy ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, tháng hai nở hoa và cuồn cuộn khói núi, mèo đốt nương mùa xuân”.

– Không chỉ đẹp về hình dáng mà còn đẹp về màu nước: mùa xuân suối có màu xanh ngọc bích, mùa thu nước sông chín đỏ như da mặt người bầm tím vì rượu.

– Bờ sông Đà bao la, trải dài “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn, bướm sông Đà”. Phép so sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả dòng sông “bến sông hoang vu như thuở tiền sử”, “bến sông thơ ngây như một câu chuyện cổ tích xưa”.

III. Kết bài

Cảm nhận chung về hình tượng con sông Đà.

Số 6: Phân tích hình tượng con Sông Đà dàn ý

I. Mở Bài

– Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống.

– Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tùy bút “ Người lái đò sông Đà”.

– Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kỳ vĩ trên dòng sông.

II. Thân Bài

  1. Giới thiệu chung.

– Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc.

– Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp,đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.

– Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, NT còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”

– Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc họa những nét thơ mộng, hùng vỹ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình.

– Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới : chất vàng mười của đất nước trong xây dựng CNXH qua hình ảnh người lái đò sông Đà.Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa.

  1. Phân tích hình tượng dòng sông Đà.

– Trước hết, con sông đà được Nguyễn Tuân miêu tả là dòng sông hung bạo, dữ dội. Khi hung bạo, sông Đà là kẻ thù số một sẵn sàng cướp đi mạng sống con người, có tâm địa độc ác như người dì ghẻ. Để khắc họa tính cách của sông Đà, tác giả đã dựng lại khúc sông nguy hiểm. Đó là đoạn cảnh đá bờ sông dựng đứng vách thành: chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đó là quãng Hát Loóng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đây. Lại một đoạn sông khác, sông Đà là cái hút nước xoáy tít. Có những thuyền đã bị nó hút tụt xuống, thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi đến mười phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới..Nhưng dữ dội nhất là ở những thác đá. Nguyễn Tuân đã buộc sự dữ dội, nham hiểm của sông Đà phải hiện lên thành hình và gào thét bằng trăm ngàn âm thanh. Chưa thấy sông nhưng người ta đã bị đe dọa bởi tiếng thác nước nghe như oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng nghe gằn mà chế nhạo. Tác giả đã dựng lại cuộc thuỷ chiến giữa sông Đà và người lái đò để lột tả cho được tính hung bạo của nó và tài nghệ của người lái đò. Thác đá được xếp thành từng tuyến mà nhà văn gọi là thạch trận, nhằm ăn chết cái thuyền đơn độc. Ở tuyến một, thác đá mở ra năm cửa trận, bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn. Ở tuyến hai, tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại nằm bên phía hữu ngạn. Ở tuyến bã, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống nằm ở giữa. Người lái đò phải nhắm đúng luồng sinh để vượt qua.

Bên cạnh tính cách hung bạo, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân con sông Đà lại rất trữ tình, gợi bao cảm xúc làm mê say lòng người. Khi trữ tình, sông Đà hiền hoà, mềm mại, huyền ảo như mái tóc của một phụ nữ kiều diễm: con sông tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mây mù khói núi Mèo nương xuân.

Không chỉ đẹp ở hình dáng, sông Đà còn gợi cảm ở màu sắc, mà tác giả đã bao lần dày công quan sát mới nói hết được vẻ độc đáo ấy: Mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích (nghĩa là một màu xanh trong và sáng); mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như mặt người bầm đi vì rượu bữa. Đặc biệt là không khí hoang dại, tĩnh lặng : Bờ sông hoang dại như bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Đề lột tả không khí đầy thơ ấy.Nguyễn Tuân đã tả đàn hươu ngẩng đầu ngơ ngác mơ một tiếng còi sương, và cái nắng tháng ba Đường thi Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu, gợi tâm sự của người tình nhân chưa quen biết ! Lúc này, không thấy đâu con sông Đà diện mạo và tâm địa độc ác, mà chỉ thấy tình cảm của dòng sông đối với con người như một cố nhân, xa thì thấy nhớ thương, gặp lại thì thấy mừng vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Còn con sông lại mang bao rung động yêu thương như nhớ những hòn đá xa xôi để lại nơi thượng nguồn. Khi tả con sông Đà trữ tình, Nguyễn Tuân đã sử dụng những câu văn nhẹ nhàng, êm ái. Câu ngắn, vị ngữ diễn tả trạng thái bình lặng, để lại trong lòng người âm hưởng mênh mang, thơ mộng.

III. Kết bài

Trong tùy bút “ Người lái đò sông Đà”, nhà văn Nguyễn Tuân đã rất thành công trong việc sử dụng nhiều thuật ngữ của các ngành nghề khác nhau nhằm miêu tả vẻ hùng vĩ, thơ mộng của con sông Đà và mở ra bao liên tưởng độc đáo, bất ngờ trong tâm trí người đọc. Qua đó, ta thấy được tài hoa, vốn văn hoá uyên thâm và phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. Đồng thời ta còn thấy được cảm hứng ngợi ca, tự hào về chất vàng thiên nhiên, về giang sơn gấm vóc Việt Nam của tác giả.

Bài Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân
Bài Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân

Số 7: Dàn ý hình tượng con Sông Đà

I. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm và hình tượng sông Đà: hung bạo và thơ mộng trữ tình.

  • Nguyễn Tuân, người tri thức giàu lòng yêu nước. Nguyễn Tuân, nhà Giới thiệu văn suốt đời đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tuân, nhà văn với phong cách tài hoa, uyên bác và có vốn hiểu biết phong phú về nhiều mặt, vốn ngôn ngữ giàu có, điêu luyện. Sau cách mạng tháng Tám ngòi bút ông hướng đến chất tài hoa nghệ sĩ ở nhân dân đại chúng. Một số tác phẩm tiêu biểu: Vang bóng một thời (1940), Chiếc lư đồng mắt của (1941), Tùy bút Sông Đà (1960),…
  • Người lái đò sông Đà là một trích đoạn của Tùy bút sông Đà (1960) và là thành quả của chuyến đi thực tế đến Tây Bắc. Tác phẩm lấy cảm hứng chủ đạo là tìm kiếm chất vàng mười của thiên nhiên và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người lao động, chiến đấu trên miền sông núi hùng vĩ, thơ mộng.
  • Bằng tình yêu thiên nhiên quê hương, đất nước và ngòi bút tài hoa của mình, con sông Đà miền Tây Bắc Tổ quốc bước vào trang kí với vẻ đẹp vừa hung bạo vừa trữ tình.

II. Thân bài

Khái quát vấn đề: Sông Đà qua cảm nhận của nhà văn Nguyễn Tuân mang hai nét tính cách đối lập: vừa hung bạo, dữ dội lại vừa thơ mộng, trữ tình. Ở mỗi nét tính cách của sông Đà qua ngòi bút của Nguyễn Tuân lại mang một nét đẹp riêng, ấn tượng và độc đáo. Khi miêu tả vẻ đẹp của sông Đà, Nguyễn Tuân đã vận dụng vốn tri thức bách khoa của mình: địa lý, lịch sử, thể thao, văn hóa,…

Phân tích Hình tượng sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình được thể hiện qua:

+ đá hai bên bờ sông “dựng thành cách” cao, chỉ vào “lúc đúng ngọ mới có mặt trời”, đá “chẹt” lòng sống như cái yết hầu,

+ toàn cảnh: “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Phép so sánh độc đáo làm sống và hiện ra mĩ lệ, diễm kiều đầy nữ tính làm say đắm lòng người.

+ điểm nhìn thời gian: Sông Đà không chỉ đẹp mà còn biến đổi ảo diệu theo mùa, mỗi mùa lại có một nét đẹp riêng – “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ không xanh màu xanh cánh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Màu sắc sông biến đổi theo mùa được so sánh, liên tưởng với những hình ảnh gần gũi như “xanh ngọc bích”, “xanh cánh hến”, “da mặt người bầm đi vì rượu bữa” không chỉ gần gũi mà còn gọi được chính xác màu sắc của dòng sông.

+ hai bên bờ sông với vẻ đẹp vừa tĩnh lặng, nhẹ nhàng mang nỗi niềm cổ xưa vừa tràn đầy sức sống hai bên bờ.

  • Vẻ tĩnh lặng, nhẹ nhàng mang nỗi niềm cổ xưa: Nhẹ nhàng với “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”, “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà thôi”. Cảnh sống tĩnh lặng đã khơi gợi ở du khách cảm giác mình đang đi ngược về quá xa xưa từ đời Lý Trên, đời Lê. Phép so sánh, ví von vẻ đẹp “hoang dại”, “hồn nhiên” ở hai bên bờ sông như “bờ tiền sử”, như “nỗi nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” khơi gợi vẻ đẹp hoang sơ, xa xưa, bí ẩn nhưng cũng thân thuộc, gần gũi.
  • Ngập tràn sức sống hai bên bờ: Với cảnh vật đẹp như một bức tranh với gam màu xanh chủ đạo, tràn đầy sức sống của “mấy lá non ngộ đầu mùa”, những đồi tranh “đang ra những nõn búp”. Điểm xuyết lên bức tranh là hình cảnh con hươu “thơ ngộ ngẩng đầu khỏi ánh cỏ nhung” trong sương sớm. Biện pháp nhân hóa con hươu nhìn và nói chuyện, hỏi han du khách “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương ?” làm cho con người và thiên nhiên giao hòa, đồng cảm. Với “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Phép điệp “Thuyền tôi trôi…” và tô đậm vẻ nhẹ nhàng, thi vị. Cách trích dẫn hai câu thơ tài hoa của thi sĩ Tản Đà “Dải Sông Đà bọt nước lênh bệnh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của một người tình nhân chưa quen biết” khơi gợi vẻ đẹp tình tứ lãng mạn, vẻ đẹp đậm đà bản sắc văn hóa, thi ca. Và qua cái nhìn của Nguyễn Tuân thì dòng sông cũng biết lưu luyến “nhớ thương” biết “lắng nghe giọng nói êm êm của người xuôi”.

III. Kết bài

– Nguyễn Tuân miêu tả, cảm nhận hình tượng sông và trong vẻ đẹp đối lập, đa tính cách của nó: vừa hung bạo nhưng cũng rất nên thơ trữ tình. Với vẻ đẹp hung bạo, Nguyễn Tuân đã dành những câu văn góc cạnh, sắc nhọn, những hình ảnh so sánh, nhân hóa gân guốc, mạnh mẽ làm nổi bật được sự hung bạo, dữ dội của con sông Đà. Với vẻ đẹp thơ mộng, Nguyễn Tuân lại ưu ái những câu văn như thơ, mềm mại, óng ả và những hình ảnh so sánh nhẹ nhàng, thi vị góp phần làm nổi bật được vẻ đẹp dòng sông.

– Với hình tượng sông Đà vừa hung bạo và trữ tình, ta không chỉ thấy ở đó tình yêu thiên nhiên quê hương, đất nước mà còn khơi gọi ở lòng người đọc lòng tự hào, tình yêu dành cho con sông quê hương miền Tây Bắc Tổ quốc.

Số 8: Dàn ý phân tích hình tượng con Sông Đà

I. Mở bài

– Giới thiệu khái quát về Nguyễn Tuân.

– Giới thiệu chung về văn bản “Người lái đò sông Đà”.

II. Thân bài

a) Hình tượng con sông Đà

-“Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”

– Lời đề từ: Khẳng định vẻ đẹp và sự độc đáo của sông Đà:  Mọi dòng sông đều chảy về hướng Đông – Chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Trên trang văn Nguyễn Tuân, sông Đà đại diện cho thiên nhiên Tây Bắc và là một sinh thể có hồn, sống động, có tính cách, có tâm hồn, vừa hùng vĩ hung bạo vừa thơ mộng, trữ tình.

* Sông Đà hùng vĩ, dữ dội với tính cách hung bạo:

– Vách đá dựng đứng, kì vĩ: cảnh đá bờ sông dựng vách thành… sang bờ kia.

– Ghềnh Hát Loóng hung dữ: nước xô đá, đá xô sóng… dễ lật ngửa bụng thuyền ra.

– Hút nước vừa tráng lệ vừa dữ dội: như cái giếng bê tông… ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi.

– Thác đá: nghe như là oán trách… cháy bùng bùng, đá thác từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông… ngỗ ngược, bệ vệ oai phong, hất hàm hiếu chiến.

– Sông Đà bố trí ba thạch trận trùng trùng điệp điệp, đòi tóm lấy mọi con thuyền qua sông.

* Vẻ đẹp thơ mộng và tính cách trữ tình:

– Hình dáng dòng sông mềm mại: như cái dây thừng, như mái tóc tuôn dài…

– Màu nước thay đổi theo mùa: xanh ngọc bích, lừ lừ chín đỏ.

– Sông Đà gợi cảm, mang vẻ đẹp đa chiều: như cố nhân, như Đường thi,…

– Vẻ đẹp đôi bờ: êm ả, nguyên sơ, tràn đầy sức sống (cỏ cây, những con vật lành, đàn cá…)

=> Nghệ thuật xây dựng hình tượng sông Đà: ngôn ngữ điêu luyện, giàu chất tạo hình; so sánh, liên tưởng độc đáo, táo bạo; tiếp cận con sông dưới phương diện cái đẹp, cái tôi trữ tình dạt dào cảm xúc; vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực; giọng điệu phóng khoáng.

=> Ý nghĩa của hình tượng sông Đà: đại diện cho vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, đóng vai trò như bức phông nền kì vĩ, làm nổi bật tài nghệ chèo đò, vượt thác của ông đò.

b) Hình tượng người lái đò sông Đà.

* Vẻ đẹp bình dị của người dân lao động:

– Ông lái đò sinh ra đã gắn bó với dòng sông Đà. Tuổi ngoài 70 nhưng thân hình vạm vỡ như chất sừng mun, giọng nói vẫn khỏe, cặp mắt vẫn tinh tường. Có thể nói ông lái đò là con người của sông nước.

– Ông là người hiểu biết sâu rộng về dòng sông:

+ Đó là một người lái đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần…” trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này.

+ Ông hiểu biết sâu rộng và rất thành thạo, thành thạo đến mức sông Đà “đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng. Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần… Cho nên ông có thể bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở.”

+ Ông có trình độ lái đò hết sức điêu luyện và là vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm. Giờ đây khi đã rời xa nghề chèo đò nhưng ông vẫn hoài niệm về những ngày tháng gian nan mà vui vẻ đó.

* Là một người nghệ sĩ tài hoa:

– Thủy quái sông Đà: có diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số 1, nguy hiểm và hung bạo, đầy cạm bẫy với những ghềnh, thác, hút nước, sóng nước, với thạch trận trùng điệp, đầy luồng chết chầu chực nuốt chửng, đập tan con thuyền.

– Người lái đò bước vào cuộc vượt thác giống như vị chỉ huy bước vào trận đánh. Phải đặt nhân vật vào trong môi trường chiến trận mới có thể bộc lộ hết phẩm chất của người lái đò:

+ Ông đò vượt trùng vây thứ nhất: Đá thác hiếu chiến (bệ vệ oai phong, hất hàm), nước thác làm thanh viện ùa vào đòi bẻ cán chèo, đội thuyền, túm lấy thắt lưng, bóp chặt hạ bộ, ông cố nén vết thương, kẹp chặt cuống lái, tiếng chỉ huy vẫn ngắn gọn tỉnh táo.

+ Ông đò vượt trùng vây thứ hai: trùng vây thứ 2 tăng thêm cửa tử để đánh lừa con thuyền, cửa sinh bị bố trí lệch đi, ông đò thay đổi chiến thuật, cưỡi lên thác sông Đà, lái miết một đường chéo, rảo bơi chèo lên… sấn lên chặt đôi ra để mở đường vào cửa sinh.

+ Ông đò vượt qua trùng vây thứ ba: vòng 3 bên phải, bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở giữa bọn đá hậu vệ, ông đò phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa.. lượn được.

=> Ông đò là người anh hùng, người nghệ sĩ trong công việc chèo đò, vượt thác. Ông đại diện cho con người Tây Bắc và là chất vàng mười của đất nước ta.

III. Kết bài

+ Nêu cảm nhận về hình tượng Sông Đà.

+ Nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực, xây dựng hình tượng thành công.

+ Tác phẩm là áng văn đẹp được tạo nên từ tình yêu đất nước của một con người muốn dung văn chương để ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ, thơ mộng của thiên nhiên và con người Tây Bắc.

Bài Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân
Bài Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân

Số 9: Phân tích hình tượng con Sông Đà dàn ý

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân: là tác giả yêu cái đẹp, suốt đời đi tìm cái đẹp, có phong cách nghệ thuật độc đáo: uyên bác, tài hoa.

– Tác phẩm: là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Tuân.

– Hình tượng con sông Đà chính là thứ vàng mười của thiên nhiên mà Nguyễn Tuân tìm kiếm.

II. Thân bài

  1. Sông đà “hung bạo”

– Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai đông …”.

– Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá … như một cái yết hầu”

– Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đó.

– Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô …mượn cạp ngoài bờ vực”,

– Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:

+ Xa: âm thanh thác đá “con xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc “van xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một ngàn con trâu … cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).

+ Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”

+ Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh, một cửa tử (tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có ít cửa và 1 cửa sinh (giữa), gơi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm, mẹo lược, biến hóa khôn lường.

– Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người

  1. Sông Đà “trữ tình”

– Khi từ tàu bay nhìn xuống:

+ Sông Đà “”tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình … đốt nương xuân ”

+ Sông đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu đỏ.

– Khi đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông:

+ Niềm vui vô hạn của tác giả khi bất ngờ gặp sông Đà: “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”, “như gặp lại cố nhân”.

+ Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò chơi trẻ con tinh nghịch, có vẻ đẹp Đường thi.

– Khi đi thuyền trên sông phía hạ lưu:

+ Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một nương ngô “nhú lá non”, con hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”.

+ Sông Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”

– Nhận xét: Sông Đà trữ tình như một cố nhân, một tình nhân.

– Như vậy: hình tượng sông đà vừa mang nét hung bạo lại vừa trữ tình thơ mộng. Qua hình tượng sông Đà đã thể hiện tình cảm của Nguyễn Tuân với thiên nhiên Tây Bắc.

III. Kết bài

– Nêu cảm nhận về hình tượng Sông Đà.

– Nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực, xây dựng hình tượng thành công.

– Tác phẩm là áng văn đẹp được tạo nên từ tình yêu đất nước của một con người muốn dung văn chương để ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ, thơ mộng của thiên nhiên và con người Tây Bắc.

Số 10: Dàn ý hình tượng con Sông Đà

I. Mở bài

Về nhà văn Nguyễn Tuân, tác phẩm Người lái đò sông Đà và hình tượng sông Đà: Người lái đò sông Đà là một trong những bài văn hay nhất của nền văn học Việt Nam. Bài văn có lối viết độc đáo, mới lạ được tạo nên từ ngòi bút tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Nổi bật trong tác phẩm là hình ảnh con sông Đà hiện lên với những vẻ đẹp đối lập.

II. Thân hình

  1. Người đẹp bạo lực

– Sự hùng vĩ của sông Đà không chỉ là thác đá mà còn là những “tảng đá đắp bờ sông, đắp thành”, với “những vách đá thành chắn lòng sông Đà như yết hầu”.

– Mặt ghềnh Hát Lọng: “nước đụng đá, đá xô sóng, sóng xô gió” hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ gần hết” của người lái đò.

– Ở Tà Mường Vát: “có những khe hút nước như giếng bê tông”, họ “thở mà nghe như miệng cống bị sặc nước”, thuyền đi qua đoạn hút “cứ như ô tô sang số để tăng tốc”. để đi một chặng đường dài đến rìa của vách đá. ”

– Thác sông Đà: “Tiếng thác như lời than thở, rồi như tiếng van xin, rồi như lời khiêu khích, tiếng giễu cợt…”

– Đá trận sông Đà: đá cũng đầy thủ đoạn: “uốn éo”, “méo mó”, “quay hàm”, “hùng hổ”, “phòng thủ”, có những hành động như “phục kích”, “chặn đánh”. ngang ”,“ săn ”,“ đập ”,“ phá ”, các đợt sóng:“ đập quất vu hội ”,“ chớp tay cầm ”,“ xén ”… Sự biến hóa linh hoạt của trận vi khuẩn.

=> Sông Đà có khuôn mặt và trái tim của thủy quái, kẻ thù số một của con người.

  1. Vẻ đẹp trữ tình

– Khi từ máy bay nhìn xuống:

  • “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu bạc tóc gáy ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc nở hoa gạo tháng hai, cuồn cuộn khói núi mèo đốt ruộng xuân. “
  • Nước sông Đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: xanh ngọc bích vào mùa xuân, đỏ rực vào mùa thu.

– Đi rừng ít lâu, chợt gặp dòng sông:

  • Niềm vui khi gặp dòng sông: “như thấy nắng tan đi sau cơn mưa dầm dề”, “nối lại giấc mộng tan vỡ”, “như gặp lại bạn cũ”.
  • Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò trẻ con tinh nghịch, có vẻ đẹp của Đường Thi.

– Khi chèo thuyền xuôi dòng:

  • Cảnh thiên nhiên thơ mộng, nên thơ: ngang qua nương ngô “lá úa”, con nai sừng sững, “bờ sông hoang vu như tiền sử”.
  • Sông Đà như một “người tình không quen biết”

=> Sông Đà mang vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng.

III. Kết bài

Khái quát về sông Đà cũng như cảm nhận chung về hình tượng sông Đà qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân: Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, hình tượng sông Đà hiện lên với những nét đẹp độc đáo. Tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng.

Bài Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân
Bài Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân

Tổng kết

Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 10 mẫu dàn ý hình tượng con Sông Đà chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 12.

0/5 (0 Reviews)
Chúng tôi tạo ra Top10timkiem.vn nhằm mục đích cung cấp cho người đọc những thông tin, liệt kê một cách chi tiết nhất về mọi lĩnh vực trong cuộc sống.